Kiến thức – thái độ - Hành vi về sàng lọc trước sinh ở quý I và các yếu tố liên quan của thai phụ tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Thuận

Tài liệu Kiến thức – thái độ - Hành vi về sàng lọc trước sinh ở quý I và các yếu tố liên quan của thai phụ tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Thuận: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 101 KIẾN THỨC – THÁI ĐỘ - HÀNH VI VỀ SÀNG LỌC TRƯỚC SINH Ở QUÝ I VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA THAI PHỤ TẠI TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN TỈNH BÌNH THUẬN Phạm Thu Huyền*, Vũ Thị Nhung** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sàng lọc trước sinh (SLTS) ở quý I thai kỳ bằng xét nghiệm combined test cung cấp cho thai phụ thông tin để họ có thể theo dõi thai kỳ của chính mình, cũng như tình huống phải chấm dứt thai kỳ khi thai kỳ bất thường. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy việc SLTS còn giúp ổn định tâm lý thai phụ. Tuy nhiên, chương trình SLTS vẫn còn nhiều hạn chế do thiếu trang thiết bị và nhân lực thực hiện. Một yếu tố khác cũng gây hạn chế không nhỏ là nhận thức, hiểu biết và thái độ của thai phụ về ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của SLTS chưa được đầy đủ. Vì vậy, cần có một khảo sát về kiến thức, thái độ, hành vi về SLTS trong những đối tượng này để có biện pháp khắc phục những t...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức – thái độ - Hành vi về sàng lọc trước sinh ở quý I và các yếu tố liên quan của thai phụ tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 101 KIẾN THỨC – THÁI ĐỘ - HÀNH VI VỀ SÀNG LỌC TRƯỚC SINH Ở QUÝ I VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA THAI PHỤ TẠI TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN TỈNH BÌNH THUẬN Phạm Thu Huyền*, Vũ Thị Nhung** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sàng lọc trước sinh (SLTS) ở quý I thai kỳ bằng xét nghiệm combined test cung cấp cho thai phụ thông tin để họ có thể theo dõi thai kỳ của chính mình, cũng như tình huống phải chấm dứt thai kỳ khi thai kỳ bất thường. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy việc SLTS còn giúp ổn định tâm lý thai phụ. Tuy nhiên, chương trình SLTS vẫn còn nhiều hạn chế do thiếu trang thiết bị và nhân lực thực hiện. Một yếu tố khác cũng gây hạn chế không nhỏ là nhận thức, hiểu biết và thái độ của thai phụ về ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của SLTS chưa được đầy đủ. Vì vậy, cần có một khảo sát về kiến thức, thái độ, hành vi về SLTS trong những đối tượng này để có biện pháp khắc phục những thiếu sót, qua đó có thể giúp chương trình SLTS đạt hiệu quả cao. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng, thái độ đúng, hành vi đúng về SLTS ở quý I thai kỳ và một số yếu tố liên quan trong nhóm thai phụ có tuổi thai 11 tuần – 13 tuần 6 ngày đến khám thai tại phòng khám thai Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản (TTCSSKSS) tỉnh Bình Thuận. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 383 thai phụ có tuổi thai 11 tuần – 13 tuần 6 ngày đến khám thai tại phòng khám thai TTCSSKSS tỉnh Bình Thuận trong thời gian từ tháng 11/2017 tới tháng 6/2018. Kết quả nghiên cứu: Tỉ lệ thai phụ có kiến thức đúng về SLTS ở quý I thai kỳ: 20,1%, tỉ lệ thai phụ có thái độ đúng về SLTS ở quý I thai kỳ: 30,8%, tỉ lệ thai phụ có hành vi đúng về SLTS ở quý I thai kỳ: 31,9%, những thai phụ có thái độ đúng về SLTS có hành vi đúng gấp 1,9 lần so với nhóm thai phụ có thái độ sai về SLTS, những thai phụ đã từng nghe về SLTS có thái độ đúng gấp 28,9 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS, những thai phụ đã từng nghe về SLTS có hành vi đúng gấp 35,7 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS. Kết luận: Thai phụ tới khám thai tại TTCSSKSS tỉnh Bình Thuận có kiến thức đúng, thái độ đúng và hành vi đúng về SLTS thấp. Mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa thái độ và việc đã từng nghe về SLTS, giữa hành vi với thái độ, giữa hành vi với việc đã từng nghe về SLTS. Từ khóa: kiến thức, thái độ, hành vi, sàng lọc trước sinh ABSTRACT KNOWLEDGE - ATTITUDES - PRACTICE REGARDING PRENATAL SCREENING IN FIRST- TRIMESTER AND SOME RELATED FACTORS FROM REPRODUCTIVE HEALTH CENTER IN BINH THUAN PROVINCE Pham Thu Huyen, Vu Thi Nhung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 101 – 104 Background: The first trimester combined screening (FTS) provides information for pregnant womens to monitor their own pregnancy and terminate pregnancy abnormalities. In addition, studies show that FTS helps to stabilize maternal psychology. However, FTS is still limited due to the lack of equipment and human resource. Another factor is insufficient understanding, attitude and behaviors of pregnant women regarding FTS. Therefore, a survey on knowledge, attitudes and practice regarding FTS should be undertaken to overcome *Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Thuận, **Hội Phụ sản TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Vũ Thị Nhung ĐT: 0903383005 Email: bsvnhung@yahoo.com.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 102 shortcomings, thereby enabling FTS to be highly effective. Objectives: To determine the prevalence of pregnant womens at 11+0 to 13+6 weeks of gestation who sought prenatal care from Reproductive Health Center in Binh Thuan province with adequate knowledge, positive attitude and positive practice regarding FTS and some related factors. Study Design: A cross-sectional study of 383 pregnant women at 11+0 to 13+6 weeks of gestation who sought prenatal care from Reproductive Health Center in Binh Thuan province from November 2017 to June 2018 was conducted. Results: The prevalence of adequate knowledge of pregnant womans regarding FTS was 20.1%, the prevalence of positive attitudes of pregnant womans regarding FTS was 30.8% , the prevalence of positive practice of pregnant womans regarding FTS was 31.9%, the number of positive practices in group of pregnant women having positive attitudes was 1.9 times more than one in group having negative attitudes, the number of positive attitudes in group of pregnant women having heard about FTS was 28.9 times more than one in group having never heard about FTS, the number of positive practices in group of pregnant women having heard about FTS was 35.7 times more than one in group having never heard about FTS. Conclusion: The number of pregnant women receiving prenatal care at Reproductive Health Center in Binh Thuan province is low in terms of having adequate knowledge, positive attitude and positive practice regarding FTS. There is a statistically significant association: between attitudes and having heard about FTS; between practice and attitudes; between practice and having heard about FTS. Key words: knowledge, attitudes, practice, prenatal screening ĐẶT VẤN ĐỀ Trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh (DTBS) chiếm khoảng 2 – 3%, tương đương khoảng 3 triệu trẻ được sinh mỗi năm trên thế giới. Khoảng nửa triệu trẻ trong số đó sẽ chết, số còn lại thường xuyên phải nhập viện vì các dị tật hoặc các biến chứng liên quan. Số trẻ này thường chiếm 15 – 30% trong tổng số bệnh nhi nhập viện và đòi hỏi một chi phí điều trị cao hơn so với những nguyên nhân nhập viện khác. Thêm vào đó, cả tỷ lệ tử vong và gánh nặng bệnh tật đều có một tác động rất lớn đến gia đình bệnh nhân và xã hội(3). Với sự ra đời của siêu âm vào những năm 1970 và việc sử dụng nó một cách thường xuyên trong các lần khám thai, những tiến bộ trong siêu âm và các ngành công nghệ y học khác như phân tích di truyền, xét nghiệm sinh hóa đã mở đường cho việc SLTS. Hiện này, tỉnh Bình Thuận mới chỉ có hai trung tâm lớn thực hiện được chương trình SLTS ở quý I thai kỳ bằng phương pháp combined test, bao gồm một Bệnh viện tư nhân thực hiện từ năm 2009 và TTCSSKSS tỉnh Bình Thuận thực hiện từ năm 2016. Trong năm 2016, trung tâm đã khám thai cho 19385 thai phụ, thực hiện SLTS cho 1316 ca, trong đó phát hiện 46 ca (chiếm 3,5%) có kết quả STLS là thai kỳ nguy cơ cao. Mặc dù chương trình SLTS ngày càng được phát triển và mở rộng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do thiếu trang thiết bị và nhân lực thực hiện. Một yếu tố khác cũng gây hạn chế không nhỏ là nhận thức, hiểu biết và thái độ của thai phụ về ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của SLTS chưa được đầy đủ. Vì vậy, cần có một khảo sát về kiến thức, thái độ, hành vi của thai phụ đối với SLTS để có biện pháp khắc phục những thiếu sót, qua đó có thể giúp chương trình SLTS đạt hiệu quả cao. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng, thái độ đúng và hành vi đúng về SLTS ở quý I thai kỳ trong nhóm thai phụ có tuổi thai 11 tuần – 13 tuần 6 ngày đến khám thai tại phòng khám thai TTCSSKSS tỉnh Bình Thuận. Xác định các yếu tố liên quan với kiến thức đúng, thái độ đúng, hành vi đúng về SLTS ở quý I thai kỳ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 103 ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang. Tham khảo theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Phương Tâm (2013), tỉ lệ kiến thức đúng p=53,3%, tỉ lệ thái độ đúng p=87,7%; tác giả Hà Quốc Đạt (2014), tỉ lệ hành vi đúng p=88,9% với độ tin cậy 95% α sẽ là 5%, với trị số giới hạn của độ tin cậy Z = 1,96, độ chính xác d=0,05 đưa vào cách tính mẫu được số mẫu là 383 thai phụ. Tiêu chuẩn chọn mẫu là những thai phụ có tuổi thai 11 tuần – 13 tuần 6 ngày đến khám thai tại phòng khám thai TTCSSKSS tỉnh Bình thuận và chưa được SLTS. Số liệu được nhập vào máy tính và xử lý bằng phần mềm STATA 12.0. Tỉ lệ thai phụ có kiến thức đúng, thái độ đúng và hành vi đúng về SLTS được tính theo tỉ lệ %. Xác định các yếu tố liên quan bằng kiểm χ2, Fisher và hồi quy logistic với ngưỡng có ý nghĩa thống kê là p < 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng 6/2018, có 383 thai phụ có tuổi thai từ 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày đến khám thai tại phòng khám thai của TTCSSKSS tỉnh Bình Thuận được chọn vào nghiên cứu. Trong đó, tuổi trung bình là 28,2 ±5,8 tuổi, đa số thuộc nhóm từ 26 tới 34 tuổi (48,6%), chủ yếu có trình độ học vấn trên cấp 1, dân tộc Kinh chiếm đa số với tỷ lệ 95,6%, số thai phụ theo đạo Phật chiếm 44,6%, đa số là các thai phụ ở huyện tới khám thai (65,5%), có 40,5% thai phụ chưa sinh con lần nào. Trong tổng số các thai phụ được khảo sát, chỉ có 10,7% thai phụ đã từng được làm SLTS, 35,5% thai phụ từng nhận được thông tin về chương trình SLTS. Kiến thức về SLTS Các đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) được đánh giá là có kiến thức đúng khi trả lời đúng từ 9/14 câu hỏi trở lên (Bảng 1). Trong tổng số thai phụ tham gia nghiên cứu, chỉ có 20,1% thai phụ có kiến thức đúng về SLTS. Kiến thức hiểu biết về nội dung các xét nghiệm cần làm để chẩn đoán xác định thai bị DTBS là thấp nhất (8,1%). Kiến thức hiểu biết về thời điểm thực hiện SLTS ở quý I thai kỳ là cao nhất (31,8%). Thái độ về SLTS. Các ĐTNC được đánh giá là có thái độ đúng khi trả lời đúng từ 3/5 câu hỏi trở lên (Bảng 2). Trong tổng số thai phụ tham gia nghiên cứu, chỉ có 30,8% thai phụ có thái độ tích cực về SLTS. Thái độ về việc đồng ý thực hiện SLTS không gây ảnh hưởng tới sức khỏe thai nhi chiếm tỉ lệ thấp nhất (27,2%). Thái độ về việc đồng ý tiếp tục thai kỳ trong những trường hợp thai bất thường có thể chữa được sau khi sinh có tỉ lệ cao nhất (78,6%) (Bảng 2). Hành vi về SLTS Các ĐTNC được đánh giá là có hành vi đúng khi trả lời đúng cả 2 câu hỏi (Bảng 3). Đa số các đối tượng phân vân không biết có nên làm SLTS không (59,5%). Tuy nhiên, sau khi được nghe nhân viên y tế tư vấn về SLTS, số thai phụ chấp nhận thực hiện SLTS tăng từ 34,2% lên tới 85,1%, hành vi đúng về SLTS của các thai phụ tăng từ 31,9% lên tới 80,7%. Bảng 1: Kiến thức về SLTS Đặc tính Đúng Sai n % n % Kiến thức về việc biết những thai phụ nào có thể sinh con bị DTBS 59 15,4 324 84,6 Kiến thức về mục đích của SLTS 96 25,1 287 74,9 Kiến thức về giới hạn của SLTS 72 18,8 311 81,2 Kiến thức về thời điểm thực hiện SLTS ở quý I thai kỳ 122 31,8 261 68,2 Kiến thức về nội dung các xét nghiệm SLTS trong quý I thai kỳ 120 31,3 263 68,7 Kiến thức về cách đọc kết quả SLTS là nguy cơ cao 80 20,9 303 79,1 Kiến thức về cách đọc kết quả SLTS là nguy cơ thấp 66 17,2 317 82,8 Kiến thức về xử lý kết quả SLTS là nguy cơ cao 89 23,2 294 76,8 Kiến thức về xét nghiệm cần để chẩn đoán xác định thai bị DTBS 31 8,1 352 91,9 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 104 Đặc tính Đúng Sai n % n % Kiến thức về tai biến của chọc ối hoặc sinh thiết gai nhau 49 12,8 334 87,2 Kiến thức về quản lý thai kỳ nguy cơ cao 101 26,4 282 73,6 Kiến thức về quyền lựa chọn CDTK 91 23,8 292 76,2 Kiến thức về tầm quan trọng của SLTS 84 21,9 299 78,1 Kiến thức về ảnh hưởng tâm lý của việc thực hiện SLTS 83 21,7 300 78,3 Kiến thức về SLTS 77 20,1 306 79,9 (KTC 95%) (0,16-0,24) Bảng2: Thái độ về TVTTKC Đặc tính Đúng Sai n % n % Thái độ về sự cần thiết của SLTS ở quý I thai kỳ 126 32,9 257 67,1 Thái độ về sự an tâm về sức khỏe thai nhi khi được SLTS ở quý I thai kỳ 104 27,1 279 72,9 Thái độ về việc thực hiện chọc ối hoặc sinh thiết gai nhau nếu kết quả SLTS là thai kỳ nguy cơ cao 107 27,9 276 72,1 Thái độ về việc CDTK ở những trường hợp thai bất thường có thể chữa được sau khi sinh ra 301 78,6 82 21,4 Thái độ về việc CDTK ở những trường hợp thai bất thường không thể chữa được sau khi sinh ra 178 46,5 205 53,5 Thái độ về SLTS 118 30,8 265 69,2 (KTC 95%) (0,26-0,36) Bảng 3: Hành vi về TVTTKC Đặc tính Tần số (N=383) Tỉ lệ (%) Đồng ý làm xét nghiệm SLTS cho con mình ở quý I thai kỳ Có 131 34,2 Không 24 6,3 Lý do không làm SLTS (N=24) Chưa đủ điều kiện 1 4,2 Đứa trước bình thường nên đứa này bình thường 3 12,5 Gia đình không có ai bị dị tật bẩm sinh nên sinh con bình thường 3 12,5 Sinh con bị dị tật vẫn nuôi 15 62,5 Thuận theo tự nhiên 2 8,3 Không biết 228 59,5 Sau khi nghe cán bộ y tế tư vấn, đồng ý làm xét nghiệm SLTS cho con mình ở quý I thai kỳ Có 326 85,1 Không 36 9,4 Không biết 21 5,5 Đồng ý tuyên truyền về SLTS cho mọi người cùng biết 312 81,7 Hành vi đúng trước khi nhận được thông tin về SLTS 122 31,9 (KTC 95%) (0,27-0,37) Hành vi đúng sau khi nhận được thông tin về SLTS 309 80,7 Phân tích mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, hành vi với nhau và với các yếu tố ảnh hưởng Kiến thức đúng về SLTS cao hơn ở nhóm thai phụ làm viên chức nhà nước (PR=1,7), sống tại thành phố (PR=1,9), không theo đạo (PR=1,9), hiện tại có một con (PR=1,6), đã từng làm SLTS (PR=6,1), nhận thông tin về SLTS từ bác sĩ và nhân viên y tế (PR=1,7), nhận thông tin về SLTS từ phương tiện truyền thông đại chúng (PR=1,6). Thái độ đúng về SLTS cao hơn ở nhóm thai phụ không theo đạo (PR=1,7), đã từng làm SLTS (PR=3,8), từng nghe về SLTS (PR=33,9). Hành vi đúng về SLTS thấp hơn ở nhóm thai phụ theo đạo Phật (PR=0,6), cao hơn ở nhóm thai Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 105 phụ đã từng làm SLTS (PR=3,8), từng nghe về SLTS (PR=57,7). Nhóm thai phụ có kiến thức đúng về SLTS có thái độ đúng về SLTS gấp 6,0 lần so với nhóm thai phụ có kiến thức sai về SLTS. Nhóm thai phụ có kiến thức đúng về SLTS có hành vi đúng về SLTS gấp 5,0 lần so với nhóm thai phụ có kiến thức sai về SLTS. Nhóm thai phụ có thái độ đúng về SLTS có hành vi đúng về SLTS gấp 15,1 lần so với nhóm thai phụ có thái độ sai về SLTS. Khi đưa các yếu tố vào phân tích đa biến, ta thấy: không còn yếu tố nào liên quan tới kiến thức về SLTS, những thai phụ đã từng nghe về SLTS có thái độ đúng gấp 28,9 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS, những thai phụ đã từng nghe về SLTS có hành vi đúng gấp 35,7 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS, những thai phụ có thái độ đúng về SLTS có hành vi đúng gấp 1,9 lần so với nhóm thai phụ có thái độ sai về SLTS. BÀN LUẬN Mẫu nghiên cứu này không đại diện cho cộng đồng dân số của toàn tỉnh Bình Thuận, mà chỉ đại diện cho cộng đồng thai phụ đến khám thai tại TTCSSKSS tỉnh Bình Thuận. Vì thế, kết quả nghiên cứu chưa thể áp dụng cho cộng đồng dân số Bình Thuận mặc dù cũng đạt được một số kết quả có thể dùng để tham khảo. Tỷ lệ người có kiến thức đúng về SLTS trong nghiên cứu này là 20,1%. Kết quả này có sự khác biệt rất lớn với kết quả nghiên cứu của tác giả Hà Quốc Đạt (hiểu biết đầy đủ: 4,1%, hiểu biết một phần: 47,7%)(1,2), thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thị Phương Tâm (53,3%)(4), Trần Văn Trị (38%)(6), Schoonen M. (89%)(5). Do các nghiên cứu sử dụng các bộ câu hỏi khác nhau và thang đo đánh giá kiến thức chung về SLTS của các thai phụ cũng khác nhau nên kết quả so sánh chỉ có tính chất tương đối. Kiến thức về từng yếu tố của SLTS thấp do trong nghiên cứu này chỉ có 35,5% thai phụ đã từng nghe về SLTS. Kết quả cũng chỉ ra rằng số thai phụ đã từng nghe về SLTS có hiểu biết rất sơ sài. Điều này có nghĩa là ngoài việc tuyên truyền SLTS chưa được phổ biến rộng rãi thì việc tuyên truyền SLTS cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả cao. Tỷ lệ người có thái độ đúng về SLTS là 30,8%, thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thị Phương Tâm (88,7%)(4), Youssef RENE (77,5%)(9), Schoonen M (51,3%)(5). Do các đối tượng tham gia nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thị Phương Tâm(4), Youssef RENE(9), Yanikkerem E(8), Ternby E(7), Schoonen M(5) đều nhận được thông tin về STLS trước khi trả lời bảng khảo sát về thái độ nên thái độ với SLTS tích cực hơn so với các thai phụ trong nghiên cứu này. Mặt khác, việc quyết định chấm dứt thai kỳ (CDTK) còn tùy thuộc vào từng tôn giáo và mỗi nơi thực hiện khảo sát có đặc điểm tôn giáo hoàn toàn khác nhau. Sau khi được nghe nhân viên y tế tư vấn đầy đủ về SLTS, số thai phụ đồng ý làm xét nghiệm SLTS cho con mình ở quý I thai kỳ tăng từ 34,2% lên 85,1%. Đa số lý do không thực hiện là do thai phụ vẫn quyết định nuôi bất kể con bị DTBS. Điều này xuất phát một phần từ tình cảm mẹ con. Họ cho rằng dù có ra sao họ cũng chăm sóc và yêu thương con của mình. Đây là truyền thống văn hóa của Phương Đông. Một lý do khác góp phần vào tỷ lệ không chấp nhận SLTS, chấp nhận nuôi con bị DTBS là sự nghiêm cấm của giáo lý Phật giáo và Thiên Chúa giáo không muốn CDTK khi có chỉ định y khoa. Có 81,7% thai phụ đồng ý tuyên truyền về SLTS cho mọi người cùng biết. Điều này rất cần thiết vì thai phụ chính là nguồn nhân lực tuyên truyền đông đảo lại tạo được tin tưởng vì chính bản thân đã làm SLTS. Nhóm thai phụ làm viên chức nhà nước có tỉ lệ kiến thức đúng về SLTS gấp 1,7 lần so với nhóm thai phụ làm nghề khác (nội trợ, thợ may,thợ cắt tóc,...). Nhóm thai phụ làm viên chức nhà nước có công việc ổn định, thu nhập từ mức trung bình trở lên, cùng với đó là khả năng nhận thức cao nên họ có thể dễ dàng tiếp Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 106 cận và hiểu các thông tin về chương trình SLTS từ nhiều nguồn thông tin. Những thai phụ sống tại thành phố có tỷ lệ kiến thức đúng về SLTS gấp 1,9 lần so với nhóm thai phụ sống tại các huyện. Thai phụ sống tại thành phố có điều kiện được tiếp xúc với các chương trình chăm sóc y tế đầy đủ hơn, được tuyên truyền thông tin nhiều hơn nên sẽ có kiến thức đầy đủ hơn. Nhóm thai phụ không theo đạo có tỉ lệ kiến thức đúng gấp 1,9 lần, thái độ đúng gấp 1,7 lần so với nhóm thai phụ theo đạo Phật. Nhóm thai phụ theo đạo Phật có hành vi đúng về SLTS giảm 40% so với nhóm thai phụ không theo đạo. Xuất phát từ văn hóa truyền thống Phương Đông, những thai phụ theo đạo Phật thường không muốn chấm dứt thai kỳ nếu phát hiện thai bị DTBS không thể chữa được sau khi sinh. Nhóm thai phụ hiện tại có một con có kiến thức đúng về SLTS gấp 1,6 lần so với nhóm thai phụ chưa có con. Nhóm thai phụ đã có một con đã có kinh nghiệm về việc mang thai, cơ hội được tiếp xúc với chương trình SLTS nhiều hơn. Mặt khác, đa số thai phụ thuộc nhóm này có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên nên có khả năng tiếp nhận kiến thức về SLTS. Còn đối với nhóm thai phụ đã có đủ từ 2 con trở lên, do đa số thai phụ thuộc nhóm này có trình độ văn hóa từ cấp 2 trở xuống nên khả năng tiếp nhận kiến thức về SLTS bị hạn chế. Nhóm thai phụ đã từng làm SLTS có kiến thức đúng về SLTS gấp 6,1 lần, thái độ đúng gấp 3,8 lần, hành vi đúng gấp 3,8 lần so với nhóm thai phụ chưa từng làm SLTS. Do đã từng làm SLTS ở thai kỳ trước nên nhóm thai phụ này hiểu được tầm quan trọng của SLTS, vì thế có thái độ đúng hơn về SLTS, dễ dàng chấp nhận thực hiện SLTS hơn. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,05 giữa kiến thức về SLTS và từng nghe về SLTS. Ngoài ra cũng ghi nhận nhóm thai phụ đã từng nghe về SLTS có thái độ đúng gấp 33,9 lần, hành vi đúng gấp 57,7 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS. Những thai phụ đã từng nhận được thông tin về SLTS sẽ có kiến thức đúng nhiều hơn, từ đó sẽ có thái độ đúng và hành vi đúng nhiều hơn. Nhóm thai phụ nhận thông tin về SLTS từ người thân có hành vi đúng về SLTS cao nhất (96,8%). Do tâm lý của người nhận được thông tin từ người thân sẽ có cảm giác tin tưởng nên mặc dù có thể chưa hiểu biết đầy đủ về SLTS nhưng các thai phụ vẫn thực hiện SLTS cho con của mình. Nhóm thai phụ tự tìm hiểu thông tin về SLTS có hành vi đúng về SLTS thấp nhất (75,0%). Đa số đối tượng tham gia nghiên cứu có trình độ học vấn từ cấp 3 trở xuống nên khả năng tự tìm hiểu thông tin về SLTS sẽ không được đầy đủ. Vì nhận thức hạn chế và chưa đầy đủ nên sẽ dẫn tới quyết định không đúng đắn về SLTS. Nhóm thai phụ có kiến thức đúng về SLTS có thái độ đúng về SLTS gấp 6,0 lần so với nhóm thai phụ có kiến thức sai về SLTS. Nhóm thai phụ có kiến thức đúng về SLTS có hành vi đúng về SLTS gấp 5,0 lần so với nhóm thai phụ có kiến thức sai về SLTS. Nhóm thai phụ có thái độ đúng về SLTS có hành vi đúng về SLTS gấp 15,1 lần so với nhóm thai phụ có thái độ sai về SLTS. Nhìn chung, các thai phụ có kiến thức đúng về SLTS sẽ có thái độ đúng về STLS, từ đó sẽ dẫn tới hành vi đúng về SLTS. Đây là cơ sở để y tế nói chung tại tỉnh Bình Thuận và nói riêng tại các huyện, xã trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh truyền thông, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho người dân về SLTS. Từ đó, người dân có thái độ đúng và hành vi đúng về SLTS. Khi phân tích đa biến, ta không thấy yếu tố nào liên quan tới kiến thức về SLTS. Điều này có thể do cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ và năng lực mẫu không đủ để phân tích đa biến. Những thai phụ đã từng nghe về SLTS có thái độ đúng gấp 28,9 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS. Những thai phụ đã từng nghe về SLTS có hành vi đúng gấp 35,7 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS. Những thai phụ có thái độ đúng về SLTS có hành vi đúng gấp 1,9 lần so Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 107 với nhóm thai phụ có thái độ sai về SLTS. KẾT LUẬN Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng về sàng lọc trước sinh ở quý I thai kỳ tại TTCSSKSS tỉnh Bình Thuận là 20,1%, thái độ đúng là 30,8%, hành vi đúng là 31,9%. Những thai phụ đã từng nghe về SLTS có thái độ đúng gấp 28,9 lần so với nhóm thai phụ chưa từng nghe về SLTS. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thái độ về SLTS, đã từng nghe về SLTS với hành vi về SLTS. Cần nâng cao hiểu biết của nhân viên y tế về sàng lọc trước sinh để hướng dẫn các thai phụ tham gia chương trình tầm soát lệch bội. Đồng thời, cần tập trung phương pháp tuyên truyền, giáo dục về sàng lọc trước sinh cho thai phụ ở vùng sâu vùng xa, cần đa dạng hóa các hình thức truyền thông giáo dục sức khỏe, nội dung giáo dục về sàng lọc trước sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Eroglu K, Daack-Hirsch S, Akyüz A et al (2016). "Women's knowledge and utilization of prenatal screening tests: A Turkish study". URL: https://pearl.plymouth.ac.uk/handle/10026.1/8084. 2. Hà Quốc Đạt (2014). "Tỉ lệ thai phụ chấp nhận sàng lọc trước sinh và các yếu tố liên quan, tại Bệnh viện thống nhất Đồng Nai". Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, pp.68-94. 3. Mazer P, Gischler S. J, Koot H. M et al (2008). "Impact of a child with congenital anomalies on parents (ICCAP) questionnaire; a psychometric analysis". Health and Quality of Life Outcomes, 6(1):pp.102. 4. Nguyễn Thị Phương Tâm (2013). "Kiến thức - thái độ - thực hành của thai phụ về sàng lọc trước sinh tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An". Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, pp.59-73. 5. Schoonen M, Wildschut H, Essink-Bot ML et al (2012). "The provision of information and informed decision-making on prenatal screening for Down syndrome: a questionnaire-and register-based survey in a non-selected population". Patient Education and Counseling, 8(3):pp.351-359. 6. Ternby E, Ingvoldstad C, Annerén G et al (2015). "Information and knowledge about Down syndrome among women and partners after first trimester combined testing". Acta obstetricia et gynecologica Scandinavica, 94(3):pp.329-332. 7. Trần Văn Trị (2012). "Kiến thức, thái độ, thực hành của thai phụ về chương trình sàng lọc trước sinh tại 05 quận - huyện thành phố Hồ Chí Minh". Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, pp.60-84. 8. Yanikkerem E, Ay S, Çiftçi A. Y et al (2013). "A survey of the awareness use and attitudes of women towards Down syndrome screening". Journal of Clinical Nursing, 22(11- 12):pp.1748-1758. 9. Youssef RENE, El-Weshahi HT, Ashry MH (2017). "Knowledge, attitudes and beliefs of women in the reproductive age towards prenatal screening for congenital malformations, Alexandria- Egypt". International Journal of Reproduction, Contraception, Obstetrics and Gynecology, 6(5):pp.1707-1712. Ngày nhận bài báo 30/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_thai_do_hanh_vi_ve_sang_loc_truoc_sinh_o_quy_i_va.pdf
Tài liệu liên quan