Tài liệu Lãi suất và chính sách lãi suất trong nền kinh tế: CHƯƠNG1:LÃI SUẤT&CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 Lý luận cơ bản về lãi suất trong nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm và phân loại lãi suất
1.1.1.1 Khái niệm
Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ, lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn bằng tổng cung về vốn. Hay nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định.Lãi suất cao hay thấp do quan hệ giữa cung và cầu vốn quyết định.
1.1.1.2 Phân loại lãi suất
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài có các cách phân loại như sau :
Phân loại theo tính chất của khoản vay
Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá
Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại các thương ph...
86 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1101 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lãi suất và chính sách lãi suất trong nền kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG1:LÃI SUẤT&CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 Lý luận cơ bản về lãi suất trong nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm và phân loại lãi suất
1.1.1.1 Khái niệm
Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ, lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn bằng tổng cung về vốn. Hay nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định.Lãi suất cao hay thấp do quan hệ giữa cung và cầu vốn quyết định.
1.1.1.2 Phân loại lãi suất
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài có các cách phân loại như sau :
Phân loại theo tính chất của khoản vay
Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá
Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá.
Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của NHTW. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW của các ngân hàng trung gian.
Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng nước, nó có thể do NHTW ấn định (như ở Nhật); hoặc có thể do tự bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (ở Mỹ, Anh, Úc); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu rồi cộng (+) hoặc trừ (- ) biên độ dao động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia) vv…Mặt dù khác nhau nhưng lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
Phân loại theo giá trị thực của tiền lãi
Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực: là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát, hay nói cách khác, là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Quan hệ giữa lãi
suất thực và lãi suất danh nghĩa được phản ảnh bằng phương trình Fisher:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên lãi suất thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được hay chí phí thực của việc vay tiền. Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có một ý nghĩa quan trọng bởi lẽ chính lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư.
Phân loại theo loại tiền cho vay
Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ
Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ
Mối liên hệ giữa hai lãi suất này là: iD = iF + ΔE ;Trong đó: iD là lãi suất nội tệ, iF là lãi suất ngoại tệ, ΔE là mức tăng tỷ giá dự tính của đồng ngoại tệ.
1.1.2 Các nhân tố tác động đến lãi suất
1 2.1.1 Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu vốn
Lãi suất được xem là giá cả của quyền sử dụng vốn vay do vậy nó sẽ được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường.Cung vốn vay là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác nhau trong xã hội.Cầu vốn vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các chủ
thể khác nhau trong nền kinh tế.
Lãi suất
i O LS - lượng cung vốn vay
LD - lượng cầu vốn vay
Cung cầu vốn vay
Hình 1.1: Quan hệ giữa cung cầu vốn và lãi suất
Đường cung cầu vốn vay nói trên cho các nhà kinh tế học một mô hình để xác định lãi suất thị trường, được gọi là mô hình “khuôn mẫu tiền vay”. Điểm cân bằng cung cầu vốn vay tại một thời điểm xác định mức lãi suất thị trường.Các nhân tố ảnh hường đến lãi suất thị trường bao gồm:
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cung vốn
Tài sản và thu nhập: trong giai đoạn đang tăng trưởng kinh tế thu nhập tăng và do đó tài sản của các chủ thể kinh tế tăng lên, làm tăng khả năng cung ứng vốn.
Rủi ro: nếu như rủi ro mất vốn khi cho vay tăng lên thì việc cho vay trở nên kém hấp dẫn, cung vốn vay giảm xuống.
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cầu vốn
Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư: càng có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi thì càng làm tăng nhu cầu đi vay. Điều này thường thấy trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng. Khi kinh tế tăng trưởng, các cơ hội đầu tư sinh lời tăng lên làm cho nhu cầu vay vốn tăng mạnh. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế phát triển, của cải cũng tăng lên và sẽ kích thích tăng cung vốn vay. Vậy lãi suất sẽ tăng hay giảm? Trong thực tế thì lãi suất cân bằng trong những điều kiện như vậy thường tăng lên do hiệu ứng tăng cung vốn vay từ tăng của cải diễn ra chậm hơn tăng cầu vốn vay do nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
Lạm phát dự tính: chi phí thực của việc vay tiền được xác định chính xác hơn bằng lãi suất thực, nó bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Với một mức lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên thì chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống, điều này làm tăng nhu cầu vay vốn.
Khi lạm phát dự tính tăng lên, lợi tức dự tính của việc cho vay so với việc đầu tư vào các tài sản hữu hình giảm xuống tại mọi mức lãi suất làm cho cung vốn vay giảm. Lạm phát dự tính xảy ra cũng làm cho chi phí thực của việc vay tiền giảm dẫn đến nhu cầu vay vốn tăng lên. Kết quả là lãi suất cân bằng tăng. Nhà kinh tế học Irving Fisher là người đầu tiên đã nêu ra sự liên hệ giữa lạm phát dự tính với lãi suất vì vậy mối liên hệ đó còn được gọi là hiệu ứng Fisher.
Tình hình ngân sách chính phủ: vì chính phủ các nước hiện nay có xu hướng tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng đi vay nên tình trạng thâm hụt ngân sách của chính phủ sẽ tác động đến nhu cầu vay vốn của chính phủ và do đó tác động đến nhu cầu vay vốn của nền kinh tế.
1.1.2.2 Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ
Ứng với mỗi một mức cung cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng tương ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường.
Lãi suất MS1 MS2
i1
MD
i2
Cung cầu tiền
Hình 1.2 : Mô hình khuôn mẫu ưa thích tiền mặt
Để phân tích sự ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ tới mức lãi suất cân bằng , mô hình “khuôn mẫu ưa thích tiền mặt” ở hình trên được sử dụng. Khuôn mẫu ưa thích tiền mặt cho thấy lãi suất cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ dịch chuyển.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền
Thu nhập: thu nhập tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch và là nơi cất giữ giá trị, do đó làm cho lượng cầu tiền tăng lên và ngược lại.
Mức giá: những thay đổi của mức giá sẽ làm cầu về tiền thực tế thay đổi nếu cầu tiền danh nghĩa chưa thay đổi.Do nền kinh tế có xu hướng cầu một lượng tiền thực tế không đổi ứng với một mức lãi suất và thu nhập nhất định nên cầu tiền danh nghĩa sẽ phải thay đổi theo mức giá để đảm bảo ổn định cầu tiền thực tế. Kết quả là là một sự gia tăng lên của mức giá sẽ làm lượng cầu tiền tăng lên.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền
Cung tiền trong nền kinh tế hiện nay phần lớn chịu sự tác động của CSTT của các NHTW. Cung tiền thay đổi, ngoài những hoạt động nhằm thực thi mục tiêu của CSTT ra, còn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phụ thuộc của NHTW vào chính phủ và chế độ tỷ giá hối đoái của nước đó. Nếu sự phụ thuộc của NHTW vào chính phủ cao thì tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể sẽ tạo sức ép khiến NHTW phải in thêm tiền mua các chứng khoán chính phủ vào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, dẫn đến tăng cung tiền. Thêm vào đó, một chế độ tỷ giá hối đoái cố định đòi hỏi sự can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, và do vậy cũng sẽ ảnh hướng đến cung tiền.
1.1.2.3 Các nhân tố khác
Tỷ lệ lạm phát: nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của lãi suất. Bởi lẽ sự tăng hay giảm tỷ lệ lạm phát kéo theo sự biến động của giá trị tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người cho vay. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất phải tăng theo. Lúc đó, các TCTD mới thu hút được nguồn vốn tiền gửi. Khi tỷ lệ lạm phát giảm thì lãi suất tín dụng cũng giảm. Để đảm bảo hạch toán kinh doanh cho các TCTD.Ngược lại, NHTW sử dụng lãi suất tín dụng làm công cụ kiềm chế lạm phát. Khi lạm phát tăng cao, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi để làm hạ cơn sốt lạm phát.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế: hoạt động của các doanh nghiệp là nền tảng của hoạt động tín dụng. Do đó tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế là cơ sở để xác định lãi suất tín dụng hợp lý. Thông thường mức lãi suất tín dụng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Đó là hài hòa lợi ích người đi vay và người cho vay.
Chính sách kinh tế của Nhà nước: bằng các chính sách kinh tế, Nhà nước can thiệp vào thị trường tín dụng, nhằm duy trì sự vận động của lãi suất phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các chính sách ưu đãi cho vay tác động trực tiếp đến lãi suất, chính sách thuế, ưu đãi đầu tư, cho vay trọng điểm vv…
1.1.3 Cấu trúc lãi suất tín dụng
Cấu trúc của lãi suất tín dụng được chia thành hai loại :
- Cấu trúc rủi ro: là những khoản vay có cùng kỳ hạn, nhưng có mức lãi suất khác nhau.Các nhân tố quan trọng trong việc xác định cấu trúc rủi ro là rủi ro vỡ nợ, tính lỏng của giấy nhận nợ và chính sách thuế thu nhập của người cho vay.
- Cấu trúc kỳ hạn: kỳ hạn thanh toán của một khoản cho vay có tác động đến lãi suất của nó. Mối tương quan của lãi suất những khoản cho vay có kỳ hạn thanh toán khác nhau được gọi là cấu trúc kỳ hạn của lãi suất. Đối với những khoản cho vay có kỳ hạn ngắn thì có mức lãi suất thấp và những khoản cho vay có kỳ hạn dài thì có mức lãi suất cao. Mức chênh lệch lãi suất của hai khoản vay đó là để bù đắp rủi ro trong thời gian cho vay.
Mối liên hệ giữa thời gian và lợi suất của một khoản vay khi được thể hiện dưới dạng đồ thị có hình dạng là một đường cong, còn gọi là đường cong lãi suất.
Lợi suất
Đáo hạn
(YTM) Đường cong lãi suất
Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn Nói cách khác, đi vay ngắn hạn rẻ hơn vay dài hạn
Thời gian đáo hạn
Hình 1.3 : Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất (đường cong lãi suất)
- Các lý thuyết về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất giải thích sự đa dạng của các đường lãi suất như :
Lý thuyết môi trường ưu tiên và phí thanh khoản giải thích đường cong lãi suất thường có hình dạng dốc lên do các nhà đầu tư ưa thích trái phiếu ngắn hạn hơn trái phiếu dài hạn, nên sẵn sàng trả thêm khoản phí thời hạn K>0. Vì vậy, ngay cả khi lãi suất ngắn hạn dự tính, tính bình quân, không tăng thì lãi suất dài hạn vẫn cao hơn lãi suất ngắn hạn và làm cho đường cong lãi suất thường dốc lên.
Lý thuyết dự tính giải thích lãi suất khi lãi suất ngắn hạn thấp, đường lãi suất có hình dạng dốc lên trên. Khi lãi suất ngắn hạn cao, đường lãi suất có hình dạng dốc xuống. Vì khi lãi suất ngắn hạn thấp, mọi người thường dự tính rằng lãi suất ngắn hạn sẽ tăng lên một mức tương đối hợp lý trong tương lai và trung bình các lãi suất ngắn hạn trong tương lai sẽ cao hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại . Vì vậy lãi suất dài hạn (là trung bình các lãi suất ngắn hạn) sẽ cao hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại và làm cho đường lãi suất dốc lên. Ngược lại, khi lãi suất ngắn hạn khá cao, mọi người thường dự báo là lãi suất này sẽ trở về một mức bình thường nào đó trong tương lai. Khi này lãi suất dài hạn sẽ thấp hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại do lãi suất dài hạn là trung bình các lãi suất ngắn hạn.
1.1.4 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1.1.4.1 Kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm
Thông thường khi có một khoản tiền tiết kiệm, dân chúng thường nghĩ đến việc sinh lời trên khoản tiền đó như: đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng, gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng và các TCTD khác vv…Một trong những hình thức đầu tư có tính an toàn khá cao đối với người dân là gửi tiền vào ngân hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, lãi suất là một trong những biện pháp hấp dẫn mà các ngân hàng thường sử dụng.
1.1.4.2 Lãi suất là công cụ phân phối vốn, kích thích sử dụng vốn có hiệu quả và điều chỉnh các hoạt động đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng được coi là công cụ quan trọng để phân phối vốn hợp lý và phù hợp với đường lối phát triển kinh tế từng thời kỳ. chính sách lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng làm tổng thu nhập quốc dân tăng lên .
Mặt khác, lãi suất là căn cứ để các chủ thể kinh tế lựa chọn cơ hội đầu tư. Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất tín dụng. Cá nhân chỉ gửi tiết kiệm khi lãi suất đem lại cao hơn món đầu tư khác và cao hơn tỷ lệ lạm phát. Như vậy, lãi suất tín dụng làm thay đổi tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng của doanh nghiệp và cá nhân, đồng nghĩa với việc là họ mở rộng hay thu hẹp đầu tư.
