Tài liệu Kiến thức, thái độ và các yếu tố liên quan của phụ nữ đã kết hôn với phương pháp cấy que ngừa thai dưới da tại bệnh viện Từ Dũ: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 9
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
CỦA PHỤ NỮ ĐÃ KẾT HÔN VỚI PHƯƠNG PHÁP CẤY QUE NGỪA
THAI DƯỚI DA TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Phan Thùy Linh*, Trần Thị Tuyết Nga**, Nguyễn Hữu Trung***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Biện pháp tránh thai (BPTT) bằng que cấy dưới da là một trong những BPTT hiện đại với
nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, nó cũng có những tác dụng ngoại ý khiến cho một số phụ nữ rút que sớm trước thời
hạn đã được nêu lên ở một số nghiên cứu gần đây. Việc phải rút que cấy tránh thai sớm để chuyển sang một
BPTT khác gây lãng phí thời gian và tài chính cho người sử dụng. Một trong những nguyên nhân đó là người
phụ nữ không được cung cấp đầy đủ thông tin về BPTT mới này. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu kiến
thức, thái độ và các yếu tố liên quan của phụ nữ đã kết hôn với phương pháp cấy que ngừa thai dưới da. Từ đó đề
xuất những biện pháp giúp phụ nữ hiểu đúng và lựa chọn...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ và các yếu tố liên quan của phụ nữ đã kết hôn với phương pháp cấy que ngừa thai dưới da tại bệnh viện Từ Dũ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 9
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
CỦA PHỤ NỮ ĐÃ KẾT HÔN VỚI PHƯƠNG PHÁP CẤY QUE NGỪA
THAI DƯỚI DA TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Phan Thùy Linh*, Trần Thị Tuyết Nga**, Nguyễn Hữu Trung***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Biện pháp tránh thai (BPTT) bằng que cấy dưới da là một trong những BPTT hiện đại với
nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, nó cũng có những tác dụng ngoại ý khiến cho một số phụ nữ rút que sớm trước thời
hạn đã được nêu lên ở một số nghiên cứu gần đây. Việc phải rút que cấy tránh thai sớm để chuyển sang một
BPTT khác gây lãng phí thời gian và tài chính cho người sử dụng. Một trong những nguyên nhân đó là người
phụ nữ không được cung cấp đầy đủ thông tin về BPTT mới này. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu kiến
thức, thái độ và các yếu tố liên quan của phụ nữ đã kết hôn với phương pháp cấy que ngừa thai dưới da. Từ đó đề
xuất những biện pháp giúp phụ nữ hiểu đúng và lựa chọn BPTT phù hợp.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ phụ nữ có kiến thức đúng, thái độ tích cực và các yếu tố liên quan đến
kiến thức đúng và thái độ tích cực của phụ nữ về phương pháp cấy que dưới da tại Bệnh viện Từ Dũ.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 196 phụ nữ đã kết hôn trong độ tuổi 18-49 tại
phòng tư vấn khoa Kế Hoạch Hóa Gia Đình Bệnh viện Từ Dũ, được tiến hành từ tháng 04/2018 đến 05//2018.
Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn theo bảng câu hỏi soạn sẵn nhằm thu thập các thông tin về đặc điểm xã
hội, đặc điểm chu kỳ kinh, những hiểu biết về que cấy và thái độ về BPTT bằng que cấy dưới da.
Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ từng nghe về BPTT bằng que cấy dưới da là 71,9%. Phần lớn đối tượng nghiên cứu
trả lời gần đúng hai câu hỏi về kiến thức. Tỷ lệ người có thái độ tích cực về BPTT bằng que cấy dưới da là 49,0%.
Tỷ lệ người đồng ý tham gia chương trình truyền thông về BPTT bằng que cấy dưới da là 60,7%.
Kết luận: Cần tư vấn kỹ các tác dụng phụ, cũng như thời gian có thể có thai lại sau khi cấy que cũng như
lợi ích của BPTT.
