Tài liệu Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thực trạng và giải pháp: Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015
31
LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Lê Văn Hải
Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
TĨM TẮT
Lạm phát cĩ ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế, xã hội tùy theo
mức độ của nĩ. Ở Việt Nam, lạm phát mấy năm gần đây cĩ xu hướng giảm, song vẫn cao
hơn tăng trưởng kinh tế. Lạm phát ở Việt Nam diễn biến thất thường. Tỷ lệ lạm phát gia
tăng và biến động thất thường trong giai đoạn 2007 – 2013 đã tác động xấu đến tốc độ
phát triển của nền kinh tế. Việc kiểm sốt lạm phát cĩ ý nghĩa quan trọng với tăng trưởng
kinh tế. Để kiểm sốt được lạm phát, Nhà nước cần xác định các chỉ số lạm phát và tăng
trưởng kinh tế phù hợp trong từng thời kỳ cụ thể, tác động vào cung tiền tệ, mở rộng cầu
tiền tệ, sử dụng hiệu quả các cơng cụ chính của chính sách tiền tệ.
Từ khĩa: lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tiền tệ
*
1. Đặt vấn đề
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế luơn c...
7 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 647 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015
31
LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Lê Văn Hải
Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
TĨM TẮT
Lạm phát cĩ ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế, xã hội tùy theo
mức độ của nĩ. Ở Việt Nam, lạm phát mấy năm gần đây cĩ xu hướng giảm, song vẫn cao
hơn tăng trưởng kinh tế. Lạm phát ở Việt Nam diễn biến thất thường. Tỷ lệ lạm phát gia
tăng và biến động thất thường trong giai đoạn 2007 – 2013 đã tác động xấu đến tốc độ
phát triển của nền kinh tế. Việc kiểm sốt lạm phát cĩ ý nghĩa quan trọng với tăng trưởng
kinh tế. Để kiểm sốt được lạm phát, Nhà nước cần xác định các chỉ số lạm phát và tăng
trưởng kinh tế phù hợp trong từng thời kỳ cụ thể, tác động vào cung tiền tệ, mở rộng cầu
tiền tệ, sử dụng hiệu quả các cơng cụ chính của chính sách tiền tệ.
Từ khĩa: lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tiền tệ
*
1. Đặt vấn đề
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế luơn cĩ
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Khi ở mức
vừa phải, lạm phát cĩ thể là động lực để nền
kinh tế phát triển. Lạm phát quá cao cản trở
sự tăng trưởng của nền kinh tế. Theo
Keynes, trong ngắn hạn sẽ cĩ sự đánh đổi
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nghĩa
là, muốn cho tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ
cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát
nhất định. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng
trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều.
Sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận
tăng lạm phát thì tăng trưởng kinh tế cũng
khơng tăng thêm mà cĩ xu hướng giảm. Mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm
phát mang dấu dương. Theo chủ nghĩa trọng
tiền (đại diện là Milton Fredman), lạm phát
là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc
tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Nghĩa là, trong dài hạn,
giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ khơng
thực sự tác động lên tăng trưởng kinh tế.
Nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế thì lạm phát sẽ xảy ra, nếu
giữ cung tiền ổn định thì tăng trưởng kinh tế
cao sẽ làm giảm lạm phát.
Về lý thuyết, các nhà kinh tế học đưa ra
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế khơng phải một chiều mà cĩ sự tác
động qua lại. Muốn tăng trưởng kinh tế cao
thì phải chấp nhận lạm phát, mối quan hệ
này khơng tồn tại mãi. Một lúc nào đĩ, lạm
phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng
trưởng kinh tế. Trong dài hạn, khi tăng
trưởng kinh tế đã đạt đến mức tối ưu thì
lạm phát khơng tác động đến tăng trưởng
nữa mà là kết quả của việc tăng cung tiền
quá mức vào nền kinh tế. Lạm phát luơn là
một vấn đề nĩng bỏng từng ngày, từng giờ
và thay đổi liên tục, khi thì ổn định, khi
giảm xuống hoặc bùng nổ bất kỳ lúc nào.
Vì vậy, lạm phát luơn là một vấn đề mà các
nhà hoạch định chính sách kinh tế quan tâm.
Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (20) – 2015
32
Khơng riêng gì các quốc gia cĩ nền
kinh tế phát triển (như Hoa Kỳ, Nhật, Đức,
Pháp, Anh) mà đối với mọi quốc gia trên
thế giới thì vấn đề lạm phát luơn ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển nền kinh tế. Đối
với Việt Nam cũng vậy, nền kinh tế đã từng
chịu ảnh hưởng nặng nề của lạm phát. Vấn
đề đặt ra là nếu lạm phát thấp thì tăng
trưởng kinh tế chậm, cịn lạm phát cao thì
sẽ chứa đựng những mầm mống khĩ lường
trong tiến trình phát triển bền vững của nền
kinh tế. Chính vì vậy, cái khĩ hiện nay mà
mỗi quốc gia đang đối mặt là duy trì mức
lạm phát thế nào là hợp lý trong từng điều
kiện cụ thể. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và
kiềm chế lạm phát luơn là một bài tốn khĩ
mà những nhà kinh tế cần phải tìm lời giải.
Lạm phát thể hiện trong mối quan hệ
với tăng trưởng kinh tế thơng qua các nội
dung: sự phân phối lại thu nhập, của cải
giữa nhĩm người khác nhau và những biến
động về giá tương đối, sản lượng của
những hàng hĩa khác nhau và việc làm đối
với nền kinh tế nĩi chung. Cụ thể là thơng
qua quan hệ của lạm phát và lãi suất, lạm
phát và thu nhập, lạm phát và đầu tư, lạm
phát và thất nghiệp.
Lạm phát là một phạm trù kinh tế
khách quan, là vấn đề của mọi thời đại và
của mọi nền kinh tế thị trường. Khi lạm
phát xuất hiện thì sẽ cĩ những câu hỏi đặt
ra: lạm phát tác động đối với nền kinh tế ở
mức nào thì tốt, mức nào thì xấu? Những
nguyên nhân gây nên lạm phát? Để kiểm
sốt lạm phát thì cần phải cĩ những chính
sách điều hành nền kinh tế ra sao và hiệu
quả của những chính sách đĩ. Một chính
sách điều hành kinh tế tốt thì lạm phát trở
thành động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ;
ngược lại khi một chính sách điều hành
kinh tế khơng tốt làm cho lạm phát tăng cao
ở mức khơng kiểm sốt được (3 hoặc 4 chữ
số), làm cho nền kinh tế cũng ở trong tình
trạng khơng kiểm sốt được, giá cả tăng vọt,
lưu thơng tiền tệ rối loạn, đồng tiền mất giá
thê thảm, đời sống người lao động điêu
đứng gây nên những hậu quả khĩ lường
cho nền kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam đã trải qua những thời kỳ
lạm phát tới 3, 4 chữ số. Khi đĩ giá cả tăng
lên chĩng mặt. Chẳng hạn, năm 1983, một
khách hàng gửi hai sổ tiết kiệm thuộc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam với tổng mức
tiền gửi là 270 đồng - tương đương với hai
chỉ vàng thời đĩ. Sau 31 năm, khách hàng
đĩ rút tồn bộ với số tiền cả gốc và lãi là
4.835 đồng. Số tiền này chưa đủ mua một
mớ rau muống ở bất kỳ thành phố nào trên
cả nước... Việc nhiều người khác nữa gửi
tiết kiệm, mua cơng trái trong thời điểm đĩ,
do nhà nước huy động tiền trong dân để xây
dựng đất nước. Nhiều năm sau đĩ, đồng tiền
mất giá tới mức, những năm 90 của thế kỷ
trước, cĩ hẳn một chiến dịch thu mua lại trái
phiếu với giá rẻ như bèo. Việc đổi tiền theo
phương thức 10 đồng nhận một đồng và tốc
độ lạm phát vẫn tiếp tục phi mã thời đĩ đã
khiến tiền mất giá, các tờ cơng trái chẳng
cịn giá trị. Đĩ là hậu quả của những cơn
lạm phát với tốc độ 3, 4 chữ số.
2. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam (2007 – 2013)
Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát là
hai chỉ số kinh tế quan trọng luơn nhận
được sự quan tâm đặc biệt từ phía các nhà
hoạch định chính sách cũng như của người
dân. Một chính sách kinh tế điều hành tốt
sẽ giữ được nền kinh tế ở mức lạm phát
thấp (vừa phải), tăng trưởng cao; ngược lại,
một chính sách điều hành khơng hiệu quả
sẽ gây ra lạm phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mơ
khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại
và hậu quả của nĩ là doanh nghiệp phá sản,
người lao động mất việc làm, đồng tiền bị
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015
33
mất giá, cuộc sống của người dân trở nên
khĩ khăn hơn.
Qua biểu đồ về tăng trưởng kinh tế và
lạm phát cho thấy rõ sự khác biệt về hiệu
quả trong điều hành chính sách kinh tế của
Chính phủ qua từng năm đối với nền kinh
tế thể hiện qua hai chỉ số kinh tế là tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Biểu đồ tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Nguồn : Tổng cục thống kê
Qua biểu đồ trên, tuy lạm phát mấy
năm gần đây cĩ xu hướng giảm, song vẫn
cao hơn tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt tốc
độ tăng giảm lạm phát thất thường, năm
2008 lên tới 22,97%, năm 2009 lại tụt
xuống 6,88% và năm 2011 là 18,58% đến
năm 2012 xuống 9,21%. Lên cao xuống
thấp đột biến như vậy, đối với phát triển
kinh tế khơng phải là tốt; đồng thời cũng
nĩi lên việc điều hành chính sách kiềm chế
lạm phát của Chính phủ chưa hiệu quả.
Đối với Việt Nam thì lạm phát luơn là
vấn đề đáng quan tâm, mặc dù trong năm
2012 lạm phát cĩ xu hướng giảm về một
con số là 6,81% và đến năm 2014 lạm phát
đã giảm đến mức thấp nhất trong hơn chục
năm qua (dự kiến là dừng lạm phát ở mức
dưới 5%). Tuy nhiên, lạm phát giảm ở mức
khơng phù hợp dẫn đến giảm phát; điều này
mới nghe cĩ vẻ hấp dẫn, nhưng lại là bĩng
ma đang đe dọa cả nền kinh tế? Các nhà
kinh tế rất e sợ khi người dân cĩ thể mua
được nhiều hàng hĩa hơn với một số tiền
khơng đổi? Nhưng khi lạm phát quay trở lại,
doanh nghiệp và người dân sẽ ngừng chi
tiêu. Từ đĩ, bĩp nghẹt người đi vay vì các
khoản nợ trở nên khĩ thanh tốn hơn, đây
cũng là yếu tố từng làm cho nhiều quốc gia
dẫn đến suy thối kinh tế và Việt Nam cũng
đã vậy. Lúc này, lạm phát lại được xem
như “chiếc phao cứu sinh” cho các nhà
hoạch định chính sách. Vậy lạm phát đối
với nền kinh tế Việt Nam bao nhiêu là vừa
phải? Đây là một câu hỏi khĩ cho các nhà
hoạch định chính sách. Hiện nay lạm phát
dao động xung quanh 5%, thấp hơn tăng
trưởng kinh tế; ở mức này giúp ổn định
kinh tế vĩ mơ, nhưng mặt trái là các doanh
nghiệp đang dựa vào vốn của ngân hàng,
nếu quản lý lạm phát chặt quá thì là khĩ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, dẫn đến hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng cũng khĩ theo.
Năm 2014, là năm đầu tiên sau hàng chục
năm lạm phát thấp hơn tăng trưởng kinh tế,
vui chưa mấy, nhưng lỗi lo đã ập tới. Vấn
đề lạm phát trong mối quan hệ với tăng
trưởng sẽ cịn rất dài. Bởi những yếu tố bất
ngờ của lạm phát và cách tính tốn tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn luơn được
quan tâm trong lĩnh vực nghiên cứu từ lý
luận đến thực tiễn.
Lạm phát ở Việt Nam diễn biến thất
thường. Khi dự kiến thấp thì lên cao và
ngược lại. Khởi đầu kế hoạch 2006 – 2010,
với tỷ lệ lạm phát năm 2006 là 6,6%. Lạm
phát bình quân năm 2007 là 8,3% so với
năm 2006, nguyên nhân tăng cao là ngồi
việc đặc điểm lạm phát tăng cao ở quý 1 thì
năm 2007 lạm phát tăng mạnh ở quý 4.
