Tài liệu Kinh tế tài nguyên và môi trường: 1
KINH TẾ TÀI
NGUYÊN VÀ MÔI
TRƯỜNG
TS LÊ NGỌC UYỂN- TS ĐOÀN THỊ MỸ HẠNH
THS HOÀNG ĐINH THẢO VY
2
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
Giới thiệu môn học
Kinh tế tài nguyên và môi trường ........................... 3
Phần I: Khái quát về kinh tế tài nguyên và môi trường.
Bài 1: Tài nguyên môi trường
và phát triển kinh tế ........................................... 8
Bài 2: Nguyên nhân gây suy thoái môi trường ........... 32
Phần II: Các phương pháp đánh giá giá trị
tài nguyên môi trường
Bài 3: Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích .......... 48
Bài 4: Các phương pháp khác .................................... 59
Phần III: Các công cụ và chính sách quản lý tài nguyên và môi trường.
Bài 5: Công cụ mệnh lệnh – hành chính
và tuyên truyền, giáo dục ................................. 81
Bài 6: Các công cụ kinh tế – tài chính ....................... 88
Phần IV: Quản lí tài nguyên thiên nhiên và chất thải.
Bài 7: Quản lí tài nguyên thiên nhiên ..............
153 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Kinh tế tài nguyên và môi trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
KINH TẾ TÀI
NGUYÊN VÀ MÔI
TRƯỜNG
TS LÊ NGỌC UYỂN- TS ĐOÀN THỊ MỸ HẠNH
THS HOÀNG ĐINH THẢO VY
2
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
Giới thiệu môn học
Kinh tế tài nguyên và môi trường ........................... 3
Phần I: Khái quát về kinh tế tài nguyên và môi trường.
Bài 1: Tài nguyên môi trường
và phát triển kinh tế ........................................... 8
Bài 2: Nguyên nhân gây suy thoái môi trường ........... 32
Phần II: Các phương pháp đánh giá giá trị
tài nguyên môi trường
Bài 3: Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích .......... 48
Bài 4: Các phương pháp khác .................................... 59
Phần III: Các công cụ và chính sách quản lý tài nguyên và môi trường.
Bài 5: Công cụ mệnh lệnh – hành chính
và tuyên truyền, giáo dục ................................. 81
Bài 6: Các công cụ kinh tế – tài chính ....................... 88
Phần IV: Quản lí tài nguyên thiên nhiên và chất thải.
Bài 7: Quản lí tài nguyên thiên nhiên ....................... 115
Bài 8: Quản lí chất thải ............................................. 126
Phần kết
Bài 9: Các vấn đề môi trường toàn cầu ..................... 134
Tài liệu tham khảo ............................................................. 152
3
PHẦN MỞ ĐẦU
GIỚI THIỆU MÔN HỌC
KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI
TRƯỜNG
Chào mừng các bạn sinh viên đến với chương trình đào tạo
từ xa của Đại Học Mở TP. Hồ Chí Minh.
Nhóm biên soạn hi vọng cuốn sách “Hướng dẫn học tập môn
Kinh tế tài nguyên và môi trường” này giúp bạn tự học dễ dàng và đạt
được kết quả tốt trong kỳ thi hết môn.
KHÁI QUÁT VỀ NỘI DUNG MÔN HỌC
Chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được quan tâm nhiều như
hiện nay. Điều đó là do tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác
quá mức và môi trường ngày càng bị ô nhiễm. Môn Kinh tế tài nguyên
và môi trường chỉ mới xuất hiện và phát triển trong những năm 60 của
thế kỷ 20 do nhu cầu bức bách của thực tiễn. Tuy nhiên những khái
niệm căn bản làm nền tảng cho Kinh tế tài nguyên và môi trường đã
có từ thế kỷ thứ 18. Kinh tế tài nguyên và môi trường nghiên cứu các
vấn đề tài nguyên và môi trường với viễn cảnh và những ý tưởng phân
tích kinh tế từ cả hai giác độ kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô nhưng từ
kinh tế vĩ mô nhiều hơn.
Kinh tế tài nguyên và môi trường sử dụng tổng hợp các phương
pháp và công cụ nghiên cứu của nhiều ngành khoa học tự nhiên và
4
khoa học xã hội khác nhau như toán, lý, hóa, địa lý, sinh vật, khí
tượng, thiên văn, kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô.
MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
Môn học này cung cấp những kiến thức nền tảng để sau khi học
xong các bạn sẽ có khả năng:
Hiểu biết một cách khái quát và cơ bản các khái niệm về kinh
tế tài nguyên và môi trường; mối liên hệ giữa các khái niệm; môi
trường xung quanh chúng ta.
Biết cách thức người ta ra quyết định như thế nào? Tại sao quá
trình ra quyết định gây suy thoái môi trường?
Hiểu rõ các nguyên nhân làm cho tài nguyên ngày càng cạn
kiệt và môi trường ngày càng suy thoái. Sự suy thoái môi trường dẫn
đến những hậu quả gì?
Đánh giá tầm quan trọng về mặt kinh tế của sự suy thoái môi
trường.
Biết được các thể chế, chính sách kinh tế được thiết kế ra sao
để tránh tác động xấu đối với môi trường, các biện pháp khả thi để
ngăn chặn, làm chậm lại hay chấm dứt sự suy thoái môi trường một
cách hiệu quả nhất.
YÊU CẦU CỦA MÔN HỌC
Môn Kinh tế tài nguyên và môi trường là một học phần 45 tiết (3
tín chỉ), gồm 40 tiết lý thuyết và 5 tiết bài tập. Để học tốt môn này bạn
cần trang bị trước những kiến thức về Kinh tế học bao gồm Kinh tế vĩ
mô và Kinh tế vi mô.
5
CẤU TRÚC MÔN HỌC
Ngoài phần mở đầu giới thiệu về môn học, nội dung quyển sách
được thiết kế thành 4 phần với 9 bài, mỗi bài ứng với một buổi học 5
tiết, theo trình tự như sau:
Phần I: Khái quát về kinh tế tài nguyên và môi trường
Bài 1: Tài nguyên môi trường và phát triển kinh tế.
Bài 2: Nguyên nhân gây suy thoái môi trường.
Phần II: Các phương pháp đánh giá giá trị tài nguyên môi trường
Bài 3: Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích
Bài 4: Các phương pháp khác
Phần III: Các công cụ và chính sách quản lý tài nguyên và môi
trường
Bài 5: Công cụ mệnh lệnh – hành chính và tuyên truyền, giáo dục.
Bài 6: Các công cụ kinh tế – tài chính
Phần IV: Quản lí tài nguyên thiên nhiên và chất thải
Bài 7: Quản lí tài nguyên thiên nhiên.
Bài 8: Quản lí chất thải.
Phần kết
Bài 9: Các vấn đề môi trường toàn cầu
NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN NÊN THAM KHẢO
Môn học này có nhiều sách của tác giả trong và ngoài nước, các
bạn có thể tham khảo bất kì cuốn sách nào có tựa đề “Kinh tế tài
nguyên và môi trường” hoặc “ Kinh tế môi trường”. Các bạn cũng có
thể đọc các cuốn sách bằng tiếng Anh có tựa đề “Environment
Economics” hay “The Economics of Natural Resourse Use”. Ngoài ra,
các bạn có thể tham khảo trên các trang web:
6
– Trang web của Ngân hàng thế giới World Bank
(www.worldbank.com)
– Trang web của Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc
(www.unep.org)
– Trang web của Chương trình môi trường Đông Nam Á
(www.eepsea.org)
Tuy nhiên, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Kinh tế Tài Nguyên
và Môi Trường này sẽ giúp các bạn dễ dàng hơn rất nhiều khi mới bắt
đầu tìm hiểu về Kinh tế tài nguyên và môi trường vì là tài liệu được
biên soạn dành cho những người tự học.
CÁCH HỌC VÀ DÙNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cuốn “ Tài liệu hướng dẫn học môn Kinh tế tài nguyên và môi
trường” có nội dung được chia thành 9 bài, mỗi bài có thời lượng 5
tiết. Trong mỗi bài đều có phần giới thiệu mục tiêu, yêu cầu của bài
nhằm giúp bạn học tập dễ dàng và hiệu quả hơn. Phần câu hỏi và bài
tập có hướng dẫn trả lời giúp bạn tự xác định mức độ tiếp thu bài học
của mình.
Các bạn cũng nên vào Internet để tìm thêm tài liệu tham khảo
nhằm cập nhật thông tin thường xuyên trong lĩnh vực kinh tế tài
nguyên và môi trường. Những thông tin này giúp bạn hiểu sâu hơn nội
dung môn học qua các sự kiện diễn ra trong thực tế cuộc sống. Nếu
trong quá trình tự học các bạn gặp những vấn đề không thể tự giải đáp
được, các bạn nên vào trang Web của trường (www.ou.edu.vn) đến
mục e-learning vào “Diễn đàn tư vấn học tập của Khoa Kinh tế –
Quản trị kinh doanh” để nhờ giảng viên giải đáp hoặc trao đổi với các
bạn khác. Trong trường hợp không có điều kiện vào mạng Internet,
7
các bạn hãy chuẩn bị những câu hỏi để trao đổi với giảng viên trong
các buổi hướng dẫn học tập do Trung tâm đào tạo từ xa tổ chức.
Chắc chắn các bạn sẽ thành công như mong đợi nếu các bạn
tổ chức việc học của mình đúng theo hướng dẫn.
Nhóm biên soạn tài liệu hi vọng nhận được những góp ý của các
bạn để lần tái bản sau quyển sách được hoàn thiện hơn. Mọi ý kiến xin
vui lòng gửi về địa chỉ vy108@yahoo.com hoặc Tổ học liệu Đại Học
Mở TP. Hồ Chí Minh, P.005, 97 Võ Văn Tần, Quận 3, TP. Hồ Chí
Minh.
Chân thành cám ơn các bạn sinh viên và quý đồng nghiệp đã đọc
quyển sách của chúng tôi.
Các tác giả
8
Phần I
KHÁI QUÁT VỀ
KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
BÀI 1
Khoa học Kinh tế tài nguyên và môi trường mới xuất hiện trong
những năm 60 của thế kỷ 20, khi mà con người nhận thấy nguy cơ tài
nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm do phát triển
kinh tế. Bài đầu tiên của môn học này sẽ giới thiệu với các bạn một số
khái niệm căn bản cũng như những vấn đề mà khoa học Kinh tế tài
nguyên và môi trường nghiên cứu giải quyết.
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, các bạn phải:
Biết được môn học nghiên cứu vấn đề gì.
Hiểu được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân
số và môi trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển kinh tế bền
vững.
9
NỘI DUNG CHÍNH
Môi trường là gì?
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm môi trường, trong đó
một số ý kiến đáng chú ý như sau:
Theo Albert Einstein (1870 – 1955 – Nobel Kinh tế năm 1921)
thì môi trường là tất cả những gì ngoài tôi ra.
Theo Masn và Langenhim (1957), môi trường là tổng hợp các
yếu tố tồn tại chung quanh sinh vật và ảnh hưởng đến sinh vật. Ví dụ:
bông hoa mọc trong rừng chịu ảnh hưởng của những điều kiện nhất
định như nhiệt độ, ánh sáng, không khí, đất, khoáng chất, cây cối bên
cạnh, con thú, gió…
Theo Joe Whitenney (1993), môi trường là tất cả những gì ngoài
cơ thể có liên quan mật thiết và ảnh hưởng đến sự tồn tại của con
người như đất, nước, không khí, ánh sáng mặt trời, rừng, biển, tầng
ozon, đa dạng sinh học…
Môi trường là tổng hợp các điều kiện và ảnh hưởng ngoại cảnh
tác động lên sự sống và sự phát triển của cơ thể sống. Sự sống được
biểu hiện thông qua các quá trình trao đổi chất, năng lượng, thông tin,
quá trình biến dị và di truyền, quá trình thích nghi, phát triển và hủy
diệt.
Một cách khái quát nhất môi trường tự nhiên là một tập hợp của
những nhóm yếu tố thiên nhiên gồm: một không gian với những yếu
tố vật chất biến động trong không gian đó, một hay nhiều nguồn năng
lượng khống chế các yếu tố này và thời gian. Các yếu tố biến động
trong không gian và thời gian đó là: đất, nước, không khí, sinh vật, địa
chất, khí hậu.
Môi trường bao gồm 3 quyển là:
10
– Khí quyển: là lớp không khí bao bọc trái đất, được chia ra
nhiều tầng theo chiều cao và theo sự chênh lệch nhiệt độ. Khí quyển
bảo vệ sinh vật khỏi bị ảnh hưởng bởi các tia bức xạ mặt trời, duy trì
cân bằng nhiệt trên trái đất, vận chuyển nước trong chu trình thủy văn
toàn cầu và cung cấp oxy cho sự sống, CO2 cho quá trình quang hợp,
dự trữ Nitơ.
– Thủy quyển là diện tích bề mặt trái đất gồm toàn bộ đại dương,
biển, sông, suối, ao, hồ.
– Địa quyển: là lớp vỏ đất đá ngoài cùng cứng nhất của trái đất.
Trong mỗi quyển đó có sinh quyển là phần môi trường có sự
sống tồn tại sâu tới 100m trong địa quyển (có những vi khuẩn có thể
sống ở độ sâu 60m trong lòng đất); toàn bộ thủy quyển tới đáy biển
sâu trên 8 km (có nhiều loài sinh vật sống dưới đáy đại dương); lên
cao tới 20 km trong khí quyển (ví dụ: chim chỉ có thể sống trong
khoảng từ 0 – 12 km).
Ba quyển có liên hệ chặt chẽ với nhau, khi một quyển thay đổi
các quyển khác có thể sẽ thay đổi theo (ví dụ: khi tỉ lệ CO2 trong
không khí tăng lên, khí hậu nóng lên làm băng tan khiến thủy quyển
thay đổi).
Kinh tế tài nguyên và môi trường nghiên cứu vấn đề gì?
Kinh tế tài nguyên và môi trường là một môn khoa học nghiên
cứu vận dụng các quy luật phát triển kinh tế vào việc sử dụng tiết kiệm
và hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường khỏi sự suy thoái.
Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng nền kinh tế là một hệ thống
gồm những tổ chức và các hoạt động nhằm phân bố sao cho hiệu quả
các tài nguyên khan hiếm để thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của con
người. Các mô hình kinh tế cổ điển không nói gì đến tương quan kinh
11
tế – môi trường. Nền kinh tế được coi như là một hệ thống khép kín
(xem hình 1.1).
Mô hình kinh tế cổ điển được xây dựng dựa trên các giả thuyết
sau:
a) Không có chính quyền.
b) Tất cả thu nhập được chi tiêu.
c) Không có mậu dịch quốc tế.
d) Hệ thống kín tự túc.
Hình 1.1: Nền kinh tế khép kín
Trong thực tế, nền kinh tế là một hệ thống mở và vận động theo
đường vòng tròn. Để hoạt động (tức là để cung cấp hàng hóa, dịch vụ
hay của cải cho con người), nền kinh tế phải khai thác tài nguyên
(nguyên liệu và nhiên liệu) từ môi trường, chế biến những tài nguyên
này (biến chúng thành những sản phẩm hoàn chỉnh để tiêu thụ) và thải
trở lại môi trường chung quanh một khối lượng lớn những tài nguyên
CÁC HỘ GIA ĐÌNH
(sở hữu vốn, sức lao
động, quyền sử dụng
đất đai)
CÁC DOANH NGHIỆP
(thuê lao động, thuê đất,
vay vốn)
nhận lương, tiền lời
bán sức lao
động, cho vay
vốn, cho thuê
đất
mua hàng hoá
trả tiền
Thị trường
hàng hoá
Bán hàng hóa
Thu tiền
Thị trường
yếu tố sản xuất
12
bị hao mòn hoặc/và đã qua quá trình biến đổi hóa học (thành những
chất thải).
Quan hệ giữa kinh tế và môi trường
Mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường được thể hiện dưới dạng
mô hình cân bằng vật chất, dựa trên cơ sở nhiệt động lực học.