Từ khóa: kiến thức, thái độ, que cấy ngừa thai, dưới da, kiểm soát sinh, phụ nữ đã kết hôn, Bệnh viện Từ
Dũ
ABSTRACT
KNOWLEDGE, ATTITUDE, PRACTICE AND UTILIZATION OF SUBDERMAL BIRTH CONTROL
IMPLANTS AMONG MARRIED WOMEN IN TU DU HOSPITAL
Phan Thuy Linh, Tran Thi Tuyet Nga, Nguyen Huu Trung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 09-15
Background: Implanon is a single-rod hormonal implant that contains etonogestrel, one of the modern
contraceptive methods with certain pros. Unfortunately, this type of contraception has some side effects lead to
early implanon removal. It has been raised in recent studies. Early implant removal cause time as well as money
consuming of women. One of the main reasons is that the users get insufficient information about this kind of
contraception. This study aimed to figured out how far the women comprehence the implanon. Hence, the study
will provide evidence to help women choosing the appropriate contraceptive method.
*Phòng Chỉ đạo tuyến, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
**Khoa Y Tế Công Cộng, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
***Bộ môn Phụ sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phan Thùy Linh ĐT: 0395819379 Email: phanlinh.yds@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 10
Objectives: In order to determine the percentage of women with correct knowledge, positive attitudes and
the factors related to the correct knowledge and the positive attitude of women on sub- dermal birth control
implant method at the Tu Du hospital.
Method: This descriptive cross-sectional study was conducted at the Family Planning Department
(FPD) of Tu Du Hospital. From April 2018 to May 2018, a sample of 196 married women of age 18-49
years, who attended FPD center were included in the study. Data was collected through a questionnaire for
information on social characteristics, cyclical characteristics, implant knowledge and attitude about sub-
dermal birth control implant.
Results: 71.9% of respondents heard about a method of contraception, Sub-dermal Birth Control Implant.
The majority of respondents answered almost two questions about knowledge. The positive attitude towards this
method is 49%. And 60.7% of participants in the media program on sub-dermal birth control implant method.
Conclusion: The need to advise fully on the side effects of sub-dermal birth control implant, the time can be
pregnant after implanting as well as its benefit.
Keywords: knowledge, Attitude, Sub-dermal, Birth control, Implants, Married women, Tu Du hospital
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam đứng thứ 14 trong số các quốc gia
đông dân nhất thế giới. Cùng với đó, Việt Nam
còn là quốc gia đang phát triển nên gánh nặng
của sự gia tăng dân số cũng là một trong những
thách thức của Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Vì
vậy, giải pháp cần thiết để giải quyết vấn đề này
là thực hiện tốt các biện pháp tránh thai (BPTT)
và kế hoạch hóa gia đình. Theo tổ chức Y tế thế
giới (WHO), Việt Nam là một trong năm nước có
tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới và là nước có tỷ lệ
phá thai cao nhất châu Á. Theo báo cáo của Vụ
Sức khỏe Bà mẹ- Trẻ em, Bộ Y Tế, tại Việt Nam,
ước tính mỗi năm cả nước có khoảng 250.000 -
300.000 ca phá thai được báo cáo chính thức(4).
Mặc dù ở Việt Nam, phá thai là hợp pháp nhưng
việc phá thai không an toàn vẫn diễn ra và đóng
góp 11,5% tỷ lệ tử vong mẹ năm 2000- 2001(4). Do
đó, việc tăng cường tư vấn ngừa thai sau phá
thai và thúc đẩy các BPTT tác dụng kéo dài là
điều cần thiết để giảm bớt số ca phá thai.
Tránh thai bằng que cấy dưới da là một
trong những biện pháp tránh thai chỉ chứa
progestin. Giống như các BPTT chỉ chứa
progestin, nó được đánh giá cao không chỉ vì có
tính dung nạp tốt, tránh được các tác dụng phụ
của etstrogen mà còn hiệu quả và an toàn, có thể
dùng ở trên phụ nữ cho con bú, phụ nữ bị tăng
huyết áp hay đái tháo đường. Cấy que dưới da
có tác dụng ngừa thai trong vòng 24 giờ sau khi
cấy và trở về khả năng có thai nhanh chóng và
hoàn toàn; 94% rụng trứng trong vòng 3- 6 tuần
sau rút que(1). Tránh thai giảm tỷ lệ thai ngoài tử
cung, các biến chứng thai kỳ và bệnh viêm vùng
chậu hơn so với những phụ nữ sử dụng dụng cụ
tử cung bằng đồng. Bên cạnh đó, giống như các
BPTT khác, nó cũng có một vài khuyết điểm như
kinh nguyệt không đều có thể hạn chế giao hợp,
tình trạng vô kinh và thiểu kinh thường xảy ra(2).