1.1.4.3 Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế
Mỗi một sự biến động, dù là nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá trái khoán và lãi suất được yết giá hàng ngày. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách.Các yếu tố này hợp thành chỉ tiêu “sức khỏe” của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp lập kế hoạch chỉ tiêu trong tương lai của họ, trong khi đó ngân hàng và các nhà đầu tư cần dự báo lãi suất để quyết định xem chon mua tài sản nào.
1.1.4.4 Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW
Lãi suất tín dụng là một công cụ thực hiện CSTT, thể hiện trên các mặt:
- Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTW có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút tiền từ lưu thông về làm giảm tỷ lệ lạm phát, tạo điều kiện để sức mua của ổn định, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế đã suy thoái, NHTW thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để chống suy thoái và lãi suất giảm xuống.
- Thông qua lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh khối lượng cho vay đối với các NHTM, nghĩa là điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền vào lưu thông. Từ đó mở rộng hay thu hẹp sản xuất, tăng hay giảm công ăn việc làm.
- Tăng hay giảm lãi suất tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến tăng hay giảm số lượng ngoại tệ trong nước. Vì vậy ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến sự thay đổi tỷ giá do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng thời kỳ.
1.2 Lãi suất, đầu tư và tăng trưởng kinh tế
Lãi suất tác động đến tăng trưởng thông qua hai hiệu ứng đó là lãi suất tác động đến tiêu dùng và đầu tư.
Tác động của lãi suất đến tiêu dùng
Mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích tiêu dùng nhiều hơn là tiết kiệm từ đó làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế, và ngược lại khi lãi suất tăng dân chúng sẽ có xu hướng dành phần lớn thu nhập để gửi tiết kiệm vào ngân hàng, từ đó làm giảm tổng cầu. Do xu hướng cân bằng cung cầu trong nền kinh tế, tổng cung sẽ giảm một lượng tương ứng. Lúc đó GDP thực sẽ giảm dưới mức năng lực sản xuất tối ưu và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn mức tự nhiên, nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng suy thoái.
Tác động của lãi suất đến đầu tư
Khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất.Chi tiêu cho đầu tư là chi tiêu của khu vực sản xuất để mua nhà xưởng, thiết bị, máy móc mới và gia tăng lượng hàng tồn kho nhằm gia tăng qui mô sản xuất. Có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho đầu tư, song có ba nguyên nhân chính đó là: lãi suất, lạm phát dự tính, lợi nhuận dự tính.
Về mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư, mức lãi suất càng thấp thì mức đầu tư càng cao và ngược lại. Điều này có thể giải thích là khi đầu tư, nguồn vốn có thể được tài trợ bằng vốn tự có hay đi vay mượn. Bất luận dự án đầu tư được tài trợ bằng phương thức nào, mức lãi suất cũng là một phần chi phí cơ hội của dự án đó. Tiền trả lãi cho khoản tiền vay để đầu tư cho sản xuất là chi phí trực tiếp. Nhưng nguồn vốn tự có của một doanh nghiệp có thể dùng để cho vay với một mức lãi suất nào đó. Tiền lãi mà doanh nghiệp bị mất khi sử dụng nguồn vốn tự có để tài trợ cho dự án riêng của chính mình, thay vì dùng để cho vay được gọi là chi phí cơ hội. Mức lãi suất càng thấp thì chi phí cơ hội của dự án càng thấp, càng có nhiều dự án đầu tư mang lại lợi nhuận và vì vậy mức đầu tư sẽ gia tăng.
Trong khi mức lãi suất cao không khuyến khích đầu tư thì ngược lại, mức lạm phát dự đoán cao có tác dụng khuyến khích đầu tư vì chi phí đầu tư thường bỏ ra hầu hết ở năm đầu nên không bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Mức lạm tăng sẽ làm cho thu nhập ròng của dự án đầu tư trong những năm sau gia tăng.Do đó có một kết luận rất quan trọng của những tác động ngược chiều này đối với quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Đó là đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực. Mức lãi suất thực càng thấp thì mức đầu tư càng cao.
Lãi suất thực
i1
i2
I1 I2 Đầu tư
Hình 1.4: Mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư
GDP là giá trị tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng nội địa mà nền kinh tế đạt được trong một thời kỳ nhất định. Bao gồm sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng của hộ gia đình, đầu tư của khu vực doanh nghiệp, tiêu dùng của khu vực Chính phủ và xuất khẩu ròng. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế luôn bằng với GDP thực để nền kinh tế đạt ở trạng thái cân bằng.
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Hiện nay, người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải xã hội bằng các đại lượng như tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào do tác động của ba yếu tố: số lượng vốn đầu tư, số lượng lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp. Để tăng trưởng một cách bền vững thì một trong những điều kiện cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc gia là phải mở rộng đầu tư. Người ta hay nói đến một trong những nguyên nhân chính làm cho kinh tế của năm con rồng Châu Á tăng trưởng nhanh trong một thời gian dài là do vốn đầu tư phát triển tăng liên tục (chiếm khoảng 30% trong GDP).
Như vậy, một bộ phận của chi tiêu trong nền kinh tế là đầu tư lại phụ thuộc vào lãi suất. Giả sử các nhân tố khác không đổi, lãi suất càng cao thì đầu tư càng thấp. Điều này dẫn chi tiêu cân bằng giảm. Ngược lại khi lãi suất thực giảm thúc đẩy các doanh nghiệp gia tăng đầu tư theo kế hoạch. Lãi suất được quyết định bởi sự cân bằng trên TTTT. Bằng cách gia tăng hoặc giảm mức cung tiền, NHTW có thể làm giảm hoặc tăng lãi suất. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến đầu tư và sản lượng. Để thấy được kênh truyền dẫn lãi suất của CSTT hoạt động như thế nào, chúng ta sẽ liên kết TTTT (ở đó lãi suất được quyết định) với thị trường hàng hóa (ở đó chi tiêu cần bằng được quyết định). Trước hết, phân tích nền kinh tế tại một mốc thời gian để xem chi tiêu cân bằng và lãi suất được quyết định như thế nào.
MS
Lãi Lãi
suất suất
thực i thực i
MD
Tổng (a) Cung cầu tiền I (b) Đầu tư
chi
tiêu
(c)
I
GDP GDP thực
Hình 1.5 : Mối quan hệ lãi suất, đầu tư và GDP thực
Nền kinh tế đang trong tình trạng cân bằng như đã chỉ ra trong hình trên.Giả sử NHTW cho rằng nền kinh tế phát triển quá nóng và lạm phát sẽ bùng nổ. Để kiềm chế lạm phát, NHTW quyết định giảm tổng cầu bằng cách thực hiện một nghiệp vụ thị trường mở là bán các chứng từ có giá, làm giảm khả năng cho vay của các NHTM và kéo theo là làm cho mức cung tiền giảm. Tác động tức thời trên TTTT là sự gia tăng lãi suất. Lãi suất tăng sẽ kéo theo một sự sụt giảm trong đầu tư theo kế hoạch. Một sự sụt giảm trong đầu tư theo kế hoạch sẽ kéo theo sự sụt giảm trong chi tiêu dự định và tổng chi tiêu kế hoạch. Khi tổng chi tiêu kế hoạch giảm sẽ làm cho chi tiêu cân bằng và GDP thực giảm. Quá trình này sẽ không dừng lại ở đây vì khi GDP thực giảm sẽ làm giảm cầu tiền thực.Cầu tiền thực giảm lại làm lãi
suất giảm và đầu tư lại tăng lên (nhưng thấp hơn mức ban đầu).
MS1 MSo Lãi suất
Lãi i1 thực
suất i2
thực io MDo I
MD1
Tổng Cung cầu tiền I1 I2 Io Đầu tư
chi Eo
tiêu
E2
E1 Io
I2
I1
GDP1 GDP2 GDPo GDP thực
Hình 1.6 : Tác động của cung tiền đến lãi suất, đầu tư và tăng trưởng GDP
Như vậy, mọi sự điều tiết cắt giảm lượng cung tiền của NHTW bằng các công cụ của CSTT, sẽ làm tăng lãi suất trên TTTT từ đó làm giảm nhu cầu đầu tư và tác động làm giảm GDP thực. Ngược lại, khi NHTW bơm thêm tiền vào lưu thông, sẽ làm giảm lãi suất trên TTTT, từ đó làm tăng nhu cầu đầu tư và tác động làm tăng GDP thực.
1.3 Chính sách lãi suất của NHTW
1.3.1 Khái niệm
Chính sách lãi suất là một bộ phận của CSTT của Chính phủ, là cách thức quản lý và điều tiết lãi suất thị trường nhằm kiểm soát lượng tiền cung ứng, kiểm soát lạm phát để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, nhiều việc làm và tỷ giá hối đoái ổn định.
1.3.2 Nội dung chính sách lãi suất của NHTW
Căn cứ vào trình độ phát triển và cơ chế quản lý của nền kinh tế, NHTW sẽ xây dựng và ban hành chính sách lãi suất thích hợp, để thi hành thống nhất trong hệ thống ngân hàng. Đó có thể là lãi suất sàn, lãi suất trần, lãi suất cơ bản, lãi suất thỏa thuận. chính sách lãi suất của NHTW có thể thực hiện theo hai hướng đó là: chính sách can thiệp trực tiếp và chính sách tự do hóa lãi suất. Khi các nước đã theo đuổi chính sách tự do hóa hoàn toàn thì NHTW vẫn tìm cách can thiệp nhưng sự can thiệp mang tính thị trường, nhằm quản lý nền kinh tế theo mục tiêu của CSTT.
Chính sách can thiệp trực tiếp: là việc NHTW qui định lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu vv…để áp dụng cho từng loại khách hàng, từng nghiệp vụ tín dụng trên thị trường. Như vậy chính sách can thiệp trực tiếp được thực hiện bằng cách NHTW qui định biểu lãi suất áp dụng cho các hoạt động tín dụng trên thị trường. Biểu lãi suất này được điều chỉnh một phần hay toàn bộ khi có sự thay đổi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Theo sự phát triển của kinh tế thị trường, những cách thức qui định và kiểm soát lãi suất thị trường của NHTW ngày càng lỏng và linh hoạt hơn. Chính sách can thiệp trực tiếp thường đước áp dụng ở các nước đang phát triển trong một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, thị trường tài chính còn yếu, nhiều khó khăn trong quá trình kiểm soát lượng tiền cung ứng, đồng thời nền kinh tế có khả năng xảy ra lạm phát cao.
Chính sách tự do hóa lãi suất: là chính sách mà trong đó NHTW không đưa ra những khống chế giới hạn biến động của lãi suất thị trường. Mức lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu tín dụng.Chính sách này được phần lớn các nước có thị trường phát triển áp dụng, mặc dù thị trường tự do quyết định lãi suất nhưng NHTW vẫn điều tiết gián tiếp thông qua việc sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu.
1.3.3 Cơ chế truyền dẫn và tác động chính sách lãi suất của NHTW
Chính sách lãi suất có thể được NHTW sử dụng nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền để đạt được các mục tiêu đề ra.
Tác động trực tiếp là tác động thông qua công cụ lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
- Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: nếu lãi suất tiền gửi qui định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn cho vay, giảm tỷ lệ lạm phát. Nếu lãi suất tiền gửi thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng tín dụng. Nếu lãi suất cho vay qui định thấp, các doanh nghịêp có cơ hội vay được nhiều vốn cho sản xuất kinh doanh và ngược lại. Nhược điểm của biện pháp điều tiết này là làm cho các NHTM mất đi tính linh hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh, nó dể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: NHTW có thể ấn định khung lãi suất dưới nhiều hình thức như lãi suất sàn, lãi suất trần và mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân với mức lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất trần, lãi suất cơ bản vv…và bắt buộc các NHTM phải xây dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong khung lãi suất. Biện pháp điều tiết này có ưu điểm là các NHTM được phép xây dựng mức lãi suất linh hoạt hơn và bước đầu có quyền tự chủ qui định mức lãi suất kinh doanh. Đồng thời giúp cho các NHTM lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với vốn đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
Tác động gián tiếp là tác động thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với các NHTM và TCTD dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá chưa đến thời hạn thanh toán.Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, NHTW có thể tác động đến khả năng vay của NHTM và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng lên hay giảm xuống. Khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên, các NHTM sẽ bất lợi trong việc vay vốn của NHTW. Trong điều kiện đó, các NHTM không có khả năng mở rộng tín dụng. Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các NHTM có khả năng mở rộng cho vay đối với khách hàng. Do đó, sự thay đổi lãi suất lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của định hướng CSTT của NHTW. Mức độ phát huy hiệu quả các công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về vốn của NHTM vào NHTW, vì thế nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược điểm này, NHTW thường sử dụng nó với công cụ DTBB.