Quy luật nhiệt động lực học thứ I: Hoạt động kinh tế là một quá
trình chuyển đổi vật chất và năng lượng.
Chúng ta không thể hủy hoại vật chất và năng lượng theo nghĩa
tuyệt đối, nên chúng sẽ tái xuất hiện như chất thải và cuối cùng được
thải ra môi trường. Nói cách khác tất cả các hoạt động khai thác, sản
xuất hay tiêu thụ tài nguyên cuối cùng đều đưa đến những sản phẩm
phế thải bằng với lượng tài nguyên đưa vào các hoạt động này khi tính
theo lượng vật chất và năng lượng.
Quy luật nhiệt động lực học thứ II: Không thể nào có khả năng
thu hồi (tái sinh) 100% những sản phẩm phế thải để đưa vào lại chu
trình tài nguyên.
Mô hình này cho thấy nền kinh tế là một hệ thống chế biến
nguyên liệu và chuyển đổi thành sản phẩm. Các nguyên liệu hữu dụng
(gồm các tài nguyên không thể tái tạo như khoáng sản, dầu và những
tài nguyên có thể tái tạo như lâm sản, thủy hải sản, cây trái…), được
hút vào hệ thống kinh tế – đó là những đầu vào chủ yếu của khu vực
sản xuất. Sau đó chúng trải qua một loạt những thay đổi về năng
lượng và tính hữu dụng của chúng tạo thành những sản phẩm và dịch
vụ. Hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra là hiện thân của một phần nguồn
vật chất và nhiên liệu này sau đó đến tay người tiêu dùng.
Cuối cùng, sau một thời gian ở đầu ra của hệ thống chế biến này,
những xuất lượng không phải là sản phẩm sẽ được tái sinh lại một
13
phần với những chất vô ích còn lại (chất thải) sẽ được thải trở lại môi
trường (bầu khí quyển, đất, nước và không khí…) ở nhiều chặng khác
nhau của hệ thống chế biến.
Các chất thải gồm nhiều loại như dioxit lưu huỳnh, hợp chất hữu
cơ bay hơi, dung môi độc hại, phân động vật, thuốc trừ sâu, các loại
bụi lơ lửng, vật liệu xây dựng thải ra, kim loại nặng… Năng lượng
thải ra dưới dạng nhiệt và tiếng ồn, chất phóng xạ… Người tiêu thụ
cũng thải vào môi trường một lượng chất thải khổng lồ qua hệ thống
cống rãnh và thải khí từ các nhà máy hay ô tô vào không khí.
(1), (2), (3), (4), (5): các dòng tái sinh
thải chất thải không tái chế được ra môi trường
TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG
(TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN)
NHỮNG HOẠT ĐỘNG KHAI
THÁC, THU HOẠCH
NHỮNG HỌAT ĐỘNG CHẾ
BIẾN VÀ CHỀ TẠO CĂN BẢN
(nghiền gỗ, nấu quặng, sản xuất
vật liệu căn bản...)
HOẠT ĐỘNG CHẾ TẠO
BIẾN ĐỔI
PHÂN PHỐI (sỉ và lẻ)
TIÊU THỤ (sỉ và lẻ)
BẦU KHÍ
QUYỂN
ĐẤT
NƯỚC
KHÔNG KHÍ
NƠI CHỨA
CHẤT THẢI
(1)
(5)
(2)
(3)
(4)
14
Hình 1.2: Mô hình cân bằng vật chất
Có thể trình bày mô hình cân bằng vật chất cho thấy sự thể hiện
hai quy luật nhiệt động lực học như hình 1.3.
Hình 1.3: Mô hình cân bằng vật chất
Định luật nhiệt động lực học thứ 1 cho ta thấy:
M = Rp + Rc = G + Rp – Rp’ – Rc’
Nghĩa là số lượng nguyên liệu (M) bằng sản phẩm sản xuất ra
(G) cộng với chất thải trong quá trình sản xuất Rp trừ đi phần chất thải
được tái tuần hoàn của người sản xuất Rp’ và của người tiêu thụ Rc’.
Có 3 cách chủ yếu để giảm M và do đó giảm chất thải vào môi
trường tự nhiên, đó là:
a) Giảm G: tức là giảm số lượng hàng hóa và dịch vụ do nền kinh
tế sản xuất ra. Muốn thế cần phải giảm tốc độ tăng dân số. Dân số
không tăng hoặc tăng chậm có thể làm cho việc kiểm soát tác động
môi trường dễ dàng hơn. Tuy nhiên, ngay cả khi dân số không tăng,
khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu vẫn có thể tăng (ví dụ: ở các nước
Sản xuất
Tiêu thụ
Hàng hóa (G)
Nguyên liệu M lấy từ môi trường
Tái tuần hoàn (Rc’)
Thải ra môi trường
Chất thải (Rc)
Tái tuần hoàn Rp’
Chất thải (Rp)
Thải ra môi trường
15
phát triển có công nghệ kiểm soát ô nhiễm nên lượng khí thải do mỗi
ô tô thải ra đã giảm đáng kể nhưng do số lượng ô tô tăng nên tổng ô
nhiễm tăng lên); hơn nữa tác động môi trường có thể lâu dài và tích
lũy nên ngay cả khi dân số không tăng, môi trường vẫn có thể bị suy
thoái dần.
b) Giảm Rp: có nghĩa là thay đổi tổng lượng chất thải sinh ra
trong quá trình sản xuất. Cách thứ 1 là nghiên cứu, chế tạo và áp dụng
các công nghệ và thiết bị mới ít gây ô nhiễm. Cách thứ 2 là thay đổi
thành phần bên trong của sản phẩm (G). Sản phẩm G bao gồm một số
lớn các hàng hóa và dịch vụ khác nhau, mỗi loại có lượng chất thải
khác nhau. Do đó, ta có thể thay đổi theo hướng giảm từ tỉ lệ chất thải
cao sang tỉ lệ chất thải thấp trong khi vẫn giữ nguyên tổng số.
c) Tăng (Rp’+ Rc’): khả năng thứ ba là tăng tái tuần hoàn để
giảm bớt lượng chất thải. Tuy nhiên, nguồn vật chất đã chuyển hóa
thành năng lượng thì không thể phục hồi được. Ngoài ra bản thân quá
trình tái tuần hoàn cũng có thể tạo nên chất thải.
Bản chất đa chức năng của tài nguyên môi trường
Mô hình cân bằng vật chất cho chúng ta thấy rõ môi trường có 3
chức năng và dịch vụ cơ bản có giá trị về mặt kinh tế:
– Cung cấp tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo và không tái tạo:
các tài nguyên này cung cấp nơi ở, thức ăn, vật liệu làm công cụ cho
sản xuất sản phẩm tiêu dùng.
– Tạo ra không gian sống, phục vụ con người với những cảnh
quan thiên nhiên để thưởng thức về mặt thẩm mỹ, vui chơi giải trí,
đem lại niềm vui tinh thần.
– Hấp thụ chất thải.
16
Ba chức năng này được coi là ba thành phần của một chức năng
tổng quát của môi trường đó là: Một hệ thống hỗ trợ sự sống.
Các chức năng này đều có giá trị kinh tế nhưng trên thực tế, do
không nhận ra các giá trị này nên các hàng hóa và dịch vụ môi trường
thường không có giá cả thị trường dẫn đến việc chúng ta thường lạm
dụng tài nguyên môi trường. Các tài nguyên môi trường ngày càng
khan hiếm, do đó cần tiến hành phân tích kinh tế, lập những chiến
lược để giảm bớt hậu quả của quá trình đó. Cần có sự cân bằng giữa
quyền lợi của những người sử dụng trực tiếp (như một nguồn nguyên
liệu hay bãi đổ chất thải) và những người sử dụng gián tiếp (thưởng
thức cảnh quan) hay giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai.
Lí thuyết kinh tế chứng minh rằng với một số giả định nhất định
khi không có các ngoại tác, cơ chế thị trường có khả năng thực hiện
phân phối tài nguyên một cách có hiệu quả. Khi xuất hiện các ngoại
tác hay hàng công cộng cần được phân phối, thị trường sẽ bị thất bại.
17
Ngoại tác và hàng hóa công cộng với vấn đề môi trường
Ngoại tác là những hoạt động gây tác động phụ không chủ ý của
sản xuất hay tiêu thụ gây ảnh hưởng có lợi hay có hại cho người thứ
ba mà những người này không phải trả tiền hoặc không được trả tiền
vì hoạt động đó.
Ví dụ: Một nhà máy luyện thép thải chất thải xuống sông làm ô
nhiễm nước hay nhà máy xi măng thải khí thải làm ô nhiễm không
khí. Đây là những ngoại tác gây ảnh hưởng có hại cho người khác.
Ngoại tác tồn tại khi:
– Cái giá phải trả hoặc cái lợi của tư nhân không bằng cái giá
phải trả hoặc cái lợi của xã hội.
– Phúc lợi của người tiêu dùng hay người sản xuất bị ảnh hưởng
bởi những người tiêu dùng hay những người sản xuất khác.
– Các chi phí, các lợi ích không được xem xét đầy đủ bởi những
người sản xuất hay những người tiêu dùng khi họ tiến hành các hoạt
động sản xuất hay tiêu dùng.
Chi phí xã hội = Chi phí tư nhân + chi phí ngoại tác
Chi phí tư nhân: là những chi phí được chi trả trực tiếp bởi người
tiêu dùng trong các hoạt động tiêu dùng của họ hay bởi người sản xuất
trong các hoạt động sản xuất của họ.
Giá thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ là những ví dụ rõ ràng
về chi phí tư nhân vì các chi phí này phải được trả để hưởng thụ hàng
hóa và dịch vụ. Tương tự, doanh nghiệp phải trả tiền nguyên liệu, lao
động, nhiên liệu để sản xuất ra sản phẩm.
Chi phí ngoại tác: là chi phí được chi trả bởi người tiêu dùng hay
người sản xuất không phải là những người tiến hành các hoạt động đó.
18
Ví dụ: một người lái xe chạy từ TP. Hồ Chí Minh đến Bình
Dương thì chỉ phải tốn tiền xăng, còn những người khác thì phải trả
những chi phí do anh ta làm ô nhiễm không khí, tạo ra tiếng ồn, góp
phần làm tắt nghẽn giao thông… Đây là những chi phí ngoại tác đối
với người sử dụng xe theo nghĩa là họ không phải trả những chi phí
này.
Lợi ích xã hội = lợi ích tư nhân + lợi ích ngoại tác
Lợi ích tư nhân: lợi ích thu được một cách trực tiếp của người
tiêu dùng từ hoạt động tiêu dùng của họ, hay lợi ích thu được một
cách trực tiếp của người sản xuất từ hoạt động sản xuất của họ.
Ví dụ: tất cả các hoạt động tiêu dùng được thực hiện vì tạo ra các
lợi ích tư nhân: người tiêu dùng được thỏa mãn, người sản xuất thu
được lợi nhuận.
Lợi ích ngoại tác: là lợi ích của những người tiêu dùng hay
những người sản xuất không phải là những người tiến hành các hoạt
động đó thu được.
Ví dụ: một nhà máy năng lượng chuyển từ việc sử dụng nguồn
nhiên liệu là dầu mazut sang khí tự nhiên có thể giảm bớt chi phí sản
xuất và đồng thời giảm được lượng khí ô nhiễm sinh ra từ nhà máy, đó
là lợi ích ngoại tác đối với những cư dân sống gần nhà máy (họ có lợi
do giảm được chi phí y tế liên quan tới ô nhiễm không khí).
Tính chất chủ yếu của ngoại tác là ở chỗ có những hàng hóa mà
người ta quan tâm như nước sạch, không khí sạch, cảnh quan… nhưng
không có bán trên thị trường, được gọi là hàng hóa công cộng.
Hàng hóa công cộng là hàng hóa được cung cấp cho nhiều người
với mức giá không cao hơn mức giá để cung cấp nó cho một người và
19
một khi nó được cung cấp cho một số người tiêu dùng này thì những
người tiêu dùng khác vẫn có thể tiêu dùng chúng được. Như vậy hàng
hóa công cộng có 2 đặc trưng sau:
(1) Một số người có thể tiêu dùng mà không làm giảm số lượng
vốn có của chúng đối với những người khác.
(2) Không độc chiếm: có nghĩa là một người không thể ngăn cản
người khác tiêu dùng hàng hóa đó.
Ví dụ: Một biện pháp y tế công cộng nhằm loại trừ bệnh đậu mùa
bảo vệ tất cả mọi người, chứ không chỉ bảo vệ cho những người đã trả
tiền cho việc tiêm chủng. Tương tự, đèn hải đăng, sóng radio, không
khí sạch… cũng là những hàng hoá công cộng.
Những ngoại tác và hàng công cộng là nguồn gốc gây suy thoái
môi trường và do đó cần có những chính sách bảo vệ môi trường.
Ví dụ: Các nhà máy được phép thải bao nhiêu nước thải xuống
sông và các nguồn nước khác? Các chuẩn mực xả khí thải của ô tô vào
không khí là bao nhiêu? Chính phủ phải chi bao nhiêu tiền cho y tế,
giáo dục, quốc phòng, nghiên cứu cơ bản, phủ sóng phát thanh và
truyền hình?
Khi tồn tại các ngoại tác và hàng hóa công cộng thì giá cả sản
phẩm không còn phản ánh giá trị xã hội của nó. Vì vậy các doanh
nghiệp có thể sản xuất quá nhiều hay quá ít, nên sự điều tiết của thị
trường là vô hiệu quả.
Môi trường là hàng hóa công cộng. Thị trường có xu hướng
không cung cấp đủ hàng hóa này, do đó Chính phủ phải đảm nhiệm
việc cung ứng nó.
Ngoại tác có thể xảy ra trong mối quan hệ giữa những người sản
xuất – sản xuất; sản xuất – tiêu dùng, tiêu dùng – tiêu dùng. Ngoại tác
có thể tích cực hay tiêu cực.
20
Ngoại tác tiêu cực phát sinh khi hoạt động của một bên làm phát
sinh các chi phí cho bên khác. Khi một nhà máy thải nước ra sông làm
số cá sống được ít đi và làm ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt cá.
Ngoại tác tiêu cực xuất hiện vì doanh nghiệp không muốn chịu
trách nhiệm về các chi phí ngoại tác mà họ gây ra cho ngư dân khi đưa
ra các quyết định sản xuất của mình.
Ngoại tác tiêu cực làm phát sinh chi phí ngoại tác, do đó chi phí
xã hội lớn hơn chi phí tư nhân.
Ngoại tác tích cực nảy sinh khi hoạt động của một bên làm lợi
cho bên khác.
Ngoại tác tích cực mang lại lợi ích ngoại tác nên lợi ích xã hội
lớn hơn lợi ích tư nhân.
Ví dụ: một người sửa sang lại ngôi nhà của mình, trồng phía
trước một vườn hoa thì tất cả những người láng giềng đều có lợi vì
được ngắm hoa dù chủ nhân không tính đến những lợi ích đó với láng
giềng.
Tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân số và môi trường
Khi nền kinh tế tăng trưởng, thể hiện qua mức gia tăng sản phẩm
quốc gia (GNP) thì khối lượng chất thải cũng gia tăng so với khả năng
hấp thụ hạn chế của môi trường. Khi vượt qua khả năng này, sự thiệt
hại nghiêm trọng có thể xảy đến cho môi trường, lớn đến mức phúc
lợi của con người có thể thực sự giảm sút. Chúng ta gọi đó là: “giới
hạn tăng trưởng”: đầu tiên là giới hạn nhận chất thải đối với sự tăng
trưởng. Nhưng đây không phải là giới hạn duy nhất có thể có. Vật chất
và năng lượng được chuyển đổi bởi hệ thống kinh tế phải lấy từ hai
nguồn cơ bản: các tài nguyên có thể tái tạo như lâm, thủy hải sản… và
không tái tạo như dầu, than đá, các loại khoáng sản khác… Nếu một
21
tài nguyên có thể tái tạo được sử dụng một cách bền vững, cẩn thận thì
phần lấy đi được bù đắp trở lại. Ví dụ: chặt cây này trồng cây khác
thay vào. Như vậy sẽ không có giới hạn đối với tăng trưởng của những
tài nguyên này. Nhưng với tài nguyên không tái tạo sẽ có một giới hạn
khả năng có sẵn tài nguyên đối với sự tăng trưởng. Như vậy chúng ta
có 2 giới hạn thích hợp có thể có đối với sự tăng trưởng kinh tế:
– Khả năng hạn chế của môi trường thiên nhiên trong việc hấp
thụ chất thải từ hệ thống kinh tế.