Chính những tác dụng phụ và ngoại ý này và sự
hiểu biết chưa chính xác về phương pháp cấy
que ngừa thai dưới da mà tỷ lệ phải rút que sớm
trước thời hạn (hai năm) là 51,04%, trong đó có
32,6% tỷ lệ rút que sớm không do tác dụng phụ
và 32,5% phụ nữ muốn đổi sang BPTT khác.
Theo như nghiên cứu của bác sỹ Cao Hữu Thịnh
có chỉ ra rằng sự chưa tin tưởng về BPTT mới,
việc xuất hiện nhiều tác dụng phụ đã khiến
người sử dụng cảm thấy không thuận tiện,
không an tâm nên muốn đổi sang BPTT khác.
Do đó, việc phải rút que cấy dưới da sớm trước
hạn để chuyển qua một BPTT khác sẽ gây lãng
phí thời gian và tài chính cho người sử dụng(1).
Vì vậy, đề tài này thực hiện với mục tiêu:
Xác định tỷ lệ PN trong độ tuổi sinh đẻ có
kiến thức đúng và thái độ tích cực với que cấy
ngừa thai?
Xác định mối liên quan giữa điểm kiến thức
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 11
đúng với thái độ tích cực của PN đã kết hôn với
BPTT bằng que cấy dưới da.
Kết quả thu được từ nghiên cứu sẽ hữu ích
cho việc cải thiện trong công tác tư vấn và cung
cấp về kiến thức về BPTT bằng que cấy, tìm ra
những yếu tố liên quan để tránh lãng phí thời
gian và tài chính cho người sử dụng.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Theo một nghiên cứu tại Pakistan, tỷ lệ
người phụ nữ trong độ tuổi sinh sản 18-49 tuổi
có kiến thức đúng về cấy que dưới da là 14,2%;
tỷ lệ người có thái độ tích cực về que cấy dưới da
là 85%(3). Từ công thức tính cỡ mẫu ước lượng
một tỷ lệ, với p=0,142 ta tính được cỡ mẫu của
nghiên cứu là: 188 PN; với p=0,85 ta tính được cỡ
mẫu của nghiên cứu là: 196 PN.
Từ đó, nghiên cứu cắt ngang mô tả được
thực hiện trên 196 PN đến khám tại khoa Kế
hoạch hóa gia đình, BV Từ Dũ, từ tháng 4/2018
đến tháng 5/2018(1). Tiêu chí chọn vào: PN trong
độ tuổi sinh và có ý định ngừa thai; có thể nghe
và hiểu tiếng việt. Tiêu chí lọai ra: những PN có
thai lưu, thai bệnh lý tại thời điểm khảo sát.
Công cụ thu thập số liệu là bộ câu hỏi cấu trúc
gồm bốn phần: A/ Thông tin nền của đối tượng
gồm: tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp,
trình độ học vấn, thu nhập, con nhỏ dưới 24
tháng, nuôi con bằng sữa mẹ; B/ Đặc điểm chu kì
kinh: thời gian hành kinh, đau bụng kinh; C/
Tiền căn sản khoa: số lần mang thai, phá thai,
tiền sử sử dụng BPTT; D/ Kiến thức và thái độ
của đối tượng về que cấy dưới da. Số liệu sau
khi thu thập được nhập liệu bằng phần mềm
Epidata 3.1 và xử lý số liệu bằng phần mềm
Stata 13.0. Các thống kê mô tả sử dụng tần suất
và tỷ lệ phần trăm. Kiểm định chi bình phương
và kiểm định chính xác Fisher được dùng để xét
mối liên quan giữa kiến thức, thái độ về việc sử
dụng que cấy, với các đặc tính của đối tượng.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là
31,8 ± 6,3; trong đó, tỷ lệ ở nhóm tuổi từ 26-35
tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 55,1%. Số phụ nữ học
từ cấp hai trở lên chiếm 93,9% và chỉ có 6,1%
phụ nữ chưa học tới cấp hai. Kết quả cho thấy,
phần lớn phụ nữ được nghiên cứu là đang sống
chung với chồng, và 6,6% phụ nữ đang trong
tình trạng ly thân/ly dị/góa. Tỷ lệ các đối tượng
làm nghề buôn bán, công nhân, công nhân viên
chức và nội trợ chiếm tỷ lệ xấp xỉ nhau. Tổng thu
nhập gia đình trong một tháng của các đối tượng
nghiên cứu thường dao động trong mức 11-20
triệu (VNĐ), số người có mức thu nhập hai vợ
chồng cao trên 20 triệu chiếm gần ¼ đối tượng
nghiên cứu. Hơn một nửa đối tượng nghiên cứu
mang thai từ ba lần trở lên. Trong đó tỷ lệ phá
thai ít nhất một lần chiếm tỷ lệ khá cao 66,8%.