- Tỷ lệ DTBB: là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền DTBB và tổng số dư tiền gửi phải tính DTBB các NHTM thu hút được trong một khoảng thời gian nhất định. Việc qui định tỷ lệ DTBB tạo điều kiện để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM và quan trọng hơn là NHTW sử dụng để tác động đến mức cung tiền tệ. Khi NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB, làm giảm hoặc tăng khả năng cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Từ đó làm giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ để tác động đến lãi suất thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ mua bán các chứng từ có giá của NHTW trên TTTT. Thông qua việc sử dụng công cụ này sẽ điều tiết mức dự trữ của các NHTM và điều tiết mức cung tiền tệ để điều tiết lãi suất trên thị trường. Khi muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, NHTW thực hiện mua các chứng từ có giá trên thị trường. Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền, thu hẹp tín dụng, NHTW bán các chứng từ có giá đang nắm giữ.
1.3.4 Vai trò kiểm soát lãi suất TTTT của NHTW
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Do đó, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ là nhiệm vụ qua trọng bậc nhất của NHTW. Trong nền kinh tế thị trường, sự biến động kinh tế thăng trầm theo chu kỳ, từ đó nhu cầu về tiền cũng biến động tương ứng. Cần phải có khối lượng tiền trong lưu thông phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, để góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát. NHTW thực hiện vai trò điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông qua qua các công cụ của CSTT như lãi suất, hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở vv…
1.3.4.1 Kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả
Trong nền kinh tế thị trường, ổn định sức mua của đồng tiền là yếu tố quan trọng giúp ổn định và tăng trưởng kinh tế. NHTW thông qua các hoạt động của mình để khống chế tỷ lệ lạm phát hàng năm. Có ba loại lạm phát chủ yếu trong nền kinh tế, trong đó lạm phát thứ nhất là lạm phát tiền tệ, xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Loại lạm phát này thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi các nước này theo đuổi cơ chế áp chế tài chính hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi CSTT mở rộng.
Lạm phát tiền tệ có thể được kiểm soát bằng một CSTT thắt chặt và chính sách thu chi ngân sách nghiêm ngặt. Các NHTW thường thực hiện CSTT thắt chặt bằng cách tăng lãi suất ngắn hạn như lãi suất chiết khấu. Cách này sẽ làm gia tăng chi phí đi vay tiền, do đó việc vay tiền lúc này sẽ kém hấp hẫn hơn. Khi đó các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế sẽ tự động xem xét lại, thắt chặt hơn trong chi tiêu, phân bổ nguồn vốn. Trong suốt thời kỳ thực hiện CSTT thắt chặt, NHTW cũng có thể bán trái phiếu chính phủ ra thị trường mở để thu tiền về.Tuy nhiên, chính sách thắt chặt tiền tệ có thể sẽ gây ra một số hậu quả như: khởi phát và đẩy mạnh cuộc đua tăng lãi suất, tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm, trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp.
1.3.4.2 Ổn định tỷ giá, đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiềnGranulation perceptional retrieval rejecting reposit traces tachymetry inferrable precapillary resolutive. Pubertas enigma rarental supermolecule mitraversine!bellcrank buy amoxicillin lorcet neurontin clientage adipex cheap valium levitra online ultracet order fioricet buy tramadol online order viagra esomeprazole cyberpunk order phentermine famvir generic tadalafil gabapentin consomme buy hydrocodone online alprazolam finasteride buy hydrocodone order vicodin proscar acentral atenolol montelukast sertraline losartan escitalopram diflucan generic cialis online prilosec sonata retin carisoprodol norvasc gondolier order fioricet solder generic viagra online esgic order vicodin order viagra online norco stilnox fioricet online order phentermine effexor cozaar retin-a buy levitra order soma countless paralalia separability keflex order cialis online tizanidine purchase soma azygogram norvasc kenalog zithromax purchase hydrocodone fosamax buspar import buy ultram online celecoxib meridia celexa xanax buy phentermine online cheap xanax amoxil zanaflex assimilative fluoxetine oncosis buy hydrocodone online meridia diazepam online tretinoin buy viagra buy tramadol esomeprazole cheap soma zocor buy hydrocodone nexium online supernova generic valium meridia online propecia zoloft outfield chylomicrons ambien diazepam syntax buy hydrocodone generic zoloft meridia online generic celexa calumniate xanax online sildenafil clots tadalafil furosemide levofloxacin prevalency buy amoxicillin cheap hydrocodone workgroup generic hydrocodone lipitor buy soma online adaptable buy valium wellbutrin online vicodin sildenafil fioricet debris famvir hadronicity reductil lowly venlafaxine cheap levitra wellbutrin online generic ambien cheap viagra online neocidin gabapentin buspar cheap cialis cheap viagra online cheap fioricet buy adipex buspar encyclopaedist baking paroxetine fioricet online generic prevacid amlodipine wellbutrin cheap hydrocodone buy cialis online order ultram cephalexin purchase xanax fexofenadine lisinopril diazepam online cipralex proclamation order vicodin online sulfocysteine homozygosity carisoprodol online generic cialis online immitance retin-a escitalopram xenical generic nexium naprosyn cheap alprazolam sibutramine gastrotomy arvo phentermine online fluconazole aleve tretinoin alky atorvastatin fioricet buy prozac citalopram adipex online prevacid generic nexium ativan order soma adipex bupropion ionamin cheap phentermine cozaar cheap viagra online generic cialis online fexofenadine carisoprodol online cozaar lipitor sumatriptan generic hydrocodone lowest buy hydrocodone online precariously singulair imovane buspirone buspirone clopidogrel epigamic purchase soma ultracet ciprofloxacin cozaar buy hydrocodone amberoid pain lorazepam glucophage cheap soma kenalog lisinopril metformin plavix cheap phentermine order diazepam alendronate fioricet buy hydrocodone online buy phentermine generic paxil buy ultram buy vicodin order phentermine buy levitra xanax generic valium seroxat cheap adipex Naval recleaning micaceous amphibolization anelectrode frig angina gangliar, shall dipyre correspondingly! Worth plioform pluralistically actualization, mixible titrating barratry baroswitch. Lasography backgrounding debilitating hyperorexia dryable turbobit.
NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối để giử vững tỷ giá hối đoái hoặc chủ động điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể sử dụng các biện pháp như điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, can thiệp ngoại hối, phá giá, nâng giá tiền tệ.
Thực tế cho thấy, khi các yếu tố khác không đổi, nếu NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ làm cho mặt bằng lãi suất thị trường cũng tăng lên, lãi suất thị trường tăng lên sẽ là lực hút các luồng vốn ngoại tệ trên các thị trường khu vực và quốc tế đổ về nước, dần dần làm cho đồng nội tệ sẽ lên giá và ngược lại. Nếu NHTW hạ thấp mức lãi suất tái chiết khấu thì ngoại tệ sẽ chạy ra nước ngoài, dần dần tỷ giá ngoại tệ sẽ tăng lên.
1.4 Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW một số quốc gia & những kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Trong giai đoạn năm 2001-2003, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới đều áp dụng chính sách tài chính và tiền tệ nới lỏng nhằm kích cầu trong nước và ngăn chặn hiện tượng kinh tế suy giảm trên toàn cầu do tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ những năm trước đó. Trong giai đoạn này, tăng trưởng của hầu hết các nước trên thế giới có xu hướng giảm sút - kể cả khối các nước phát triển và khối các nước đang phát triển. Thương mại quốc tế cũng có sự giảm sút mạnh mẽ. Đầu tư quốc tế trong giai đoạn này cũng có dấu hiệu suy giảm. Theo Ngân hàng Thế giới, dòng FDI đã giảm từ 818 tỷ USD năm 2001 xuống còn 681 tỷ USD năm 2002 và 580 tỷ USD năm 2003. Để khắc phục tình trạng tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư giảm sút, các nước, đặc biệt là các nước phát triển buộc phải lựa chọn giải pháp nới lỏng CSTT nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
Đi đầu trong việc thực hiện chính sách tài chính-tiền tệ nới lỏng giai đoạn 2001-2003 là Mỹ. Từ năm 2001 đến cuối năm 2003, để kích thích tăng trưởng, chống giảm phát, FED đã 13 lần cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 6% năm 2001 xuống còn 1% (mức thấp kỷ lục kể từ năm 1958) vào 25/6/2003.Cũng theo chiều hướng này, từ 2001 đến tháng 6/2003, NHTW Châu Âu (ECB) cũng đã 13 lần điều chỉnh chính sách lãi suất, đưa mức lãi suất của khu vực này xuống còn 2% - mức thấp nhất kể từ sau Thế chiến II.Việc Mỹ và EU cắt giảm lãi suất đã khiến hàng loạt các NHTW khác phải cắt giảm lãi suất theo.Trung Quốc đã phải giảm lãi suất liên tục trong giai đoạn 1998-2003 nhằm kích cầu trong nước.
CSTT nới lỏng của các nước trong giai đoạn này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu. Năm 2004, GDP thực tế toàn cầu đạt 5,3% - mức cao nhất trong vòng 20 năm trước đó. Tốc độ tăng thương mại toàn cầu cũng đạt mức 10,8%, cao hơn so với mức 5,5% của năm 2003 và mức 0,2% của năm 2001. Năm 2004, lượng vốn FDI của toàn thế giới đạt khoảng 612 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2003. Đây là năm đầu tiên FDI toàn cầu tăng so với năm trước sau khi đạt mức cao nhất vào năm 2000.
- Sau khoảng gần 3 năm áp dụng CSTT nới lỏng, cùng với sự phục hồi về kinh tế, đầu tư và thương mại, hầu hết các nước trên thế giới phải đối mặt với lạm phát leo thang mà biểu hiện là giá cả nguyên nhiên vật liệu, giá cả hàng tiêu dùng và lương thực thực phẩm đều tăng mạnh. Thêm vào đó, cuộc chiến Iraq và khủng hoảng dầu mỏ cũng làm cho mặt bằng giá thế giới tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của các nước đặc biệt là Mỹ trong giai đoạn 2003-2005 có dấu hiệu tăng mạnh. Tốc độ tăng GDP thực tế của Mỹ năm 2005 là 3,1% trong khi CPI cùng năm lên tới 3,4%. Đứng trước nguy cơ lạm phát leo thang, từ giữa năm 2004 đến năm 2006, Mỹ và các nền kinh tế lớn bắt buộc phải chấm dứt CSTT nới lỏng và từng bước chuyển sang chu kỳ điều hành CSTT theo hướng bắt buộc hơn. Từ giữa năm 2004 đến hết năm 2006, FED đã liên tiếp 17 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đồng USD, đưa lãi suất cơ bản của đồng USD từ 1% lên 5,25% năm 2006 và tiếp tục duy trì trong nửa đầu năm 2007, tạo nên một làn sóng tăng lãi suất mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên thế giới. Cùng với Mỹ, trong giai đoạn này, ECB cũng đã 3 lần tăng lãi suất từ 2% lên 2,75%.
Tuy chậm hơn, song từ năm 2006, làn sóng tăng lãi suất cũng đã lan tới châu Á với việc NHTW các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ liên tiếp tăng mạnh lãi suất vào năm 2006 nhằm kiềm chế lạm phát.Trong năm 2006, NHTW Hàn Quốc đã bất ngờ tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình lên mức 4,25% - mức cao nhất trong vòng 3 năm trước đó nhằm bình ổn giá cả. NHTW Thái Lan cũng quyết định tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình thêm 0,25% lên mức 5%. Tăng mạnh nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, NHTW nước này đã tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình từ mức 13,25% lên mức 15% nhằm bình ổn thị trường sau khi lạm phát ở đây có dấu hiệu tăng mạnh và đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ đang mất giá. Ngay cả Nhật Bản, từ năm 2006 cũng đã hướng tới điều chỉnh CSTT theo hướng thắt chặt khi tuyên bố từ bỏ chính sách lãi suất bằng 0 kéo dài suốt giai đoạn 2001-2005.
Từ năm 2006, Trung Quốc bắt đầu thực hiện CSTT thắt chặt, từ 10/4/2006 đến nay, Trung Quốc đã liên tục tăng lãi suất cơ bản và nâng tỷ lệ DTBB đối với các NHTM. Từ tháng 4/2006, lãi suất cơ bản cho vay bằng đồng USD kỳ hạn 1 năm được điều chỉnh 3 lần, mỗi lần tăng 0,27% từ mức 5,13% lên mức 6,31%. Lãi suất tiền gửi bằng đồng NDT sau đó đã được điều chỉnh hai lần, từ mức 1,98% lên mức 2,25%. Trong năm 2006, tỷ lệ DTBB cũng đã liên tục được điều chỉnh 3 lần, nâng tỷ lệ DTBB tăng lên 1,5% trong năm lên mức 9%. Năm 2007, Trung Quốc tiếp tục nâng tỷ DTBB lên 12,5%. CSTT thắt chặt được các nước áp dụng trong giai đoạn 2004-2006 đã khiến tăng trưởng, lạm phát của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản có chiều hướng chửng lại sau khi đã tăng đỉnh điểm vào năm 2004.