– Tính chất có giới hạn của các nguồn tài nguyên không thể tái
tạo.
Sự tăng trưởng kinh tế có thể đo lường một cách chặt chẽ hơn
bằng chỉ tiêu mức tăng GNP tính bình quân đầu người. Ở một số quốc
gia, dân số gia tăng với tốc độ nhanh đến nỗi mặc dù nền kinh tế có
tăng trưởng nhưng GNP bình quân đầu người vẫn bị giảm. Như vậy
gia tăng dân số cũng là một áp lực lên môi trường tự nhiên.
Hiện tại, nhân loại đang phải đối mặt với 4 vấn đề lớn: bảo vệ
hoà bình, gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường và sự nghèo đói. Trong
đó vấn đề gia tăng dân số được coi là nguyên nhân chung của 3 hiểm
họa trên, đặc biệt là đối với những nước nghèo đang phát triển như
Việt Nam.
– Dân số và đất đai: dân số tăng nhanh, môi trường sống bị ô
nhiễm vì dân số tăng thì nhu cầu về lương thực, thực phẩm tăng. Để
có nhiều lương thực thực phẩm cần phải đưa đất vào canh tác nông
nghiệp, thay thế rừng và nhiều sinh vật khác.
– Dân số và nhu cầu nước: dân số tăng nhanh, công nghiệp và
nông nghiệp phát triển thì nhu cầu sử dụng nước cũng tăng trong khi
nguồn cung nước giảm dần do ô nhiễm công nghiệp, nông nghiệp,
chất thải sinh hoạt và do phá rừng bừa bãi.
22
– Dân số và tài nguyên rừng: dân số tăng, nhu cầu năng lượng
cũng tăng lên, do đó tăng phá rừng.
– Dân số và chất lượng không khí: dân số tăng lên thì khí thải
công nghiệp, nông nghiệp và từ các phương tiện giao thông… làm ô
nhiễm không khí.
Sự gia tăng dân số càng nhanh thì chúng ta càng tiến gần đến cả
hai giới hạn tiếp cận chất thải của môi trường và khả năng có sẵn của
tài nguyên và do đó, làm giảm tốc độ tăng trưởng.
Một cách khác để tiếp cận với các hạn chế của việc gia tăng dân
số là xem xét khả năng tải của môi trường. Khả năng tải của một vùng
đơn giản là số lượng người tối đa có thể tồn tại ở mức sống tối thiểu
cần thiết với những tài nguyên trên vùng đó. Tổ chức lương nông thế
giới (FAO) xác định khả năng tải của môi trường dựa vào tiềm năng
sản xuất lương thực. Tiềm năng này phụ thuộc vào mức độ kỹ thuật áp
dụng. Có ba mức như sau:
(1) Mức thấp: không sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu hay thuốc
diệt cỏ, sử dụng các loại giống truyền thống, không sử dụng các
phương pháp bảo tồn dài hạn.
(2) Mức trung bình: có sử dụng cơ bản phân bón, thuốc trừ sâu,
một số giống mới, một số các phương pháp bảo tồn cơ bản.
(3) Mức cao: sử dụng đầy đủ phân bón, thuốc trừ sâu, các loại
giống mới, các phương pháp bảo tồn và các phương pháp canh tác tốt
nhất.
Các chính sách về dân số và môi trường:
• Giảm tốc độ tăng dân số bằng những biện pháp như kiểm soát
tốc độ sinh (quy định số lượng con trong một gia đình, đẩy mạnh việc
tuyên truyền về các biện pháp phòng tránh thai, tăng cường giáo dục
23
cho quần chúng nhất là phụ nữ…). Ngay cả khi áp dụng các biện pháp
này dân số cũng vẫn tăng vì tuổi thọ tăng, tử vong giảm.
• Xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
• Giải quyết vấn đề sở hữu tài nguyên. Ví dụ: Trung Quốc đã
tăng sản lượng nông nghiệp một cách rất ấn tượng bằng những khuyến
khích đối với nông dân và trao đất cho các nông hộ.
• Chính sách giá cả thích hợp cũng có tác động tích cực đối với
bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên.
Một số nhà nghiên cứu đã xác định quan hệ giữa thu nhập và môi
trường qua đường cong Kuznets có dạng chữ U ngược: đầu tiên mức
độ môi trường bị phá hủy tăng lên sau đó giảm đi khi thu nhập cao. Sự
hợp lý bên trong quan sát này như sau: khi tăng trưởng kinh tế gia
tăng, thâm canh nông nghiệp cao hơn, khai thác tài nguyên nhiều hơn,
công nghiệp hóa cất cánh, tỉ lệ phá hủy tài nguyên tăng lên, lượng chất
thải tăng lên. Tuy nhiên, khi cơ cấu nền kinh tế chuyển sang công
nghiệp và dịch vụ ít sử dụng tài nguyên hơn, người ta quan tâm đến
môi trường nhiều hơn và sẵn sàng chịu tốn kém để làm sạch môi
trường.
Ngày nay, các nước rất quan tâm và tăng cường các quy định về
môi trường. Kết quả là mức phá hủy môi trường dần dần giảm xuống.
Ví dụ: hiện nay các thành phố ở các nước mới công nghiệp hoá như
Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan… ô nhiễm nhiều hơn cách đây 20,
30 năm và mức độ ô nhiễm vượt quá tốc độ tăng trưởng trong khi các
thành phố ở các nước công nghiệp sạch hơn cách đây 20, 30 năm.
Một nghiên cứu ở các nước Châu Á cho thấy trong vòng 20, 30
năm tới chất lượng môi trường sẽ dần dần cải thiện ở các nước Đông
Á, trong các nước Đông Nam Á thu nhập cao như Malaysia và tiếp tục
bị phá hủy ở các nước Nam Á và Đông Nam Á có thu nhập thấp hơn.
24
Môi trường và vấn đề phát triển bền vững
Theo Ủy Ban Thế giới về môi trường và phát triển (WCED) thì
Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện
tại nhưng không ảnh hưởng đến sự thỏa mãn nhu cầu của thế hệ
tương lai do khai thác quá mức làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường. Nói cách khác phát triển bền vững là sự phát triển tồn tại lâu
dài.
Phát triển bền vững bao gồm sự cân bằng giữa 3 lĩnh vực: tăng
trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Định nghĩa này tương ứng với tư tưởng của cải thiện Pareto (cải
thiện Pareto là sự phân phối làm cho một người có lợi hơn nhưng
không làm bất kỳ ai bị thiệt). Tối ưu Pareto là điều kiện hiệu quả rất
hữu ích cho việc phân tích hiệu quả của các hệ thống kinh tế và cho
việc hình thành các chính sách kinh tế. Việc phân phối hàng hóa hay
dịch vụ trong nền kinh tế được gọi là tối ưu Pareto nếu không có phân
phối nào có thể làm ít nhất một cá nhân có lợi hơn mà không làm bất
kỳ ai bị thiệt hại. Phát triển bền vững bảo đảm sự gia tăng liên tục hay
ít nhất duy trì phúc lợi theo thời gian. Có ba quan điểm về phúc lợi
theo thời gian. Các con đường tối ưu có thể bền vững hay không bền
vững và những con đường bền vững có thể không tối ưu. Trong nhiều
trường hợp, một dự án hay một chính sách cho trước sẽ làm cho một
số người bị thiệt thòi và một số khác được lợi hơn. Theo tiêu chuẩn
cải thiện Pareto không có một dự án hay một chính sách nào có thể có
lợi cho toàn xã hội.
Giả định một chính sách bao gồm chi phí đối với xã hội là 10 tỉ
đồng, tạo lợi ích cho nhóm A là 20 tỉ đồng, gây thiệt hại cho nhóm B
là 8 tỉ đồng. Nếu so sánh lợi ích và chi phí, chúng ta có thể nói rằng
25
lợi ích đối với xã hội là 20 – 8 = 12 tỉ đồng và chi phí đối với xã hội là
10 tỉ đồng. Do đó, lợi ích ròng của xã hội là 2 tỉ đồng. Nhưng vì nhóm
B bị thiệt, nhóm A được lợi, theo tiêu chuẩn Pareto nghiêm ngặt
chúng ta có thể không chấp nhận chính sách này. Một cách xem xét
cải thiện Pareto là nếu nhóm A chấp nhận bù đắp thiệt hại cho nhóm B
8 tỉ đồng thì lợi ích ròng của nhóm A là 20 – 8 = 12 tỉ đồng. Tổng thể
chi phí đối với dự án là 10 tỉ đồng. Nếu chúng ta giả định rằng chi phí
này được nhóm A chi trả, cuối cùng lợi ích ròng của A là 12 – 10 = 2
tỉ đồng. Trong thực tế, nếu chính sách được thực hiện nhưng nhóm A
không đền bù cho nhóm B thì nhóm A có lợi 20 tỉ đồng và nhóm B bị
thiệt 8 tỉ đồng.
Trên giác độ kinh tế, dựa vào phương pháp phân tích lợi ích – chi
phí, về nguyên tắc một dự án được chấp nhận nếu lợi ích lớn hơn chi
phí. Phương pháp này bỏ qua việc xem xét ai chịu chi phí và ai được
lợi. Nhưng trên giác độ môi trường, một dự án sinh ra lợi ích hiện tại
nhưng gây hại trong tương lai có thể được điều chỉnh nếu lợi ích hiện
tại có thể được sử dụng để bù đắp cho thế hệ tương lai.
Trên cơ sở định nghĩa này, phát triển bền vững phải đảm bảo vấn
đề công bằng trong cùng một thế hệ cũng như giữa các thế hệ. Phát
triển kinh tế và xã hội phải được thực hiện sao cho có thể tối thiểu hóa
ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế đối với môi trường mà chi phí
thế hệ sau phải gánh chịu. Ngoài ra những nhu cầu thiết yếu của người
nghèo trên thế giới phải được ưu tiên.
Điều kiện để phát triển bền vững
Để bồi thường cho thế hệ tương lai những thiệt hại mà hoạt động
của chúng ta gây ra hôm nay chúng ta phải chuyển giao di sản tư bản
có nghĩa là để lại cho thế hệ sau một lượng tư bản (vốn) không ít hơn
26
những gì mà thế hệ chúng ta có hay hình thành các quỹ bù đắp cho thế
hệ tương lai. Tư bản cung cấp nguồn lực để tạo ra sản phẩm và dịch
vụ bảo đảm an sinh xã hội. Nếu thế hệ hiện tại dành cho thế hệ tương
lai một số vốn K không ít hơn số vốn mà họ đang sở hữu, thế hệ kế
tiếp có thể sử dụng vốn đó để tạo ra cùng một mức phúc lợi như thế hệ
hiện tại có.
Dự trữ vốn K bao gồm vốn do con người tạo ra Km (nhà xuởng,
máy móc, đường sá…); vốn con người Kh (kiến thức, kỹ năng) và
những tài sản thiên nhiên Kn (đất, rừng, thủy hải sản, dầu, khí, khoáng
sản, than, tầng ozon và chu trình sinh hóa).
K = Km + Kh + Kn
Vốn vật chất do con người tạo ra giảm theo thời gian. Nếu gọi
giá trị vốn này ở đầu năm là X và phần hao mòn là d thì giá trị còn lại
cuối năm là X – d. Để duy trì vốn, khối lượng d phải được tái tạo
thông qua quỹ khấu hao. Nếu tiêu dùng là C, khấu hao là d, tổng sản
lượng là Y thì tiêu dùng bền vững là Y – d.
Cần có một cơ chế chuyển giao tài nguyên cho thế hệ tương lai.
Giả sử thế hệ hiện tại thực hiện một dự án tạo nên chất thải phóng xạ,
làm cho trái đất nóng lên, nâng cao mực nước biển tạo nên một chi phí
là X tỉ đồng cho thế hệ tương lai. Nếu muốn khắc phục hậu quả đó, giả
sử hậu quả này sẽ xảy ra sau T năm kể từ hiện tại, lãi suất thực là r >
0. Một số tiền S để dành bây giờ tích lũy sau T năm sẽ là X.
Tr)(1
XS +=
27
Tuy nhiên trên thực tế X và T thường không biết, hơn nữa giá trị
r có thể thay đổi theo thời gian do đó không tính được S.
Trong một số hoàn cảnh, khi các tham số được biết rõ và lãi suất
không đổi thì việc hình thành quỹ chuyển giao thế hệ có thể khả thi.
Các nguyên tắc hoạt động bảo đảm phát triển bền vững
Điều chỉnh những thất bại do thị trường và do sự can thiệp của
Nhà nước liên quan đến giá cả tài nguyên và quyền sở hữu.
(1) Duy trì năng lực tái sinh của tài nguyên có khả năng tái sinh –
nghĩa là tốc độ khai thác không nên vượt quá tốc độ tái sinh – và tránh
sự ô nhiễm quá mức có thể đe dọa khả năng hấp thụ hóa giải chất thải
và các hệ thống bảo vệ sự sống.
(2) Khuyến khích việc sáng tạo và áp dụng các công nghệ chuyển
đổi từ việc sử dụng tài nguyên không có khả năng tái sinh sang tài
nguyên có khả năng tái sinh, hay các công nghệ cho phép giảm định
mức tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm.
(3) Khai thác tài nguyên có thể tái sinh ở tốc độ bằng với tốc độ
tạo ra các chất có thể thay thế cho các tài nguyên ấy.
(4) Giới hạn quy mô hoạt động kinh tế trong phạm vi mà môi
trường có thể tải được.
(5) Thay thế việc sử dụng tài nguyên hữu hạn bằng việc sử dụng
tài nguyên vô hạn.
(6) Giảm nhu cầu để giảm việc khai thác, sử dụng tài nguyên
bằng cách khuyến khích tiết kiệm trong tiêu dùng.
CÂU HỎI
1. Quá trình phát triển có giới hạn hay không? Làm thế nào để không
vượt qua các giới hạn đó?
28
2. Phát triển bền vững là gì? Tại sao phải phát triển bền vững? Làm
thế nào để phát triển bền vững?
3. Làm sao để đo lường phát triển bền vững?
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI
1. Có quan điểm cho rằng quá trình phát triển bền vững có 2 giới hạn:
giới hạn của nguồn tài nguyên không tái tạo và giới hạn của khả năng
hấp thu chất thải của môi trường. Dân số gia tăng càng nhanh thì
chúng ta càng tiến gần đến cả hai giới hạn tiếp cận chất thải của môi
trường và khả năng có sẵn của tài nguyên. Do đó, làm giảm tốc độ
tăng trưởng. Vì vậy, cần có những biện pháp giảm gia tăng dân số,
tăng cường công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, tăng cường
kỷ cương, pháp luật bảo vệ môi trường… Tuy nhiên cũng có một số
người cho rằng không có giới hạn tăng trưởng vì những lý do như sau:
– Tiến bộ kỹ thuật cho phép giảm tiêu hao nguyên vật liệu trên
một đơn vị sản phẩm, do đó làm giảm ảnh hưởng đối với môi trường.
– Phát hiện ra những nguồn tài nguyên mới.
– Chúng ta có thể kiểm soát lượng chất thải ra môi trường bằng
cách tái sinh vật chất và tách các chất thải khí trước khi chúng rời hệ
thống kinh tế.
– Chúng ta có thể tạo ra các công nghệ ít gây ô nhiễm hơn như hệ
thống tái xử lí nước thải công nghiệp; xe hơi tiết kiệm năng lượng; kỹ
thuật phục hồi đất đai.
– Giá cả các tài nguyên khan hiếm theo quy luật cung cầu sẽ
tăng và điều này sẽ khiến con người sử dụng tiết kiệm hơn và chuyển
sang các loại tài nguyên khác.