Trong 196 phụ nữ đã tham gia nghiên cứu, có 55
PN chưa từng nghe về BPTT bằng que cấy dưới
da và chỉ có 141 PN (71,9%) đã từng nghe về
BPTT bằng que cấy.
Tỷ lệ người có kiến thức đúng về que cấy
Trong 141 phụ nữ đã từng nghe về BPTT
bằng que cấy dưới da, tỷ lệ người có kiến thức
đúng về sự thay đổi đặc điểm kinh nguyệt
chiếm tỷ lệ cao nhất là 74,5%. Số người có kiến
thức chưa đúng về thời gian có thai lại sau khi
rút que cấy dưới da còn khá cao chiếm 91,5%.
Bảng 1: Tỷ lệ điểm kiến thức của PN về các nội dung
liên quan đến BPTT bằng cấy que dưới da (n=141)
Điểm kiến thức Tần số Tỷ lệ(%)
0
1
2
3
4
5
1,7 ± 1,2
*
24
38
35
37
7
0
0-4
**
17,0
27,0
24,8
26,2
5,0
0
*Trung bình ± độ lệch chuẩn
**Giá trị thấp nhất, giá trị cao nhất
Phần lớn số người biết về phương pháp cấy
que ngừa thai dưới da chỉ trả lời đúng gần hai
câu hỏi về kiến thức. Cụ thể, có 5 câu hỏi về kiến
thức: kiến thức về thời gian tác dụng ngừa thai,
kiến thức về sự thay đổi đặc điểm kinh nguyệt
sau khi cấy, kiến thức các tác dụng phụ sau khi
cấy que, kiến thức về khả năng có thai lại sau khi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 12
rút que cấy, kiến thức về lợi ích của phương
pháp cấy que. Điểm kiến thức tương ứng với số
câu hỏi kiến thức trả lời đúng. Như vậy, số
người có kiến thức đúng về phương pháp ngừa
thai dưới da còn hạn chế.
Tỷ lệ người có thái độ tích cực về que cấy tránh
thai (N=196)
Có 129 người đồng ý BPTT bằng cấy que
dưới da là một BPTT lâu dài, trong đó có bảy
người (3,6%) không đồng ý về điều này. Số
nguời đồng ý cho rằng cấy que dưới da là một
BPTT an toàn và hiệu quả là gần tương đương
nhau với tỷ lệ lần lượt là 52,6% và 57,1%. Tỷ lệ
người có thái độ tích cực và chưa tích cực về
BPTT dưới da là xấp xỉ gần bằng nhau với tỷ lệ
lần lượt là 49,0% và 51,0% (Bảng 2).
Bảng 2: Tỷ lệ người có thái độ tích cực về que cấy
tránh thai (N=196)
Thái độ Tần số Tỷ lệ(%)
Về việc sử dụng cấy que tránh thai là một BPTT lâu dài
Đồng ý 129 65,8
Không chắc chắn/không biết 67 34,2
Không đồng ý 7 3,6
Về việc cấy que dưới da là một phương pháp ngừa thai an
toàn
Đồng ý 103 52,6
Không chắc chắn/không biết 87 44,4
Không đồng ý 6 3,0
Về việc cấy que dưới da là một phương pháp ngừa thai
hiệu quả
Đồng ý 112 57,1
Không chắc chắn/không biết 80 40,8
Không đồng ý 4 2,1
Về phương pháp ngừa thai bằng que cấy dưới da
Tích cực
Chưa tích cực
96
100
49,0
51,0
Có hơn 60% đối tượng được nghiên cứu
đồng ý tham gia chương trình truyền thông về
BPTT bằng cấy que dưới da. Có khoảng 50% số
người tham gia nghiên cứu đồng ý sẽ giới thiệu
lợi ích về cấy que dưới da cho bạn bè. Chỉ có
36,2% số người được hỏi thì đồng ý lựa chọn
biện pháp tránh thai cấy que dưới da khi cần
thiết. Còn lại 63,8% thì trả lời không biết hoặc
không (Bảng 3).