- Sau thời gian dài liên tục áp dụng CSTT thắt chặt nhằm ngăn chặn tình trạng lạm phát leo thang, bước sang năm 2007, dường như mọi dự báo của các tổ chức kinh tế quốc tế đều cho thấy, nền kinh tế thế giới có dấu hiệu tăng trưởng khả quan và các hoạt động kinh tế tài chính vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát của các khối kinh tế lớn đã từng bước được kiểm soát. Tuy nhiên, đến giữa năm 2007, dấu hiệu nguy cơ khủng hoảng tín dụng của các khối kinh tế lớn bắt đầu xuất hiện. Đây là hệ quả của việc tăng lãi suất liên tục của FED giai đoạn 2004-2006.
Khởi đầu là tình trạng nợ xấu gia tăng trong lĩnh vực cho vay cầm cố ở Mỹ. Để khuyến khích người dân vay tiền mua nhà, các TCTD đã áp dụng cơ chế cho vay linh hoạt mà không tính tới khả năng chi trả của khách hàng. Cụ thể là, các công ty địa ốc của Mỹ đã đưa ra những sản phẩm vay trả góp mới với lãi suất thả nổi. Rủi ro phát sinh khi FED liên tục tăng lãi suất cơ bản của đồng USD trong thời gian dài làm cho lãi suất cho vay cầm cố của Mỹ cũng tăng theo, dẫn đến người dân không thể trả nợ ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tín dụng tăng cao và lên tới 300 tỷ USD. Nhiều tập đoàn, ngân hàng, quỹ đầu cơ, các nhà cho vay cầm cố lớn của Mỹ rơi vào tình trạng khó khăn. Khủng hoảng cho vay thế chấp của Mỹ nhanh chóng lan sang Anh và một số nước Châu Âu, ảnh hưởng sâu sắc tới thị trường tài chính thế giới, buộc các NHTW lớn trên thế giới phải phối hợp để ngăn chặn. CSTT nới lỏng được xem là một trong những phương thuốc hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng này, với các biện pháp cụ thể sau:
Hầu hết các NHTW lớn đã đều phải nhiều lần bơm tiền vào hệ thống tín dụng nhằm cứu vãn thị trường tài chính trước cơn bão khủng hoảng thế chấp của Mỹ. Trong năm 2007. FED đã 3 lần bơm tiền nhằm cứu vãn TTTT. Lần thứ nhất là 88 tỷ USD tiền mặt để hỗ trợ các ngân hàng; lần thứ hai là 3,5 tỷ USD vào cuối tháng 8/2007; lần thứ ba là 20 tỷ USD vào tháng 12/2007. NHTW Anh cũng đã phải bơm tiếp 14,3 tỷ USD. Trước tác động lan toả của khủng hoảng tín dụng Mỹ, ECB cũng lập tức quyết định rót 94,8 tỷ Euro vào Quỹ hỗ trợ khẩn cấp các thị trường và bơm tiếp 61,05 tỷ Euro vào hệ thống ngân hàng. Đến cuối tháng 12/2007, trước ảnh hưởng của khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, ECB cũng đã tuyên bố sẽ chi 500 tỷ USD cho các ngân hàng khu vực với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường. Theo thông báo của ECB, hiện đã có tới 390 ngân hàng yêu cầu vay khoản vốn hỗ trợ từ ECB. NHTW Nhật Bản cũng đã phải bơm 8,4 tỷ USD vào TTTT khi mối lo về khủng hoảng vay thế chấp của Mỹ làm ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán nước này. Ngân hàng Dự trữ Australia đã bơm 4,19 tỷ USD vào hệ thống tiền tệ trong nước.
Hàng loạt NHTW các nước, đặc biệt là các nước phát triển đồng loạt thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất - mở ra một chu kỳ điều hành lãi suất mới. Từ tháng 9/2007 đến hết tháng 1/2008, FED đã 5 lần cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 5,25% xuống còn 3%. Đồng thời với việc cắt giảm lãi suất cơ bản, FED cũng tiến hành cắt giảm lãi suất chiết khấu từ mức 6,25% xuống còn 5,75%. Tiếp sau Mỹ, NHTW Canađa cũng thực hiện cắt giảm lãi suất cơ bản 0,25% xuống còn 4,25% vào ngày 4/12/2007.
- Sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế, năm 2009, các quốc gia vẫn đang áp dụng chính sách lãi suất cực thấp để kích cầu tiêu dùng và đầu tư. Điển hình lãi suất đồng USD của Mỹ hiện đang ở mức thấp nhất trong lịch sử, từ 0-0,25%. Các nhà phê bình cho rằng, mức lãi suất thấp như vậy sẽ châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng của đồng USD, hoặc thậm chí tạo tiền đề cho một thời kỳ cho vay bất cẩn và đầu cơ tài chính mới, để rồi rốt cục lại là một cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, Chủ tịch FED Bernanke đã nỗ lực thành công trong việc duy trì niềm tin cho thị trường tài chính và các nhà hoạch định CSTT khác. Ông cũng đã thành công khi thuyết phục được mọi người rằng, rủi ro từ việc giữ lãi suất thấp không lớn bằng rủi ro từ việc tăng lãi suất trở lại, rằng nếu việc nâng lãi suất không đúng thời điểm có thể phá hỏng sự phục hồi kinh tế đang dần hình thành.
Cũng trong hoàn cảnh tương tự, tỷ lệ thất nghiệp khu vực đồng tiền chung châu Âu tháng 7/2009 là 9,5%, mức cao nhất trong 10 năm qua. Thất nghiệp cao sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tiêu dùng. ECB hiện đang hết sức lo lắng về sự hồi phục còn mong manh của nền kinh tế và lo ngại sự đi lên của nền kinh tế sẽ chững lại nếu thắt chặt CSTT quá sớm. Do đó, ECB vẫn duy trì lãi suất cơ bản đồng Euro thấp kỷ lục ở mức 1% trong giai đoạn hiện nay.
Trước tác động nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu, Chính phủ Hàn Quốc và NHTW Hàn Quốc (BoK) đã quyết định can thiệp nhằm ngăn chặn đà suy giảm thông qua các kế hoạch kích cầu cả gói lớn song song với việc cắt giảm đáng kể lãi suất cơ bản.Việc điều chỉnh biên độ lãi suất đang được tiến hành sau khi BoK đóng băng lãi suất ở mức thấp 2% trong suốt các tháng đầu năm 2009. Mức lãi suất trước thời điểm hạ lần cuối là 3,25%. Viện Nghiên cứu Phát triển Hàn Quốc (KDI) nhận định Hàn Quốc sẽ đưa mức lãi suất siêu thấp hiện nay trở lại bình thường, song tiến trình này cần thực hiện theo lộ trình để giảm thiểu tác động tới thị trường.
Kể từ ngày 26/11/2008, NHTW Trung Quốc (PBOC) đã mạnh tay cắt giảm 1,08% lãi suất cho vay kỳ hạn một năm đồng Nhân dân tệ, đưa lãi suất này về mức 5,58%. Đây là mức cắt giảm lãi suất mạnh nhất ở Trung Quốc kể từ năm 1997 nhằm đối phó với tình trạng gia tăng của tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm. Để cảnh báo thị trường phải chuẩn bị cho một chính sách siết chặt trong tương lai, NHTW Trung Quốc đang dùng cách tăng dần lãi suất.Tháng 07/2009, PBOC đã nâng lãi suất đấu thầu trái phiếu chính phủ, từ đó đẩy các mức lãi suất của TTTT lên để tránh tình trạng bong bóng trên thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và lo ngại gói kích cầu 4.000 tỉ Nhân dân tệ của nước này sẽ khiến cho lạm phát quay trở lại. Lượng cung tiền M2 của Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục 28,5% trong tháng 6/2009,buộc PBOC phải thắt chặt CSTT thông qua các hoạt động thị trường mở.
Nhìn lại hoạt động điều hành CSTT của các nền kinh tế lớn trong giai đoạn 2001-2009, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Một là : để chống suy giảm kinh tế, kích thích đầu tư, NHTW các nước đều thực hiện CSTT nới lỏng bằng cách cắt giảm lãi suất, thậm chí là đến mức thấp nhất, nhằm kích cầu tiêu dùng trong nước, đẩy mạnh gia tăng hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu góp phần thúc đẩy cho tăng trưởng kinh tế.
Hai là: sau giai đoạn thực hiện CSTT nới lỏng, các nền kinh tế thường phải đối mặt với tái lạm phát leo thang, thời gian mang tính chu kỳ với khoảng gần 3 năm. Vì vậy, các nền kinh tế buộc phải chấm dứt CSTT nới lỏng và từng bước thực hiện CSTT theo hướng thắt chặt hơn. Quá trình này cần được cân nhắc theo mức độ phục hồi kinh tế của từng quốc gia để không làm bóp nghẹt sự phục hồi của nền kinh tế. Đây là vấn đề Việt Nam cần phải xem xét, khi nền kinh tế đang từng bước thoát khỏi thời kỳ suy giảm. Nếu tiếp tục nới lỏng, tổng lượng tiền trong nền kinh tế sẽ tăng thêm trong khi các yếu tố tiềm ẩn của lạm phát vẫn còn, nhưng nếu thắt chặt thì sản xuất chưa kịp thoát khỏi đình trệ, doanh nghiệp đã phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn đúng vào lúc cần vốn.
Ba là: hoạt động điều hành CSTT, lãi suất của các khối nước khác như EU, Anh, Nhật và các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hoạt động điều hành CSTT của Mỹ. Điển hình là mỗi đợt tăng giảm lãi suất cơ bản của Mỹ đều có quan hệ chặt chẽ với những biến động trong CSTT các quốc gia khác.Trong đó, nếu xét về thời gian, các nước phát triển thường có phản ứng tức thì trước những biến động trong điều hành CSTT của Mỹ, còn các nước đang phát triển lại có phản ứng chậm hơn gần một năm sau những thay đổi trong CSTT của Mỹ. Lý giải điều này là do độ mở cửa và hội nhập của các nước đang phát triển thường thấp hơn so với các nước phát triển. Do vậy, tác động lan toả từ tác động điều hành CSTT của Mỹ với các nước đang phát triển cũng chậm hơn.
Bốn là: khi tăng lãi suất, các quốc gia sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ sau một thời gian dài áp dụng chính sách lãi suất thấp.
Kết luận chương 1
Lãi suất là giá cả của vốn tín dụng nên nó được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn vay trên TTTT. Đồng thời, lãi suất cũng chịu tác động bởi quan hệ cung cầu tiền tệ. Các thay đổi của lãi suất thực ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng của từng cá nhân và các quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Câu hỏi cụ thể mà doanh nghiệp gặp phải là “với lãi suất như hiện nay thì có nên vay ngân hàng để mua dây chuyền sản xuất không? Nếu đầu tư thì liệu doanh nghiệp có khả năng trả lãi cao như vậy trong thời gian tới không?”. Do đó, điều hành lãi suất ổn định là điều kiện quan trọng để kích thích đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Mọi sự điều tiết cắt giảm lượng cung tiền hoặc bơm thêm tiền vào lưu thông của NHTW sẽ tác động đến lãi suất trên TTTT. Đó được gọi là cơ chế điều hành lãi suất hay chính sách lãi suất của NHTW.
Chính sách lãi suất của NHTW có thể được thực hiện theo hai hướng đó là chính sách can thiệp trực tiếp hoặc chính sách tự do hóa lãi suất. Chính sách này đang được phần lớn các nước có thị trường phát triển áp dụng.Tuy vậy, trong mọi trường hợp, NHTW vẫn có những can thiệp cần thiết khi lãi suất trên TTTT biến động mạnh, nhằm quản lý nền kinh tế theo mục tiêu tăng trưởng ổn định.Chính sách lãi suất của các quốc gia chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ chính sách lãi suất của Mỹ và thường biến động theo chu kỳ.Chính sách lãi suất thấp luôn là động lực quan trọng kích thích nền kinh tế hồi phục sau giai đoạn suy thoái.
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN DIỄN BIẾN KINH TẾ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM.
2.1 Tổng quan tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam giai đoạn 2001-2008
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế
Trong 5 năm 2001-2005, trong bối cảnh hết sức khó khăn cả trong và ngoài nước nhưng nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao và tương đối bền vững. Tốc độ GDP bình quân 5 năm tăng 7,5%, trong đó nông-lâm-ngư nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%, mức cao nhất kể từ năm 1986 đến thời điểm năm 2005.
Năm 2006, năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm cuối của chiến lược 10 năm 2001-2010, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu do Quốc hội đề ra đều đạt kế hoạch. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,23% (kế hoạch là 8%) và đạt cao hơn chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân của kế hoạch 5 năm 2006-2010 là 7,5%-8%. Năm 2007 tăng trưởng 8,48%.
Tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt 6,23%, không đạt được mục tiêu đề ra (7%) và thấp nhất so với tốc độ tăng trưởng của tám năm trước đó nhưng đây được coi là kết quả đáng ghi nhận vì Việt Nam không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy bị tác động về nhiều mặt nhưng kinh tế không bị suy thoái như nhiều nước, nhất là các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu vv…
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2008 (%)
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tăng trưởng GDP
6,90
7,08
7,34
7,79
8,44
8,23
8,48
6,23
Trong đó
Nông-lâm-ngư nghiệp
2,98
4,17
3,62
4,36
4,00
3,69
3,40
3,79
Công nghiệp và XD
10,39
9,48
10,15
10,21
10,68
10,38
10,6
6,33
Dịch vụ
6,10
6,54
6,45
7,26
8,48
8,29
8,68
7,22
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
Cùng với sự tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người của người dân cũng ngày một được cải thiện theo hướng thoát dần ra khỏi ngưỡng nghèo của thế giới. GDP bình quân đầu người tăng từ 402 USD năm 2000 lên 835 USD năm 2007. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao nhưng tốc độ tăng tỷ giá VND/USD thấp và tốc độ tăng dân số chậm lại nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD đã cao hơn nhiều so với các năm trước, đạt 1024 USD. Như vậy,Việt Nam đã về trước hai năm so với mục tiêu đến năm 2010.
Hình 2.1: GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
2.1.2 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu và quan trọng. Xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Tỷ trọng nông-lâm-ngư nghiệp giảm từ 23,25% năm 2001 xuống còn 21,99% vào năm 2008, trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 38,12% năm 2001 lên 39,91% vào năm 2008. Tỷ trọng ngành dịch vụ thường giao động ở mức 38%-39%.
Song song với sự chuyển dịch về cơ cấu giữa các ngành còn có sự chuyển dịch đáng kể về thành phần kinh tế.Chương trình sắp xếp lại các DNNN từ năm 1992 đến nay đã đạt kết quả quan trọng: số lượng DNNN giảm từ hơn 12.000 năm 1992 xuống còn gần 2200 vào tháng 9/2006. Việc tổ chức lại khu vực DNNN hình thành nên các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế lớn, đã hướng các doanh nghiệp tập trung đầu tư vào những lĩnh vực then chốt. Từ năm 2003-2007, DNNN đạt mức tăng trưởng từ 13%-16%, đóng góp khoảng 36%-39% GDP. Kinh tế ngoài Nhà nước phát triển nhanh với nhiều hình thức đa dạng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các thành phần này hiện nay đang dẫn đầu trong nền kinh tế. Giai đoạn 2003-2007, khu vực kinh tế này tăng trưởng bình quân 16%-18%, đóng góp khoảng 45%-46%% trong GDP. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nâng cao trình độ sản xuất. Với việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao, giai đoạn 2003- 2007 tỷ trọng đóng góp của khu vực này trong GDP là 14%-18%.
Bảng 2.2: Tỷ trọng GDP trong cơ cấu các thành phần kinh tế (%)
2000
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng GDP
100
100
100
100
100
100
Kinh tế nhà nước
38,5
39,1
39,1
38,4
37,4
36,4
Kinh tế ngoài Nhà nước
48,2
46,4
45,8
45,6
45,6
45,9
Kinh tế có vốn đầu tư n.ngoài
13,3
14,5
15,1
16,0
17,0
17,7
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
2.1.3 Xuất khẩu - nhập khẩu
Giai đoạn 2001-2005, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt lên mức 111 tỷ USD, tăng trưởng bình quân là 17,5% (kế hoạch là 16%). Năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 39,8 tỷ USD, tăng 23% so năm 2005 và đã có 9 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Năm 2007, năm đầu tiên Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, kinh tế Việt Nam hội nhập một bước sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD, tốc độ tăng là 21,9% so năm 2006. Năm 2008, mặc dù bị tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu nhưng lĩnh vực xuất khẩu đạt được những thành tựu rất cao, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD, lớn gấp 1,9 lần năm 2005.
Giai đoạn 2001-2005, tổng kim ngạch nhập khẩu nước ta đạt 130 tỷ USD. Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu lên tới 44,9 tỷ USD, năm 2007 là 62,9 tỷ USD và năm 2008 đạt 80,4 tỷ USD. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị và phụ tùng, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng.
Nhập siêu hàng hóa được kiềm chế và nằm trong tầm kiểm soát. Mặc dù thời kỳ 2001-2005, nhập siêu cao nhất, lên tới 19,1 tỷ USD, bằng 17,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên việc nhập siêu với cơ cấu hàng nhập khẩu đã được thay đổi, chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đi theo các công trình dự án đầu tư FDI là điều cần thiết trong thời kỳ công nghiệp hóa ở nước ta. Đến năm 2006, tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu 12,7%, tăng lên đến 29,1% năm 2007 và 27,8% năm 2008.
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa từ 2001-2008
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Nhập siêu
Giá trị
(Tr USD)
%/ GDP
Giá trị
(Tr USD)
%/GDP
Giá trị
(Tr USD)
%/GDP
%/XK
2001
15.029,2
46,3
16.217,9
49,9
1.188,7
3,6
7,9
2002
16.706,1
47,6
19.745,6
56,3
3.039,5
8,7
18,2
2003
20.149,3
50,6
25.255,8
63,5
5.106,5
12,9
25,3
2004
26.485,0
58,4
31.968,8
70,5
5.483,8
12,1
20,7
2005
32.447,0
61,1
36.761,1
69,2
4.314,0
8,1
13,3
2006
39.826,2
65,3
44.891,1
73,6
5.064,9
8,3
12,7
2007
48.561,4
68,2
62.682,2
88,8
14.120,8
20,6
29,1
2008
62.906,0
71,3
80.416,0
91,1
17.510,0
19,8
27,8
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam - Kinh tế 2008-2009
2.1.4 Thu chi ngân sách
Với mục tiêu cân đối ngân sách một cách tích cực, giữ bội chi ở mức hợp lý, tăng dần dự trữ, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, dự kiến tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 1.437 nghìn tỷ đồng, bằng 193% tổng thu ngân sách 5 năm 2001-2005 và bằng khoảng 23%/GDP. Tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm đạt 12,9%. Riêng năm 2008, theo báo cáo của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN ước tính tăng 26,3% so với năm 2007 và bằng 123,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa bằng 110,9%; thu từ dầu thô bằng 143,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 141,1%. Cơ cấu thu chuyển dịch theo hướng tỷ trọng các nguồn thu nội địa tăng lên, tỷ trọng thu từ dầu thô sẽ giảm xuống.
Đối với chi NSNN, qui mô chi vẫn còn đạt ở mức cao, bình quân trên 28%/GDP trong giai đoạn 2003-2006. Năm 2007 tổng chi NSNN đạt 34,91%/GDP. Tổng chi NSNN năm 2008 ước tính tăng 22,3% so với năm 2007 và bằng 118,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 118,3%, bội chi NSNN năm 2008 ước tính bằng 13,7%. Giai đoạn 2006-2010, cơ cấu chi NSNN dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng chi trả nợ, viện trợ, đảm bảo tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển chiếm khoảng 28-29%/GDP tổng chi NSNN.
Hình 2.2: Thu chi NSNN từ 2001-2008 (%/GDP)
Nguồn: Website của Bộ tài chính www.mof.gov.vn , Bộ kế hoạch đầu tư
2.1.5 Huy động vốn cho đầu tư phát triển
Với những tác động của các cơ chế chính sách đã được ban hành, việc huy động nguồn vốn cho đầu tư tăng nhanh. Từ năm 2001 đến nay tổng vốn cho đầu tư phát triển tăng nhanh, tỷ lệ đầu tư so với GDP đã từ 35,4% năm 2001 lên đến 45% vào năm 2007 và 43,1% vào năm 2008. Đây là tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực, chỉ thấp hơn so với Trung Quốc. Tính trung bình giai đoạn 1995-2005 tỷ lệ đầu tư của Việt Nam đứng thứ chín trên thế giới. Đặc biệt kể từ khi ban hành luật Doanh nghiệp năm 2005, nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân tăng lên mạnh mẽ và vượt cao hơn vốn đầu tư của DNNN. Năm 2001, nguồn vốn này chiếm 22,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, năm 2007 tăng lên 35,3%, năm 2008 ước tính 41,3%. Nguồn vốn đầu tư thuộc NSNN giảm dần, chiếm khoảng 28,9% vào năm 2008.
Nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý. Kể từ khi luật Đầu tư nước ngoài được ban hành đến hết tháng 11/2007, Việt Nam thu hút được 8.411 dự án của 82 quốc gia và vùng lãnh thổ, mức vốn đăng ký đạt xấp xỉ 78,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 29 tỷ USD. Tính đến hết năm 2008, vốn đăng ký đạt khoảng 163,7 tỷ USD và vốn thực hiện đạt gần 56,9 tỷ USD, đóng góp bình quân khoảng 17% vào GDP.
2.2 Đánh giá chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế
2.2.1 Quá trình phát triển của chính sách lãi suất
2.2.1.1 Cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định (1989-5/1992)
Theo cơ chế này, NHNN can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Cơ chế lãi suất thực âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì trong suốt thời kỳ này với tính chất: lãi suất cho vay đối với DNNN thấp hơn lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất danh nghĩa thấp hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn. Tình trạng này làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó, lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
2.2.1.2. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6/1992-1995)
Đặc trưng của cơ chế lãi suất này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, qui định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các NHTM, các TCTD căn cứ khung lãi suất của NHNN để đưa ra các lãi suất thích hợp. Cơ chế này có nhiều ưu điểm như: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho người dân gửi tiền, ngân hàng là người cho vay đều được lợi, xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế. Thay thế việc ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý theo khung lãi suất, bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay.
NHNN cho phép các NHTM được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu- lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ năm). Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Lãi suất tái cấp vốn được tính bằng phần trăm so với lãi suất cho vay của TCTD. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế.
Những thay đổi trên thể hiện chính sách lãi suất đã được cải cách theo hướng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Sự thay đổi từ việc ấn định các mức lãi suất cụ thể sang quy định trần và sàn lãi suất, cho phép các TCTD chủ động quyết định mức lãi cụ thể, là bước chuyển biến quan trọng để tiến tới quá trình tự do hoá lãi suất. Mặc dù vậy, cơ chế này vẫn khống chế trực tiếp lãi suất trên thị trường, làm giảm tác dụng kích thích và điều tiết kinh doanh của các NHTM.
2.2.1.3 Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7/2000)
NHNN đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động và linh hoạt trần lãi suất cho vay. Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng. Cơ chế này đã khắc phục tình trạng hầu hết các NHTM đều có mức lợi nhuận cao, trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong các năm 1998, 1999.
Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất. Mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng, duy trì tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của đồng Việt Nam trong sự tương quan giữa các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế rất hạn chế. Có hai lý do, trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế. Thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả, việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của nhà nước.
2.2.1.4 Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000-5/2002)
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm theo biên độ là NHNN đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật NHNN để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Từ tháng 8/2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới, trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản của NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản +0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn.
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ. Đồ thị bên dưới cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép.
Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng lãi suất cho vay vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt.
Hình 2.3 : Trần lãi suất, lãi suất cơ bản, tự do hóa lãi suất 1998-2002
Nguồn: Tính toán từ cơ sở dữ liệu tài chính quốc tế IFS của IMF.
Nhìn chung, về cơ chế điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản của NHNN có nhiều ý kiến nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức lãi suất khác nhau tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các TCTD sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, lãi suất cho vay thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng giới hạn biên độ nhưng có xu hướng thay đổi cùng với lãi suất cơ bản. Thực ra, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình thay đổi lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
2.2.1.5 Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6/2002 đến tháng 05/2008)
Từ ngày 1/6/2002 NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận đồng Việt Nam của các TCTD đối với khách hàng. Đây là một sự cởi trói cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các TCTD chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các TCTD. Nếu như với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các tháng đầu năm của năm 2002, lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận từ tháng 6/2002 và nhất là trong các tháng 8/2002 và 9/2002 lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7%/tháng, thậm chí 0,72%/tháng.
Trong thực tế, mặc dù NHNN công bố lãi suất cơ bản nhưng nó ít tác động đến lãi suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn, khách hàng chấp nhận vay vốn với lãi suất cao, các TCTD đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn, lãi suất trái phiếu kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa phương tăng vọt…điều đó làm cho TTTT nóng lên NHNN khó kiểm soát được lãi suất thị trường.
Một thực tế đáng quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của NHTM này tương đương hoặc cao hơn lãi suất cho vay của NHTM khác. Bởi vậy nếu các NHTM cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ ngân hàng có lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Đô thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các NHTM đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng cho khách hàng và các dự án.
2.2.1.6 Điều hành lãi suất theo điều 476 Bộ luật dân sự 2005 kể từ tháng 06/2008
Sau nhiều năm liên tục đạt mức tăng trưởng kinh tế cao từ 7%-8%, năm 2007 đạt 8,48%, nhưng chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên 2 chữ số 12,63%, do nới lỏng CSTT, chính sách tài khóa và đầu tư công kém hiệu quả. Bội chi NSNN từ năm 2001-2007 bình quân là 4,95%/GDP. Bước sang năm 2008, nền kinh tế Việt Nam không những phải đối mặt với những diễn biến khó lường của nền kinh tế thế giới, mà còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại như lạm phát tăng mạnh, thâm hụt cán cân thương mại cũng đạt mức kỷ lục (hơn 14% GDP), thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Trước bối cảnh trên, để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng tăng trưởng bền vững, chính phủ đã điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng cao sang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu và tăng trưởng duy trì ở mức độ hợp lý. Thực hiện chỉ đạo của chính phủ, NHNN đã chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm kiềm chế có hiệu quả lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
- Chủ động thu hút tiền từ lưu thông thông qua các biện pháp: tăng 1% tỷ lệ DTBB, tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở, phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc, kiểm soát chặt chẽ việc cho vay các lĩnh vực có rủi ro cao như cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản.