Điều này cho thấy sẽ cĩ xu hướng lạm phát
sẽ tăng trong năm tới. Trong cấu thành CPI
năm 2007, chỉ số giá lương thực – thực
phẩm chiếm khoảng 65% mức tăng của lạm
phát nên đây là động lực chủ yếu tác động
làm lạm phát tăng cao. Nguyên nhân chủ
yếu tác động đến lạm phát năm 2007 là sự
0
5
10
15
20
25
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
GDP
LP
Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (20) – 2015
34
tăng giá mạnh của các mặt hàng thiết yếu
như dầu thơ, lương thực, thép Vì nền
kinh tế Việt Nam cĩ mức độ mở cửa với
nền kinh tế thế giới (thể hiện ở nhập khẩu
chiếm đến 70% GDP và khoảng 70% hàng
xuất khẩu là cĩ nguyên liệu từ hàng nhập
khẩu) nên việc giá thế giới tăng sẽ tác động
mạnh đến giá cả trong nước. Ngồi ra, diễn
biến thời tiết trong nước khơng thuận lợi
cùng với chi phí sản xuất đầu vào tăng cao
đã ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất nơng
nghiệp (làm giảm lượng cung lương thực,
thực phẩm). Mặt khác, hiệu quả sử dụng
vốn khơng cao và chi tiêu cơng cịn lớn nên
đã tác động nhiều đến lạm phát.
Năm 2008, lạm phát tăng mạnh so với
năm 2007 và diễn biến tương đối phức tạp.
Quý 1 và quý 2, lạm phát tăng rất nhanh
trong đĩ tháng 2 và tháng 5 tăng mạnh nhất,
lần lượt tháng 2 tăng 3,6% so với tháng 1
đến tháng 5, lạm phát tăng 3,9% so với
tháng 4 (tăng 25,2% so với cùng kỳ năm
2007). Quý 3, quý 4 thì lạm phát cĩ xu
hướng giảm và đến quý 4/2008, cĩ hiện
tượng giảm phát (tháng 10, tháng 11, tháng
12, lạm phát lần lượt là - 0,2%; - 0,8%; -
0,7%). Tuy nhiên, lạm phát bình quân năm
2008 đạt mức 22,97%. Trong đĩ, nhĩm
lương thực thực phẩm tăng mạnh từ mức
18,92% năm 2007 lên 31,86% năm 2008.
Mức lạm phát là hai con số cĩ tác động
nhiều đến tình hình kinh tế cũng như là đời
sống của người dân. Lạm phát tăng cao do
nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do
những tháng đầu năm giá cả thế giới như
lương thực, thực phẩm và nhiều mặt hàng
thiết yếu như dầu thơ, gas, thép tăng cao
đã tạo nên những sức ép làm tăng mặt bằng
giá trong nước. Ngồi ra nguồn vốn nước
ngồi vào Việt Nam tăng mạnh và hiệu quả
sử dụng vốn chưa cao nên cũng tác động
nhiều đến lạm phát trong nước.
Lạm phát năm 2009 và năm 2010 cĩ xu
hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Cụ thể,
lạm phát bình quân năm 2009 so với mức
lạm phát tăng bình quân năm 2008 là 6,88%,
diễn biến lạm phát của các tháng năm 2009
tương đối ổn định. Đến năm 2010, mức lạm
phát vẫn ở một con số là 9,19%, những
tháng đầu năm 2010, lạm phát tương đối ổn
định, đến quý 4, lạm phát lại cĩ xu hướng
tăng cao. Nguyên nhân là do giá cả các hàng
hĩa thiết yếu thế giới gia tăng làm cho giá
các hàng hĩa nhập khẩu tăng cao, tác động
đến mặt bằng giá trong nước.
Diễn biến lạm phát vào những tháng
cuối năm 2010 đã tác động lớn đến mức
lạm phát của năm 2011. Điều này được thể
hiện rõ khi mức tăng lạm phát bình quân
năm 2011 so với năm 2010 là 18,58%. Mức
lạm phát hai con số vào năm 2008 đã được
lập lại vào năm 2011, mức lạm phát những
tháng đầu năm 2011 luơn tăng ở mức cao.