– Trong nhiều quốc gia sự gia tăng dân số đang chậm lại do con
người nhận thức được các lợi ích của quy mô gia đình nhỏ hơn.
29
2. Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu của thế hệ
hiện tại nhưng không ảnh hưởng đến việc thỏa mãn nhu cầu của thế hệ
tương lai. Cần phải phát triển bền vững do tài nguyên giới hạn trong
khi nhu cầu không ngừng tăng lên. Muốn phát triển bền vững thì song
song với việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao phải có chiến lược khai
thác sử dụng tiết kiệm, hợp lí và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, có ý
thức bảo vệ môi trường và bảo đảm vấn đề công bằng xã hội không
chỉ trong cùng một thế hệ mà còn giữa các thế hệ.
3. Đo lường phát triển bền vững
Chỉ tiêu đo lường tiến bộ kinh tế cơ bản là GNP, nếu GNP tăng
phúc lợi xã hội được cải thiện. Tuy nhiên trên giác độ kinh tế môi
trường, GNP không phản ánh sự phá hủy môi trường, mà điều này sẽ
giảm phúc lợi kinh tế, do đó nên đánh giá các phá hủy môi trường và
loại nó ra khỏi GNP. Một số tài nguyên môi trường không mua bán
được nhưng không có nghĩa là nó không có giá trị kinh tế.
Các nhà thống kê kế toán quốc gia thường chỉ ước lượng khấu
hao vốn do con người tạo ra mà không tính đến việc khấu hao tài
nguyên, những cái cũng hao mòn, ví dụ như khi trữ lượng dầu hay
diện tích rừng bị giảm. Do đó cần điều chỉnh trong hệ thống kế toán
quốc gia, một là điều chỉnh cho việc khấu hao tư bản tự nhiên (những
thay đổi về mặt số lượng: sự mất đi của trữ lượng dầu, diện tích đất,
rừng..) và điều chỉnh cho sự suy thoái xuống cấp của tư bản tự nhiên
(những thay đổi về mặt chất lượng).
Trong nhiều nước người ta sử dụng chỉ tiêu
NNP = GNP – Dm – Dn – R – A
Dm: khấu hao vốn vật chất
30
Dn: khấu hao vốn tự nhiên; đo lường bằng giá trị tính bằng tiền
của phá hủy môi trường trong năm. Giá trị này được tính theo 2 cách:
những mất mát không tính đến trong GNP (như mất mát các giống
loài hoang dã hay mất mát các cảnh quan) và những mất mát có tính
đến trong GNP (sản lượng mất đi do ô nhiễm không khí). Diễn tả theo
cách khác, mức tiêu dùng bền vững bằng GNP trừ đi đầu tư cần thiết
để duy trì toàn bộ trữ lượng vốn.
R: chi tiêu để khôi phục.
A: chi tiêu để ngăn chận.
Tuy nhiên việc điều chỉnh này rất phức tạp cả về lí thuyết lẫn
thực tế.
Cuối cùng xem xét cái gì xảy ra khi tài nguyên bị cạn kiệt do sử
dụng quá nhanh (có nghĩa là ở tốc độ mà việc sử dụng tối ưu vượt quá
mức chiết khấu). Trong trường hợp này, GNP hiện hành sẽ bị đánh giá
quá cao. Áp dụng tương tự đối với tài nguyên có thể tái tạo. Nếu
chúng không được sử dụng tối ưu, GNP đo được sẽ lớn hơn GNP thực
tế.
Phát triển bền vững nếu và chỉ nếu trữ lượng tài sản vốn không
đổi hay tăng lên theo thời gian.
31
BÀI 2
Bài 1 đã cho các bạn thấy tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân số sẽ
làm ảnh hưởng đến môi trường như thế nào. Bài này sẽ phân tích rõ
hơn các nguyên nhân gây suy thoái môi trường.
MỤC TIÊU
Học xong bài này các bạn sẽ thấy rõ:
Các nguyên nhân gây suy thoái môi trường có thể do cơ chế
thị trường hoặc do thất bại của chính phủ trong quá trình quản lí nền
kinh tế.
Từ đó qua các bài 3, 4 ta sẽ nghiên cứu những cách đánh giá
khác nhau để đánh giá đầy đủ giá trị các tài nguyên thiên nhiên và các
dịch vụ môi trường.
NỘI DUNG CHÍNH
Tại sao môi trường suy thoái?
Một số người cho rằng môi trường suy thoái là do hành vi và thái
độ ứng xử của con người trái với luân thường đạo lí. Vì thế, để bảo vệ
tốt môi trường cần không ngừng nâng cao nhận thức về môi trường,
thường xuyên giáo dục đạo đức môi trường cho toàn thể cộng đồng
bằng nhiều hình thức khác nhau. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu
của bất cứ một xã hội văn minh nào. Tuy nhiên, nâng cao ý thức trách
nhiệm, giáo dục đạo đức môi trường là việc làm thường xuyên và lâu
32
dài nhằm cải tạo, xây dựng mới đạo đức, tác phong và lối sống thân
thiện với môi trường.
Trên quan điểm môi trường người ta quan tâm đến sự công bằng
trong phân phối các nguồn tài nguyên không chỉ giữa những người
đang sống hiện nay mà còn giữa họ và các thế hệ tương lai chưa chào
đời. Ví dụ: việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên không thể tái
tạo như nhiên liệu và các khoáng sản hay các nguồn tài nguyên có thể
tái tạo như thủy hải sản, lâm sản... hôm nay sẽ làm giảm trữ lượng
khoáng sản để lại cho các thế hệ tương lai. Như thế câu hỏi đặt ra là có
công bằng không? Có đúng không, nếu chúng ta hủy hoại phần lớn
các tài nguyên thiên nhiên để hưởng các lợi ích trong hiện tại và
chuyển phí tổn cho thế hệ tương lai chưa ra đời?
Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, tuy nhiên tất cả
đều có 3 điểm chung sau đây:
1. Các hệ thống kinh tế cần phải được thiết kế sao cho không nên
chỉ nhằm thỏa mãn các ước muốn vô hạn của “con người kinh tế thuần
lí”, con người ích kỷ tham lam của nền kinh tế thị trường mà còn phải
đáp ứng nhu cầu của cộng đồng nhiều hơn.
2. Một nền kinh tế xanh là một nền kinh tế có khả năng tự tái tạo
trên một cơ sở bền vững.
3. Một nền kinh tế xanh, qua thời gian phải tiến hành theo cách
thức thế nào để tránh gây tổn hại cho môi trường, nghĩa là tài nguyên
phải được sử dụng sao cho hiệu quả hơn và ít gây ô nhiễm môi trường
hơn. Muốn vậy thì hoặc là giữ cố định quy mô nền kinh tế, dân số
hoặc là giảm quy mô đó.
Trên giác độ kinh tế thì người ta gây ô nhiễm môi trường vì đó
là phương cách rẻ tiền nhất để thanh toán chất thải. Do đó, các cơ
quan quản lý phải nghiên cứu và thiết kế quy trình khuyến khích các
33
hoạt động có hiệu quả để định hướng cho các quyết định đúng đắn,
tránh ô nhiễm môi trường.
Có ý kiến cho rằng người ta gây ô nhiễm môi trường vì động cơ
lợi nhuận. Do đó, để giảm ô nhiễm môi trường cần giảm động cơ lợi
nhuận. Điều này đúng nhưng chưa đủ vì không chỉ các doanh nghiệp
gây ô nhiễm môi trường mà người tiêu dùng cũng gây ô nhiễm qua
hành vi đổ rác xuống cống, rãnh, ao, hồ…. hoặc sử dụng các phương
tiện giao thông cũ kỹ xả nhiều khói… Các doanh nghiệp nhà nước khi
sản xuất các hàng hóa công cộng có thể gây ô nhiễm mà không vì
động cơ lợi nhuận.
Hậu quả ô nhiễm môi trường diễn ra trên nhiều cấp độ địa
phương, vùng, khu vực, toàn cầu.
Ở cấp độ địa phương: ô nhiễm nước, không khí làm ảnh hưởng
đến sức khỏe cộng đồng.
Ở cấp độ vùng: mưa axít ô nhiễm không khí, cây cỏ, đất, nước,
tài sản…
Ở cấp độ toàn cầu: trái đất nóng lên, hiệu ứng nhà kính, thay đổi
khí hậu làm nước biển dâng cao, bão tố, lụt lội, hạn hán…
Khuyến khích kinh tế có một vai trò quan trọng trong hoạt động
của một hệ thống kinh tế, nó không chỉ có tác động hướng dẫn hành
vi, cách ứng xử sao cho người ta có thể thu nhiều của cải vật chất mà
còn có những khuyến khích phi vật chất hướng dẫn người ta thay đổi
hành vi, thái độ kinh tế. Ví dụ: lòng tự trọng, sự mong muốn có một
cảnh quan môi trường sạch đẹp, hay ước muốn tạo một gương tốt cho
mọi người noi theo…
Hệ thống khuyến khích rất đa dạng, phong phú, như:
– Các khuyến khích cá nhân và hộ gia đình nhằm giảm dần lượng
chất thải trong sinh hoạt và tăng cường sử dụng các sản phẩm có ít
34
chất thải hơn. Ví dụ: áp dụng chế độ trả tiền đổ rác theo số lượng rác
thải hàng tháng, hàng năm thay cho chế đô thu phí bình quân và cố
định theo thời gian hay theo đầu người.
– Các khuyến khích doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, đặc biệt
trong công nghiệp tìm mọi cách để giảm chất thải trong quá trình sản
xuất bằng cách thông qua và cưỡng chế thi hành các luật, pháp lệnh,
nghị định, quy chế có liên quan đến bảo vệ môi trường; bằng cách
soạn thảo áp dụng hệ thống khuyến khích tài chính để các doanh
nghiệp giảm gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ: kết hợp thuế tài sản của
doanh nghiệp với thành tích bảo vệ môi trường; tùy theo mức độ gây ô
nhiễm của doanh nghiệp mà đánh thuế cao hay thấp, hoặc xét miễn
giảm thuế…
– Các khuyến khích nhằm hình thành và phát triển ngành công
nghiệp môi trường và các ngành sản xuất khác sử dụng các công nghệ
không hoặc ít gây ô nhiễm môi trường.
– Soạn thảo chính sách môi trường nhằm cải thiện chất lượng
môi trường một cách hiệu quả.
Kinh tế môi trường còn quan tâm đến các vấn đề quốc tế của
môi trường như thị trường thế giới và sự phá hủy tài nguyên thiên
nhiên, mưa axit, phá hủy tầng ozon, thay đổi khí hậu…
Cơ chế hoạt động của thị trường và thất bại của thị trường
1. Sự quan trọng của thị trường và hiệu quả của thị trường
Các nền kinh tế trên thế giới có thể được chia thành 3 loại như
sau:
– Kinh tế thị trường: nhà sản xuất quyết định sản xuất và bán cho
người tiêu thụ hàng hóa gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
35
– Kinh tế kế hoạch tập trung: trong đó nhà nước là người quyết
định ai sẽ sản xuất ra cái gì và sản xuất bao nhiêu, cách thức sản xuất
như thế nào, sản phẩm làm ra sẽ phân phối cho ai.
– Kinh tế hỗn hợp: là mô hình kết hợp của hai mô hình nền kinh
tế nói trên mà hiện nay có một số nhà kinh tế còn gọi là nền kinh tế thị
trường ngày nay. Loại kinh tế hỗn hợp này chiếm ưu thế hơn kể từ khi
hệ thống các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở các nước XHCN
Đông Âu và Liên bang Xô Viết chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Như vậy, hiện nay phần lớn tài nguyên trên thế giới đang được sử
dụng bởi các nền kinh tế theo kiểu thị trường và cũng vì vậy mà các
nền kinh tế này chịu trách nhiệm về một tỉ lệ lớn sự ô nhiễm của thế
giới. Do đó, chúng ta nên hiểu biết về tiến trình trong đó các lực lượng
thị trường xác định số lượng tài nguyên mà một nhà sản xuất sẽ sử
dụng trong quá trình chế biến và tại sao các hoạt động thị trường lại
ảnh hưởng đến số lượng chất ô nhiễm tạo ra. Hiểu biết cách thức hoạt
động của thị trường và các loại tín hiệu mà nó báo cho nhà sản xuất sẽ
giúp chúng ta hiểu được là nên điều chỉnh thị trường như thế nào cho
tốt nhất để các nhà sản xuất không khai thác quá mức các tài nguyên
môi trường khan hiếm và tạo cho họ các động cơ kinh tế để giảm bớt ô
nhiễm do họ tạo ra.
2. Mục tiêu của nhà doanh nghiệp: lợi nhuận
Chắc các bạn còn nhớ trong môn Kinh tế vi mô có nói rằng mục
tiêu chính của các nhà sản xuất là tối đa hóa lợi nhuận. Để thực hiện
được mục tiêu này, các nhà doanh nghiệp phải tìm cách làm sao để
doanh thu lớn hơn chi phí. Doanh thu tuỳ thuộc rất nhiều vào giá bán
nhưng giá bán thường là nằm ngoài sự kiểm soát của một doanh
nghiệp riêng lẻ. Thông thường giá bán do cầu và cung của hàng hoá
quyết định. Trong khi đó, doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong
36
việc tìm cách để tối thiểu hóa chi phí. Điều này được mô tả trong đồ
thị 2.1.
Đến đây, chúng ta lại có dịp vận dụng các khái niệm đã học trong
Kinh tế vi mô, đó là doanh thu biên, chi phí biên, định phí, biến phí…
Doanh thu biên là số tiền tăng thu khi bán thêm một đơn vị sản phẩm.
Chi phí biên là số tiền tăng chi khi làm thêm một đơn vị sản phẩm.
Chi phí biên giảm khi năng suất tăng và sau đó sẽ tăng khi năng suất
giảm.
3. Mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận
Lợi nhuận biên là lợi nhuận tăng thêm khi tăng bán một đơn vị
sản phẩm.
Lợi nhuận biên = doanh thu biên – chi phí biên
Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn toàn doanh thu biên
(MR) không đổi ở mọi mức sản lượng. Chi phí biên (MC) lại thay đổi
khi gia tăng sản lượng. Khi doanh nghiệp tăng sản lượng, năng suất
thoạt đầu tăng, chi phí biên giảm và lợi nhuận biên tăng. Khi năng
suất bắt đầu giảm, chi phí biên tăng và lợi nhuận biên giảm. Tuy
nhiên, doanh nghiệp chỉ sản xuất đến mức sản lượng mà doanh thu
biên bằng chi phí biên vì đó là mức sản lượng mà tổng lợi nhuận của
doanh nghiệp là tối đa (tổng lợi nhuận tính được bằng cách tổng các
mức lợi nhuận biên).
MC
MR hay MC
MR
O Qm Q
37
Hình 2.1
Xem hình 2.1 các bạn sẽ thấy khi Q tăng từ 0 đến Qm, MR > MC,
điều này có nghĩa là lợi nhuận biên của doanh nghiệp là một số dương.
Do vậy, nếu doanh nghiệp đang sản xuất mức sản lượng nhỏ hơn Qm
thì doanh nghiệp sẽ tăng sản lượng để tăng tổng lợi nhuận. Nhưng khi
Q > Qm thì MR < MC, lợi nhuận biên là một số âm, doanh nghiệp
càng tăng sản lượng tổng lợi nhuận càng giảm và có thể bị lỗ nên
doanh nghiệp sẽ dừng ở mức sản lượng Qm. Vậy, Qm là mức sản lượng
tối ưu của doanh nghiệp.
4. Cách thức thị trường sử dụng tài nguyên môi trường có giá
và không có giá
Trong một thị trường tự do có 2 yếu tố mà các doanh nghiệp xem
xét khi họ quyết định mức sản xuất, đó là:
– Giá một đơn vị sản phẩm mà họ có thể bán được.
– Chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Do chi phí biên (MC) sẽ tăng theo sản lượng nên doanh nghiệp sẽ
chỉ sử dụng các tài nguyên để sản xuất mức sản lượng mà MC = MR.
