Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn

Tài liệu Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn: 129 Kinh tế có vốn đầu tư . . . KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM - NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN Hoàng Xuân Sơn*, Hồ Thị Thanh Trúc** TÓM TẮT Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế - xã hội của Việt Nam. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời khu vực này cũng tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh hơn cho nền kinh tế Việt Nam đang phát triển. Từ khóa: kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam ECONOMY OF FOREIGN-INVESTED PERIOD OF ACCELERATED INDUSTRIALIZATION, MODERNIZATION IN VIETNAM – AWARENESS AND PRACTICES...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Nhận thức và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
129 Kinh tế có vốn đầu tư . . . KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM - NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN Hoàng Xuân Sơn*, Hồ Thị Thanh Trúc** TÓM TẮT Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế - xã hội của Việt Nam. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời khu vực này cũng tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh hơn cho nền kinh tế Việt Nam đang phát triển. Từ khóa: kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam ECONOMY OF FOREIGN-INVESTED PERIOD OF ACCELERATED INDUSTRIALIZATION, MODERNIZATION IN VIETNAM – AWARENESS AND PRACTICES ABSTRACT In the process of industrialization and modernization of the country, foreign direct investment is seen as one of the important factors that contribute significantly to economic - society development of Vietnam. Corporate sector foreign investment has reaffirmed the important role and contribute positively to economic growth, improve the balance of payments and create jobs for laborers. Also, the area is also motivational boost technological innovation processes, improve business management practices, improve competitiveness over Vietnam’s economy is growing. Keywords: economy, foreign investment, industrialization and modernization, Vietnam Nghiên cứu – Trao đổi * ThS. Giảng viên Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. ĐD: 0907.600.789. Email: xuanson@ueh.edu.vn ** ThS. Giảng viên Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan. ĐD: 09090.22483. Email: hotruc.lkt@gmail.com 130 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. Đặt vấn đề Quan điểm về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (KTĐTNN) dần được hình thành và phát triển từ Đại hội VI của Đảng (1986) cho đến nay và thuật ngữ “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” lần đầu tiên được ta xác nhận tại Đại hội IX (2001), tiếp tục khẳng định tại Đại hội X (2006), Đại hội XI (2011) và Dự thảo Văn kiện Đại hội XII (2015). Theo đó, khái niệm KTĐTNN (đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI) được hiểu là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh dịch vụ. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định sự tồn tại của KTĐTNN là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và việc cải tạo thành phần kinh tế này là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ bản, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Thực tiễn Việt Nam cũng cho thấy, việc phát triển KTĐTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. 2. Quá trình nhận thức của Đảng về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ đổi mới Tại Đại hội VI (1986), Đảng khẳng định: “công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật đầu tư, cần có chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”1. Tuy nhiên, khuyến khích đầu tư nước ngoài, Đảng cũng lưu ý “việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ làm nảy sinh những vấn đề phức tạp, cần có biện pháp hạn chế và ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực, song không vì thế mà đóng cửa lại”2. Đại hội VII của Đảng (1991) chủ trương: “tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình thức thu hút vốn ngoài nước” nhằm mục đích “phá thế bao vây, cấm vận về kinh tế đối với nước ta” và “chú trọng hình thức công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp vào nước ta, gắn với chuyển giao công nghệ tiên tiến và đẩy mạnh xuất khẩu”3. Để thực hiện chủ trương này, Đảng khẳng định cần phải: tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh. Xây dựng thể chế đồng bộ, ổn định, thuận tiện và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh; thống nhất đầu mối giải quyết các thủ tục và yêu cầu đầu tư của nước ngoài. Bảo đảm những điều kiện thiết yếu về cơ sở hạ tầng, phương tiện làm việc và sinh hoạt cho người nước ngoài, trước hết là các khu chế xuất và những địa bàn đầu mối trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Tổ chức tốt thông tin kinh tế và chủ động chuẩn bị các dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài. Đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh tế đối ngoại theo cơ chế mới, với các đối tượng mới4. Song, Đảng cũng lưu ý: việc khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài phải đặt trong chiến lược phát triển và cơ chế quản lý đồng bộ, bảo đảm chủ quyền, khả năng kiểm soát và định hướng của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ chế quản lý nhà nước đối với việc thực hiện 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, HN, tr.89 2 Sđd, tr.90 3 Sđd, tr.362 4 Sđd, tr.364 131 Kinh tế có vốn đầu tư . . . các dự án đầu tư có vốn nước ngoài và các công trình hoàn thành xây dựng đi vào hoạt động, đi đôi với việc mở rộng nhiều hình thức đầu tư, cần tăng dần tỷ trọng tham gia của phía Việt Nam vào công trình hợp tác liên doanh5. Đến Đại hội VIII (1996), Đảng tiếp tục chủ trương “tăng khả năng tiếp nhận vốn đầu tư và công nghệ từ bên ngoài” bằng các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể: đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm và dịch vụ có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đối với những ngành không đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ cao, có thể