Tài liệu Laser vàứng dụng trong niệu khoa: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 1
LASER VÀ ỨNG DỤNG TRONG NIỆU KHOA
Nguyễn Tế Kha*, Nguyễn Ngọc Thái*, Nguyễn Lê Hoàng Anh*
MỞ ĐẦU
Laser là thuật ngữ viết tắt của cụm từ tiếng
Anh: Light Amplification by Stimulated of
Radiation, dịch theo nghĩa tiếng Việt là: Sự
khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ kích thích.
Mỗi loại laser phát ra ở một bước sóng đặc
hiệu, do đó có những ứng dụng khác nhau trong
y học. Ở mỗi bước sóng của laser có những đặc
trưng riêng của nó về sự hấp thụ, dẫn truyền và
hiệu ứng sinh học. Tùy thuộc vào ý đồ điều trị
mà người thầy thuốc cần lựa chọn một loại bước
sóng thích hợp (thực chất một loại laser thích
hợp) cho điều trị.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi ra đời, laser
đã trở nên một phương pháp điều trị yêu thích
được chọn lựa bởi tính chất ưu việt. Tia laser đã
được ứng dụng rộng rãi trong ngoại khoa từ rất
nhiều năm qua.Trong lĩnh vực ngoại tiết...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Laser vàứng dụng trong niệu khoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 1
LASER VÀ ỨNG DỤNG TRONG NIỆU KHOA
Nguyễn Tế Kha*, Nguyễn Ngọc Thái*, Nguyễn Lê Hoàng Anh*
MỞ ĐẦU
Laser là thuật ngữ viết tắt của cụm từ tiếng
Anh: Light Amplification by Stimulated of
Radiation, dịch theo nghĩa tiếng Việt là: Sự
khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ kích thích.
Mỗi loại laser phát ra ở một bước sóng đặc
hiệu, do đó có những ứng dụng khác nhau trong
y học. Ở mỗi bước sóng của laser có những đặc
trưng riêng của nó về sự hấp thụ, dẫn truyền và
hiệu ứng sinh học. Tùy thuộc vào ý đồ điều trị
mà người thầy thuốc cần lựa chọn một loại bước
sóng thích hợp (thực chất một loại laser thích
hợp) cho điều trị.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi ra đời, laser
đã trở nên một phương pháp điều trị yêu thích
được chọn lựa bởi tính chất ưu việt. Tia laser đã
được ứng dụng rộng rãi trong ngoại khoa từ rất
nhiều năm qua.Trong lĩnh vực ngoại tiết niệu, tia
laser cũng có vai trò quan trọng trong phẫu thuật
như laser CO2, Holmium, KTP và thế hệ mới
nhất là Thulium.
LỊCH SỬ PHẪU THUẬT LASER
Xuất phát từ ý tưởng của Albert Einstein
năm 1917 về phát xạ kích thích. Năm 1954, nhà
vật lý Mỹ Townes và hai nhà vật lý Liên Xô là
Prokhorov và Basov cùng đồng thời công bố các
công trình độc lập về việc phát hiện ra nguyên lý
laser dựa trên sự khuếch đại ánh sáng bằng phát
xạ cưỡng bức và giải thưởng Nobel đã được trao
cho ba nhà khoa học này vào năm 1964(11).
Năm 1960, nhà vật lý người Mỹ là Maiman.T
đã thành công trong việc chế tạo ra máy laser
đầu tiên trên thế giới có thể nhìn thấy được bằng
mắt thường, trên cơ sở sử dụng oxit nhôm tinh
khiết có pha ion Crom gọi là laser hồng ngọc
(Ruby).
Sau thành công của Maiman.T, các nhà vật lý
đã phát hiện ra hàng loạt các chất có khả năng
phát ra bức xạ laser. Ví dụ hỗn hợp khí Heli và
Neon là hoạt chất chứa trong buồng cộng hưởng
để chế tạo máy laser Heli – Neon (1961), tinh thể
bán dẫn Gallium Arsenid (GaAs) để chế tạo ra
laser bán dẫn vào năm 1964, tinh thể Yttrium
Aluminium Garnet (YAG) dùng nó để chế tạo
máy Neodym – YAG (1964). Vào năm 1966,
người ta đã dùng chất màu pha lỏng khác nhau
để tạo ra laser màu (11).
Năm 1962, Robert Hall phát minh ra loại
laser bán dẫn hay diode.
Năm 1964 Kumar Patel cho ra đời laser C02.
Năm 1966, Parsons sử dụng laser hồng ngọc
ở chế độ phát xung ngắt quãng (pulsed), ông là
nhà niệu khoa đầu tiên thử nghiệm laser trên
bàng quang chó, hai năm sau Muvany cố gắng
bắn vỡ sạn niệu cũng với laser hồng ngọc.