Đương nhiên là các doanh nghiệp không phung phí các tài nguyên mà
họ phải bỏ tiền mua chúng. Tuy nhiên, đối với những tài nguyên môi
truờng được sử dụng miễn phí thì họ sẽ có khuynh hướng không tính
toán để sử dụng chúng một cách tiết kiệm.
Ví dụ: một doanh nghiệp sản xuất giấy sử dụng điện để cung cấp
năng lượng, điện được tạo ra bởi các nhiên liệu hóa thạch như than,
khí đốt, dầu… Quá trình này tạo ra các chất khí thải như nitrous oxide
NO và sulphur dioxide SO2 (hai chất này gây bệnh hô hấp, hại mùa
38
màng, làm các đường nước bị axit hóa) và thải ra chất dioxide carbon
CO2 (là chất gây ra hiệu ứng nhà kính và sự thay đổi thời tiết). Chi phí
năng lượng đối với doanh nghiệp đơn giản chỉ là tiền điện phải trả cho
công ty điện lực. Chi phí này chỉ bao gồm các khoản mà công ty điện
lực mua than, thuê nhân công, duy trì các đường dây, trả cho cổ
đông… mà không phản ảnh sự tổn hại môi trường do sản xuất điện
gây ra. Khi không có các quy định của Nhà nước, thì không doanh
nghiệp nào tạo ra chất thải phải trả tiền cho những tổn hại do chất thải
gây ra mà xã hội phải gánh chịu các khoản chi phí này dưới hình thức
chi phí y tế do bệnh tật gây ra bởi các tổn hại này và suy thoái môi
trường.
Giả sử doanh nghiệp sản xuất giấy mà chúng ta đang đề cập có
thể tăng sản lượng bằng cách tăng nhiệt độ trong những bể bột giấy
hoặc bằng cách gia tăng việc sử dụng nước vào trong bể và thải chất
thải lỏng này vào dòng sông gần đó. Phương án thứ hai (sử dụng thêm
nước và sau đó là sử dụng năng lượng hấp thu hóa giải chất thải của
sông) sẽ chỉ làm tăng chi phí của doanh nghiệp ở mức độ là trả thêm
tiền nước. Nếu giá nước rẻ hơn giá điện và mục tiêu của doanh nghiệp
là tối đa hóa lợi nhuận thì doanh nghiệp sẽ chọn phương án thứ hai.
Cách sử dụng tài nguyên như thế có lợi cho doanh nghiệp nhưng
có hại cho môi trường tức là cho xã hội. Chất thải này sẽ làm tổn hại
môi trường bằng nhiều cách như làm tiệt chủng một số giống loài cá,
các nhà máy nước phải lắp đăt các công cụ lắng lọc để bảo đảm chất
lượng nước có thể uống được cho dân chúng, dòng sông ô nhiễm đến
mức không thể bơi lội được nữa… Những tổn hại như thế gọi là chi
phí ngoại tác.
5. Các chi phí ngoại tác và sản lượng tối ưu của xã hội
39
Sự thất bại của thị trường xảy ra vì các doanh nghiệp chỉ quan
tâm đến giá thị trường của một tài nguyên khi quyết định số lượng tài
nguyên cần sử dụng. Khi một doanh nghiệp sử dụng và làm thoái hóa
một tài nguyên môi trường (như là khả năng hấp thụ và hóa giải chất
thải của nước) thì điều này không tạo ra một chi phí nội sinh cho
doanh nghiệp (nghĩa là MC của doanh nghiệp không tăng) nhưng lại
tạo một chi phí ngoại tác cho xã hội. Chỉ khi nào các chi phí ngoại tác
này được quan tâm đến (nghĩa là biến thành chi phí nội sinh cho người
gây ô nhiễm) thì điểm tối ưu tư nhân mới chuyển sang điểm tối ưu xã
hội. Hình 2.2 cho thấy số lượng chất thải do doanh nghiệp tạo ra khi
tăng sản lượng và được hấp thu bởi môi trường A.
40
Nếu sản xuất mức sản
lượng vượt quá Qa, chất thải sẽ
vượt quá khả năng hấp thu của
môi trường và sẽ sinh ra một
chi phí ngoại tác mà xã hội phải
gánh chịu.
Hình 2.3 cho thấy lượng ô
nhiễm tỉ lệ thuận với sản lượng.
MNPB (marginal net private benefit): lợi ích tư nhân ròng biên.
MNPB = lợi ích biên (hay doanh thu biên ) – chi phí biên
Lợi ích biên là doanh thu tăng thêm do sản xuất thêm một đơn vị
sản phẩm gây ô nhiễm. Chi phí biên là chi phí tăng thêm của người
gây ô nhiễm khi sản xuất thêm 1 đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm.
MEC (marginal externality cost): chi phí ngoại ứng biên, đo
lường chi phí tăng thêm do phá hủy môi trường đối với những người
gánh chịu ô nhiễm. Chi phí tăng thêm này tăng khi sản lượng của sản
phẩm gây ô nhiễm tăng. Độ dốc của MNPB đi xuống vì chi phí có xu
hướng tăng và doanh thu tăng thêm có xu hướng giảm khi sản lượng
tăng.
Qa Q
Hình 2.2
Khả năng hấp thu
Ô nhiễm thải ra
Số lượng chất ô nhiễm
thải ra và được hấp thu
41
Hình 2.3
Đường MEC đi lên từ mức sản lượng Qa chứ không xuất phát từ
góc O của trục tọa độ do môi trường có khả năng hấp thu một số
lượng chất thải nhất định, khi lượng chất thải nằm trong giới hạn hấp
thu chất thải của môi trường thì không gây ô nhiễm, do đó không có
chi phí ngoại tác.
Nếu bỏ qua các lực lượng thị trường thì doanh nghiệp gây ô
nhiễm sẽ sản xuất ở mức sản lượng Qp là cân bằng tư nhân đối với
người gây ô nhiễm. Nhưng Qp không phải là sản lượng tối ưu của xã
hội.
Tổng lợi ích được biểu thị bởi hình tam giác GQaQp (tức là gồm
A + B + C).
Tổng chi phí được biểu thị bởi hình tam giác HQpQa (tức là gồm
B + C + D).
Lấy tổng lợi ích trừ tổng chi phí ta có lợi ích xã hội ròng tương
ứng với sản lượng Qp là:
(A + B + C) – (B + C + D) = A – D
MNPB MEC
A
B C
D
MNPB, MEC
O Qa Qs Qp Q
Lượng ô nhiễm H
G
42
Nếu người gây ô nhiễm bị buộc phải sản xuất ở mức sản lượng
QS là mức sản lượng tối ưu của xã hội thì lợi ích xã hội ròng sẽ là: (A
+ B) – B = A
Vì A > (A – D), QS là mức sản lượng tối ưu vì tương ứng với lợi
ích ròng xã hội lớn hơn tại QP.
Hình 2.3 cũng cho ta thấy:
– Các ngoại ứng không biến mất. Khối lượng B còn tồn tại như
ngoại ứng tối ưu. Sự tồn tại một ngoại ứng tối ưu dương trái với quan
điểm phổ biến cho là ô nhiễm nên bị loại trừ. Ô nhiễm chỉ có thể bị
loại trừ nếu lượng chất thải nhỏ hơn khả năng hấp thu của môi trường.
– Chi phí và doanh thu của doanh nghiệp được quyết định bởi
những lực lượng thị trường nhưng chi phí thường bị quyết định bởi
những chính sách của nhà nước, nhất là ở các nước đang phát triển.
Chính phủ có thể áp dụng trợ cấp đối với phân bón, thuốc trừ sâu,
nước thủy lợi hay năng lượng. Các bạn hãy xem hình 2.4 sẽ thấy trợ
cấp làm giảm chi phí. Khi chi phí sản xuất giảm, MNPB tăng lên
MNPB*, lợi ích tư nhân lớn hơn trước. Người gây ô nhiễm mở rộng
sản xuất đến mức sản lượng QP* và tạo ra chi phí ngoại ứng cao hơn
trước. Do đó chúng ta có thể cải thiện đáng kể chất lượng môi trường
bằng cách giảm trợ cấp đối với người gây ô nhiễm.
MNPB, MEC
MNPB* MEC
MNPB
Lượng ô nhiễm
O Qa Qp Qp* Q
43
Hình 2.4
Chính quyền thất bại trong vấn đề môi trường như thế nào?
1. Tại sao chính quyền can thiệp
– Chính quyền cần can thiệp để bảo vệ những nạn nhân của các
tác động ngoại tác. Ví dụ: chính quyền có thể đặt ra những quy định
về tiếng ồn của phi cơ vì các hãng hàng không tư nhân không tự
nguyện làm giảm tiếng ồn cho các cư dân sống gần phi trường, chính
quyền có thể đặt ra tiêu chuẩn chất lượng nước sông vì người sử dụng
nước đầu nguồn không quan tâm đến những thiệt hại do ô nhiễm mà
người sử dụng nước ở cuối nguồn phải hứng chịu. Chính quyền cũng
can thiệp khi các hoạt động mang tính chất liên quốc gia. Ví dụ: các
công dân ở Châu Âu không tự nguyện làm giảm lượng ô nhiễm gây
mưa axit ở vùng Scandinavia, do đó các chính quyền phải phối hợp
với nhau.
– Có những nguồn tài nguyên tự do tiếp cận – có nghĩa là không
thuộc sở hữu của ai cả nên ai cũng có thể sử dụng và có xu hướng lạm
dụng nhưng không ai có động cơ bảo vệ. Ví dụ: bầu khí quyển là một
tài nguyên như thế – nó hoạt động như một bể chứa các chất thải khí
như dioxit carbon, metan… ai cũng có quyền thải chất gây ô nhiễm
nhưng không ai có trách nhiệm làm giảm ô nhiễm. Do đó, cần có sự
can thiệp của chính quyền vào quản lí tài nguyên bằng cách ban hành
những quy định không cho phép thải các chất gây ô nhiễm vượt quá
một mức giới hạn nào đó.
2. Tại sao chính quyền thất bại
– Chính quyền có thể chịu áp lực của một nhóm người nào đó
trong xã hội, do đó nếu các quy định về môi trường làm tăng chi phí
cho nhóm ngươì này họ sẽ phản đối.
44
– Vì lí do chính trị chính quyền có thể gây tác động xấu đến vấn
đề môi trường. Ví dụ: người Hà Lan đắp đê nhằm ngăn cản đội quân
của vua Louis thứ 14; người Trung Quốc phá hủy các đập trên sông
Hoàng Hà để chống lại sự tấn công của quân đội của Nhật Bản (1938);
Mỹ thải chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam; trong chiến
tranh vùng Vịnh, quân Irak trên đường rút chạy đã phá hủy các giếng
dầu của Cô-oét; trong thời gian chiến tranh lạnh Mỹ và Liên Xô thi
nhau chạy đua vũ trang xây dựng quá nhiều những căn cứ quân sự,
kho chứa vũ khí hạt nhân, hóa chất… và ngày nay việc phá hủy tốn
kém, cần kỹ thuật hiện đại, gây tác động xấu đến môi trường.
– Chính quyền có thể không đủ khả năng để thu thập các thông
tin đúng cho phép họ theo dõi toàn bộ hậu quả của một hoạt động nào
đó. Các chính trị gia thường không thấy được những hoạt động mà bề
ngoài không liên quan gì đến môi trường lại có tác động đến môi
trường. Chúng ta không thể có một chính sách môi trường tách rời với
chính sách năng lượng hay chính sách phát triển vùng vì chúng luôn
gắn bó hữu cơ với nhau.
– Các quan chức ảnh hưởng đến các quy định về môi trường ít có
động cơ rõ rệt để quan tâm sâu sắc đến quần chúng.
CÂU HỎI
1- Hãy nêu những thất bại của thị trường đối với vấn đề môi trường.
Làm thế nào để khắc phục những thất bại đó?
2- Hãy nêu những thất bại của nhà nước đối với vấn đề môi trường.
Làm thế nào để khắc phục những thất bại đó?
3- Nêu một số ví dụ minh họa thất bại của nhà nước các nước đang
phát triển trong vấn đề môi trường.
45
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI
1- Đối với những tài nguyên có giá trên thị trường như các loại
khoáng sản, lâm sản, đất, nước, thủy hải sản… cơ chế thị trường tỏ ra
hiệu quả, các doanh nghiệp và dân cư sẽ sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả. Do đó, lượng chất thải sinh ra sẽ hạn chế. Tuy nhiên, đối với
những tài nguyên và dịch vụ môi trường như bầu không khí sạch, cảnh
quan thiên nhiên, khả năng hóa giải chất thải của môi trường... có giá
trị nhưng không có giá nên chúng ta có xu hướng sử dụng tùy tiện,
lãng phí gây cạn kiệt và suy thoái. Do đó, cần phải có những phương
pháp để đánh giá từ đó tính đầy đủ giá trị của các tài nguyên và dịch
vụ môi trường này để có thể sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Đồng thời, nhà nước có thể dùng các công cụ mệnh lệnh hành chính,
các công cụ kinh tế trực tiếp và gián tiếp để buộc người gây ô nhiễm
trả tiền, nhờ đó tài nguyên và dịch vụ môi trường sẽ được bảo vệ tốt
hơn. Công tác tuyên truyền giáo dục cũng không kém phần quan trọng
trong viêc bảo vệ môi trường.
2. Các thất bại của nhà nước là do: nhà nước có thể chịu áp lực của
một nhóm người nào đó trong xã hội nên không thể ban hành các luật
lệ và quy định có lợi cho môi trường hay vì lý do chính trị chính
quyền có thể gây tác động xấu đến vấn đề môi trường; do chạy đua vũ
trang xây dựng quá nhiều những căn cứ quân sự, kho chứa vũ khí hạt
nhân, hóa chất… gây ô nhiễm môi trường; nhà nước có thể không đủ
khả năng để thu thập các thông tin đúng cho phép họ theo dõi toàn bộ
hậu quả của một hoạt động nào đó gây ô nhiễm môi trường; lực lượng
cán bộ môi trường quá ít về số lượng và yếu kém về trình độ. Do đó
giải pháp khắc phục là: xây dựng một cơ chế hiệu quả để các cơ quan
quản lí môi trường và cán bộ nhà nước không bị áp lực của các thế lực
khác trong xã hội; đầu tư nâng cao cơ sở vật chất, phương tiện của các
46
cơ quan quản lí môi trường và nâng cao trình độ của cán bộ chuyên
trách về môi trường…
3. Thất bại của chính quyền ở các nước đang phát triển
Ở các nước đang phát triển, thị trường tự do thường không được
phép hoạt động. Chính quyền can thiệp và kiểm soát giá, chính quyền
thường giữ giá thấp hơn giá cân bằng thị trường. Họ làm như vậy
thường là do những động cơ tốt như:
– Giữ giá lương thực thấp để trợ giá cho người nghèo.
– Thúc đẩy sự phát triển công nghiệp bằng cách giữ giá năng
lượng thấp.
Tuy nhiên những can thiệp ấy thường tạo ra những ảnh hưởng
không tốt là:
– Chính quyền sử dụng hết các nguồn thu từ thuế và các thu nhập
khác cho trợ cấp.
– Trợ cấp khuyến khích sự lạm dụng các tài nguyên được trợ giá.
– Trợ giá khiến các hoạt động kinh tế có liên quan trở nên hấp
dẫn một cách giả tạo, thu hút nhiều nguồn lực về tài nguyên, nhân lực.
Tác động đối với môi trường có thể minh họa bằng vấn đề nước tưới
và năng lượng.
Nước tưới: Ở nhiều nước đang phát triển, trợ giá nước kích thích
việc sử dụng nước lãng phí. Giá nước thường được tính trên cơ sở diện
tích được tưới mà không tính đến số lượng nước thực tế được sử dụng và
chi phí cung cấp nước thường được tính không đầy đủ nên nhỏ hơn giá
phải trả. Một trong những ảnh hưởng của giá thấp là kích thích người ta sử
dụng quá nhiều so với nhu cầu gây úng đất.
Mặt khác do giá thấp, nhu cầu nước tăng hơn mức bình thường,
làm tăng nhu cầu về hệ thống thủy lợi.