Quý 1 và quý 2 năm 2011 mức lạm phát
tăng cao, những quý tiếp theo, lạm phát cĩ
xu hướng giảm. Những tháng cuối năm
2011, lạm phát đã được kiềm chế ở mức
tăng thấp. Đến năm 2012 mức lạm phát vẫn
tăng ở mức thấp (9,21%).
Năm 2013 quay trở về mức 6,04%.
Thành cơng của việc kiềm chế lạm phát
2013 cĩ sự đĩng gĩp của nhiều yếu tố,
trong đĩ lớn nhất là yếu tố cầu kéo năm
2013, năm thứ ba liên tục bị “co lại” nhanh.
Vốn đầu tư phát triển/GDP giảm (từ 39,2%/
năm trong thời gian 2006-2010 xuống cịn
khoảng 30,5% trong thời gian 2011-2013,
thấp nhất trong mấy chục năm qua, trong
đĩ vốn đầu tư từ ngân sách vừa giảm về tỷ
trọng, vừa giảm về quy mơ tuyệt đối).
Chênh lệch giữa tỷ lệ vốn đầu tư/GDP với
tỷ lệ để dành/GDP đã giảm nhanh (từ bình
quân 8,26%/năm thời kỳ 2007-2010 cịn
dưới 1% thời kỳ 2011-2013).
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015
35
Một số nguyên nhân chính gây nên lạm
phát giai đoạn 2007 – 2013 là:
– Sự biến động của nền kinh tế thế giới.
Biến động giá cả của các nguyên vật liệu
dùng để sản xuất trên thế giới đã ảnh hưởng
rất nhiều đến lạm phát do Việt Nam nhập
khẩu nhiều nguyên vật liệu để phục vụ sản
xuất kinh doanh.
– Điều hành các chính sách kinh tế của
Nhà nước cịn nhiều bất cập. Trong báo cáo
Quốc hội khĩa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính
phủ đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu
gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của
việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khĩa
kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu
cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh
tế, cơ cấu đầu tư cịn kém hiệu quả, cùng
những hạn chế trong quản lý điều hành và
tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”.
– Lạm phát do chi phí đẩy. Giá thành là
bộ phận chính cấu tạo nên giá cả của sản
phẩm. Khi giá thành tăng cao, giá cả cũng
tăng lên và đây là một trong những nguyên
nhân chính của lạm phát. Việt Nam là một
đất nước đang phát triển, để phục vụ nhu
cầu sản xuất phải nhập khẩu nhiều các mặt
hàng máy mĩc trang thiết bị, nguyên vật
liệu, dầu. Trong khi đĩ, giá cả của các
mặt hàng này trên thế giới đang tăng cao đã
làm đội lên giá thành sản xuất. Ngồi ra,
chi phí về lãi suất vay quá cao vừa là biện
pháp kiềm chế lạm phát nhưng đồng thời
nĩ sẽ làm cho chi phí tài chính của doanh
nghiệp gia tăng, điều này sẽ gĩp phần làm
tăng giá cả hàng hĩa khi doanh nghiệp
chuyển chi phí sang cho người tiêu dùng và
đẩy lạm phát tăng lên cao.