Bảng 3: Thái độ tham gia chương trình truyền thông
về phương pháp ngừa thai và giới thiệu lợi ích của
cấy que dưới da cho bạn bè và thái độ lựa chọn cấy
que dưới da tránh thai khi cần thiết (N=196)
Thái độ Tần số Tỷ lệ(%)
Tham gia chương trình truyền thông về phương pháp ngừa
thai bằng cấy que dưới da
Tích cực
Chưa tích cực
119
77
60,7
39,3
Giới thiệu lợi ích của cấy que dưới da cho bạn bè
Tích cực
Chưa tích cực
95
101
48.5
51,5
Lựa chọn biện pháp cấy que dưới da tránh thai khi cần thiết
Tích cực
Chưa tích cực
71
125
36,2
63,8
Kiểm định chính xác Fisher
Trong 125 đối tượng có thái độ chưa tích cực
với việc lựa chọn BPTT bằng que cấy dưới da khi
cần thiết, có những nguyên nhân chính sau:
thiếu thông tin về BPTT này (59,2%), không thích
(21,6%), đắt tiền (16%) Trong đó, chỉ có 5,6%
người có thái độ không tích cực về BPTT này là
do tác dụng ngoại ý nhiều. Có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về điểm kiến thức với thái độ lựa
chọn BPTT khi cần thiết, những người có điểm
kiến thức đúng càng nhiều thì thái độ càng tăng,
với p<0,001 (Bảng 4).
Bảng 4: Mối liên quan giữa điểm kiến thức với thái độ lựa chọn sử dụng cấy que tránh thai
Đặc tính Thái độ tích cực (n= 67) Thái độ chưa tích cực (n= 74) Giá trị p
PR (KTC 95%)
Điểm kiến thức
0 4 (16,7) 20 (83,3)
1 16 (42,1) 22 (57,9) 1,34 (1,16-1,56)
2 18 (51,4) 17 (48,6) <0,001 1,82 (1,36-2,43)
3 24 (64,9) 13 (35,1) 2,45 (1,58-3,79)
4 5 (71,4) 2 (28,6) 3,30 (1,84-5,92)
Kiểm định chính xác Fisher
Tỷ lệ người đồng ý sẽ tham gia chương
trình truyền thông về cấy que tránh thai ở
những người trả lời đúng bốn câu hỏi về kiến
thức bằng 1,71 lần so với tỷ lệ tương tự những
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 13
người không trả lời đúng câu hỏi kiến thức
nào (p<0,05) (Bảng 5).
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm
kiến thức với thái độ giới thiệu lợi ích của BPTT
khi cần thiết, những người có điểm kiến thức
đúng càng nhiều thì thái độ càng tăng, với p=
0,017 (Bảng 6).
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm
kiến thức với thái độ tích cực về BPTT, những
người có điểm kiến thức đúng càng nhiều thì
thái độ tích cực càng tăng, với p<0,001 (Bảng 7).