Kể từ đó, đã có rất nhiều thế hệ laser mới ra
đời và được ứng dụng vào y khoa để phục vụ lợi
ích của con người.
Các nhà phẫu thuật thường quan tâm đến
bốn đặc điểm chính của laser là nhiệt độ, cơ học,
ánh sáng và khả năng hàn gắn mô. Đến nay,
laser đã thâm nhập vào hầu các lĩnh vực khoa
học và đời sống như y khoa, quân sự. Ứng dụng
laser trong y học được phát triển không ngừng
với sự xuất hiện một chuyên ngành mới của y
học, đó là chuyên ngành laser y học và laser
ngoại khoa (Laser Medicine and Surgery).
CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG VÀ CẤU TẠO CƠ
BẢN CỦA LASER
Cơ chế và cấu tạo(2)
Eistein sử dụng hai nguyên lý vật lý cơ bản
trong lý thuyết laser của ông(25):
Chùm ánh sáng đi qua gói năng lượng được
gọi là quang tử (photon).
* Khoa Niệu Bệnh viện Bình Dân.
Tác giả liên lạc: ThS.BS.Nguyễn Tế Kha ĐT: 0938898659 Email: nguyentekha64@yahoo.com
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 2
Hầu hết các nguyên tử hoặc phân tử tồn tại
tự nhiên ở tình trạng “năng lượng đáy, hoặc
năng lượng thấp” Eo (ground , low-energy
state).
Tuy nhiên, có tỷ lệ nhỏ của nguyên tử tự
nhiên tồn tại ở bất kỳ thời gian mong muốn nào
đó trong mức độ năng lượng cao, riêng biệt ( E1,
E2, En), đây là các nguyên tử ở dạng năng lượng
kích thích.
Các electron tồn tại ở các mức năng lượng
riêng biệt trong một nguyên tử, các mức năng
lượng này tương ứng với các quỹ đạo riêng biệt
của electron quay xung quanh hạt nhân. Các
electron bên ngoài sẽ có mức năng lượng cao
hơn các electron bên trong.
Dưới tác động của hiệu điện thế cao, nhiệt
độ, hoặc năng lượng ánh sáng các electron ở tình
trạng năng lượng đáy sẽ di chuyển lên mức năng
lượng cao và ngược lại tạo nên trạng thái đảo
nghịch của các electron (population inversion). Ở
mức năng lượng cao, các electron sẽ giải phóng
năng lượng một cách tự phát ở dạng hạt ánh
sáng (photon) hoặc sóng điện từ (EM:
electromagnetic wave), sau đó trở về tình trạng
năng lượng đáy ban đầu.
Quá trình này tiếp diễn khi hạt photon cùng
bước sóng đập vào một nguyên tử kích thích
(En) khác sẽ kích thích electron ở nguyên tử này
rơi xuống tiếp, sinh ra thêm các photon cùng tần
số, cùng pha (frequency, phase) và cùng hướng
bay, tạo nên một phản ứng dây chuyền khuếch
đại chùm ánh sáng. Các hạt photon bị phản xạ
qua lại nhiều lần trong vật liệu, nhờ các gương
để tăng hiệu suất khuếch đại ánh sáng. Một số
photon thoát ra ngoài nhờ một gương bán mạ ở
đầu vật liệu, đó chính là tia laser.
Trong một tia laser, nguồn năng lượng
thường được sử dụng là điện năng hoặc đèn
chiếu bức xạ.
Trong một môi trường truyền sáng, khi chiếu
vào một chùm ánh sáng đơn sắc, có 3 hiện tượng
xảy ra đồng thời đó là: quá trình hấp thụ làm suy
yếu cường độ ánh sáng, phát xạ tự do và phát xạ
cưỡng bức lại làm tăng cường độ ánh sáng.
Hình 1: Cấu tạo cơ bản và cơ chế hoạt động của laser
(nguồn Encyclopedia)
Những đặc điểm của tia laser
Bản chất của laser là nguồn ánh sáng đặc
biệt, những tính chất sau đây không có trong
ánh sáng thường.
Độ định hướng cao
Tia laser phát ra hầu như dưới dạng chùm
ánh sáng song song. Tuy vậy, do ảnh hưởng
nhiễu xạ ở các biên chùm tia mà tia laser phát ra
với một góc mở hết sức nhỏ, cỡ vài phút góc (1
phút góc = 1/60 độ góc) và có thể đạt tới vài giây
góc(12).