47
Ngăn sông làm thủy lợi dẫn tới những ảnh hưởng môi trường
khác:
– Các đập lớn gây ô nhiễm ở cuối nguồn và bồi lắng ở đầu nguồn
vì cây cối ở những khu rừng quanh hồ chứa nước bị đốn hạ.
– Dân cư ở vùng lòng hồ phải di chuyển khỏi quê hương.
Năng lượng: Năng lượng thương mại – than đá, xăng dầu, khí
đốt, điện – được trợ giá rộng rãi ở các nước đang phát triển. Trợ giá
kích thích việc sử dụng lãng phí năng lượng, do đó làm tăng ô nhiễm
không khí và tăng chất thải.
Tác động về kinh tế lại càng tệ hại vì:
– Hút hết nguồn thu nhà nước và các tài nguyên có giá trị ra khỏi
những khu vực sản xuất hiệu quả.
– Làm giảm xuất khẩu các nguồn năng lượng bản xứ, tăng nợ
nước ngoài.
– Khuyến khích các ngành sử dụng nhiều năng lượng trong khi
phải hi sinh những ngành có hiệu quả hơn.
48
PHẦN II
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
GIÁ TRỊ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG
Môi trường có ba chức năng cơ bản là cung cấp tài nguyên, hấp
thụ chất thải, là không gian sống và tạo cảnh quan. Chức năng nào
cũng có giá trị. Tuy nhiên, chức năng kinh tế như cung cấp tài nguyên
có giá trên thị trường trong khi các chức năng hấp thụ chất thải, là
không gian sống và tạo cảnh quan tuy có giá trị nhưng lại không có
giá trên thị trường. Chính vì không được đánh giá đầy đủ mà dẫn đến
hiện tượng khai thác sử dụng quá mức làm cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường. Do đó, phần II này gồm 2 bài, giới thiệu với các
bạn một số phương pháp đánh giá giá trị tài nguyên môi trường để từ
đó có thể đánh giá đầy đủ giá trị tài nguyên và các dịch vụ môi trường
nhằm khai thác và sử dụng chúng một cách tiết kiệm và hiệu quả.
49
BÀI 3
Bài này giới thiệu một trong những phương pháp được dùng phổ
biến để đánh giá giá trị tài nguyên môi trường. Đó là phương pháp
phân tích lợi ích – chi phí.
MỤC TIÊU
Mục tiêu của bài này là nhằm:
Trang bị cho các bạn những kiến thức về phương pháp phân
tích lợi ích – chi phí để biết cách dùng nó trong đánh giá giá trị tài
nguyên môi trường.
Giúp các bạn hiểu rõ nguyên tắc lựa chọn chính sách sử dụng
tài nguyên và môi trường ở góc độ lợi ích – chi phí.
NỘI DUNG CHÍNH
Khái niệm về phân tích lợi ích – chi phí
Chi phí và lợi ích được định nghĩa dựa trên việc thỏa mãn các
ước muốn, hoặc ý thích. Với định nghĩa như vậy thì một việc gì đó
thỏa mãn một ước muốn, đó là lợi ích. Việc gì làm giảm sự thỏa mãn
nhu cầu của con người thì đó là chi phí. Đối với nhà kinh tế, muốn
biết sự thỏa mãn có gia tăng hay không, phải chú ý vào ý thích của
con người. Nếu một người thích tình trạng B hơn tình trạng A hiện tại
thì lợi ích ròng khi chuyển sang B đối với người đó phải là số dương.
Bb – Cb > 0 (1)
50
Trong đó B là lợi ích, C là chi phí. Chi phí và lợi ích được đo
lường trên cơ sở phúc lợi của con người.
Nguyên tắc quyết định của xã hội
Để làm cho việc chấp nhận của một người chuyển đổi sang một
tình trạng khác trở thành một nguyên tắc quyết định của xã hội chúng
ta cần phải biết mọi người ưa thích cái gì. Nếu mọi người thích
chuyển từ tình trạng A sang tình trạng B thì không có vấn đề gì cả.
Nếu nhiều người thích chuyển và những người còn lại không bận tâm
đến việc đó thì cũng không có vấn đề gì. Trong trường hợp này những
người thích chuyển là những người được lợi và những người bàng
quan thì chẳng lợi hơn mà cũng chẳng hại hơn. Nhưng nếu có một số
người thích chuyển trong khi một số khác không thích thì sẽ có người
có lợi và có người bị thiệt. Để xác định xã hội được lợi hơn hay bị
thiệt hơn chúng ta phải so sánh lợi ích và thiệt hại của mọi cá nhân.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng việc này không thể làm được. Nhưng trong
thực tế sự so sánh được thực hiện thường xuyên. Chúng ta cũng
thường phán đoán xem người khác cảm thấy như thế nào – bằng cách
xem họ phản ứng, ứng xử ra sao và xem họ nói gì. Tất cả các quyết
định về chính sách thường bao gồm những so sánh như thế, không thể
có một chính sách được lòng tất cả mọi người, mọi người đều có lợi,
mà thường có một số người bị bất lợi.
51
Giá sẵn lòng trả
Một trong những cách để đo lường phần lợi ích tăng thêm và
thiệt hại mất đi là dựa vào sự lựa chọn của dân chúng thông qua một
cuộc trưng cầu dân ý. Cách này cũng không cho phép xác định đúng
mức độ ưa thích hoặc không thích một việc gì đó. Mức độ ưa thích
của một cá nhân về một mặt hàng nào đó được thể hiện bằng mức giá
sẵn lòng trả (WTP: willingness to pay) của họ đối với mặt hàng đó.
Mặt khác, khi họ không thích một điều gì đó, họ cũng sẽ sẵn lòng trả
một mức giá nào đó để tránh nó, hoặc sẵn lòng chấp nhận mức đền bù
nào đó để chịu đựng điều mà họ không thích (WTA: willingness to
accept).
Khái niệm WTP và WTA rất hữu ích trong việc giải quyết vấn đề
giữa các cá nhân khi có một số người thích tình trạng A và một số
người khác không thích. Ví dụ:
Người thứ nhất: WTP để chuyển sang tình trạng A = 10
triệu đồng.
Người thứ hai: WTP để chuyển sang tình trạng A = 8 triệu đồng.
Người thứ ba: WTA để chịu đựng việc chuyển sang tình trạng A
= 6 triệu đồng.
Người thứ tư: WTA để chịu đựng việc chuyển sang tình trạng A
= 5 triệu đồng.
Người thứ 1 và thứ 2 là những người được lợi, trong khi người
thứ 3 và thứ 4 là những người bị thiệt. Toàn xã hội được lợi hay bị hại
khi chuyển sang tình trạng A? Chúng ta có thể sử dụng nguyên tắc
sau:
(WTP1 + WTP2) – (WTA3 + WTA4) > 0 (2)
Thế vào (2) ta được: (10 + 8) – (6 + 5) = 7 > 0
Do đó việc chuyển sang tình trạng A là có lợi cho toàn xã hội.
52
Để thấy được có sự gia tăng lợi ích ròng cho xã hội, ta giả sử
rằng người thứ nhất và người thứ hai được yêu cầu phải đền bù cho
người thứ ba và thứ tư. Do đó người thứ nhất bỏ ra 6 triệu đồng đền
bù cho người thứ ba và anh ta vẫn còn lợi 4 triệu đồng. Người thứ hai
bỏ ra 5 triệu đồng đền bù cho người thứ tư và anh ta vẫn còn lợi 3
triệu đồng. Bây giờ người thứ ba và người thứ tư không còn thiệt nữa
nhưng người thứ nhất và thứ hai có lợi. Điều này được gọi là sự cải
thiện Pareto. Sự cải thiện Pareto là sự phân phối làm cho ít nhất một
người có lợi hơn nhưng không làm bất cứ ai bị thiệt. Đó là một sự cải
thiện thật sự nếu việc đền bù thực tế xảy ra và là sự cải thiện tiềm
năng nếu việc đền bù chỉ là giả định.
Bất phương trình (2) tương tự bất phương trình (1) nhưng dùng
tổng hợp chi phí và lợi ích của tất cả mọi người trong xã hội và được
viết lại như sau:
∑ (Bi – Ci) > 0 (3)
Phân tích lợi ích – chi phí theo thời gian
Thông thường, người ta thích lợi ích hiện tại hơn là trong tương
lai. Đơn giản là vì người ta thiếu kiên nhẫn và vì có thể trong tương lai
sẽ xuất hiện những nhân tố mới làm lợi ích có thể mất đi. Lí do khác
là vì tiền vốn có khả năng sinh lời, giá trị của 1 triệu đồng tài nguyên
trong hiện tại sẽ làm ra giá trị sản phẩm và dịch vụ lớn hơn 1 triệu
đồng trong tương lai. Do đó, một nhà sản xuất bằng lòng chi nhiều
hơn 1 triệu đồng trong tương lai để lấy 1 triệu đồng hiện tại. Điều này
dẫn chúng ta đến khái niệm chiết khấu. Quá trình chiết khấu được thể
hiện qua cơ chế lãi kép.
• Lãi kép
53
Giả sử có một số tiền V triệu đồng, sau một năm V sẽ trở thành V
+ tiền lãi. Tiền lãi (Vr) được tính bằng cách lấy lãi suất (r) nhân với
tiền vốn (V). Gọi V(1) là số tiền có được sau 1 năm, ta có:
V(1) = V + Vr = V + rV = (1 + r)V
Số tiền có được sau 2 năm là:
V(2) = (V + Vr) + (V +Vr) r = V + Vr + Vr + Vr r
= (1 + 2r + r2)V = (1 + r)2V
Tiếp tục tính như vậy, số tiền có được sau 12 năm sẽ là:
V(12) = (1 + r)12.V
Các bạn có nhận xét gì về công thức tính giá trị tiền vốn trong
tương lai cho một số tiền vốn ở hiện tại theo cơ chế lãi kép hay
không? Chúng ta hãy xem lại công thức đơn giản nhất, tính số tiền có
được sau 1 năm: V(1) = (1 + r)V. Trong công thức này số mũ của (1 +
r) là 1. Còn nếu là 2 năm thì số mũ của (1 + r) là 2. Tương tự như vậy,
nếu các bạn muốn tính cho 12 năm thì số mũ sẽ là 12. Như vậy, bây
giờ chắc các bạn đã có thể tính được dễ dàng giá trị trong tương lai
của một số tiền ở hiện tại rồi phải không? Các bạn hãy thử tính xem,
nếu lãi suất là 10%/năm thì 2 triệu đồng hiện nay sau 5 năm sẽ là bao
nhiêu?
Áp dụng công thức V(5) = (1 + r)5.V, ta có:
V(5) = (1 + 0,1)5 × 2 = 3.221.020 đồng.
Các bạn lưu ý: đơn vị thời gian không nhất thiết là 1 năm, cũng
có thể là 1 tháng, 6 tháng hay 2 năm…)
Quan sát V(t) theo t ta sẽ thấy có sự tăng trưởng theo thời gian.
Tỉ lệ tăng trưởng (k) là sự thay đổi của V(t) chia cho V(t).
V(n +1) V(n)k =
V(n)
-
với n là số đơn vị thời gian (số năm, tháng…) và V: tiền vốn
54
Ví dụ: V(12) V(11)k =
V(11)
-
Nếu lãi suất không đổi, tốc độ tăng trưởng k sẽ bằng lãi suất r.
Ví dụ: Mất bao lâu để 100 ngàn đồng của tôi trong ngân hàng
tăng gấp đôi nếu mức lãi suất là 8%/năm?
100 ngàn đồng trở thành 108 ngàn đồng sau 1 năm.
108 ngàn đồng × 1,08 sau 2 năm…
Chúng ta muốn 200 ngàn đồng = 100(1,08)t với t là thời gian
muốn tìm, nên 2 = (1,08)t. Lấy ln hai vế, ta có:
ln2 = t × ln1,08 ⇒ T = ln2/ln1,08 = 9
Vậy, phải mất 9 năm thì số tiền 100 ngàn đồng mới tăng lên gấp
đôi với lãi suất 8%/năm.
• Chiết khấu giá trị hiện tại
Đây là khái niệm ngược với khái niệm lãi kép. Giá trị hiện tại của
V ngàn đồng nhận được sau 5 năm là 5r)(1
V
+
V được chiết khấu quay về thời kỳ hiện tại (thời kỳ 0). Mỗi thời
điểm khác nhau, đồng tiền có giá trị khác nhau nên không so sánh
được, chiết khấu cho phép chúng ta đưa giá trị khác nhau của 2 thời
điểm về thời điểm hiện tại để có thể so sánh chúng.
Giả sử anh An trúng xổ số 10 triệu đồng nhưng người trả tiền đề
nghị trả cho An trong 5 năm. Như vậy, 2 triệu đồng đầu tiên sẽ trả
hôm nay, 2 triệu đồng tiếp theo sẽ được trả vào cuối mỗi năm sau
đó… Giá trị hiện tại của việc chi trả được tính toán bằng cách chuyển
giá trị mỗi năm nhận được về hiện tại, sau đó cộng dồn lại.
PV = 2 +
r)(1
2
+ + 2r)(1
2
+ + 3r)(1
2
+ + 4r)(1
2
+
Đây là giá trị hiện tại chiết khấu tổng giá trị tương lai. Nếu r là
10% tổng này xấp xỉ 8,342 triệu đồng. Đây là giá trị của giải thưởng
55
sau 5 năm chiết khấu về hiện tại. Nhìn theo cách này thì không có gì
khác giữa nhận 8,342 triệu đồng hôm nay và nhận 2 triệu đồng mỗi
năm trong vòng 5 năm. Mỗi thành phần trong công thức tính giá trị
hiện tại cho chúng ta biết số tiền có được trong 1 năm, được định giá
hôm nay. Ví dụ: 2 triệu đồng được trả trong năm thứ 3 trị giá 1,504
triệu đồng hôm nay. Nếu chúng ta gửi 1,504 triệu đồng vào ngân hàng
với lãi suất 10%/năm chúng ta sẽ có 2 triệu đồng vào cuối năm thứ 3.
Với một mỏ khoáng sản, lợi nhuận thu được trong tương lai
thường nhỏ đi, do đó dòng giá trị tương lai của người chủ sở hữu sẽ
giảm.
Với rừng và cá, sắp xếp sản xuất để đạt được sản lượng ổn định
trong tương lai.
Khi xét đến yếu tố thời gian, phương trình (3) được chuyển đổi
thành
∑ ttt r)(1
CB
+
− > 0 (4)
trong đó số mũ t chỉ thời gian.
Để nhấn mạnh chi phí và lợi ích môi trường chúng ta sẽ tách
phần môi trường ra thành số hạng E, lúc đó phương trình (4) trở
thành:
∑ t ttt r)(1
ECB
+
+− > 0 (5)
• Tính chiết khấu và môi trường
Chiết khấu ảnh hưởng bất lợi đến quyền lợi của các thế hệ tương
lai trong các trường hợp sau:
a) Khi mà môi trường bị tàn phá bởi các dự án rất xa trong
tương lai, phép chiết khấu sẽ làm cho hiện giá của các thiệt hại sẽ nhỏ
hơn mức thiệt hại thực tế. Ví dụ: sự tàn phá do việc tồn trữ chất thải
56
hạt nhân và những bụi ô nhiễm cực nhỏ kéo dài dai dẳng như các kim
loại nặng.
b) Khi dự án mang đến lợi ích trong khoảng thời gian dài thì
phép chiết khấu làm giảm giá trị của các lợi ích và tạo ra khó khăn
trong việc biện minh cho các dự án hoặc chính sách. Ví dụ: việc trồng
cây tái tạo rừng nhất là những cây gỗ cứng phát triển chậm ở các vùng
khí hậu ôn đới.
c) Khi các quyết định khai thác triệt để nguồn tài nguyên chịu
ảnh hưởng bởi suất chiết khấu. Các nguồn tài nguyên có thể cạn kiệt
có xu hướng được sử dụng ngày càng nhanh khi chiết khấu ngày càng
cao và như thế tài nguyên để lại cho các thế hệ tương lai ngày càng ít
đi.