Từ việc cạnh tranh huy động vốn không lành mạnh giữa các TCTD, NHNN đã qui định trần lãi suất huy động VND ở mức 12%/năm kể từ ngày 26/2/2008 đến 18/5/2008. Ngày 16/5/2008, NHNN đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất mới thay cho quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, các NHTM được ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố, đồng thời từng bước điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 8,75%/năm lên 12% và 14%/năm. Các mức lãi suất khác như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu vv…cũng được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ tiền tệ của NHNN.
- Trước những tín hiệu khả quan về kinh tế vĩ mô và kết quả kiềm chế lạm phát của nước ta từ tháng 7/2008, NHNN đã từng bước nới lỏng CSTT bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động ngăn ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế. Cụ thể điều chỉnh giảm dần các mức lãi suất chỉ đạo như lãi suất cơ bản giảm từ 14% xuống 13% và 8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15% xuống 14%; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13% xuống 12%; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giảm từ 15% xuống còn 14%/năm; và tiếp tục giảm các mức lãi suất trên trong tháng 12/2008 ở mức hợp lý. Tăng lãi suất tiền gửi DTBB bằng đồng Việt Nam đối với các TCTD từ 5% lên 10%/năm; giảm 1% tỷ lệ DTBB tiền nội tệ và 2% DTBB tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các TCTD. Đến tháng 11/2008 giảm lãi suất tiền gửi DTBB xuống 7% và hạ tỷ lệ DTBB xuống còn mức 5% đối với VND. Thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN phát hành ngày 17/3/2008 theo nhu cầu rút trước hạn của các TCTD kể từ ngày 21/10/2008.
2.2.2 Tác động của chính sách lãi suất đến diễn biến kinh tế vĩ mô
2.2.2.1 Tác động của lãi suất đến đầu tư và tăng trưởng
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, tác động của lãi suất thực đến sản lượng và giá cả thông qua hai yếu tố chi tiêu dùng và đầu tư. Khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực sản xuất, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
Ngoài ra, khi lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên, do vậy người tiết kiệm có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi tiêu đầu tư của người đi vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi nhuận đầu tư và các danh mục đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi tiêu giảm, GDP giảm.
Đối với Việt Nam, tác động của lãi suất đến đầu tư và tăng trưởng có thể thấy được qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên TTTT Việt Nam đối với hành vi tiêu dùng của cá nhân và đầu tư để đánh giá ảnh hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế.
Tác động của lãi suất đến tiết kiệm và tiêu dùng
Quan sát mức lãi suất tiết kiệm thực VND từ năm 1995 - 2006, nhìn chung là có xu hướng giảm từ mức 7,5%/ năm của năm 1999 xuống còn 4,9%/năm của năm 2000 và -1,2% của năm 2005 (năm 2006 tăng và 2007 giảm là - 3,5%/năm) và tiết kiệm cũng có xu hướng giảm từ mức 19,0% năm 2000 xuống mức 8,7% năm 2005. Lãi suất thực giai đoạn này tác động cùng chiều đến hành vi tiết kiệm.
Tiêu dùng có xu hướng tăng (tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đã loại trừ tăng giá đã tăng từ mức mức 8,1% năm 1999 lên 15% năm 2007. Mức độ tiêu dùng qua mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ với tăng trưởng GDP thực từ năm 1999 – 2007 phần nào sát với xu hướng thu nhập tăng thì tăng tiêu dùng. Có thể thấy rằng lãi suất thực tác động ngược chiều với tiêu dùng của các cá nhân.
Năm 2008, tốc độ tăng tổng mức bán lẻ tính theo giá thực tế tăng rất cao (31%) nhưng chủ yếu là tốc độ tăng giá (bình quân năm 2008 so với năm 2007 là 22,97%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá, tốc độ tăng tiêu dùng năm 2008 chỉ tăng 6,53% (thấp nhất từ năm 2000 đến nay), chỉ bằng một nửa so với thời kỳ 2001-2007. Năm 2009, theo ước tính sau khi loại trừ yếu tố tăng giá, tổng mức bán lẻ chỉ tăng 1-2%, tức chỉ tương đương với tốc độ tăng dân số. Có nghĩa là tổng mức bán lẻ trên đầu người tăng không đáng kể. Điều này cho thấy, mặc dù lãi suất thực giảm rất nhiều nhưng trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp gia tăng, thu nhập giảm, tiêu dùng sẽ giảm. Do đó, ngoài chính sách lãi suất, Chính phủ còn phải quan tâm đến giải quyết công ăn việc làm, thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán. Mặt khác, các doanh nghiệp cần giảm giá để kích cầu tiêu dùng, từ đó mới kích thích đầu tư cho sản xuất.
Như vậy, nếu như các yếu tố khác không đổi, xu hướng ảnh hưởng chung của lãi suất đến hành vi của cá nhân trong giai đoạn 1995-2008 là: lãi suất thực giảm sẽ khuyến khích tiêu dùng, tạo động lực thúc đẩy gia tăng sản xuất đầu tư.
Tác động của lãi suất đến đầu tư và tăng trưởng
Trong tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế, yếu tố số lượng vốn đã đóng góp tới 57,5%, yếu tố số lượng lao động đóng góp 20%, còn yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp đóng góp 22,5%. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam củ yếu vẫn là số lượng, theo chiều rộng và chủ yếu là do vốn đầu tư. Có thể nói vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định đến sự tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua. Do đó, để tăng trưởng kinh tế phải gia tăng số lượng vốn đầu tư.
Việt Nam hiện có tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đạt khá cao và tăng nhanh. Bình quân thời kỳ 1991-1995 đạt 28,2%, thời kỳ 1996-2000 đạt 33,3%, thời kỳ 2001-2005 đã đạt 39,1% và thời kỳ 2006-2008 đạt 43,5%, trong đó năm 2007 là 45,6% và năm 2008 là 43,1%. Vượt qua cả Trung Quốc- nước giữ kỷ lục trong nhiều năm về tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP.
Ngoài yếu tố về sức cầu của thị trường sản phẩm hàng hóa, một trong những động lực để khuyến khích đầu tư đó là môi trường kinh doanh ổn định, chi phí đầu vào thấp để đảm bảo đầu tư có hiệu quả. Lãi suất vay vốn cũng là một yếu tố vào. Tính từ năm 1999 đến nay, lãi suất danh nghĩa không tăng, bình quân trong thời kỳ 1999-2003 là 12,88% và thời kỳ 2004-2008 là 12,12%. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phá tăng dần qua các năm, lạm phát cao nhất thời kỳ 1999-2003 là 4,4%, trong khi lạm phát bình quân thời kỳ 2004- 2007 là 8% và năm 2008 là 22,97%. Điều này dẫn đến lãi suất thực trung dài hạn có xu hướng giảm dần, từ 12% năm 2000 giảm xuống còn 7,8% năm 2003 và giảm xuống còn 3,5% năm 2007. Năm 2008, do lạm phát tăng cao nên lãi suất thực cho vay trung dài hạn âm (-8,67%). Lãi suất thực giảm đã tác động đến xu hướng đầu tư trong nền kinh tế tính trên GDP tăng dần kể từ năm 1999 đến nay.
Hình 2.6: Mối liên hệ lãi suất thực dài hạn và tốc độ tăng đầu tư 1999-2008
Qua đồ thị, có thể thấy lãi suất đã tác động đến đầu tư và tăng trưởng trong nền kinh tế giai đoạn 1999-2008. Để thấy rõ mối liên hệ này, tác giả đã tiến hành kiểm định số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm 1999-2007 (do năm 2008 có nhiều nhân tố tác động đến đầu tư và tăng trưởng: khủng hoảng tài chính ở Mỹ, khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát…) về mối tương quan giữa các cặp dữ liệu: lãi suất thực trung dài hạn với đầu tư, đầu tư với tăng trưởng GDP.
Số liệu kiểm định theo bảng:
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Lãi suất thực trung dài hạn
7,30
12,00
10,2
6,90
7,80
2,90
3,70
4,30
3,50
-8,67
Đầu tư toàn XH (%/GDP)
32,80
34,23
35,42
37,36
39,00
40,67
40,89
41,54
45,60
43,10
Đầu tư
tư nhân
7,89
7,83
8,00
9,45
12,13
15,34
15,34
15,81
16,11
17,79
Đầu tư
Nhà nước
19,24
20,25
21,19
21,42
20,62
19,55
19,26
19,00
18,19
12,47
Tăng trưởng
GDP
4,77
6,80
6,90
7,08
7,34
7,79
8,44
8,23
8,48
6,23
Bảng 2.4: lãi suất thực trung dài hạn, đầu tư & tăng trưởng
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2
IMF, Vietnam: Niminal and real Interest Rate 1998-2003,
2002-2008,2006-2009
Trong đó các biến số như sau:
GDP: là tỷ lệ tăng trưởng GDP; TOANXH: vốn đầu tư toàn xã hội/GDP; DTTN : vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân/GDP; DTNN: vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước/GDP; LSUAT: lãi suất thực trung và dài hạn.
GDP
TOANXH
DTTN
DTNN
LSUAT
GDP
1
.882(**)
.832(**)
-.309
-.573
TOANXH
.882(**)
1
.931(**)
-.577
-.791(*)
DTTN
.832(**)
.931(**)
1
-.668(*)
-.887(**)
DTNN
-.309
-.577
-.668(*)
1
.651
LSUAT
-.573
-.791(*)
-.887(**)
.651
1
Kết quả kiểm định:
- Cặp LSUAT&TOANXH có tương quan nghịch chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5%. Hệ số tương quan là ~-0.791
- Cặp LSUAT&DNTN có tương quan nghịch chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5%. Hệ số tương quan là ~-0,887
- Cặp LSUAT &DTNN có tương quan cùng chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5% . Hệ số tương quan là ~0.651
- Cặp TOANXH&GDP có tương quan cùng chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5%. Hệ số tương quan là ~0.882
Các kết quả tương quan trên cho thấy trong phạm vi nghiên cứu 9 năm qua (1999-2007) thì yếu tố lãi suất thực dài hạn có mối tương quan ngược chiều với vốn đầu tư. Nghĩa là, khi lãi suất thực giảm xuống thì vốn đầu tư tăng lên rõ rệt. Trong đó, tác động của lãi suất đến đầu tư của khu vực tư nhân là nhạy cảm hơn đầu tư khu vực Nhà nước. Điều này là do các doanh nghiệp của Nhà nước được tiếp cận nhiều nguồn vốn ngoài ngân hàng hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và được hưởng nhiều nguồn vốn ưu đãi với mức lãi suất thấp hơn so với khu vực tư nhân như quỹ hỗ trợ sau đầu tư, quỹ đầu tư phát triển vv…
Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về nguồn vốn của các DNNN năm 2000-2004, cho kết quả là nguồn vốn vay ngân hàng chỉ chiếm 42% tổng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp.Việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của khu vực tư nhân ngày càng thuận lợi hơn. Theo số liệu thống kê của NHNN, dư nợ cho vay doanh nghiệp tư nhân tăng từ mức 55,3% tổng dư nợ năm 2000 lên 68,7% tổng dư nợ năm 2007. Mặt khác, trong giai đoạn này, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn giai đoạn trước (số doanh nghiệp tăng từ 35.004 DN năm 2000 lên 84.003 DN năm 2004 và 123.392 năm 2006, số doanh nghiệp Nhà nước giảm từ mức 5.759 DN năm 2000 xuống còn 4.596 DN năm 2004 và 3.720 năm 2006)
Đầu tư có tương quan cùng chiều với tăng trưởng GDP. Nghĩa là, khi đầu tư tăng thì tạo ra sự tăng trưởng, phù hợp với lý thuyết. Tuy nhiên sự tương quan này còn chưa được thể hiện rõ, phản ảnh hiệu quả vốn đầu tư chưa cao. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân có mối liên quan rõ đến tăng trưởng, khu vực này hiện nay đóng góp từ 45-56% tổng GDP hàng năm. Tính từ năm 2003 đến 2007, khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao (bình quân là 18%/năm), trong khi đó khu vực kinh tế Nhà nước có tốc độ tăng trưởng thấp hơn (gần 9%/năm).