Tính đơn sắc cao
Độ đơn sắc của nguồn sáng được hiểu là
chùm sáng đó có một mầu và khả năng tập trung
năng lượng vào một màu ấy. Những máy quang
phổ có thể cho ta ánh sáng một màu với độ tinh
tương đương với laser nhưng lại thua kém laser
cỡ 1 tỷ lần về độ tập trung năng lượng. Mặt trời
cho năng lượng rất lớn, nhưng lại rải trên nhiều
màu. Tính đơn sắc có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong điều trị(12).
Tính kết hợp của các photon trong chùm tia
laser
Điều này được hiểu là các photon phát ra
trong chùm tia laser đều giống hệt nhau, một sự
giống hệt không có gì có thể so sánh nổi. Độ nhịp
nhàng càng cao thì tính kết hợp càng lớn, còn
trong trường hợp các photon hoạt động một
cách hỗn loạn thì tính kết hợp bằng không. Nhờ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 3
có tính kết hợp của laser mà trong y học cũng
như công nghệ, nó được ứng dụng vào những
kỹ thuật tinh vi nhất(12).
CẤU TRÚC ĐIỂN HÌNH CỦA MỘT MÁY
LASER
Cấu trúc
Cấu trúc điển hình của một máy laser gồm 3
thành phần:
Hoạt chất laser.
Nguồn nuôi.
Buồng cộng hưởng.
Thông thường, trong y khoa chúng ta rất ít
khi phải tác động vào những yếu tố này của thiết
bị laser. Điều mà chúng ta quan tâm là hệ quang
dẫn và lựa chọn các thông số thích hợp với mục
đích chẩn đoán và điều trị.
Laser có thể phát ở chế độ liên tục hoặc chế
độ xung ngắt quảng với độ dài xung cỡ micro
giây (1ms = 1/1000 giây), cỡ nano giây (1ns – 1/tỷ
giây) hoặc loại xung cực ngắn cỡ pico giây (1 ps =
1/1000 tỷ giây).
Bảng 1: Một số thông số vật lý cần nắm vững trong
vật lý laser(25).
Các thông số Ký hiệu Đơn vị
Bước sóng laser
(λ)
nm
f
A
1 = 1000 nm
1nm = 1000 pm
1 pm =1000 Femtomet
1A
Công suất P W
Mật độ công suất D W/cm
2
Năng lương J
Mật độ năng
lượng
W J/cm
2
Hệ quang dẫn(25)
Thông thường, có 3 loại hệ dẫn tia.
Bộ phận rải tia
Thường là một thấu kính phân kỳ, được lắp
trực tiếp vào đầu ra của chùm tia. Sự mất mát
năng lượng qua các thấu kính này là thấp nhất.
Bộ phận rải tia này thường được lắp ở các máy
laser dùng trong vật lý trị liệu. Có thể điều chỉnh
mật độ công suất thông qua khoảng cách giữa
máy phát và tổn thương cần được chiếu(25).
Hình 2: Vị trí của các laser y học trong thang bước sóng của sóng điện từ (Nguồn: www.laser-Professionals.com)
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 4
Khớp quang cơ
Đây là một hệ dẫn truyền năng lượng nhờ
các thấu kính được gắn rất chính xác trên 6 – 7
trục khuỷu khác nhau, tạo nên một cánh tay
khớp uyển chuyển, cho phép dẫn chùm tia laser
tới mọi hướng mà chiều dài cánh tay khớp cho
phép. Sự tiêu hao năng lượng trên hệ dẫn truyền
này là thấp so với dẫn truyền bằng quang sợi, nó
rất cần thiết trước hết đối với laser C02, sau đó là
laser Ruby và laser Nd – YAG có lúc cũng được
dẫn truyền bằng khớp quang cơ(25).
Quang sợi
Đó là dây quang dẫn được chế tạo dựa
trên hiệu ứng phản xạ toàn phần, khiến cho tia
sáng chỉ có thể đi trong lòng ống mà không
thoát ra ngoài. Vì hiệu ứng phản xạ toàn phần
phụ thuộc vào bước sóng, nên các loại quang
sợi hiện nay thường được dùng cho các loại
như: laser Heli – Neon, laser hơi đồng, laser
màu, laser Nd – YAG. Sự mất mát năng lượng
trên hệ dẫn truyền là đáng kể, chưa kể đến
đường kính của dây có loại lại rất nhỏ cỡ 400 –
600 micromet và sự lắp đặt đồng trục lại là
việc rất khó khăn. Trên tất cả những điều đó
chính là ý nghĩa của nó trong y học. Nhờ có hệ
quang sợi ta có thể tiến hành phẫu thuật nội
soi một cách tinh tế, có thể tiến hành các kỹ
thuật ngoại khoa can thiệp tối thiểu, có thể
luồn vào trong mạch máu trong kỹ thuật tạo
hình mạch và luồn bức xạ laser Heli – Neon
chiếu vào trong máu để điều trị nhiều bệnh
hiểm nghèo(25).