sinh lợi nhanh thì phải dùng nhiều hình thức để huy động vốn trong nước đầu tư toàn bộ hoặc chiếm tỷ lệ góp vốn cao nếu cần liên doanh. Về địa bàn đầu tư, cần có chính sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút vào những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn khó khăn. Hình thức đầu tư cần tiếp tục đa dạng hóa, chú ý thêm những hình thức mới, như đầu tư tài chính (bên ngoài góp vốn, mua cổ phần, nhưng không tham gia quản lý như xí nghiệp liên doanh). Về đối tác đầu tư, cần tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia để tranh thủ được công nghệ nguồn, tiếp cận cách quản lý hiện đại và thâm nhập nhanh vào thị trường quốc tế, mở rộng được thị trường mới6. Với chủ trương này, Đảng đã bước đầu thử nghiệm việc cho phép công ty và người nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty cổ phần trong nước kể cả các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, trong hạn mức quy định theo ngành nghề kinh doanh. Đại hội IX của Đảng (2001) là Đại hội đầu tiên của Đảng tiến hành trong thiên niên kỷ mới, xác định mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 5 Sđd, tr.537 6 Sđd, tr.571-572 và khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”(7). Trên cơ sở nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với KTĐTNN, Đảng xác định: “KTĐTNN là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng”8, trên cơ sở đó Đảng chủ trương: “tạo điều kiện để KTĐTNN phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”9. Như vậy, đến đây thành phần KTĐTNN đã được tách ra khỏi thành phần kinh tế tư bản nhà nước để trở thành một thành phần kinh tế độc lập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, đối với thành phần KTĐTNN, Đại hội X của Đảng (2006) đánh giá: “KTĐTNN có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế”10, với đóng góp quan trọng của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, Đảng tiếp tục khẳng định: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho đầu 7 Sđd, tr.635-636 8 Sđd, tr.724 9 Sđd, tr.646 10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, HN, tr.146 132 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta11. Với những đóng góp quan trọng và vị trí của thành phần KTĐTNN từ khi được xác định (2001), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “KTĐTNN được khuyến khích phát triển”12 và tại Đại hội XI (2011), Đảng xác định: phải “thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài” bằng hình thức “cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng”13 và “thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường và tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước”14. 3. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từng bước khẳng định vai trò, vị trí trong thực tiễn Dưới tác động của chính sách mở cửa đã trở thành một trong những nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Trong 5 năm 1996 – 2000, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD (theo giá năm 1995), gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trước 34%15. Cơ cấu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta; tỷ lệ vốn FDI thu 11 Sđd, tr.238 12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. CTQG-ST, HN, tr.17 13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST, HN, tr.87 14 Sđd, tr.111 15 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, H, tr.764 hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% vào năm 200016. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng ký của các dự án từ EU bình quân chiếm 23,3% thời kỳ 1991 – 1995, tăng lên 25,8% thời kỳ 1996 – 2000; tỷ lệ vốn đăng ký các dự án từ các nước ASEAN đã tăng tương ứng từ 17,3% lên 29,8%). Riêng các nước thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam17. Đến năm 2013 đã có 1.530 dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký kinh doanh là 22.352,2 triệu USD với tổng vốn đã thực hiện đạt 11.500 triệu USD18. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn trong 10 tháng năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam là 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ 2013 và 1.306 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 9,95 tỷ USD, bằng 76,1% so với cùng kỳ năm 201319. Vai trò, vị trí của KTĐTNN trong nền kinh tế Việt Nam thời gian qua ngày càng được khẳng định. Theo Tổng cục Thống kê, đến ngày 31-12-2011, có 9.010 doanh nghiệp FDI đang hoạt động. Trong đó, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là 7.516 doanh nghiệp (chiếm 83,4% toàn bộ doanh nghiệp FDI), doanh nghiệp liên doanh là 1.494 doanh nghiệp (chiếm16,6% toàn bộ doanh nghiệp FDI) với tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI là hơn 2,5 triệu người, trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 89,7%, doanh nghiệp liên doanh với 16 Sđd, tr.764 17 Sđd, tr.764 18 ID=15453; Ngày truy cập: 12-01-2016 19 10-thang-nam-2014; Ngày truy cập: 10-01-2016 133 Kinh tế có vốn đầu tư . . . nước ngoài là 10,3%, bình quân mỗi năm thu hút thêm 221 nghìn lao động, góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động20. Đến hết năm 2011, đầu tư nước ngoài vẫn là khu vực phát triển mạnh nhất trong các khu vực kinh tế với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng GDP của toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng GDP năm 2011 so với năm 2010 của khu vực FDI tăng 6,30% trong khi GDP toàn nền kinh tế tăng 5,89%. Như vậy, tính đến năm 2011, sau hơn 20 năm hoạt động, các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng trong toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam, chiếm 16,1% vốn sản xuất kinh doanh; 18,3% tài sản cố định; 19,7% tổng doanh thu; 31,5% lợi nhuận trước thuế; 32,2% đóng góp vào ngân sách Nhà nước21. Giai đoạn 2006 – 2011, đầu tư nước ngoài thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào sản xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực FDI ngành công nghiệp đạt bình quân gần 18%/ năm22, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực FDI đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, đồng thời góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông; thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí; sản xuất các sản phẩm điện tử; công nghệ thông tin; sản xuất thép, xi măng.... Đối với thu nhập bình quân một lao động một tháng năm 2011 của các doanh nghiệp FDI là 4,94 triệu đồng, gấp 2,3 lần năm 2006. Theo hình thức đầu tư, doanh nghiệp liên doanh có thu nhập cao hơn, đạt 6,8 triệu đồng, gấp xấp xỉ 2 lần năm 2006, trong khi thu nhập 20 Tổng cục Thống kê (2014), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2011, Nxb. Thống kê, HN, tr.11 21 Sđd, tr.9-10 22 Sđd, tr.9-10 bình quân lao động của khu vực 100% vốn nước ngoài là 4,78 triệu đồng. Theo khu vực kinh tế, khu vực dịch vụ đạt mức thu nhập bình quân cao nhất với 12,8 triệu đồng, gấp 2,3 lần năm 2006. Tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng 4,4 triệu đồng và thấp nhất là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 4,3 triệu đồng23. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI tăng rõ rệt qua các năm. Tỷ suất lợi nhuận của phần lớn các doanh nghiệp đều được cải thiện đáng kể. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của toàn khu vực FDI tăng nhanh hơn so với các khu vực khác. Tóm lại, kể từ khi Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực năm 1988, dòng vốn FDI luôn là động lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong suốt hơn 25 năm qua. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển năng động. Trong 25 năm từ 1988 - 2013, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng 218,8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3 tỷ USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ 201324. Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực doanh nghiệp FDI thời gian qua vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là: Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị gia tăng chưa cao, điển hình là các hoạt động lắp ráp ô tô, xe máy, điện - điện tử, may mặc, da giầy, trong khi Việt Nam là một nước có thế mạnh về nông 23 Sđd, tr.18 24 trc-tip-nc-ngoai-fdi-vit-nam.html; Ngày truy cập: 31-12-2015 134 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nghiệp thì tỷ trọng vốn đầu tư của các doanh nghiệp FDI vào nông nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần, năm 2006 chiếm 0,4%; năm 2011 chiếm 0,3% tổng vốn FDI25. Thứ hai, kỳ vọng rất lớn của Việt Nam là các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần tích cực vào việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng cho các nhà quản lý doanh nghiệp của Việt Nam, đồng thời phát triển nhanh chóng các ngành có công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, giúp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được từ 2006 – 2011 vẫn còn hạn chế, bất cập. Tỷ lệ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đến thời điểm 31-12-2011 chiếm 83,4% (còn lại 16,6% là doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài), trong khi các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ yếu tập trung vào hoạt động ở các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ thông có chi phí nhân công thấp. Mặc dù đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã được trên 30 năm, đầu tư của các nước hiện chủ yếu vẫn tập trung vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo, khai thác dầu khí, nhưng đến nay hầu như công nghiệp Việt Nam vẫn chưa có được ngành sản xuất, chế biến nào mang tầm công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động có trình độ, tay nghề cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp hoạt động gia công, lắp ráp với các trang thiết bị, dây chuyền bình thường hoặc đã lạc hậu. Thứ ba, mặc dù tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh lỗ năm 2011 (45%) có giảm so với năm 2006 (47,7%) nhưng vẫn còn cao, số lượng việc làm tạo ra chưa nhiều, đời sống người lao động trong các doanh nghiệp FDI chưa tương xứng. Thu nhập bình quân tháng năm 2011 của người lao động ở khu vực FDI là 4,9 triệu đồng/tháng chỉ cao hơn thu nhập khu 25 Sđd, tr.24 vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước (3,8 triệu đồng/tháng) nhưng lại thấp hơn nhiều so với thu nhập bình quân người lao động của khu vực doanh nghiệp Nhà nước (7,5 triệu đồng/tháng). Thứ tư, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh quốc phòng. Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực. Không ít dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dòng đầu tư nước ngoài tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường vào Việt Nam nhưng nhiều địa phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường. Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên. Một số trường hợp thu hút đầu tư chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an ninh quốc phòng, nhất là các dự án trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy, hải sản ở vùng nhạy cảm về an ninh quốc phòng, một số dự án sử dụng nhiều lao động phổ thông nước ngoài. Thứ năm, có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế. Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển giá tinh vi như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền), giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản 135 Kinh tế có vốn đầu tư . . . quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, đào tạo, quảng cáo, nhà thầu, chuyển nhượng vốn tạo nên tình trạng “lỗ giả, lãi thật”, gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước ngoài./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, HN 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, HN 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST, HN 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. CTQG-ST, HN 5. Nguyễn Văn Thạo – Nguyễn Viết Thông (cb) (2011), Tìm hiểu một số thuận ngữ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb. CTQG-ST, HN 6. Tổng cục Thống kê (2014), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2011, Nxb. Thống kê, HN 7. www.gso.gov.vn 8. www.chinhphu.vn 9. www.tapchitaichinh.vn 10. www.baodautu.vn 11. www.fia.mpi.gov.vn 12. www.vietrade.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf36_5841_2121812.pdf