Vì chiết khấu gây bất lợi cho các thế hệ tương lai nên các nhà
môi trường thường không tán thành chiết khấu.
Trong thực tế, không có mối liên hệ duy nhất giữa suất chiết
khấu cao với suy thoái môi trường. Suất chiết khấu cao có thể dịch
chuyển gánh nặng chi phí cho các thế hệ tương lai như các lí do đã
nêu trên. Nhưng suất chiết khấu tăng sẽ làm cho mức đầu tư chung
giảm, do đó sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Điều này dẫn đến nhu
cầu tài nguyên giảm và giảm ô nhiễm môi trường.
Lợi ích và chi phí phải được định giá càng thấp nếu tính không
chắc chắn về lợi ích và chi phí đó càng cao. Các loại tình trạng không
chắc chắn liên quan đến chiết khấu là:
a) Sự không chắc chắn vì cá nhân có còn sống đến thời điểm
tương lai hay không.
b) Sự không chắc chắn về các ý thích cá nhân trong tương lai.
c) Sự không chắc chắn về quy mô của lợi ích hoặc chi phí.
57
CÂU HỎI
1. Nếu bạn có một mỏ dầu trữ lượng ước tính khoảng 1000 thùng, chi
phí trung bình và chi phí biên khai thác là 10$/thùng. Bạn sẽ khai thác
toàn bộ số dầu trong hiện tại hay để dành cho tương lai?
2. Có một khu dân cư gần sân bay gồm 2 khu vực A và B, các hộ sở
hữu những căn nhà tương tự nhau. Nếu một đường băng mới được xây
dựng, các nhà ở khu vực A sẽ có lợi hơn vì ít ồn hơn nên giá trị nhà sẽ
tăng lên; ngược lại các nhà ở khu vực B sẽ bất lợi hơn vì sẽ bị ồn
nhiều hơn nên giá trị nhà sẽ giảm xuống. Bảng sau cho thấy số lượng
nhà và sự thay đổi giá trị nhà trong từng khu vực. Hãy tính sự thay đổi
giá trị lợi ích ròng của xã hội sau khi có đường băng mới và cho biết
có nên thực hiện dự án này không?
Nhà Giá trị (triệu
đồng)
Số lượng nhà
Trước Sau
A Ít ồn hơn 250 280 10.000
B Ồn nhiều hơn 250 210 5.000
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI
1. Câu trả lời không chỉ phụ thuộc vào mức lợi nhuận hiện tại mà bạn
phải dự đoán giá dầu trong tương lai sẽ tăng nhanh như thế nào? Dầu
trong lòng đất cũng giống như tiền gửi trong ngân hàng, bạn chỉ giữ
dầu nếu nó mang lại cho bạn lợi tức ít ra bằng lãi suất r trên thị
trường. Gọi Pt là giá dầu năm nay, Pt + 1 là giá dầu năm sau và c là chi
phí khai thác, ta có quy tắc khai thác như sau:
Nếu: (Pt + 1 – c) > (1 + r)(Pt – c): giữ dầu trong lòng đất.
Nếu: (Pt + 1 – c) < (1 + r)(Pt – c): khai thác và bán ngay.
58
Nếu: (Pt + 1 – c) > (1 + r)(Pt – c): tùy ý.
2. Dự án thực hiện làm cho khu vực A có lợi. Lợi ích tăng thêm của
khu vực A:
(280 – 250) × 10.000 = 300.000
Dự án thực hiện làm cho khu vực B bị thiệt. Chi phí của khu vực
B:
(250 – 210) × 5.000 = 200.000
Lợi ích xã hội ròng = lợi ích – chi phí
300.000 – 200.000 = 100.000
Vì lợi ích xã hội ròng > 0 nên về mặt kinh tế, thực hiện dự án là
có lợi. Tuy nhiên trên thực tế, dân cư khu vực B có thể sẽ phản đối dự
án, nếu ban quản lý dự án thuyết phục được dân cư khu vực A đền bù
thiệt hại cho khu B thì:
Lợi ích tăng thêm của khu vực A chỉ là 100.000
Chi phí của khu vực B là 0
Lợi ích xã hội ròng vẫn là 100.000
Nhưng lúc này dự án sẽ khả thi hơn rất nhiều.
Phương án lúc này phù hợp với tư tưởng cải thiện Pareto.
59
BÀI 4
Sau khi học xong bài 3, các bạn đã biết cách đánh giá giá trị tài
nguyên môi trường bằng phương pháp lợi ích – chi phí. Bài này giới
thiệu với các bạn các phương pháp khác.
MỤC TIÊU
Bài này cung cấp cho các bạn một số phương pháp đánh giá giá
trị của những tài nguyên và dịch vụ môi trường không có giá thị
trường, từ đó đánh giá chính xác hơn lợi ích xã hội ròng và có cách
khai thác sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên và các dịch vụ môi trường.
NỘI DUNG CHÍNH
Tổng giá trị kinh tế
Là phương pháp đánh giá rất quan trọng ở cấp độ kinh tế vi mô
và khu vực. Biết được đầy đủ về chi phí và lợi ích của một dự án là rất
cần thiết để ra các quyết định đầu tư. Như các bạn đã biết, hàng hóa và
các dịch vụ môi trường thường không có giá thị trường và do đó khó
xác định được giá trị đích thực và tầm quan trọng của chúng.
Ví dụ 1: Một hồ nước công cộng được xây dựng có thể cung cấp
thêm các cơ hội giải trí hay phòng chống lũ lụt, nhưng những người
hưởng thụ cơ hội này không phải trả lệ phí vì các lợi ích không được
định giá.
Ví dụ 2: Một công viên quốc gia được xây dựng để bảo tồn môi
trường thiên nhiên, nhưng môi trường thì không đem ra mua bán trên
thị trường nên không có giá.
60
Ví dụ 3: Tiếng ồn, ô nhiễm không khí và tắc nghẽn giao thông thì
không được đem ra trao đổi mua bán trên thị trường nhưng tất cả
những điều ấy gây phí tổn cho con người.
Tất cả những lợi ích và chi phí không được định giá làm thay đổi
lợi ích ròng của xã hội cho nên chúng cần phải được định giá và đưa
vào tính toán.
Khái niệm tổng giá trị kinh tế (TEV: total economic value) của
các tài sản môi trường giúp xác định giá trị kinh tế của các tài sản môi
trường phi thị trường.
Tổng giá trị kinh tế bao gồm giá trị sử dụng và giá trị không sử
dụng.
• Giá trị sử dụng được hình thành từ sự thực sự sử dụng môi
trường. Một tài nguyên có giá trị vì nó có chức năng hay hoạt động
phục vụ con người.
Giá trị sử dụng bao gồm giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng
gián tiếp và giá trị nhiệm ý. Giá trị nhiệm ý thể hiện bằng việc chọn
lựa các cách sử dụng môi trường trong tương lai; một cá nhân hiện tại
không sử dụng tài nguyên này nhưng coi trọng việc sử dụng nó trong
tương lai. Ví dụ: một người sẵn sàng đóng góp vào việc duy trì công
viên của địa phương dù rằng hiện nay họ ít lui tới, nhưng họ nghĩ
trong tương lai khi họ về hưu họ sẽ nghỉ ngơi, đi dạo trong công viên
này.
• Giá trị không sử dụng thể hiện các giá trị phi phương tiện
nằm trong bản chất của sự vật, nhưng nó không liên quan đến việc sử
dụng thực tế. Thay vào đó các giá trị này được coi như những yếu tố
phản ánh sự lựa chọn của con người, những lựa chọn này có tính đến
sự quan tâm, đồng cảm và trân trọng đối với phúc lợi của các sinh vật
61
khác ngoài con người như các giống loài khác, các quần thể hệ sinh
thái. Giá trị không sử dụng bao gồm giá trị tồn tại và giá trị kế thừa.
– Giá trị tồn tại là giá trị mà một cá nhân đánh giá việc giữ gìn
một tài sản mà người đó hay các thế hệ tương lai không trực tiếp sử
dụng. Ví dụ: có nhiều người sẵn lòng trả cho sự tồn tại các tài sản môi
trường thông qua các quỹ từ thiện bảo vệ động vật hoang dã hay môi
trường khác; hay mọi người đều thấy rằng việc bảo vệ bờ biền khỏi
nhiễm bẩn là quan trọng dù sự ô nhiễm không có tác động trực tiếp
đến cá nhân họ.
– Giá trị kế thừa là giá sẵn lòng trả để bảo tồn môi trường vì
lợi ích của các thế hệ sau. Ví dụ: một người không thích đi dạo trong
công viên nhưng nghĩ rằng có thể con cháu mình sẽ thích điều đó. Giá
trị tồn tại có thể được đo lường bằng một bảng các câu hỏi (phương
pháp đánh giá ngẫu nhiên).
Ví dụ:
TEV của một khu rừng = giá trị sử dụng + giá trị không sử dụng
Giá trị sử dụng = giá trị sử dụng trực tiếp (lợi tức từ gỗ) + giá trị sử
dụng gián tiếp (khu thắng cảnh) + giá trị nhiệm ý (thắng cảnh thuộc cá
nhân trong tương lai).
Giá trị không sử dụng = giá trị kế thừa (thắng cảnh cho các thế hệ
tương lai hoặc ý muốn bảo tồn thiên nhiên) + giá trị tồn tại (bảo tồn
tính đa dạng sinh học).
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM: contingent valuation
method) sử dụng các cuộc điều tra để tìm kiếm thông tin, gồm 3 bước
như sau:
Bước 1: Đầu tiên chọn ngẫu nhiên một số người để hỏi về đánh
giá của họ đối với một hàng hóa hay một dịch vụ môi trường nào đó.
62
Bước 2: Các câu trả lời của họ cung cấp thông tin giúp các nhà
phân tích ước lượng WTP của những người được hỏi.
Bước 3: Số lượng WTP này được ngoại suy đối với toàn bộ dân
cư.
Có nhiều cách đặt câu hỏi khác nhau, ở đây ta có thể tìm hiểu
một số cách đơn giản và phổ biến.
• Phương pháp đặt các câu hỏi mở
Ví dụ: “Bạn sẽ trả thuế thu nhập thêm bao nhiêu để bảo đảm rằng
khu vực dành cho động vật hoang dã được bảo tồn?”.
• Phương pháp đặt các câu hỏi đóng
Đầu tiên người phỏng vấn chủ động đưa ra mức ban đầu. Sau đó
hỏi một số người về WTP của họ. Nếu họ trả lời đồng ý thì tăng dần
lên cho đến khi họ không đồng ý nữa. Trái lại, nếu họ trả lời không
đồng ý thì giảm dần cho đến khi họ đồng ý.
• Phương pháp xếp loại ngẫu nhiên
Những người được hỏi được yêu cầu xếp thứ tự các cặp kết hợp
hàng hóa và tiền phải trả.
Ví dụ: Những người được phỏng vấn được yêu cầu chọn trên một
chuỗi liên tục giữa mức thấp của chất lượng nước tương ứng với mức
thuế thấp cho đến mức chất lượng nước cao tương ứng với mức thuế
cao. Các sự kết hợp được xếp thứ tự từ ưa thích nhất đến ghét nhất.
Các xếp loại sau đó được tổng hợp thống kê và sử dụng để ước lượng
WTP.
Phương pháp chi phí du hành
Phương pháp chi phí du hành (TCM: travel cost method) được
dùng để ước lượng nhu cầu đối với các cảnh quan, nơi vui chơi giải
trí, từ đó xác định giá trị cho những cảnh quan này.
63
Giả sử chúng ta muốn ước lượng nhu cầu của một cảnh quan
thiên nhiên để đo lường giá trị của nó đối với người tiêu dùng. Như
các bạn đã học trong Kinh tế vi mô, thông thường nhu cầu (Q) của
một người đối với hàng hóa phụ thuộc vào giá của hàng hóa đó (P),
giá của hàng hóa thay thế (PY), thu nhập của người đó (I) và biến số giải
thích thị hiếu Z.
Q = f(P, PY, I, Z)
Phương pháp chi phí du hành nhận thức rằng giá đầy đủ mà
người ta phải trả cho một hàng hóa chẳng hạn như điểm tham quan
lớn hơn giá vé vào cửa. Chi phí này phải bao gồm cả chi phí đi và về,
chi phí cơ hội của thời gian đi, chi phí cơ hội của thời gian lưu lại
điểm tham quan…
Giá vé vào cửa thường là như nhau với mọi người và có khi bằng
0 nếu miễn phí. Tuy nhiên, tổng chi phí của mỗi người rất khác nhau
vì các thành phần chi phí khác rất khác nhau. Chính sự khác nhau này
cho phép người ta thiết lập nên đường cầu đối với điểm tham quan.
Đường cầu này không phải là đường cầu thông thường với số lần tham
quan Q là hàm số của giá vé vào cửa Q = f(P) mà là đường cầu đảo,
tức là tổng chi phí tham quan là hàm số của số lần tham quan TC =
f(Q). Các bạn lưu ý là chi phí tham quan ở đây ngoài giá vé vào cửa
còn bao gồm những chi phí khác như đã nói ở phần trên. Đường cầu
này cho thấy người ta sẵn sàng trả bao nhiêu cho một chuyến tham
quan.
Các bước tiến hành như sau:
(1) Chọn ngẫu nhiên một số người tại điểm tham quan.
64
(2) Thông qua một bảng câu hỏi tại chỗ được phân phát ở cổng
rừng hay tại bãi giữ xe hay trực tiếp hỏi họ về số lần tham quan trung
bình trong một năm, thời gian đi lại, chi phí cơ hội của thời gian, chi
phí của điểm tham quan thay thế, thu nhập của họ… ảnh hưởng đến
nhu cầu.
Để đơn giản ta giả định các yếu tố như thu nhập, thị hiếu... gọi
chung là các yếu tố phi giá được giữ nguyên. Chúng ta có thể xác định
mối tương quan giữa chi phí tham quan và số lần tham quan. Từ đó
thiết lập đường cầu bằng cách thay đổi giá cả cho một cuộc tham quan
và xem trung bình một du khách có bao nhiêu cuộc tham quan. Sử
dụng thông tin này, chúng ta có thể ước lượng chi phí giải trí trung
bình của một du khách đối với địa điểm này, tức là ước lượng được
hàm cầu của một cá nhân đối với việc tham quan địa điểm này. Nhân
nó với số lượng du khách hàng năm cho phép chúng ta ước lượng
được tổng giá trị giải trí hàng năm của cảnh quan.
Ví dụ 1: Giả sử chúng ta nhận thấy rằng khi lệ phí vào cửa vượt
quá 15 ngàn đồng thì cá nhân sẽ không muốn tham quan nữa, lệ phí
vào cửa tối đa mà người ta đồng ý chi trả cho lần tham quan thứ 2 là
8,5 ngàn đồng. Giá sẵn lòng trả cho những lần tham quan sau đó giảm
dần, ví dụ như 4 ngàn đồng cho lần tham quan thứ ba, 2 ngàn đồng
cho lần tham quan thứ tư và chỉ 0,5 ngàn đồng cho lần tham quan thứ
năm. Cá nhân sẽ chỉ đến tham quan lần thứ 6 nếu được miễn phí. Như
vậy trong thực tế nếu không thu vé vào cửa, trung bình mỗi cá nhân sẽ
tham quan 6 lần trong một năm.
Số lần
tham
quan (1)
WTP
(2)
Giá phải trả
(ngàn đồng)
(3)
Giá trị thặng dư
tiêu dùng (ngàn
đồng)
65
(4)
1 15 0 15
2 8,5 0 8,5
3 4 0 4
4 2 0 2
5 0,5 0 0,5
6 0 0 0
Tổng
cộng
30 0 30
Tổng giá trị = tổng giá phải trả + tổng giá trị thặng dư tiêu dùng
Các bạn có thể xem lại khái niệm thặng dư tiêu dùng trong Kinh
tế vi mô.