Bảng 5: Mối liên quan giữa điểm kiến thức với thái độ tham gia chương trình truyền thông về cấy que tránh thai
Đặc tính Thái độ tích cực (n= 96) Thái độ chưa tích cực (n= 45) Giá trị p
PR (KTC 95%)
Điểm kiến thức
0 12 (50,0) 12 (50,0)
1 28 (73,7) 10 (26,3) 0,087 1,47 (0,94-2,30)
2 23 (65,7) 12 (34,3) 0,252 1,31 (0,82-2,10)
3 27 (73,0) 10 (27,0) 0,097 1,46 (0,93-2,28)
4 6 (85,7) 1 (14,3) 0,036 1,71 (1,04-2,84)
Kiểm định chính xác Fisher
Bảng 6: Mối liên quan giữa điểm kiến thức với thái độ giới thiệu lợi ích về cấy que tránh thai
Đặc tính Thái độ tích cực (n= 82) Thái độ chưa tích cực (n= 59) Giá trị p
PR (KTC 95%)
Điểm kiến thức
0 10 (41,7) 14 (58,3)
1 19 (50,0) 19 (50,0) 1,16 (1,03-1,31)
2 23 (65,7) 12 (34,3) 0,017 1,34 (1,05-1,71)
3 25 (67,6) 12 (32,4) 1,56 (1,08-2,25)
4 5 (71,4) 2 (28,6) 1,81 (1,11-2,94)
Kiểm định chi bình phương khuynh hướng
Bảng 7: Mối liên quan giữa điểm kiến thức với thái độ tích cực về phương pháp ngừa thai bằng cấy que dưới da
Đặc tính Thái độ tích cực (n= 94) Thái độ chưa tích cực (n= 47) Giá trị p
PR (KTC 95%)
Điểm kiến thức
0 5 (20,8) 19 (79,2)
1 18 (47,4) 20 (52,6) 1,41 (1,27-1,56)
2 31 (88,6) 4 (11,4) <0,001 1,97 (1,60-2,43)
3 33 (89,2) 4 (10,8) 2,78 (2,03-3,79)
4 7 (100,0) 0 (0,0) 3,90 (2,56-5,92)
Kiểm định chi bình phương khuynh hướng
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy
những người có học vấn càng cao thì sự tìm hiểu
và những hiểu biết của họ về chăm sóc sức khỏe
sinh sản sẽ tốt hơn những người có học vấn thấp
hơn. Cụ thể, tỷ lệ những người có học vấn trên
cấp ba có thái độ tích cực tăng gấp 2,18 lần so với
người có học vấn từ cấp ba trở xuống, với
p<0,001. Nghiên cứu ở Pakistan cũng chỉ ra rằng
thái độ tích cực đối với que cấy ngừa thai cũng
tăng và thái độ tiêu cực đối với BPTT này cũng
giảm tương ứng với sự gia tăng của trình độ học
vấn, với p=0,058(3).
Tổng thu nhập gia đình cũng có mối liên
quan với tỷ lệ người có kiến thức đúng về sự
thay đổi đặc điểm kinh nguyệt sau khi cấy que
(p=0,014). Cụ thể, tỷ lệ phụ nữ ở nhóm có kinh
tế hộ gia đình từ 10-20 triệu/tháng và từ 20
triệu/tháng trở lên có kiến thức đúng về sự
thay đổi đặc điểm kinh nguyệt cao hơn tỷ lệ
tương ứng ở nhóm có kinh tế hộ gia đình dưới
10 triệu/tháng lần lượt là 1,18 và 1,39 lần (KTC
95%: 1,03-1,34 và 1,07-1,82). Tác giả Mehwish
Mubarik cũng chỉ ra rằng tỷ lệ những người có
tình trạng kinh tế gia đình trung bình có hiểu
biết tốt về que cấy dưới da cao hơn tỷ lệ người
phỏng vấn có tình trạng kinh tế gia đình thấp
với tỷ lệ tương ứng là 15,15% và 8,05%(3).
Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm thấy mối liên
quan giữa tuổi với kiến thức đúng về các tác
dụng phụ của que cấy tránh thai. Cụ thể,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 14
những người có độ tuổi từ 26 đến 35 tuổi có
kiến thức đúng về tác dụng phụ của BPTT
bằng cấy que dưới da giảm 55% so với phụ nữ
ở nhóm tuổi từ 25 trở xuống, với p<0,028. Điều
này có thể lý giải là do những người trẻ
thường có xu hướng tìm hiểu các kiến thức về
chăm sóc sức khỏe sinh sản và khả năng tiếp
cận với thông tin nhiều hơn ở độ tuổi lớn hơn.
Ngoài ra, chúng tôi cũng nhận thấy những
người dưới 25 tuổi trả lời đúng được 1,9 ± 1,1
câu về kiến thức, trong khi ở các nhóm tuổi
khác chỉ trả lời đúng khoảng 1,7 câu (p=0,716).
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, những
người từng sử dụng BPTT có xu hướng trả lời
đúng các câu hỏi về kiến thức nhiều hơn
những người chưa từng sử dụng BPTT nào.
Mặc dù sự khác biệt trong nghiên cứu này
không có ý nghĩa thống kê (p=0,596), nhưng nó
đã được nêu lên trong nghiên cứu của
Mehwish Mubarik tại Pakistan rằng có mối
liên quan giữa những người từng sử dụng
BPTT trước đây với kiến thức đúng, với
p=0,005(3).
Chúng tôi nhận thấy có mối liên quan giữa
điểm kiến thức với thái độ lựa chọn, thái độ giới
thiệu lợi ích về que cấy cũng như thái độ tích cực
về BPTT này, có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Những người có điểm kiến thức càng cao thì thái
độ tích cực của họ về PPNT này càng tăng. Điều
này có thể lý giải vì những người trả lời đúng
càng nhiều câu hỏi về kiến thức thì mức độ hiểu
biết của họ về BPTT này càng cao nên họ có thái
độ tích cực về BPTT này hơn những ngườii khác.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ PN từng nghe về BPTT bằng cấy que
dưới da là 71,9%. Trong số 141 người từng nghe
về BPTT bằng cấy que dưới da phần lớn trả lời
đúng gần hai câu hỏi về kiến thức.
Tỷ lệ người có thái độ tích cực về phương
pháp ngừa thai dưới da là 49,0%. Tỷ lệ PN đồng
ý tham gia chương trình truyền thông về BPTT
bằng cấy que dưới da là 60,7%.
Có mối liên quan giữa kiến thức về BPTT
bằng que cấy dưới da (thời gian tác dụng và
thời gian có thai lại sau khi cấy que) với trình
độ học vấn (p<0,05), với số lần mang thai
(p=0,016). Có mối liên quan giữa nhóm tuổi 26-
35 tuổi với kiến thức đúng về các tác dụng phụ
của que cấy tránh thai, với p=0,028. Chưa tìm
thấy mối liên quan giữa tình trạng kết hôn, đặc
điểm chu kỳ kinh, số lần phá thai và người có
con nhỏ dưới 24 tháng với các kiến thức về
BPTT bằng que cấy, với p>0,05.
Những người có số câu trả lời đúng về kiến
thức càng cao, thì thái độ tích cực của họ về
BPTT này càng tăng.
KIẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức và
thái độ về que cấy ngừa thai của phụ nữ đã kết
hôn còn hạn chế. Nhu cầu cung cấp kiến thức về
BPTT dưới da bằng que cấy khá cao. Do đó,
chúng tôi có một vài kiến nghị như sau:
Khi tư vấn khách hàng về các BPTT trong đó
có BPTT bằng que cấy dưới da, các bác sỹ và nữ
hộ sinh cần tư vấn kỹ các tác dụng phụ, cũng
như thời gian có thể có thai lại sau khi cấy que
cũng như lợi ích của BPTT.
Do nhu cầu của đối tượng mà chúng tôi
nghiên cứu khá quan tâm và có thái độ tích cực
với buổi truyền thông về BPTT dưới da bằng
que cấy. Do đó việc tổ chức các buổi truyền
thông về các BPTT trong đó có BPTT bằng que
cấy dưới da để người dân có kiến thức tốt hơn là
cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Hữu Thịnh (2016). “Tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến tình
trạng rút que Implanon trước thời hạn tại bệnh viện Từ Dũ”.
Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tr. 76-77.
2. Knowledge for health (2018). “Essential Knowledge About
Hormonal Implants”. K4health
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 15
/essential access on 09 Mar 2018.
3. Mubarik M, Jameel N, Khalil R (2016). "Knowledge, attitude
and utilization of subdermal birth control implants among
married rural women of Pakistan". International Journal of
Research in Medical Sciences, 4 (6), pp. 2229-2238.
4. Ngo D. Thoai, Nguyen H. Thang, Le T. Hoan et al (2014). "Risk
factors for repeat abortion and implications for addressing
unintended pregnancy in Vietnam". International Journal of
Gynecology and Obstetrics, 125, pp. 241-246.
5. Sivin I (2003). "Risks and benefits, advantages and
disadvantages of levonorgestrel-releasing contraceptive
implants". Drug Saf, 26 (5), pp. 303-335.
Ngày nhận bài báo: 8/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 009_1_3545_2166348.pdf