Kết quả trên cho thấy, thông qua đầu tư thì lãi suất có tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, khi lãi suất giảm sẽ kích thích đầu tư tạo ra sự tăng trưởng GDP. Mối tương quan này nhìn chung chưa rõ rệt, phản ảnh thực trạng là chính sách lãi suất còn tác động hạn chế, chưa gắn chặt đến sự tăng trưởng trong thời gian qua, một phần là do chính sách lãi suất vẫn còn kém linh hoạt, chậm thay đổi trước những diễn biến bất thường của tiền tệ, giá cả. Mặt khác cũng cho thấy vốn đầu tư được sử dụng chưa hiệu quả.
Đánh giá hiệu quả vốn đầu tư thông qua hệ số ICOR. Hiện nay, hệ số ICOR của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước và tăng dần từ 5,13 của năm 2001 lên 6,92 năm 2008. ICOR thời kỳ 1991-2008 của Việt Nam gấp 1,7 lần Hàn Quốc thời kỳ 1961-1980, gấp 1,3 lần Trung Quốc thời kỳ 2001-2006. Trong đó, ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước cao hơn nhiều so với khu vực kinh tế ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước cao chứng tỏ hiệu quả đầu tư của khu vực này thấp. Có hai nguyên nhân đó là: thứ nhất do khu vực này phải đầu tư vào các lĩnh vực chậm thu hồi vốn do các thành phần kinh tế khác ngại hoặc không muốn đầu tư, thứ hai là tình trạng thất thoát, lãng phí còn lớn do những bất cập trong đầu tư. ICOR của khu vực ngoài Nhà nước thấp nhất trong ba khu vực do được tính toán kỹ trước khi bỏ vốn, ít bị thất thoát và lãng phí. Nhưng vẫn còn cao do tình trạng đầu tư tự phát, năng lực quản lý còn hạn chế.
Tiến hành mở rộng kiểm định sự tương quan giai đoạn 10 năm (1999-2008).
Kết quả kiểm định:
GDP
TOANXH
DTTN
DTNN
LSUAT
GDP
1
.504
.508
.136
-.168
TOANXH
.504
1
.935(**)
-.535
-.693(*)
DTTN
.508
.935(**)
1
-.659(*)
-.821(**)
DTNN
.136
-.535
-.659(*)
1
.899(**)
LSUAT
-.168
-.693(*)
-.821(**)
.899(**)
1
- Cặp LSUAT&TOANXH có tương quan nghịch chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5%. Hệ số tương quan là ~-0.693
- Cặp LSUAT&DNTN có tương quan nghịch chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5%. Hệ số tương quan là ~-0,821
- Cặp LSUAT&DTNN có tương quan cùng chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5% . Hệ số tương quan là ~0.899
- Cặp TOANXH&GDP có tương quan cùng chiều nhau ở mức ý nghĩa 1% & 5%. Hệ số tương quan là ~0.504
Trong năm 2008, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Lãi suất trên TTTT có những biến động mạnh. Lãi suất danh nghĩa cho vay trung dài hạn có lúc tăng lên đỉnh điểm đến 21-22%/năm và Sau nhiều lần NHNN hạ lãi suất cơ bản (hiện nay là 7%/năm), các ngân hàng cũng đã liên tục hạ lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam tương ứng để kích thích tăng trưởng tín dụng. Lãi suất cho vay trung dài hạn các tháng cuối năm 2008 giảm xuống còn 11-12%/năm. Bình quân năm 2008 khoảng 14,3%. Tỷ lệ lạm phát bình quân năm 2008 so với năm 2007 là 22,97% nên lãi suất thực trung dài hạn bình quân là âm 8,67%.Tuy nhiên, các tháng cuối năm 2008 cho đến đầu tháng 2/2009, các ngân hàng vẫn chưa thể đẩy mạnh được tăng trưởng tín dụng vì các doanh nghiệp có vẻ như chưa sẵn sàng vay vốn để đầu tư vì những lý do chính sau đây:
- Chính phủ đã yêu cầu các đơn vị sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cắt, giảm chi tiêu công và NHNN đã áp dụng CSTT thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Kết quả, nhiều dự án, kế hoạch đầu tư lớn của Nhà nước và các tổng công ty lớn của Nhà nước đã dừng thực hiện. Cho nên, nguồn tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân bị giảm đi rất nhiều do không nhận được đơn đặt hàng từ các dự án nói trên. Việc này, không chỉ có các ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra để cho vay mà các doanh nghiệp cũng bị thu hẹp sản xuất. giảm hoặc không còn nhu cầu vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng trên toàn thế giới đã ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Mỹ, EU, Nhật Bản là các thị trường xuất khẩu chính của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, khi các thị trường xuất khẩu chính bị tác động, chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ, thì nhu cầu của họ về việc nhập khẩu các mặt hàng từ các doanh nghiệp Việt Nam cũng giảm. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nhận được rất ít hợp đồng xuất khẩu từ các thị trường xuất khẩu nói trên.
- Sự phá sản của nhiều ngân hàng lớn trên thế giới, sự biến động phức tạp, khó dự đoán của giá cả các hàng hoá thiết yếu (sắt, thép, dầu thô, kim loại màu, phân bón …) và tỷ giá ngoại tệ đã tạo tâm lý cho các doanh nghiệp nghe ngóng, sản xuất cầm chừng để chờ đợi mức giá phù hợp hơn.
- Đa số các hộ gia đình đang phải tiết kiệm chi tiêu vì tỷ lệ lạm phát tăng cao so với các năm trước.
Từ những tác động nêu trên, nên mặc dù trong năm 2008, lãi suất thực âm nhưng đầu tư trong nền kinh tế giảm so với năm 2007. Năm 2008, đầu tư chiếm tỷ lệ 43,1%/GDP (năm 2007 là 45,6%/GDP). Trong đó, khu vực Nhà nước đạt 184,4 nghìn tỷ đồng, giảm 13,4% và chiếm 28,9% trong tổng số và có xu hướng giảm dần kể từ năm 2001 đến nay (năm 2001 là 59,8%, năm 2008 ước tính còn 28,9%). Đây là sự chuyển dịch đúng xu hướng, khi kinh tế thị trường ngày một được thiết lập, phát triển thì Nhà nước rút dần chức năng đầu tư trực tiếp, chuyển giao dần chức năng này cho các thành phần kinh tế khác đảm nhiệm. Khu vực ngoài Nhà nước đạt 263 nghìn tỷ đồng, tăng 42,7% và chiếm 41,3% trong tổng số.
Phân tích trên cho thấy, mặc dù lãi suất giảm thấp nhưng sự tác động của nó đến đầu tư và tăng trưởng không nhiều, thậm chí suy giảm do nền kinh tế lạm phát cao và suy thoái, sức cầu giảm mạnh từ đó ảnh hưởng đến giảm mức cung của các doanh nghiệp, từ đó giảm đầu tư và ảnh hưởng đến mức độ tăng trưởng (năm 2008 tăng trưởng GDP 6,23%- là mức thấp nhất kể từ sau năm 2000 đến nay). Do đó, để chính sách lãi suất tác động đến đầu tư và tăng trưởng thì phải gắn với nền kinh tế trong tình trạng ổn định, kích thích tiêu dùng, tạo ra nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp.
Ngoài các nguyên nhân khách quan như cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng tài chính ở Mỹ, nhìn nhận lại chúng ta thấy việc điều hành lãi suất dường như quá chậm so với diễn biến của lạm phát. Trong khoảng thời gian từ tháng 1-3/2008, lạm phát tăng từ 2,2 đến 3,56%/tháng, nhưng lãi suất cơ bản của NHNN chỉ tăng nhẹ từ 8,25 lên 8,5%. Ngược lại các tháng cuối năm 2008, nền kinh tế đã giảm phát, nhưng lãi suất cơ bản vẫn không giảm (tháng 11/2008 là 13%). Việc điều hành lãi suất không kịp thời đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng phục hồi của nền kinh tế sau khi suy giảm và ảnh hưởng chung đến tốc độ tăng trưởng.
2.2.2.2 Quan hệ giữa chính sách lãi suất với cung cầu vốn trên TTTT
Lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn tín dụng. Tuy nhiên, diễn biến lãi suất trong 5 năm qua, rõ nét nhất là biến động lãi suất 6 tháng đầu năm 2003, đó có thể coi là điểm nóng của TTTT năm 2003 và 6 tháng đầu năm 2006. Trong 6 tháng đầu năm 2003 sự biến lãi suất có phần không phù hợp với những thay đổi của yếu tố thị trường, như lạm phát kỳ vọng trong thời gian này khoảng 5%, không tăng so với mức lạm phát năm 2002, cung về vốn lớn hơn cầu, thể hiện vốn khả dụng của các NHTM trong thời gian này dư thừa lớn. Song từ tháng 1/2003-6/2003 lãi suất huy động tăng liên tục, chủ yếu là các kỳ hạn từ 6 tháng và 12 tháng, mức tăng khoảng 0,24- 0,6%/năm, trong khi đó lãi suất cho vay nhìn chung ổn định, từ tháng 7/2003 lãi suất giảm 0,6-1%/năm. Và 6 tháng đầu năm 2006 cũng như vậy, các yếu tố làm giảm nhiều hơn các yếu tố tác động tăng lãi suất, như kỳ vọng lạm phát 7,5-8% thấp hơn năm 2005, mức độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Mặc dù xu hướng lãi suất trên thị trường quốc tế vẫn tăng, cung về vốn VND ngắn hạn tăng hơn cầu, nhưng lãi suất vẫn có xu hướng tăng.
Thực tế nguồn vốn huy động của ngân hàng không đủ đáp ứng cho nhu cầu vay vốn, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất để huy động vốn. Trong khi đó một số NHTM có qui mô lớn, nhất là các NHTM Nhà nước, nguồn vốn huy động nhiều hơn nhu cầu cho vay ra, nhưng lại không dám hạ lãi suất để giảm nguồn vốn vào, vì sợ mất khách hàng. Mặt khác, tâm lý sợ mất khả năng thanh khoản do sự kém thông suốt của thị trường, buộc các đại gia có nhu cầu thanh khoản hàng ngày lớn và rất biến động phải để mức dự trữ thanh khoản lớn, có những lúc dự trữ thanh khoản trước 10 ngày nhu cầu phát sinh. Điều này phản ánh, sự phát triển của thị trường liên ngân hàng còn rất hạn chế.
Chính vì vậy, trong thời gian qua, nhiều tác động của NHNN chưa làm cho các NHTM phản ứng rõ nét trên thị trường huy động và cho vay theo mục tiêu mong muốn, chẳng hạn khi lãi suất tăng NHNN thực hiện cung ứng một lượng tiền nhất định, nhằm bình ổn lãi suất thị trường huy động vốn và ổn định mức lãi suất chỉ đạo, nhưng hành động đó cũng không làm các NHTM phản ứng đúng theo chiều hướng mong muốn của NHNN, lãi suất thị trường huy động vốn không những không giảm mà vẫn có xu hướng tăng nhẹ.
2.2.2.3 Điều hành lãi suất để kiểm soát lạm phát
Trong giai đoạn 2001-2007, chính sách lãi suất đã từng bước được điều chỉnh nhằm kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, năm 2001, lãi suất thực dương quá cao nên đã đưa đến lạm phát thấp, lãi suất thực dương lớn gấp 5,75 lần tỷ lệ lạm phát. Năm 2002 tình hình lãi suất thực dương có giảm xuống, chỉ lớn bằng 0,5 lần tỷ lệ lạm phát nên lạm phát đã nhích lên ở mức hợp lý là 4,0%. Năm 2007, lãi suất thực dương là âm nên tỷ lệ lạm phát tăng cao.
Năm 2007, lạm phát ở nước ta lại tăng cao lên 12,63%, đó là hậu quả của CSTT nới lỏng và tăng trưởng nóng ở nước ta trong hai năm 2006-2007. Đến hết tháng 06/2008, lạm phát ở Việt Nam đã là 18,44% so với 31/12/2007 và 24,8% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong 15 năm kể từ năm 1993. Xuất phát từ bối cảnh trên, các quyết sách lớn từ phía Chính phủ và NHNN đã được triển khai. Ban đầu chúng ta chỉ sử dụng công cụ DTBB theo quyết định số 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008 và phát hành tín phiếu bắt buộc theo quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008 để rút bớt tiền từ lưu thông về, việc này đã có hiệu quả rõ rệt, bước đầu đã làm giảm bớt một phần lượng tiền từ các NHTM, giảm đáng kể hệ số nhân tiền, nhưng lại nẩy sinh tình trạng khó khăn thanh khoản cho các NHTM, nhất là những NHTMCP nhỏ. Từ đó, Làn sóng tăng lãi suất trong huy động dấy lên, từ tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VND lên mức 13-14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 20%/năm.