Biểu diễn trên đồ thị các kết hợp giá cả và số lần tham quan
chúng ta sẽ có được đường cầu D đối với cảnh quan. Đường cầu cho
thấy số lần tham quan của cá nhân đối với điểm tham quan như một
hàm số của phí vào cửa. Ở bất kì thời điểm nào, tất cả các cá nhân sẽ
phải trả cùng một mức giá khi vào cửa. Bây giờ chúng ta có thể tính
toán tổng giá trị của các cuộc tham quan bằng tổng số tiền mà cá nhân
đồng ý chi trả cho tất cả các lần tham quan.
15 + 8,5 + 4 + 2 + 0,5 + 0 = 30 ngàn đồng.
Trên thực tế, mọi người được tự do vào tham quan không tốn tiền
(không có ràng buộc về cung) nên giá thực tế mà người tiêu thụ phải
trả là bằng 0. Chúng ta có thể tính được tổng giá trị thặng dư tiêu dùng
là sự khác biệt giữa tổng giá trị và giá thực phải trả là 30 – 0 = 30
ngàn đồng.
66
Ở đây chúng ta có thể thấy rằng, đối với các hàng hóa không có
giá, tổng giá trị thặng dư bằng với tổng giá trị của hàng hóa đó. Đây
chính là trường hợp thường có đối với các hàng hóa môi trường.
Hình 4.1
Trong hình 4.1 tổng giá trị luôn luôn được biểu thị bằng diện tích
nằm dưới đường cầu AB, khi đó, chỉ đối với các hàng hóa không có
giá, tổng giá trị này cũng bằng với tổng giá trị thặng dư tiêu dùng.
Các hạn chế của phương pháp chi phí du hành:
1. Đối với những người thích đi du lịch thì thời gian đi không
phải là chi phí mà là lợi ích. Khi đó phải trừ chi phí thời gian ra khỏi
TC, như thế giá trị khu giải trí sẽ được đánh giá cao lên.
2. Một hành trình cho nhiều nơi tham quan: nếu một cá nhân
tham quan một vài điểm trong cùng một ngày nhưng chỉ được phỏng
vấn theo phương pháp TCM tại 1 điểm thì các nhà phân tích sẽ phân
bổ chi phí du hành của cá nhân này như thế nào? Các nhà phân tích sẽ
cố gắng dùng tỉ lệ phần trăm so với tổng chi phí du hành hay hỏi
những người tham quan để biết tỉ lệ này nhưng nói chung là không
chính xác.
O 1 2 3 4 5 6 lần
A
B
Giá 1 lần tham quan
15
12
9
6
3
67
3. Các cảnh quan thay thế: Một khách du lịch A đặc biệt ưa thích
cảnh quan X sẵn sàng vượt qua 20km đường để đến X; khách du lịch
B không thích X nhưng cũng vượt 20km từ một hướng khác đến X vì
không có cảnh quan nào khác gần nhà anh ta. Việc dùng phương pháp
TCM mang lại kết quả là hai người A và B đều có cùng giá trị giải trí
như nhau về cảnh quan này nhưng như vậy không đúng. Một số nhà
phân tích cố gắng tính đến điều này bằng cách hỏi khách du lịch về
cảnh quan thay thế nhưng điều này vừa phức tạp về mặt thống kê lại
vừa dẫn đến sai sót.
4. Có nhiều người đánh giá cao cảnh quan và chọn mua nhà gần
địa điểm này. Trong trường hợp này họ sẽ tốn chi phí thấp nhưng họ
có thể tham quan những chỗ họ đánh giá cao, nghĩa là chi phí du hành
sẽ ước lượng cao giá trị khu giải trí.
5. Các du khách không tốn chi phí: phương pháp TCM bỏ qua
những khách tham quan ở rất gần khu giải trí, họ có thể đi bộ đến đó
nhưng họ có thể đánh giá cao về khu giải trí.
Phương pháp định giá hưởng thụ
Phương pháp định giá hưởng thụ (HPM: hedonic pricing method) cố
gắng đánh giá các dịch vụ môi trường mà sự hiện diện của nó ảnh hưởng
trực tiếp đến một số giá thị trường nào đó. Ứng dụng thường thấy nhất của
phương pháp này trong thực tế là đối với thị trường bất động sản. Giá nhà
bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nhiều yếu tố như: kích thước, số phòng, số
tầng, khoảng cách từ nhà đến nơi làm việc, đến chợ, đến trường học, cảnh
quan… Nếu các yếu tố khác ngoài cảnh quan tương tự nhau thì sự khác
biệt giá nhà là do cảnh quan môi trường. Ví dụ: sự xuất hiện của nguồn
nước lộ thiên làm nhà tăng giá, tiếng ồn từ sân bay có thể làm giảm giá
nhà ở các khu vực lân cận sân bay.
68
Để sử dụng phương pháp này nhà phân tích phải thu thập thông
tin liên quan tới các yếu tố ảnh hưởng đến giá nhà, ví dụ khoảng cách
từ nhà đến khu trung tâm. Đây là một công việc phức tạp. Trước kia
việc đo lường này thường được tính toán bằng tay từ bản đồ. Hiện nay
người ta có thể dùng hệ thống thông tin địa lý (GIS: geographical
informatic system) lưu giữ những bản đồ mã hóa, từ đó việc tính toán
các khoảng cách như thế được thực hiện bằng máy vi tính. Hệ thống
bản đồ này có thể bao gồm cả các đường ranh của đồi hoặc thung lũng
cho phép máy tính tính toán tác động của từng môi trường cụ thể đối
với từng nhà riêng biệt, hoặc xem xét một ngôi nhà có trực tiếp hứng
chịu tiếng ồn từ các con đường lớn gần đó hay có bị các nhà khác che
chắn hay không? Việc sử dụng kỹ thuật mới này có thể làm tăng tính
chính xác của phương pháp định giá hưởng thụ. Tuy nhiên, phương
pháp này cũng có một số trở ngại như:
1. Việc ước tính mối tương quan giữa giá nhà và chất lượng môi
trường đòi hỏi một kỹ năng cao về thống kê để tách riêng ra những
ảnh hưởng khác trên giá nhà như kích thước nhà, địa điểm có thuận
tiện cho việc đi lại hay không…
2. Phương pháp này dựa trên giả thiết là người ta được tự do lựa
chọn một sự kết hợp các yếu tố nhà ở mà họ thích trong giới hạn thu
nhập của họ. Tuy nhiên thị trường nhà có thể bị tác động bởi những
ảnh hưởng bên ngoài như chính phủ điều chỉnh chế độ miễn giảm hay
thuế, lãi suất...
Phương pháp chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội là một khái niệm được sử dụng để xem xét khả
năng lựa chọn trong các quyết định sản xuất, tiêu dùng. Chi phí đầu tư
vào một dự án A nào đó bao gồm giá trị tối đa của các dự án khác có
69
thể được đầu tư nếu chúng ta không dùng các nguồn lực để đầu tư vào
dự án A.
– Đối với nhà sản xuất: Chi phí cơ hội là chi phí do quyết định sử
dụng tài nguyên cho mục đích này thay vì mục đích khác.
– Đối với người tiêu dùng: Chi phí cơ hội để tiêu thụ sản phẩm A
là sự hi sinh tiêu thụ sản phẩm B.
– Đối với chính phủ: Chi phí cơ hội cho một chính sách nào đó là
giá trị thực của các chính sách khác mà lẽ ra chính phủ có thể theo
đuổi.
CPCH = chi tiêu ngân sách –(+) bất kỳ sự tăng (giảm) trong
thặng dư xã hội
Ví dụ 1: Chi phí cơ hội của việc khắc phục hậu quả lũ lụt là sự hi
sinh các khoản tài chính lẽ ra được dùng để xây dựng một trung tâm
khoa học tầm cỡ quốc tế.
Ví dụ 2: Chính phủ thực hiện một dự án trồng rừng trên một khu
đất trước đây nông dân đang canh tác, sự mất đi đất canh tác là một
biểu hiện của chi phí cơ hội, chi phí cơ hội ở đây là giá thị trường của
vụ mùa và các sản phẩm khác trên diện tích đất đã được trồng rừng.
Đây là phương pháp khảo sát thị trường cần được thông qua
trước khi sử dụng một nguồn tài nguyên.
Phương pháp chi phí thay thế
Phương pháp chi phí thay thế xem xét các chi phí để thay thế
hoặc phục hồi những tài sản môi trường đã bị thiệt hại và giá trị các
chi phí này đo lường tác hại của môi trường bị phá hủy (hay lợi ích
của việc phục hồi).
70
Các cá nhân, các công ty, chính phủ thường sẵn lòng trả tiền để
hành động nhằm chống lại sự suy thoái môi trường. Điều này có nghĩa
là họ đang chi tiêu nhằm bảo vệ tình trạng hiện tại, kết quả chi tiêu đó
đo lường sự mất mát tiềm năng về thặng dư của người tiêu dùng do sự
suy thoái môi trường.
Ví dụ: chi phí để làm sạch các tòa nhà bị bẩn vì ô nhiễm không
khí; chi phí để khôi phục chất lượng nước; chi phí nâng cao con đê để
tránh lũ lụt; chi phí để tránh tiếng ồn hoặc ô nhiễm không khí; chi phí
các nông gia phải trả để tiêm chủng cho các gia súc của họ tránh bệnh
dịch.
Phương pháp chi trả của chính phủ
Chính phủ thường đánh giá trực tiếp các dịch vụ và hàng hóa môi
trường bằng cách ấn định các khoản bồi thường cho các nhà sản xuất
(đặc biệt là nông dân) để họ chấp nhận các biện pháp sản xuất không
làm hại môi trường. Ví dụ: trong dự án cải tạo kênh rạch Nhiêu Lộc –
Thị Nghè – Tân Hóa – Lò Gốm có nhiều chi phí trong đó có chi phí
bồi thường cho dân di dời ổn định cuộc sống.
Phương pháp nhân – quả
Còn được gọi là phương pháp liều lượng – đáp ứng, phương
pháp này sử dụng các kỹ thuật thống kê để tìm ra quan hệ nhân – quả
giữa các mức độ ô nhiễm khác nhau với mức độ gây hại khác nhau;
các phản ứng sinh lý của con người, thực vật, động vật đối với áp lực
của ô nhiễm.
Ví dụ: khi các chất ô nhiễm nào đó làm thiệt hại mùa màng, sản
lượng giảm, thì thông thường thất thoát mùa vụ này có thể định giá
tiền tệ bằng cách nhân sản lượng thiệt hại với giá thị trường của một
đơn vị hay giá ẩn (giá điều chỉnh hay mô phỏng theo thị trường).
71
Nhưng đối với những trường hợp có liên quan đến sức khỏe con
người, chúng ta phải đứng trước những vấn đề liên quan đến giá trị
sinh mạng con người, các nhà phân tích tìm cách đánh giá mức rủi ro
gia tăng của bệnh tật hay tử vong.
Phương pháp chi phí thay đổi
Phương pháp này còn được gọi là phương pháp tiết kiệm chi phí.
Các chi phí có thể tăng hay giảm khi có dự án. Sự gia tăng chi phí là
sự mất mát lợi ích và sự giảm chi phí là sự gia tăng lợi ích.
Nếu dự án làm giảm chi phí thì:
Giá trị của lợi ích tăng thêm = Chi phí hiện tại – chi phí với sự
thay đổi có ích = chi phí tiết kiệm được.
Ví dụ: chi phí sản xuất điện theo công nghệ hiện tại là 620 tỉ
đồng và chi phí sản xuất theo công nghệ mới là 570 tỉ đồng, lợi ích
của việc tiết kiệm chi phí do sử dụng công nghệ mới là 50 tỉ đồng.
Nếu dự án làm tăng chi phí thì:
Giá trị của lợi ích mất đi = chi phí của sự thay đổi gây thiệt hại –
chi phí hiện tại
= chi phí thiệt hại.
Phương pháp tiết kiệm chi phí đánh giá lợi ích như là chi phí tiết
kiệm nhờ làm một việc có ích như áp dụng công nghệ mới hay phí tổn
tránh được nhờ không làm điều gì gây ra thiệt hại.
Chi phí khi có sự thay đổi gây ra thiệt hại sẽ cao hơn trong điều
kiện hiện tại. Trong trường hợp này phương pháp được áp dụng như
sau:
72
Giá trị của lợi ích = chi phí với sự thay đổi có gây thiệt hại – chi
phí hiện tại
= chi phí tránh được.
Đối phó với các yếu tố rủi ro hay không chắc chắn
Rủi ro và không chắc chắn tồn tại một cách khách quan trong
cuộc sống nhất là trong lĩnh vực môi trường.
Chúng ta thường không biết trước các hậu quả về môi trường của
việc thực hiện một chính sách hay một dự án nào đó.
Các rủi ro môi trường (sự cố môi trường) có thể do thiên nhiên
(các thiên tai như lũ lụt, động đất, lốc xoáy, bão táp, hạn hán, mưa đá,
núi lửa hoạt động, sét đánh, sóng thần…) nhưng cũng có thể do con
người gây ra (như sự kiện tràn dầu ra biển, những tai nạn do các phản
ứng hạt nhân, những vụ nổ nhà máy hóa chất, ô nhiễm do các khu
chứa chất thải không được xử lí tốt, hỏa hoạn, sập hầm mỏ). Phần lớn
những điều không chắc chắn xảy ra là do chúng ta không biết hậu quả
của những quyết định của chúng ta, như những chất nhân tạo – hoặc
số lượng những chất thiên nhiên ngày càng tăng – sẽ tác động đến môi
trường như thế nào. Nếu chúng ta biết CFC hủy hoại tầng ozon và
tầng ozon có chức năng bảo vệ an toàn cho trái đất thì có lẽ chất CFC
đã chẳng được chế tạo và sử dụng. Chúng ta có thể không biết chuyện
gì đang xảy ra với việc thải ra những chất ô nhiễm vi lượng ngày càng
tăng vào môi trường. Là người sử dụng hay sử dụng tiềm năng các
dịch vụ môi trường và tài nguyên – chúng ta có thể không biết chắc là
những dịch vụ môi trường hay tài nguyên đó có sẵn cho chúng ta
trong tương lai không hay chúng ta có muốn sử dụng dịch vụ môi
trường hay tài nguyên đó trong tương lai không? Chúng ta không biết
73
rằng một ngày nào đó chính những chất mà chúng ta thải ra sẽ làm
chúng ta bệnh tật hay chết. Những điều không biết như thế đầy rẫy
khắp nơi.
Hậu quả của việc hành động mà không hề biết chắc chuyện gì sẽ
xảy ra là chúng ta có thể tạo ra những hậu quả không thể đảo ngược
được, như là hủy diệt một chủng loại.
Các hậu quả không thể đảo ngược thường được đo lường theo
những đơn vị phản ảnh các hậu quả đối với con người.
Ví dụ: số tòa nhà bị phá hủy, hay mức độ phá hủy, số ngày bệnh,
độ cao của mực nước lũ, đo động đất bằng độ Richter, mật độ tối đa của
các chất ô nhiễm trong không khí…
Các rủi ro thường có thể được mô tả dưới 2 đặc điểm: hàng loạt
các hậu quả không thể đảo ngược và phân phối xác suất theo các hậu
quả.
Sự cố R(x) = P(x) × D(x)
Với P(x) là xác suất xảy ra sự cố.
D(x) là mức độ nghiêm trọng của sự cố (thiệt hại).
Đã có nhiều nghiên cứu để tìm biết xác suất xảy ra các hậu quả
xấu. Quá trình đánh giá rủi ro này nhằm để xác định mức độ tương
quan giữa liều lượng (mức độ ô nhiễm) và phản ứng của con người
(ảnh hưởng đến sức khỏe). Ví dụ: nồng độ của một chất ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe của con người.
Để đánh giá rủi ro của một hành động mạo hiểm nào đó có thể
gây sự cố môi trường, ta xem xét số tử vong trên 1 triệu người. Ví dụ:
số người tử vong trên 1 triệu người tiếp xúc với rủi ro do phóng xạ hạt
nhân là 6.300 người thì rủi ro
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG ( TS LÊ NGỌC UYỂN- TS ĐOÀN THỊ MỸ HẠNH THS HOÀNG ĐINH THẢO VY).pdf