Các tác dụng quan trọng của laser trong
phẫu thuật
Các nhà phẫu thuật thường quan tâm đến
bốn tác dụng chính của laser là nhiệt độ, cơ học,
tính chất quang hóa ánh sáng và khả năng hàn
gắn mô. Tác dụng được sử dụng nhiều nhất
chính là nhiệt năng của laser. Nhiệt năng laser
làm biến tính (denaturation) protein ở khoảng
42-650C. Tĩnh mạch và động mạch co lại ở 700C.
Tế bào bị mất nước ở 1000C.
Một khi nước đã hoàn toàn bị bốc hơi ra khỏi
mô bướu, nhiệt độ sẽ tăng lên rất nhanh, sự đốt
cháy mô (carbonization) sẽ diễn ra ở 2500C, và
cuối cùng, sự bốc hơi (vaporization) sẽ diễn ra ở
3000C(13).
Tác dụng cơ học (mechanical effect) được
biểu hiện khi sử dụng laser để tán sỏi. Các chùm
photon ánh sáng sẽ được tập trung khẩn cấp ở
bề mặt viên sỏi và tạo nên các bong bóng
plasma, các bong bóng này lan rộng nhanh
chóng và hoạt động như sóng âm thanh phá vỡ
sỏi dọc trên đường ứng suất cơ học (stress line)
của nó(17).
Tác dụng quang hóa ánh sáng dùng để kích
hoạt các phân tử hoặc các thuốc đặc biệt.
Cuối cùng là tác dụng hàn gắn mô (tissue-
welding). Tác dụng này được thực hiện khi ánh
sáng được tập trung ở bước sóng đặc biệt sẽ tạo
nên các liên kết ngang giữa các phân tử collagen
dưới tác động của các chất xúc tác như
albumin(13).
CÁC LOẠI LASER TRONG Y KHOA
Laser hồng ngọc
Là loại laser nhìn thấy được phát hiện đầu
tiên trên thế giới. Hoạt chất là tinh thể
Alluminium có gắn những ion Crom. Laser này
phát ra màu đỏ ruby ở bước sóng 694nm. Laser
ruby được dùng chủ yếu trong điều trị bướu sắc
tố da hoặc tẩy các vết xăm, tẩy lông. Laser này
không có vai trò trong niệu khoa.
Laser CO2
Tia laser này không nhìn thấy được, phát ra
ở bước sóng 10600nm. Laser này có thể đốt cầm
máu các mạch máu có đường kính nhỏ hơn
0,5mm.
Laser Neodymium: Yttrium-Alumium-
Garnet (YAG)
Bước sóng laser này 1064nm cho phép xuyên
thấu mô khoảng 10mm. Người ta sử dụng laser
này để cầm máu hoặc tán sỏi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 5
Laser KTP (potassium-titanyl-phosphate)
Tia laser phát ra màu xanh nên cũng được
gọi là Green light laser, phát ra ở bước sóng
532nm, vì thế khả năng xuyên thấu mô không
bằng Nd:YAG. Laser này thường được sử dụng
để cắt, xẻ, hoặc lấy mô ra bởi sự tiện lợi khi có
thể đưa dây quang vào ống nội soi. Bất lợi của
laser này là nó đốt bốc hơi toàn bộ mô bướu nên
không thể làm xét nghiệm mô học được, ngoài ra
trong khi mổ, phẫu thuật viên cần phải mang
kính bảo vệ mắt.
Trong những năm 2004-2006, Nguyễn Tuấn
Vinh đã thực hiện phẫu thuật cắt đốt bướu lành
tuyến tiền liệt bằng laser KTP tại trung tâm chẩn
đoán y khoa thành phố Hồ Chí Minh.
Laser màu
Môi trường hoạt chất là chất lỏng, chất
thường được sử dụng là Coumarin, laser phát ra
ở bước sóng 504nm, ít được sử dụng trong niệu
khoa.
Laser Alexandrite
Bước sóng từ 380-830nm, thường sử dụng
điều trị các u sắc tố.
Laser diode bán dẫn
Loại thông dụng nhất là Gallium-Arsen có
bước sóng 890nm. Laser này thường được sử
dụng để cầm máu trong mô.
Laser Nitrogen
Với bước sóng 337nm, laser này thường
dùng để chẩn đoán bướu niệu mạc bàng quang
trong kỹ thuật phát huỳnh quang tự động.
Laser Holmium: yttrium-alumium-garnet
(Ho:YAG)
Người ta sử dụng nguyên tố đất hiếm
Holmium để hấp thụ tinh thể YAG rồi tạo nên
laser ở bước sóng 2150nm. Laser này thường
được phát xung ngắt quãng (pulse), rất thích
hợp để tán sỏi đường tiết niệu. Đây là loại
laser dùng để tán sỏi phổ biến và hiệu quả
nhất hiện nay.