– Gia tăng tổng cầu gây nên sự tăng
trưởng quá nĩng tại Việt Nam. Việt Nam
trong vịng 10 năm gần đây do luơn duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao trung bình
7,5%. Động lực chủ yếu là sự phát triển
nhanh chĩng của ngành cơng nghiệp và
dịch vụ. Chính vì vậy, diện mạo đất nước
đã đổi thay và đời sống nhân dân được cải
thiện sau 20 năm đổi mới. Tuy nhiên, cũng
vì mức tăng trưởng nhanh chĩng này đã tạo
ra một số khĩ khăn, thách thức. Một trong
những thách thức đĩ là cần cĩ một nền tảng
vĩ mơ tốt để đáp ứng kịp thời so với những
địi hỏi mà nền kinh tế đã đề ra. Tình trạng
thiếu hụt cơ sở hạ tầng, cơng nghệ kỹ thuật
và lao động cĩ tay nghề. Với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế là ưu tiên hàng đầu thì
những khĩ khăn trước mắt này đã tạo áp
lực cho chính phủ gia tăng chi tiêu ngân
sách để cải thiện mơi trường đầu tư. Sự gia
tăng đầu tư trực tiếp của nước ngồi nên
nhu cầu đầu tư cho máy mĩc, cơng nghệ cĩ
nhu cầu tăng. Chính vì vậy đã làm cho tổng
lượng cầu trong nước tăng cao. Ngồi ra,
Việt Nam đã và đang theo đuổi những
chính sách cĩ định hướng thâm hụt nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thâm hụt
ngân sách diễn ra trong khoảng hơn một
thập kỷ qua và cĩ mức độ ngày càng tăng.
Thâm hụt ngân sách, khơng bao gồm chi trả
nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai
đoạn 2003 – 2007 chỉ là 1,3%GDP, nhưng
con số này đã tăng gấp đơi lên 2,7%GDP
trong giai đoạn 2008 – 2012. Việc thâm hụt
ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng
nhanh nợ cơng. Tổng nợ cơng của Việt
Nam đã tăng nhanh từ 40%GDP vào năm
2007 lên đến hơn 57%GDP vào cuối năm
2010. Cùng khoảng thời gian đĩ, nợ nước
ngồi của Việt Nam cũng tăng từ 32% lên
đến gần 42%GDP.
– Tăng trưởng tiền tệ và tín dụng khơng
phù hợp. Một nguyên nhân khác gây nên
mức lạm phát chính trong thời gian vừa qua
là do mức tăng trưởng tiền tệ và tín dụng tư
Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (20) – 2015
36
đầu năm 2007. Về mức cung tiền, trong
năm 2007 số lượng đã tăng đột biến so với
các năm trước. Nguyên nhân chủ yếu là khi
gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút được
một số lượng lớn đầu tư từ nước ngồi.
Ngồi ra, thâm hụt tài khĩa sẽ được tài trợ
phần lớn bởi vay nợ thơng qua phát hành
trái phiếu Chính phủ (thậm chí là ứng trước
ngân sách) làm tăng cung tiền và gây ra
lạm phát cao cho nền kinh tế.
3. Một số giải pháp kiểm sốt lạm
phát
Thứ nhất, cần xác định chỉ số lạm phát
và tăng trưởng kinh tế phù hợp trong từng
thời kỳ cụ thể. Hiện nay, lạm phát dao động
xung quanh 5%, mức này giúp ổn định kinh
tế vĩ mơ, nhưng mặt trái là các doanh
nghiệp đang dựa vào vốn của ngân hàng,
nếu kiểm sốt lạm phát chặt quá, sẽ làm
khĩ cho hoạt động của các doanh nghiệp,
dẫn đến hoạt động các ngân hàng cũng khĩ
theo. Vì vậy, Chính phủ điều hành các
chính sách kinh tế sao cho vừa đảm bảo
mục tiêu kiểm sốt được lạm phát, vưa thúc
đẩy sản xuất kinh doanh cho các doanh
nghiệp và ngân hàng.
Thứ hai, tác động vào cung tiền tệ.
Những nhân tố tác động trực tiếp đến lạm
phát là cung và cầu tiền tệ. Tùy theo từng
trường hợp, cung tiền tệ cần thắt chặt hay
mở rộng. Khi lạm phát tăng cao sử dụng
biện pháp thắt chặt cung tiền tệ. Đây là
những biện pháp nhằm hạn chế sự gia tăng
của tổng cầu hàng hĩa từ đĩ thu hẹp mức
chênh lệch quá mức giữa tổng cầu và tổng
cung hàng hĩa, giá cả sẽ dần dần ổn định
trở lại.
Thứ ba, mở rộng cầu tiền tệ. Ngược lại
với biện pháp thắt chặt cung tiền tệ để tác
động làm giảm tổng cầu hàng hĩa, mở rộng
cầu tiền tệ hướng tới việc làm tăng khả
năng cung ứng hàng hĩa cho nền kinh tế, từ
đĩ hạn chế sự mất cân đối giữa tổng cung
và tổng cầu, giá cả sẽ được ổn định lâu dài.