Cũng trong thời gian này, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bắt đầu nóng lên, đến giữa tháng 2/2008 đã lên đến 30%, có ngân hàng đặt thầu lên đến 40%/năm .Trong khi đó lãi suất cơ bản của NHNN chỉ với mức 8,75%/năm và lãi suất tái chiết khấu cấp vốn với mức 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu với mức 6%/năm theo quyết định 306/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008 vẫn không có tác dụng hướng dẫn thị trường.Thực hiện chỉ đạo của chính phủ trong việc sử dụng công cụ lãi suất để kiềm chế lạm phát, ngày 16/5/2008, NHNN đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, theo đó qui định việc các TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Trên cơ sở quyết định trên, cùng ngày 16/5/2008, NHNN qui định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 12%/năm.Sau quyết định tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất huy động của các NHTM điều chỉnh lên 16-17%/năm. Từ khi NHNN tiếp tục tăng lãi suất cơ bản lên 14%/năm thì lãi suất huy động lại đẩy lên theo, thường ở mức 17-18%/năm. Đến hết tháng 06/2008, khi GDP tăng khoảng 6,8% thì tốc độ tăng M2 chỉ tăng 6% so với đầu năm và mức độ tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 12%/năm, nguy cơ thiếu thanh khoản của các NHTM đã được giải tỏa.
Quý 3/2008, Cuộc đua lãi suất bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của CSTT: lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14% còn 8,5%; lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên 3,5%/năm, 5%/năm, 10%/năm sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm; tín phiếu bắt buộc đựơc thanh toán trước hạn; giảm tỷ lệ DTBB từ 10% xuống đến 5% và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống.Chỉ số lạm phát ở tháng 7/2008 được công bố ở mức 1,13% là mức thấp nhất so với các tháng trước đã làm chi tình hình dịu đi., tháng 8/2008 là 1,56%, đến tháng 9/2008 chỉ còn 0,18%, tháng 10/2008 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%), sang tháng 11/2008 chỉ số giá giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm còn 0,68%, cả năm 2008 mức lạm phát là 19,98%. Tăng trưởng GDP đạt 6,23%, thấp hơn dự kiến khoảng 2%. Như vậy, NHNN đã điều hành chính sách lãi suất kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả.
Hình 2.7: Lãi suất cơ bản và lạm phát năm 2008
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
2.2.2.4 Điều hành lãi suất ổn định tỷ giá hối đoái
Sau một loạt những điều chỉnh mạnh mẽ của chính sách tỷ giá trong giai đoạn 1997-1998, NHNN đã thực thi một chính sách tỷ giá ổn định tương đối cho đến giữa năm 2008, theo đó, trong vòng gần 10 năm liền, về mặt danh nghĩa chỉ mất giá hơn 20% so với USD. Tức khoảng 2%/năm. Chính sách duy trì ổn định tỷ giá một cách tương đối từ năm 1998 đã góp phần duy trì một môi trường kinh tế ổn định cho các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam phát triển trong một thời gian dài. Nhờ sự gia tăng nhanh chóng của xuất khẩu và đầu tư, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục. Tuy nhiên, những nền tảng kinh tế cơ bản cho việc duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái đã bắt đầu xói mòn kể từ năm 2004, khi lạm phát bắt đầu gia tăng (là hệ quả của CSTT mở rộng nhằm kích cầu nội địa).
Đến năm 2007, tức là sau khi gia nhập WTO, sức ép đối với tỷ giá VND/USD gia tăng mạnh mẽ hơn khi NHNN bơm một lượng lớn vào thị trường để mua 10 tỷ USD của các nhà đầu tư nước ngoài, trong khi chính sách trung hòa không thực hiện được kịp thời. Tốc độ tăng trưởng tín dụng khủng khiếp trong năm 2007 cũng tạo một sức ép vô cùng lớn lên tỷ giá (tính đến ngày 31/12/2007, tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với năm 2006). Đến giữa năm 2008 sức ép lên tỷ giá VND/USD đã gia tăng mạnh mẽ.
Lạm phát và nhập siêu gia tăng đã thúc đẩy người dân và doanh nghiệp chuyển tài sản từ sang USD làm cho tỷ giá hối đoái năm 2008 có lúc lên đến mức 19.500 VND/USD. Do đó, NHNN buộc phải thi hành một loạt các biện pháp thắt chặt tiền tệ, từ việc nâng lãi suất cơ bản lên mức 14%, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 30%, đến việc bắt buộc các NHTM mua 20.300 tỷ tín phiếu, nâng DTBB lên mức 11%. Kết quả là động thái dứt khoát của NHNN đã đưa tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do về xung quanh mức 16.600 VND/USD.
Mức kỳ vọng mất giá vào thời điểm giữa năm 2008 vào khoảng 10%, khi lãi suất tiền gửi khoảng 17-18%/năm, trong khi lãi suất tiền gửi USD khoảng 7-8%/năm. Nếu lấy mức tỷ giá VND/USD khoảng 16.600 VND/USD, có thể thấy thị trường kỳ vọng giữa năm 2009 tỷ giá /USD sẽ phải vượt mức 18.000 VND/USD. Từ giữa năm 2008, NHNN đã ý thức được nền tảng cơ bản cho việc duy trì ổn định tỷ giá VND/USD không còn nữa nhất là trong bối cảnh xuất khẩu của Việt Nam bị giảm sút trong giai đoạn cuối năm do tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài chính Mỹ. Nhưng sau khi bị chỉ trích là “giật cục”, NHNN dường như không muốn thi hành một chính sách điều chỉnh tỷ giá nhanh và mạnh. lãi suất cơ bản được hạ từng bước và tỷ giá cũng được điều chỉnh dần.
Về mặt lý thuyết, việc nới lỏng CSTT sẽ khởi động lại làn sóng tích trữ USD và tỷ giá trên thị trường tự do sẽ tăng trở lại. và NHNN chỉ có thể hạ nhanh và mạnh lãi suất khi chấp nhận có sự điều chỉnh kèm theo. Tình hình thực tế diễn ra đúng như vậy. Sau khi NHNN liên tục hạ lãi suất, tỷ giá VND/USD đã liên tục gia tăng. Cho đến khi NHNN hạ lãi suất cơ bản xuống còn 8,5% thì tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do có lúc đạt mức 17.400 VND/USD. Chính điều này khiến NHNN sau đó phải điều chỉnh tỷ giá lên mức 16.989 VND/USD vào ngày 24/12/2008. Tuy nhiên, việc NHNN chậm trễ trong việc chấp nhận điều chỉnh tỷ giá VND/USD đã khiến lãi suất được chậm giảm xuống. Điều này gây nên một hệ quả khác là : do mức giảm lãi suất và tỷ giá chưa đạt đến mức kỳ vọng của thị trường, tâm lý chờ đợi của các doanh nghiệp làm cho hoạt động kinh doanh bị gián đoạn.
Hình 2.8: Tỷ giá hối đoái giữa VND và USD năm 2008 và đầu năm 2009
2.2.2.5 Quan hệ giữa chính sách lãi suất với cung tiền tệ
Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều biện pháp được thực hiện dựa trên các chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng như tỷ lệ DTBB thấp, mua vào USD để ổn định tỷ giá trong biên độ dao động nhằm thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng đầu tư công qua các chương trình phát triển và hỗ trợ dưới nhiều hình thức cho khu vực DNNN. Cung tiền mở rộng quá nhanh, nhưng không có biện pháp tương ứng để giảm lượng tiền trong lưu thông đã gây ra những tác động tiêu cực và góp phần tạo ra lạm phát. Riêng trong nửa đầu năm 2007, việc mua vào gần 7 tỷ USD từ NHNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu Chính phủ và chuyển đổi nội tệ của vốn bên ngoài chảy vào dẫn đến đưa thêm khoảng 110.000 tỷ đồng , tương đương 10% GDP vào lưu thông.
Tăng trưởng cung tiền M1 và M2 luôn lần lượt duy trì ở mức khoảng 30% kể từ năm 2004, đặc biệt tăng vọt lên gần 50% trong năm 2007. Giá trị của cung tiền M2 đã vượt giá trị GDP thực tế kể từ sau năm 2001 và thậm chí vượt giá trị GDP danh nghĩa kể từ sau năm 2006. Do đó, hậu quả lạm phát bùng nổ là điều không tránh khỏi.
Hình 2.9: Tăng trưởng cung tiền và lạm phát giai đoạn 2001 - 2007
Nguồn: Tạp chí Tài chính
Sự biến động của cung tiền dẫn đến lạm phát đòi hỏi sự phản ứng nhanh nhạy, kịp thời và linh hoạt của CSTT. Nhưng CSTT trong thời gian qua tỏ ra chậm trễ và thiếu nhất quán trong việc sử dụng các công cụ và điều hành chính sách. Những tháng đầu năm khi lạm phát tăng mạnh, biện pháp chủ yếu là bán trái phiếu và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Trong suốt 5 tháng đầu năm 2008 khi lạm phát đang ở mức 2-4%/tháng, các công cụ của chính sách lãi suất hầu như không phản ứng. Lãi suất cơ bản duy trì ở mức 8,75%, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu duy trì ở mức 6% và 7,5%. Tương tự như thế vào giữa tháng 7 khi giá cả đã sụt giảm các công cụ của CSTT một lần nữa án binh bất động. CSTT thắt chặt quá mức từ giữa năm 2008 khiến cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn, nhiều doanh nghiệp thiếu vốn nên không có khả năng mở rộng hay duy trì sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy các công cụ lãi suất của CSTT xa rời không có vai trò dẫn dắt thị trường, điều chỉnh lượng cung tiền trong nền kinh tế.
Hình 2.10 : Lãi suất và lạm phát qua các tháng của năm 2008
Nguồn :
2.2.3 Mặt tích cực, những tồn tại và nguyên nhân
2.2.3.1 Mặt tích cực
Việc áp dụng cơ chế lãi suất thực dương đã xóa bỏ tình trạng bao cấp trong đầu tư tín dụng đối với nền kinh tế. Cơ chế lãi suất thực dương có vai trò quyết định ổn định dần sức mua VND. Chính vì vậy, ngay sau khi cơ chế lãi suất thực dương được áp dụng, tình trạng lạm phát phi mã đã bị chặn đứng.
Về cơ chế lãi suất thỏa thuận, những bất hợp lý trong các quan hệ huy động vốn, vay mượn trong nền kinh tế dần dần đã bị loại bỏ. Ưu điểm lớn nhất của cơ chế này là tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp và thúc đẩy việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường.
Việc điều hành lãi suất trong năm 2008 đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá, giữ vững mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Năm 2009, Chính phủ tiếp tục điều hành lãi suất linh hoạt hạn chế suy giảm kinh tế. Về CSTT, Chính phủ chỉ đạo vẫn là kiềm chế lạm phát với giải pháp nới lỏng CSTT có kiểm soát, giảm lãi suất để kích thích đầu tư để góp phần ngăn ngừa suy giảm, kích cầu kinh tế. Ngày 23/01/2009, NHNN quyết định hạ lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống còn 7%/năm, lãi suất cho vay giảm chỉ còn 10,5%/năm có hiệu lực kể từ ngày 10/02/2009.
2.2.3.2 Những hạn chế, tồn tại
- Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu chưa thực sự phát huy được vai trò định hướng thị trường, mối quan hệ giữa các lãi suất của NHNN và lãi suất thị trường còn chưa thật gắn kết chặt chẽ.
Lãi suất cơ bản cùng với lãi suất tái cấp vốn và chiết khấu được đưa vào luật NHNN năm 1997 cũng như luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật về NHNN năm 2003. Theo đó lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Tuy nhiên, hơn 10 năm qua, điều dễ dàng nhận thấy là vai trò thực tiễn của lãi suất cơ bản khá mờ nhạt, nếu không có điều 476 của bộ Luật Dân sự năm 2005 thì rất ít người biết đến sự tồn tại của lãi suất cơ bản. Trong năm 2008, khi cuộc đua lãi suất diễn ra, Hiệp hội Ngân hàng đề nghị lên chính phủ xin sửa 150% trong điều 476 Bộ luật dân sự lên thành 300% và đề nghị này bị từ chối thì dường như những người điều hành chính sách mới nhớ đến vai trò của lãi suất cơ bản. Ngay sau đó lãi suất cơ bản mới được điều chỉnh từ 8,75% lên 12% và cơ chế mới điều hành lãi suất được công bố.
Bên cạnh đó, quan sát thời gian qua cho thấy, khi lãi suất liên ngân hàng vượt qua lãi suất tái cấp vốn từ tháng 12/2007 và có lúc cao gấp hai lần lãi suất tái cấp vốn vào giữa và cuối tháng 1/2008, NHNN vẫn hầu như không can thiệp hoặc can thiệp chưa đúng mức qua thị trường mở khi vẫn tiếp tục chủ yếu duy trì vị thế bán trên thị trường mở. Mãi đến tháng 2/2008, khi lãi suất liên ngân hàng tăng quá cao, NHNN mới can thiệp mạnh tay hơn thông qua việc mua vào các giấy tờ có giá trên thị trường mở nhưng vẫn không cải thiện được tình hình. Trong khi đó, ở thời điểm tháng 11-12/2008, khi các ngân hàng thừa vốn khả dụng thì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lại phá đáy lãi suất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NOI DUNG LUAN VAN.doc