Laser Erbrium
Laser này đang được nghiên cứu để thay thế
cho Holmium. Các nghiên cứu cho rằng laser
này cắt xẻ niệu đạo, niệu quản chính xác hơn
laser Holmium. Laser Erbrium có thể là chọn lựa
tốt để thay thế dao lạnh. Ngoài ra, laser Erbrium
cũng hiệu quả hơn laser Holmium khi sử dụng
tán sỏi cứng như sỏi Oxalate.
Laser Thulium
Là loại laser thế hệ mới nhất, với bước sóng
2013nm, laser này có thể được hấp thụ tốt nhất
trong môi trường nước (λ= 1940nm), độ xuyên
thấu 0,5mm, chính vì ưu điểm vật lý này mà
laser Thulium là chọn lựa tuyệt vời cho các phẫu
thuật cắt các mô mềm vì khả năng cắt đốt bốc
hơi và cầm máu.
ỨNG DỤNG LASER TRONG NGOẠI
TIẾT NIỆU
Điều trị ung thư bàng quang
Laser được ứng dụng lần đầu tiên trong
phẫu thuật tiết niệu được báo cáo bởi Staehleret
và cộng sự vào năm 1978(23).
Tổng tỷ lệ biến chứng đã được báo cáo khác
nhau, từ 5,1% đến 43%. Tỷ lệ nhiễm trùng
đường tiểu có khi lên đến 24%, xuất huyết (2,8-
8%), xuất huyết cần truyền máu (0,9-13%) và
thủng bàng quang (1,3-5%)(15). Việc sử dụng tia
laser Holmium lấy trọn bướu và gửi giải phẫu
bệnh có thể giúp đánh giá giai đoạn và độ biệt
hóa(14). Tại thời điểm này, không có đủ dữ liệu để
dự đoán tỷ lệ tiến triển bướu. Nhưng dựa trên
dữ liệu có sẵn, tỉ lệ tái phát sau khi sử dụng laser
Holmium trong ung thư bàng quang xuất
hiện tương tự, hoặc thấp hơn, so với cắt đốt nội
soi bướu bàng quang.
Hiện tại, laser Thulium cũng được áp dụng
rộng rãi để cắt đốt nội soi bướu bàng quang. Kết
quả ban đầu rất tốt trên lâm sàng.
Trong phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
Cắt thận bán phần
Kẹp rốn thận trong trường hợp của nội soi
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 6
cắt thận một phần là cần thiết để tạo ra một phẫu
trường không chảy máu trong cắt thận. Tuy
nhiên, kẹp rốn thận tăng thời gian thiếu máu
nóng và làm giảm chức năng thận. Công nghệ
laser một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn để đạt
được mục đích cắt bỏ khối bướu, độ kín của đài
bể thận, cầm máu chủ mô và mạch máu thận
một cách nhạy cảm với thời gian ngắn ngủi quí
báu, có hoặc không có kẹp rốn thận.
Trong năm 1986, một báo cáo cắt thận bán
phần không cần kẹp cuốn của Malloy sử dụng
laser Nd:YAG trong điều trị 3 bệnh nhân cao
tuổi với ung thư tế bào sáng trên thận đơn độc.
Laser Nd:YAG sử dụng cùng với phẫu
thuật mổ mở kinh điển, không kẹp động mạch
thận và kết quả về ung thư học là tốt trong cả
ba trường hợp(9).
Gần đây, kinh nghiệm sơ bộ với cắt thận bán
phần bằng robot sử dụng laser không cần kẹp
cuốn đã được báo cáo trên hai bệnh nhân. Phẫu
thuật bằng robot với laser KTP được thử nghiệm
lần đầu tiên. Với tia laser xanh này, năng lượng
được sử dụng lên đến 50 W, mức độ xuất huyết
không nhiều, độ sâu của thương tổn nhiệt được
ước tính là khoảng 1 mm, không xảy ra biến
chứng nặng đã được báo cáo(1).
Cắt tuyến tiền liệt tận gốc bảo vệ thần kinh
cương
Một báo cáo sử dụng laser Nd: YAG (bước
sóng 1064 nm, chế độ phát xung liên tục) để
phẫu thuật nội soi ổ bụng cắt tuyến tiền liệt
tận gốc bảo vệ thần kinh cương trên 5 bệnh
nhân ung thư tuyến tiền liệt. Kết quả cho thấy
số lượng máu mất là tối thiểu, thời gian bóc
tách nhanh chóng và mức độ tổn thương mô
xung quanh ước tính trung bình là 687µm đã
được ghi nhận(4).
