Kiến thức, thái độ, hành vi phòng chống sốt xuất huyết của người dân sống tại Bình Dương năm 2018 và các yếu tố liên quan

Tài liệu Kiến thức, thái độ, hành vi phòng chống sốt xuất huyết của người dân sống tại Bình Dương năm 2018 và các yếu tố liên quan: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 237 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT CỦA NGƯỜI DÂN SỐNG TẠI BÌNH DƯƠNG NĂM 2018 VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Huỳnh Thanh Hà*, Nguyễn Bình Phương**, Nguyễn Văn Chinh*, Trần Tấn Tài* TÓM TẮT Đặt vấn đề Những nhận định về kiến thức, thái độ về phòng chống sốt xuất huyết và hành vi tự phòng bệnh của người dân trên địa bàn tỉnh Bình Dương còn mang tính chủ quan và chưa có số liệu định lượng chứng minh cụ thể. Mục tiêu Xác định tỷ lệ người dân trên địa bàn tỉnh Bình Dương có kiến thức, thái độ, hành vi đã thực hiện về phòng chống sốt xuất huyết năm 2018 và các yếu tố liên quan đến thói quen vệ sinh môi trường của người dân. Phương pháp Thiết kế cắt ngang mô tả được sử dụng trong việc phỏng vấn người dân; người thu thập dữ kiện là cán bộ phụ trách chương trình phòng chống sốt xuất huyết của Trạm Y tế, Trung tâm Y tế huyện/thị/thành phố thực hiện giám sát ...

pdf9 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ, hành vi phòng chống sốt xuất huyết của người dân sống tại Bình Dương năm 2018 và các yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 237 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT CỦA NGƯỜI DÂN SỐNG TẠI BÌNH DƯƠNG NĂM 2018 VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Huỳnh Thanh Hà*, Nguyễn Bình Phương**, Nguyễn Văn Chinh*, Trần Tấn Tài* TÓM TẮT Đặt vấn đề Những nhận định về kiến thức, thái độ về phòng chống sốt xuất huyết và hành vi tự phòng bệnh của người dân trên địa bàn tỉnh Bình Dương còn mang tính chủ quan và chưa có số liệu định lượng chứng minh cụ thể. