Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học y Hà Nội năm 2018-2019

Tài liệu Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học y Hà Nội năm 2018-2019: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 199 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HÀNH BỮA SÁNG CỦA SINH VIÊN Y3 ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2018-2019 Hoàng Yến Nhi*, Nguyễn Thị Hằng Nga*, Lê Xuân Hưng*, Lê Thị Giang*, Lê Đức Dũng*, Nguyễn Thị Thùy Linh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng sức khỏe và kết quả học tập của sinh viên. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về bữa sáng trong độ tuổi thanh thiếu niên, đặc biệt là đối tượng sinh viên Y- những người có cơ hội tiếp cận đầy đủ hơn về những vấn đề sức khỏe con người. Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành và xác định một số yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội năm 2018-2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 343 sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội từ tháng 12/2018- 1/2019. Kết quả: 6...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học y Hà Nội năm 2018-2019, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 199 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HÀNH BỮA SÁNG CỦA SINH VIÊN Y3 ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2018-2019 Hoàng Yến Nhi*, Nguyễn Thị Hằng Nga*, Lê Xuân Hưng*, Lê Thị Giang*, Lê Đức Dũng*, Nguyễn Thị Thùy Linh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng sức khỏe và kết quả học tập của sinh viên. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về bữa sáng trong độ tuổi thanh thiếu niên, đặc biệt là đối tượng sinh viên Y- những người có cơ hội tiếp cận đầy đủ hơn về những vấn đề sức khỏe con người. Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành và xác định một số yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội năm 2018-2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 343 sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội từ tháng 12/2018- 1/2019. Kết quả: 66,5% tổng số đối tượng có kiến thức không đạt về bữa sáng, 54,3% có thái độ tiêu cực và 63,6% không có thói quen tốt khi ăn sáng. Bên cạnh đó, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa tổng điểm thực hành và các yếu tố sau: kiến thức, thái độ, lý do để ăn sáng, lý do không ăn sáng, thời gian thức dậy, chuyên ngành, nơi ở, chi tiêu vào bữa sáng, thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng hoặc người thân và bạn bè Kết luận: Tỉ lệ sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội đạt về tổng điểm kiến thức, thái độ, thực hành vẫn còn chưa cao, chỉ chiếm 1/3-1/2 tổng số đối tượng. Từ khóa: kiến thức -thái độ -thực hành, bữa sáng ABSTRACT KNOWLEDGE, ATTITUDE, PRACTICE AND SOME FACTORS RELATED TO THE BREAKFAST PRACTICE OF MEDICAL JUNIOR STUDENTS IN HANOI 2018-2019 Hoang Yen Nhi, Nguyen Thi Hang Nga, Le Xuan Hung, Le Thi Giang, Le Duc Dung, Nguyen Thi Thuy Linh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 199 – 207 Background: Breakfast is the most important meal of the day, which has direct impact on physical conditions, study and other activities. However, there have been few studies on young adults’ breakfast, especially on Medical students who have better knowledge about health problem. Objectives: To describe knowledge, attitude and practice of medical junior students about breakfast and to analyze some factors related to their breakfast practice in Hanoi 2018-2019. Subjects and research methods: A cross-sectional study was conducted on 343 medical junior students in Hanoi from December 2018 to January 2019. Results: 66.5% of the total sample had poor knowledge about breakfast, 54.3% had negative attitude and 63.6% did not have good practice on having breakfast. Besides, there was a statistically significant difference *Đại học Y Hà Nội Tác giả liên lạc: ThS. Lê Xuân Hưng ĐT: 0911196443 Email: lexuanhung@hmu.edu.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 200 (p<0,05) between sum of practice points and following factors: knowledge, attitude, reason to have breakfast, reason not to have breakfast, time to wake up, study major, living place, spending on breakfast, information from public communication, family and friends. Conclusions: The prevalence of the surveyed junior students of Hanoi Medical University, who had high point in knowledge, attitude and practice of having breakfast, was low, only accounted for one third to a half of the total sample. Keywords: knowledge -attitude -practice, breakfast ĐẶT VẤN ĐỀ Bữa sáng là bữa ăn đầu tiên trong ngày, có vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng và khởi động quá trình chuyển hóa, trao đổi chất sau khoảng thời gian dài ngưng ăn (10- 12 tiếng đồng hồ) từ bữa tối hôm trước. Bên cạnh đó, một khẩu phần ăn sáng đầy đủ các chất dinh dưỡng còn góp phần quan trọng đến việc duy trì trọng lượng cân đối cho cơ thể(1). Tuy nhiên trên thực tế, phần nhiều mọi người lại thường bỏ qua hoặc chưa ý thức thành phần dinh dưỡng bữa ăn quan trọng này. Đặc biệt trong nhóm đối tượng là thành niên, sinh viên. Điều tra của YunJung Bae và cộng sự tại Đại học Hanbuk Hàn Quốc (năm 2011) cho thấy trong số 243 sinh viên tham gia nghiên cứu có đến 37% sinh viên không ăn sáng thường xuyên, trong đó có 72,1% sinh viên không quan tâm tới thành phần dinh dưỡng trong bữa sáng(7). Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Văn Hà và cộng sự tại Đại học Ngoại Thương cũng cho hay số sinh viên không có thói quen thường xuyên ăn sáng chiếm tới 56% tổng số sinh viên tham gia nghiên cứu. Đối tượng sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội ngoài trong độ tuổi thanh niên còn là nhóm đối tượng có những đặc thù riêng, với cường độ thời gian học dài, học nhiều, sinh viên còn phải bắt đầu làm quen với việc đi trực bệnh viện trong học kì 2. Đối với khoảng thời gian đầu còn chưa quen và chưa biết phân bố thời gian cho hợp lí, sinh viên thường bỏ qua bữa ăn sáng vì không có thời gian hoặc ngủ dậy muộn không kịp ăn đã phải đi học, dẫn tới hậu quả sinh viên không nạp đủ năng lượng để học tập và làm việc, tác động tiêu cực đến trí nhớ và khả năng nhận thức của bản thân. Trong xã hội hiện nay, sinh viên Y còn là những nhân tố được đào tạo để trở thành cán bộ chăm sóc sức khỏe tương lai của đất nước, góp phần quan trọng đến việc hình thành nhận thức về các vấn đề sức khỏe cho người bệnh. Vì vậy việc đánh giá K.A.P của sinh viên Y là vô cùng cần thiết, từ đó giúp chúng ta làm tiền đề cho những nghiên cứu sau này và giúp sinh viên có kiến thức tốt, thái độ và thực hành đúng trong thực hành bữa sáng cho bản thân và cho cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội năm 2018-2019. Xác định một số yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội năm 2018-2019. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Sinh viên Y3 chính quy hiện đang học tại trường Đại học Y Hà Nội, có sức khỏe đảm bảo được đưa vào mẫu nghiên cứu trong thời gian từ ngày 19/12/2018 đến ngày 26/01/2019. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Cỡ mẫu Được tính dựa vào công thức ước tính một giá trị tỉ lệ trong quần thể: n = Z2(1-α/2) Trong đó: n là cỡ mẫu tối thiểu. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 201 α: mức ý nghĩa thống kê. Z1-α/2: hệ số tin cậy. Với α = 0.05 thì Z= 1.96 p: tỉ lệ từ nghiên cứu thử. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thử trên 50 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội. Sau khi tiến hành nghiên cứu thử tính được p = 0,38 thay vào công thức tính được cỡ mẫu của nghiên cứu. ɛ: Khoảng sai lệch mong muốn giữa mẫu và quần thể nghiên cứu. (với ε=0,15) : Giá trị trung bình tổng điểm thực hành từ nghiên cứu thử. Vậy mẫu nghiên cứu là 343 sinh viên. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu phân tầng theo chuyên ngành học của sinh viên Y3 chính quy theo các bước sau: Bước 1 Lập danh sách tất cả những đối tượng là sinh viên Y3 chính quy trường Đại học Y Hà Nội năm 2018 theo từng lớp học (có 14 lớp gồm: 5 lớp hệ BSĐK, 9 lớp hệ cử nhân và bác sĩ). Bước 2 Lập bảng tỉ lệ số sinh viên mỗi lớp được chọn vào nghiên cứu trên tổng số sinh viên khối Y3. (Tính số sinh viên mỗi lớp chọn vào nghiên cứu theo tỉ lệ sĩ số lớp). Tổng số sinh viên khối Y3 chính quy năm học 2018- 2019 là 970 sinh viên. Bước 3 Dùng phần mềm Excel chọn ngẫu nhiên sinh viên mỗi lớp tham gia nghiên cứu theo tỉ lệ đã tính. Bước 4 Lập danh sách những đối tượng được lựa chọn. KẾT QUẢ Đặc điểm của đối tượng Chúng tôi đã chọn được 343 sinh viên đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu trong đó đa số sinh viên là nữ giới (63,3%), và học hệ bác sĩ (70,6%). Về tình trạng nơi ở, đa số sinh viên ở trọ (49,6%) và ở kí túc xá (37%). Tổng điểm kiến thức có giá trị trung vị là 7, khoảng tử phân vị 5-8, giá trị trung bình 6.43/14 câu, chiếm 46% trên tổng số câu. Tổng điểm thái độ có giá trị trung vị là 7, khoảng tứ phân vị là 5-9, giá trị trung bình chiếm 58,8% trên tổng số câu. Tổng điểm thực hành có giá trị trung vị; khoảng tứ phân vị; phần trăm giá trị trung bình trên tổng số câu lần lượt là 17; 16-18; 76,8% (Bảng 1). Tỉ lệ số sinh viên có tổng điểm kiến thức; thái độ; thực hành đạt yêu cầu lần lượt là 33,5%; 45,7%; 36,4%. Bảng 1: Tổng điểm kiến thức, thái độ và thực hành về bữa sáng Tổng điểm TB±ĐLC % câu trả lời đúng Đạt (%) Không đạt (%) Trung vị (Khoảng tứ phân vị) Tổng điểm kiến thức 14 6,43±2,6 46% 33,5 66,5 7 (5- 8) Tổng điểm thái độ 12 7,06±2,7 58,8% 45,7 54,3 7 (5- 9) Tổng điểm thực hành 22 16,9±2,4 76,8% 36,4 63,6 17 (16- 18) Đối với nhóm kiến thức chung về bữa sáng, kiến thức về tầm quan trọng của bữa sáng có số câu trả lời chiếm tỉ lệ cao nhất là 83,1%, kiến thức về vai trò của bữa sáng và hậu quả khi không ăn bữa sáng đầy đủ có tỉ lệ thấp hơn hẳn, lần lượt chiếm 14,6% và 7,3% (Bảng 2). Đối với nhóm kiến thức về các chất dinh dưỡng sử dụng trong bữa sáng, kiến thức về tỷ lệ năng lượng cần cung cấp cho bữa sáng so với cả ngày có số câu trả lời đúng cao nhất nhóm, chiếm 30,6%. Số câu trả lời đúng kiến thức về glucid; protein; lipit có tỉ lệ lần lượt là: 41,7%; 20,4%; 7,0% (Bảng 2). Bảng 2: Tỷ lệ câu trả lời đúng các kiến thức liên quan đến bữa sáng (n=343) Biến số Tần số Tỷ lệ (%) Nhóm kiến thức chung về bữa sáng Kiến thức về tầm quan trọng của bữa sáng 285 83,1 Kiến thức về vai trò của bữa sáng 50 14,6 Kiến thức về hậu quả khi không ăn bữa sáng đầy đủ 25 7,3 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 202 Biến số Tần số Tỷ lệ (%) Nhóm kiến thức về các chất dinh dưỡng sử dụng trong bữa sáng Kiến thức về tỷ lệ năng lượng cần cung cấp cho bữa sáng so với cả ngày 105 30,6 Kiến thức về thành phần các chất cần được dung nạp trong bữa sáng 56 16,3 Kiến thức về tỷ lệ Glucid cần thiết cho bữa sáng 143 41,7 Kiến thức về tỷ lệ Protein cần thiết cho bữa sáng 49 20,4 Kiến thức về tỷ lệ Lipid cần thiết cho bữa sáng 24 7,0 Trong số các đối tượng trả lời về thái độ đối với các yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng, mức thái độ rất quan tâm và quan tâm cao nhất là ở “Bảng thành phần chất dinh dưỡng trên bao bì sản phẩm”, lần lượt chiếm tỷ lệ là 16,3% và 49,2%. Ngược lại, yếu tố về “Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm” có tỷ lệ thái độ bình thường, không quan tâm cao nhất, lần lượt là 43,2% và 31,2% (Hình 1). Trong số những đối tượng tham gia điều tra về khẩu phần ăn cá nhân, chỉ có 2,0% số sinh viên Y3 ăn bữa sáng đạt nhu cầu năng lượng khuyến nghị (theo tổ chức WHO), tỷ lệ sinh viên có bữa sáng thiếu năng lượng chiếm 98%. Bên cạnh đó, 99,7% sinh viên Y3 trong nghiên cứu có bữa sáng không cân đối tỷ lệ các chất sinh năng lượng (Bảng 3). Bảng 3: Tỷ lệ thực hành bữa sáng đáp ứng nhu cầu năng lượng và sự cân đối thành phần các chất dinh dưỡng (n=343) Tần số Tỷ lệ (%) Nhu cầu năng lượng Đủ năng lượng 7 2,0 Thiếu năng lượng 336 98,0 Tỉ lệ G:L:P Cân đối 1 0,3 Không cân đối 342 99,7 Hình 1: Thái độ đối với các yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa sang Trong số những đối tượng trả lời về tần suất các thói quen liên quan đến việc thực hành bữa sáng, các thói quen sai lệch là: "Sử dụng thực phẩm, đồ uống lạnh vào bữa sáng”; “Ăn đồ ăn nhanh trong bữa sáng”; “Ăn hoa quả thay bữa sáng” và “Sử dụng đồ uống thay bữa sáng” có tỷ lệ không bao giờ thực hiện cao nhất, lần lượt chiếm 91,6%; 82,2%; 73,5% và 87,2%. Ngoài ra, đối với thói quen uống đồ uống chứa chất kích thích trước bữa sáng” tỷ lệ sinh viên thực hiện hàng ngày chiếm 14,3%, trong khi đó tỷ lệ không bao giờ thực hiện chiếm tới 37,3% (Hình 2). Đối với thói quen tích cực “Ăn sáng sau khi ngủ dậy 30 phút-1 tiếng” có tỷ lệ sinh viên thực hiện 4-6 ngày/tuần cao nhất, đạt 47,5%, tỷ lệ thực hiện hàng ngày chiếm 20,9%. Bảng 4: Mối tương quan giữa tổng điểm kiến thức, tổng điểm thái độ và tổng điểm thực hành (n=343) Tổng điểm kiến thức Tổng điểm thái độ Tổng điểm thực hành Tổng điểm kiến thức 1,000 - - Tổng điểm thái độ 0,4640* 0,0000 1,000 - - Tổng điểm thực hành 0,3907* 0,0000 0,2378* 0,0000 1,000 - Có mối tương quan thuận ở mức độ trung bình (r=0,4640) giữa tổng điểm kiến thức và tổng điểm thái độ, mối tương quan này có ý nghĩa thống kê với p <0,001. Giữa tổng điểm kiến thức và tổng điểm thực hành cũng là tương quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 203 thuận nhưng mức độ yếu (r=0,3907), mối tương quan này có ý nghĩa thống kê với p=0,0000<0,001, tương tự với tổng điểm thái độ và tổng điểm thực hành (r=0,2378; p=0,0000<0,001) (Bảng 4). Hình 2: Tỷ lệ tần suất các thói quen liên quan đến việc thực hành bữa sáng Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa sáng Yếu tố liên quan Tổng điểm thực hành p-value Tên biến Giá trị của biến Không đạt Đạt n % n % Nơi ở Ở với gia đình 21 6,1 25 7,3 0,01 Ở trọ 118 34,4 52 15,2 Ở ký túc xá 79 23,0 48 14,0 Chuyên ngành Bác sĩ 165 48,1 77 22,4 0,006 Cử nhân 53 15,5 48 14,0 Thói quen thức dậy Trước 6h 15 4,4 15 4,4 <0,001 6-7h 97 28,3 90 26,2 Sau 7h 106 30,9 20 5,8 Lý do ăn sáng Đói bụng 106 30,9 28 8,2 <0,001 Cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng cho cơ thể 56 16,3 69 20,1 Thói quen bản thân 20 5,8 25 7,3 Thói quen gia đình, bạn bè 36 10,5 3 0,9 Lý do không ăn sáng Không có thời gian 73 21,3 58 16,9 0,03 Không đói 33 9,6 21 6 Thói quen bản thân 90 26,2 41 12 Thói quen gia đình, bạn bè 22 6,4 5 1,6 Đối tượng cùng ăn sáng Một mình 186 54,2 100 29,2 0,04 Gia đình 7 2,0 12 3,5 Bạn bè 25 7,3 13 3,8 Chi phí cho bữa sáng < 20.000đ 193 56,3 103 30 0,04 20.000 – 30.000đ 25 7,3 19 5,5 > 30.000đ 0 0 3 0,9 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 204 Yếu tố liên quan Tổng điểm thực hành p-value Tên biến Giá trị của biến Không đạt Đạt n % n % Nguồn cung cấp TT-KTBS là phương tiện TT đại chúng Không 113 32,9 20 5,8 <0,001 Có 105 30,6 105 30,6 Nguồn cung cấp TT-KTBS là người thân, bạn bè Không 155 45,2 64 18,7 <0,001 Có 63 18,4 61 17,8 TT-KTBS: Thông tin- Kiến thức bữa sáng có mối liên quan giữa “Nơi ở”, “Chuyên ngành”, “Lý do ăn sáng”, “Lý do không ăn sáng”, “Đối tượng cùng ăn sáng” và “Thói quen thức dậy”, “Chi phí cho bữa ăn sáng”, “Nguồn cung cấp TT-KTDD là phương tiện TT đại chúng", “Nguồn cung cấp TT-KTDD là người thân, bạn bè” với tổng điểm thực hành bữa sáng với p<0,05 BÀN LUẬN Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 343 sinh viên Y3 đại học Y Hà Nội. Trong đó tỷ lệ đối tượng là nam giới chiếm 36,7%, nữ giới chiếm tới 63,3%. Tỷ lệ các chuyên ngành có có sự chênh lệch lớn, cụ thể tỷ lệ bác sỹ đa khoa có tỷ lệ cao nhất, chiếm 50,7%, hơn chuyên ngành có tỷ lệ thấp nhất là cử nhân y tế công cộng (3,5%) tới 47,2%. Sự khác biệt này được lý giải do chúng tôi đã tiến hành lập bảng tỉ lệ số sinh viên mỗi lớp được chọn vào nghiên cứu trên tổng số sinh viên Y3, mà tổng số sinh viên là bác sỹ đa khoa có số lượng lớn nhất nên tỷ lệ được chọn vào nghiên cứu cũng cao nhất. Kiến thức, thái độ, thực hành về bữa sáng của đối tượng Kiến thức về bữa sáng Kết quả nghiên cứu cho thấy có 83,1% đối tượng đồng ý bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày, tỉ lệ này cao hơn so với kết quả trong nghiên cứu của Dongxu Wang(9) và Cebirbay MA(2) với tỉ lệ lần lượt là 68,6% và 62,6 %. Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận được 20,4% số sinh viên có kiến thức đúng về tỷ lệ protein cần thiết cho bữa sáng, trong khi đó, tỉ lệ này đạt 9,5% trong nghiên cứu của Sitti Patimah(6). Nhìn chung, kết quả có dấu hiệu tích cực khi phần lớn sinh viên có nhận thức về tầm quan trọng của bữa sáng, nhưng khi tìm hiểu về các kiến thức đặc thù liên quan đến dinh dưỡng thì lại ghi nhận được tỉ lệ câu trả lời chính xác vô cùng thấp. Thái độ về bữa sáng Chúng tôi đánh giá thái độ của đối tượng đối với các vấn đề liên quan đến bữa sáng dựa trên 4 mức độ: rất quan tâm, quan tâm, bình thường và không quan tâm. Đối với bảng thành phần chất dinh dưỡng trên bao bì sản phẩm sử dụng trong bữa sáng, kết quả ghi nhận được có 14% số đối tượng không quan tâm đến vấn đề này, kết quả của Nguyễn Văn Hà tại đại học Ngoại Thương có phần khả quan hơn với tỉ lệ là 5% sinh viên. Bên cạnh đó, có đến 74,4% sinh viên không quan tâm đến chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm khi ăn sáng, cao hơn hẳn so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hà (10% số sinh viên). Nhìn chung, thái độ của sinh viên Y3 về các yếu tố liên quan đến bữa sáng còn thấp, điều này đòi hỏi cần tích cực thúc đẩy những chương trình can thiệp, giáo dục truyền thông để giúp sinh viên nói riêng và cộng đồng nói chung cải thiện cách nhìn nhận về một bữa sáng lành mạnh. Thực hành về bữa sáng Để tìm hiểu việc thực hành bữa sáng của đối tượng, chúng tôi tiến hành hỏi ghi khẩu phần bữa sáng trong 3 ngày liên tiếp. Kết quả của nghiên cứu ghi nhận có 2% đối tượng có bữa sáng cung cấp đủ năng lượng, 0,3% đối tượng có bữa sáng cân đối, kết quả trên thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Min C với tỉ lệ lần lượt là 63,8% và 100% số đối tượng(5) (theo khuyến nghị của WHO). Sự khác biệt này có thể lý giải phần nào do quá trình phân tích hàm lượng các chất dinh dưỡng giữa 2 nghiên cứu có sự khác nhau về công cụ xử lý và phân tích. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng bảng thành phần thực phẩm Việt Nam của Viện Dinh dưỡng quy định, còn nghiên Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 205 cứu của Min C sử dụng công cụ Can – pro 3.0 của hiệp hội Dinh dưỡng Hàn Quốc. Tuy nhiên, qua điều tra chúng tôi cũng nhận thấy được thực trạng chất lượng bữa sáng vô cùng đáng báo động của sinh viên Y3, điều này đòi hỏi sự can thiệp hợp lý để thay đổi thói quen ăn uống, và nâng cao tình trạng sức khỏe của sinh viên. Bên cạnh đó, nghiên cứu chúng tôi và Sue Reeves(7) có kết quả tương đồng nhau với tỉ lệ lần lượt là 62,7% và 74% số đối tượng có thói quen sử dụng đồ uống chứa chất kích thích(cà phê, chè,..) trước bữa sáng. Trên thực tế, đối tượng của hai nghiên cứu đều là những người trưởng thành đang phải đối mặt với áp lực từ công việc và học tập dẫn đến thói quen sử dụng đồ uống chứa chất kích thích trong bữa sáng nhằm giúp bản thân tỉnh táo, và giảm mệt mỏi, căng thẳng. Quan điểm trên là hoàn toàn chính xác, tuy vậy thói quen này có thể gây nhiều tác hại cho cơ thể nếu sử dụng trà, cà phê ngay khi thức dậy mà không được ăn bữa sáng từ trước đó. Một số yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa sáng Mối liên quan giữa tổng điểm kiến thức và tổng điểm thực hành (r= 0,3907) và mối liên quan giữa tổng điểm thái độ và tổng điểm thực hành (r= 0, 2378) của sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội có tương quan tỉ lệ thuận mạnh hơn so với kết quả nghiên cứu trên 374 học sinh tiểu học tại tỉnh Songkhla, Thái Lan trong nghiên cứu của Kornwika Sukkrachang(Error! Reference source not found.). Tuy vậy, trong cả hai nghiên cứu, tương quan này còn yếu, điều này cho thấy cần thiết phải có các chương trình can thiệp để nâng cao khả năng áp dụng kiến thức, thái độ vào các thói quen sử dụng bữa sáng. Tổng điểm thực hành có sự khác biệt (p<0,05) đối với những yếu tố sau: nơi ở, chuyên ngành, thời gian thức dậy, đối tượng cùng ăn sáng, lý do ăn sáng, lý do không ăn sáng, mức chi tiêu bữa sáng, nguồn cung cấp thông tin về bữa sáng đến từ phương tiện TT đại chúng và người thân, bạn bè. Nghiên cứu của Jeong Soon You(11) trên 237 học sinh lớp 6 lại chỉ ra rằng thói quen ăn sáng có mối liên quan mật thiết với: lý do không ăn sáng, đối tượng cùng ăn sáng, thời gian tập luyện thể dục, số lượng bạn bè, người chuẩn bị bữa sáng, mức độ đói trước khi ăn sáng, chi phí sinh hoạt tháng. Đối với nhóm yếu tố các lý do ăn sáng, nhóm có lý do cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng cho cơ thể có 20,1% đối tượng có điểm thực hành đạt yêu cầu, cao hơn hẳn so với các lý do đến từ thói quen bản thân; gia đình và bạn bè lần lượt chiếm tỉ lệ là 7,3% và 0,9%. Điều này chứng tỏ rằng, đối tượng có kiến thức đúng đắn về lý do ăn sáng có ảnh hưởng tích cực đến các thói quen khi sử dụng bữa sáng. Vì vậy, việc hiểu rõ tầm quan trọng của bữa sáng là vô cùng cần thiết. Đối với yếu tố lý do không ăn sáng, tỉ lệ điểm thực hành không đạt cao nhất nằm ở lý do thói quen bản thân chiếm 26,2%. Điều này cũng tương tự đối với nghiên cứu của You Jeong Soon(11) và cộng sự trên 237 học sinh nam lớp 6 tại trường tiểu học tại Daejeon, Hàn Quốc. Bên cạnh đó, nhóm có lý do không có thời gian ăn sáng có điểm thực hành đạt yêu cầu là 16,9%, cao hơn với các nhóm không đói; thói quen bản thân; và thói quen từ gia đình bạn bè. Đối với nhóm yếu tố đối tượng cùng ăn sáng, nhóm ăn sáng một mình có tỉ lệ điểm thực hành không đạt chiếm 54,2%, cao hơn 17,8% so với số đối tượng có điểm thực hành đạt yêu cầu. Tương tự, nhóm ăn sáng cùng bạn bè có tỉ lệ điểm thực hành không đạt và đạt lần lượt là: 7,3% và 3,8%. Ngược lại, tỉ lệ sinh viên có tổng điểm thực hành đạt cao hơn không đạt ở nhóm ăn sáng cùng gia đình, với tỉ lệ lần lượt là 3,5% và 2%. Tương tự đối với nhóm yếu tố nơi ở, nhóm ở với gia đình là nhóm duy nhất có số đối tượng đạt tổng điểm thực hành đạt mức yêu cầu cao hơn không đạt, chiếm lần lượt là 7,3% và 6,1% trên tổng số đối tượng. Qua hai yếu tố đối tượng cùng ăn sáng và nơi ở, có thể thấy Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 206 rằng, việc ăn sáng và ở cùng gia đình có ảnh hưởng trực tiếp tích cực đến việc thực hành bữa sáng của đối tượng. Thời gian thức dậy có liên quan đến thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 ĐH Y Hà Nội. Những sinh viên có điểm thực hành bữa sáng đạt phần lớn là nhóm thức dậy trong khoảng 6- 7h, thời gian này là đủ để chuẩn bị và thực hiện bữa sáng. Bên cạnh đó, nhóm đối tượng thức dậy sau 7h có tỉ lệ sinh viên đạt về tổng điểm thực hành bữa sáng thấp nhất và điều này hoàn toàn phù hợp với lý do mà phần đông các bạn cho rằng không ăn sáng là không có thời gian. Kết quả này phù hợp với một vài nghiên cứu trước đây của Vereecken C(8), Cuenca – García M(4) cũng đã chỉ ra rằng việc đi ngủ muộn vào đêm hôm trước có thể dẫn đến việc thức dậy muộn vào sáng hôm sau và là lý do chính cho việc không đủ thời gian để thực hiện bữa sáng của các học sinh từ 41 quốc gia tham gia nghiên cứu HBSC (Hành vi sức khỏe trong nghiên cứu trẻ em ở độ tuổi đi học) hay các thanh thiếu niên châu Âu. Bên cạnh đó, tỷ lệ đối tượng được cung cấp nguồn thông tin - kiến thức về bữa sáng qua phương tiện truyền thông đại chúng (30,6%) hoặc qua người thân, bạn bè (18,7%) có ảnh hưởng tích cực đến hành vi sử dụng bữa sáng của đối tượng. Đây là minh chứng cho việc cần đẩy mạnh các công tác truyền thông đại chúng như: loa đài, vô tuyến, báo chí nhằm tăng độ phủ sóng các vấn đề liên quan giáo dục sức khỏe nói chung và bữa sáng nói riêng đến với cộng đồng. KẾT LUẬN Các đối tượng có kiến thức; thái độ; thực hành về bữa sáng đạt yêu cầu có tỉ lệ còn chưa cao, lần lượt là 33,5%; 45,7%; 36,4%. Bên cạnh đó, khi điều tra khẩu phần bữa sáng trong 3 ngày liên tiếp, chỉ có 2,0% số sinh viên ăn bữa sáng đạt nhu cầu năng lượng khuyến nghị theo WHO, và 0,3% sinh viên có bữa sáng cân đối tỷ lệ các chất sinh năng lượng trong bữa sáng. Giữa kiến thức, thái độ, thực hành có mối tương quan với nhau, đa phần những đối tượng có kiến thức hoặc thái độ tốt sẽ có thực hành tốt. Sự biến động của tổng điểm thực hành được giải thích bởi sự biến thiên của các yếu tố sau: nơi ở, chuyên ngành, thời gian thức dậy, đối tượng cùng ăn sáng, lý do ăn sáng, lý do không ăn sáng, mức chi tiêu bữa sáng, nguồn cung cấp thông tin về bữa sáng đến từ phương tiện TT đại chúng; và người thân, bạn bè. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ môn dinh dưỡng và an toàn thực phẩm - Trường Đại học Y Hà Nội (2012). Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Nhà xuất bản Y học Hà Nội, pp.7-17. 2. Cebirbay MA, Aktas N, et al (2011). Determination of breakfast habits and knowledge of foreign undergraduates studying at Selcuk University in Turkey. Progress in Nutrition, 13(4):276-285. 3. Cooper SB, Bandelow S, Nevill ME, et al (2011). Breakfast consumption and cognitive function in adolescent schoolchildren. Physiology & Behavior, 103(5):431-439. 4. Cuenca-García M, Ruiz JR, Ortega FB, Labayen I and others (2014). Association of breakfast consumption with objectively measured and self-reported physical activity, sedentary time and physical fitness in European adolescents: the HELENA (Healthy Lifestyle in Europe by Nutrition in Adolescence). Public Health Nutr, 17(10):2226-36. 5. Min C, Noh H, Kang YS, et al (2011). Skipping breakfast is associated with diet quality and metabolic syndrome risk factors of adults. Nutr Res Pract, 5(5): pp. 455–463. 6. Patimah S, Royani I, Mursaha A, et al (2016). Knowledge, attitude and practice of balanced diet and correlation with hypochromic microcytic anemia among adolescent school girls in Maros district, South Sulawesi, Indonesia. Biomedical Research, 7. Reeves S, Halsey LG, McMeel Y, et al (2013). Breakfast habits, beliefs and measures of health and wellbeing in a nationally representative UK sample. Appetite, 60(1):51-57. 8. Vereecken C, Dupuy M, Rasmussen M, and others (2009). Breakfast consumption and its socio-demographic and lifestyle correlates in schoolchildren in 41 countries participating in the HBSC study. Int J Public Health, 54(2):180–90. 9. Wang D, Shi Y, Chang C, et al (2014). Knowledge, attitudes and behaviour regarding nutrition and dietary intake of seventh- grade students in rural areas of Mi Yun County, Beijing, China. Environ Health Prev Med, 19(3):179-186 10. Yeon JY, Bae YJ, et al (2011). Dietary Behaviors, Processed Food Preferences and Awareness Levels of Nutrition Labels among Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 207 Female University Students Living in Middle Region by Breakfast Eating. Korean J Community Nutr, 18(5):442-456. 11. You JS, Kim SM and Chang KJ (2009). Nutritional Knowledge and Dietary Behavior of the 6th Grade Elementary School Students in Daejeon Area by Gender and Skipping Breakfast. Korean J Nutr, 42(3):256-267. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_thai_do_thuc_hanh_va_mot_so_yeu_tolien_quan_den_2204_2212157.pdf