Trước hết, cần thực hiện chính sách mở
rộng tín dụng nhằm khuyến khích đầu tư,
đổi mới cơng nghệ, hợp lý hĩa sản xuất
để nâng cao năng lực sản xuất xã hội, nâng
cao năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm Đây là biện pháp tích cực mang
tính chất lâu dài vì vừa cĩ thể ổn định được
giá cả, vừa đưa nền kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, biện pháp này khơng thể mang lại
kết quả nhanh chĩng được. Việc mở rộng
tín dụng, khuyến khích đầu tư thì thời gian
đầu sẽ làm tổng cầu gia tăng lên, giá cả sẽ
tăng nhanh nên cịn cĩ thể gọi đây là biện
pháp dùng lạm phát chống lạm phát.
Thứ tư, sử dụng hiệu quả các cơng cụ
chính của chính sách tiền tệ. Các cơng cụ
của chính sách tiền tệ là các hoạt động của
Ngân hàng Nhà nước nhằm tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền tệ
trong lưu thơng và lãi suất trên thị trường.
Cơng cụ gián tiếp, như nghiệp vụ thị trường
mở, chính sách tái chiết khấu, dự trữ bắt
buộc và tỷ giá. Ngược lại là cơng cụ trực
tiếp, gồm ấn định khung lãi suất và hạn
mức tín dụng. Sử dụng hiệu quả các cơng
cụ của chính sách tiền tệ cĩ tác dụng nhanh
và hiệu quả ngay vì nĩ quyết định đến mức
cung ứng tiền tệ trên thị trường. Tuy nhiên,
khơng phải lúc nào sử dụng các cơng cụ
của chính sách tiền tệ là giải pháp tối ưu
cho bất kỳ một nền kinh tế nào. Muốn giảm
áp lực lạm phát cần phải phối hợp đồng bộ
với các chính sách tài khĩa và bình ổn kinh
tế vĩ mơ khác, đặc biệt là các nước cĩ độ ổn
định của nền kinh tế vĩ mơ cịn kém như
Việt Nam.
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (20) – 2015
37
INFLATION AND ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM –
REALITY AND SOLUTION
Le Van Hai
Banking University Ho Chi Minh City
ABSTRACT
Inflation is an objective economic category of market economy, with implications for the
economy, both positively and negatively. In Vietnam, the inflation in recent years has tended
to reduce, but still higher than the economic growth. Inflation in Vietnam occur erratically.
Rate of rising inflation and erratic fluctuations in the period 2007 – 2013 adverse impact on
the pace of economic development. To control inflation, the State need verify inflation indexes
and economic growth fitting together in each specific period, impacting on money supply,
money bridge expansion, using effectively main tools of money policies.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chu Khánh Lân (2010), Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam và gợi ý chính sách, Học viện
Ngân hàng.
[2] David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dorbusch (2008), Kinh tế học (phiên bản thứ 8), NXB
Thống kê, Hà Nội.
[3] Khuất Duy Tuấn (2011), Bàn về sự phối hợp giữa chính sách tài khĩa và chính sách tiền tệ
trong việc kiểm sốt lạm phát ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng.
[4] Nguyễn Quách Minh Hồng (2010), Sử dụng cơng cụ chính sách tiền tệ để kiểm sốt lạm phát
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
[5] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011,
2012 và 2013.
[6] Paul A Samuelson, Wiliam D.Nordhalls (2011), Kinh tế học, tập 2, NXB Tài Chính, Hà Nội.
[7] Ủy ban kinh tế của Quốc hội (2012), Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuơn khổ chính sách
tiền tệ ở Việt Nam, NXB Tri thức, Hà Nội.
[8] Ủy ban kinh tế, địa chỉ:
[9] Bộ tài chính, địa chỉ: 23.
[10]Tổng cục Thống kê, địa chỉ:
[11]Ngân hàng Nhà nước, địa chỉ:
[12]Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, địa chỉ:
[13]Ngân hàng Thế giới, địa chỉ: web.worldbank.org.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20253_69012_1_pb_5193_4786.pdf