Phẫu thuật nội soi ngược dòng điều trị hẹp
khúc nối bể thận niệu quản, hẹp niệu quản
Kinh nghiệm ban đầu điều trị hẹp khúc
nối bể thận niệu quản với tia laser bắt đầu
những năm 1990(21). Chỉ định tối ưu cho điều
trị: chiều dài đoạn hẹp < 2 cm, nguyên nhân
gây hẹp không phải từ bên ngoài chèn ép vào
bể thận niệu quản, bể thận không giãn lớn, có
khả năng đặt thông niệu quản lưu, chức năng
thận dưới 20%, và sỏi thận cùng bên. Các báo
cáo có tỷ lệ thành công khá cao, khoảng 80%,
thậm chí kết quả còn cao hơn đối với các bác sĩ
niệu khoa có kinh nghiệm. Tỷ lệ thành công
kém hơn đã được báo cáo trong trường hợp
nguyên nhân gây thận ứ nước từ bên ngoài và
chức năng thận kém(2,18).
Kỹ thuật này là phương pháp ít xâm lấn, mất
máu tối thiểu, giảm thời gian nằm viện, ít đau
sau phẫu thuật và có thể là một trong những lựa
chọn điều trị tốt nếu đúng chỉ định. Khi so sánh
với các phương pháp khác (ví dụ như nong bằng
ống thông có bóng, xẻ bằng dao đốt điện hoặc
dao lạnh), xẻ bằng laser được báo cáo là có tỷ lệ
thành công tương tự hoặc cao hơn, tỷ lệ biến
chứng thấp hơn(16).
Trong phẫu thuật hẹp niệu đạo
Tỷ lệ thành công của laser trong điều trị chít
hẹp niệu đạo được báo cáo 100% trong những
trường hợp lựa chọn. Chít hẹp niệu đạo đoạn
ngắn có tỷ lệ thành công cao. Tuy nhiên, chít
hẹp niệu đạo dài (>1.5 cm) hoặc tái phát được
báo cáo kém hiệu quả hơn.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh
hiệu quả của laser Nd:YAG với xẻ lạnh thông
thường trong điều trị hẹp niệu đạo có chiều dài
0.3-2.4cm thì điều trị laser giảm đáng kể xác suất
thất bại và tái phát hẹp(8).
Trong phẫu thuật điều trị sỏi đường tiết
niệu
Nội soi tán sỏi ngược dòng bằng laser được
sử dụng rộng rãi như là một điều trị sỏi trên
đường tiết niệu. Laser là nguồn năng lượng lý
tưởng thích hợp cho phẫu thuật nội soi ngược
dòng hoặc lấy sỏi thận qua da(24).
Tỷ lệ tán sỏi thành công trung bình lớn hơn
90%(22).
Đối với laser Ho:YAG laser, nguy cơ thủng
niệu quản trong quá trình tán sỏi không đáng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 7
kể vì độ sâu của tổn thương nhiệt là 0.5-1mm,
để tránh tổn thương niệu quản khoảng cách
giữa đầu của sợi quang và niệu quản là lớn
hơn 1 mm(20).
Đối với sỏi cứng và nằm tại các vị trí khó tiếp
cận (ví dụ như sỏi đài dưới), có thể được điều trị
bằng cách sử dụng bán dẫn mỏng 150 đến 200
µm của laser Nd: YAG là kết hợp của laser rắn
và thuốc nhuộm. Trong các nghiên cứu(10) so
sánh Ho: YAG với Nd: YAG thì Nd: YAG kém
hiệu quả hơn về khả năng tán vụn sỏi và không
hiệu quả đối với sỏi cystine(3).
Laser Holmium hoạt động thông qua cơ chế
ánh sáng nhiệt, liên quan đến việc trực tiếp hấp
thụ năng lượng laser của đá. Sự vắng mặt của
bước sóng mạnh mẽ trong tia laser Holmium
tránh hiện tượng đẩy sỏi. Laser Holmium được
hấp thụ bởi hấu hết các loại sỏi.
LASER TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚU LÀNH
TUYẾN TIỀN LIỆT
Laser KTP (potassium-titanyl-phosphate).
Còn gọi là green light laser vì phát ra tia sáng
xanh lá cây ở bước sóng 532nm với độ xuyên
thấu mô khoảng 2mm. Đích màu của laser này
chủ yếu là Hemoglobin và một số lượng rất ít
nước trong mô vì thế laser này sẽ làm bốc hơi rất
tốt loại mô bướu nào có nhiều máu, ngược lại
mô nào có ít mạch máu thì laser này hoạt đông
không hiệu quả. Ngoài ra, khi phẫu thuật với
laser KTP, bác sĩ phẫu thuật cần phải mang kính
để bảo vệ mắt.Khi cần lấy mẫu giải phẫu bệnh
lý, loại laser này cũng không đáp ứng được.
Holmium:YAG laser
Laser Holmium có tính vật lý ưu việt là hấp
thu rất tốt trong môi trường nước với bước sóng
2123nm và độ xuyên mô khoảng 0,05-0,8mm.Cơ
chế tác động của nó là nhiệt bức xạ
(photothermy) vì thế để đạt hiệu quả tối ưu cần
sự tiếp xúc trực tiếp giữa tia laser và mô
bướu.Có hai kỹ thuật thường áp dụng là bóc
bướu (HoLEP) và cắt đốt bướu (HoLAP).Năng
lượng cực đại của Holmium có thể đạt đến 5.000-
15.000wat khi phát xung từng đợt vì thế laser
Holmium chỉ thích hợp để tán sỏi(6).
Laser Thulium trong điều trị bướu lành
tuyến tiền liệt
Năng lượng laser Thulium phát ra từ bước
sóng 2013nm ở chế độ liên tục (continuous-
wave). Ngược với cơ chế của laser Holmium là
sự phản chiếu ánh sáng từ đèn, các ion Thulium
được kích thích trực tiếp từ laser diode năng
lượng cao.
Mặc dù laser đã được ứng dụng trong y
khoa từ nhiều năm qua, tuy nhiên chỉ mới vài
năm gần đây, y khoa mới áp dụng laser trong
phòng mổ để cắt mô và bốc hơi bướu. Laser
Thulium có 2 đặc điểm thích hợp hơn với mô
mềm là tính chất hấp thu trong mô mềm và môi
trường nước cao hơn gấp 2,5 lần so với laser
Holmium, đặc tính thứ hai ưu việt hơn
Holmium là chế độ phát liên tục(7).
Vì bước sóng của nó ngắn hơn một chút so
với laser Holmium (2013 so với 2140nm) nên độ
xuyên mô giảm bớt 250mcm. Với những đặc tính
vật lý như vậy cho phép Thulium cắt xẻ mô nhẹ
nhàng, đốt bốc hơi tốt và cầm máu tuyệt vời. Sự
hiện diện khắp nơi của phân tử nước như là cái
đích màu (target chromophore) để tương tác với
laser Thulium khi phẫu thuật. Nước giữ lại đặc
tính hấp thu của nó khi tia laser đạt đến điểm sôi
(boiling point) và làm mô bốc hơi. Phần mô còn
lại sau khi tia laser đi qua sẽ được bao phủ bởi
một bề mặt kết tụ đông đặc, đó là phần mô sẽ
làm nhiệm vụ cầm máu.
KẾT LUẬN
Sự ra đời và phát triển của laser trong y học
nhất là trong lãnh vực ngoại khoa đã làm nên
một cuộc cách mạng thật sự trong chẩn đoán và
điều trị.
Trong niệu khoa, tia laser đã góp phần cải
thiện và nâng tầm các phương pháp điều trị cổ
điển làm cho các phương pháp này ngày càng
trở nên hoàn hảo hơn nhất là trong vấn đề cắt
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 8
đốt nội soi bướu lành tuyến tiền liệt và tán sỏi
nội soi đường tiết niệu.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu báo cáo rằng,
giá trị của phương pháp cắt đốt nội soi bằng
laser cũng chỉ tương đương như phương pháp
cắt đốt nội soi cổ điển.Tuy nhiên sự phát triển
của phương pháp này đã ở mức độ trên toàn thế
giới và được hầu hết các nhà niệu khoa đón
nhận một cách nhiệt tình cho thấy giá trị của
phương pháp này thực sự vượt bậc nếu so sánh
với các phương pháp điều trị khác.
Laser Thulium đã và đang chứng minh vai
trò của nó không những trong điều trị ngoại
khoa bướu lành tuyến tiền liệt mà còn trong
nhiều phẫu thuật niệu khoa khác ở mức độ toàn
cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anderson JK, Baker MR, Lindberg G, Cadeddu JA (2007),
“Large-volume laparoscopic partial nephrectomy using the
potassium-titanyl-phosphate (KTP) laser in a survival porcine
model”, European urology, (51), pp.749-54.
2. Biyani CS, Cornford PA, Powell CS (2000), “Ureteroscopic
endopyelotomy with the Holmium:YAG laser. mid-term
results”, European urology, (38), pp.139-43.
3. Dubosq F, Pasqui F, Girard F, Beley S, Lesaux N, Gattegno B et
al (2006), “Endoscopic lithotripsy and the FREDDY laser:
initial experience”, Journal of endourology / Endourological
Society, (20), pp.296-9.
4. Gianduzzo TR, Chang CM, El-Shazly M, Mustajab A, Moon
DA, Eden CG (2007), “Laser nerve-sparing laparoscopic
radical prostatectomy: a feasibility study”, British Journal of
Urology international, (99), pp.875-9.
5. Gilling PJ, Cass CB, Cresswell MD, Fraundorfer MR (1996),
“Holmium laser resection of the prostate: preliminary results
of a new method for the treatment of benign prostatic
hyperplasia”, Urology, (47), pp.48-51.
6. Gross AJ, Herrmann TRW (2007) “History of laser”. World J
Urol 2007.25: 217-220.
7. Herrman TRW, Evangelos N. Liatsikos, Nagele U, Traxer O,
Merseburger SA (2012) “EAU guideline on laser technologies.
European Urology 61 pp 783-795”.
8. Jablonowski Z, Kedzierski R, Miekos E, Sosnowski M (2010),
“Comparison of neodymium-doped yttrium aluminum
garnet laser treatment with cold knife endoscopic incision of
urethral strictures in male patients”, Photomedicine and laser
surgery, (28), pp.239-44.
9. Malloy TR, Schultz RE, Wein AJ, Carpiniello VL (1986),
“Renal preservation utilizing neodymium:YAG laser”,
Urology, (27), pp.99-103.
10. Marguet CG, Sung JC, Springhart WP, L'Esperance JO, Zhou
S, Zhong P, et al (2005), “In vitro comparison of stone
retropulsion and fragmentation of the frequency doubled,
double pulse nd:yag laser and the holmium:yag laser”, The
Journal of urology, (173), pp.1797-800.
11. Markolf HN (2007), “Laser-Tissue Interactions Fundamentals
and Applications”, Germany: Springer, p. 1-7.
12. Markolf HN (2007), “Light and Matter”,. Laser-Tissue
Interactions Fundamentals and Applications”, Germany:
Springer, p. 9-43.
13. Markolf HN, “ Interaction mechanisms”,. Laser-Tissue
Interactions Fundamentals and Applications”, Germany:
Springer, p. 45-149.
14. Muraro GB, Grifoni R, Spazzafumo L (2005), “Endoscopic
therapy of superficial bladder cancer in high-risk patients:
Holmium laser versus transurethral resection”, Surgical
technology international, (14), pp.222-6.
15. Nieder AM, Meinbach DS, Kim SS, Soloway MS (2005),
“Transurethral bladder tumor resection: intraoperative and
postoperative complications in a residency setting”, The
Journal of urology, (174), pp.2307-9.
16. Ponsky LE, Streem SB (2006), “Retrograde endopyelotomy: a
comparative study of hot-wire balloon and ureteroscopic
laser”, Journal of endourology / Endourological Society, (10),
pp.823-6.
17. Ranan DasGupta NH (2010) “Lasers and Urinary Calculi.
New Technologies in Urology”, United Kingdom: Springer;
2010. p. 67-70.
18. Renner C, Frede T, Seemann O, Rassweiler J. (1998), “Laser
endopyelotomy: minimally invasive therapy of ureteropelvic
junction stenosis”, Journal of endourology / Endourological
Society. (12), pp.537-44.
19. Rosemberg SK (1985), “Clinical experience with carbon
dioxide laser in renal surgery”, Urology, (25), pp.115-8.
20. Santa-Cruz RW, Leveillee RJ, Krongrad A (1998), “Ex vivo
comparison of four lithotripters commonly used in the ureter:
what does it take to perforate?”, Journal of endourology /
Endourological Society, (12), pp.417-22.
21. Singal RK, Denstedt JD, Razvi HA, Chun SS (1998),
“Holmium:YAG laser endoureterotomy for treatment of
ureteral stricture”, Urology, (50), pp.875-80.
22. Sofer M, Watterson JD, Wollin TA, Nott L, Razvi H, Denstedt
JD (2002), “Holmium:YAG laser lithotripsy for upper urinary
tract calculi in 598 patients”, The Journal of urology, (167),
pp.31-4.
23. Staehler G, Schmiedt E, Hofstetter A (1978), “Destruction of
bladder neoplasms by means of transurethral neodym-YAG-
laser coagulation”, Helvetica chirurgica acta, (45), pp.307-11.
24. Sun Y, Gao X, Zhou T, Chen S, Wang L, Xu C, et al (2009), “70
W holmium: yttrium-aluminum-garnet laser in percutaneous
nephrolithotomy for staghorn calculi”, Journal of endourology
/ Endourological Society, (23), pp.1687-91.
25. Vũ Công Lập và Đỗ kiên Cường (2008), “Laser và thiết bị laser
dùng trong y học”, Đại Cương Về Laser y học và Laser Ngoại
Khoa 2 ed, NXB Y Học TP.HCM, tr. 14-22.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- laser_vaung_dung_trong_nieu_khoa.pdf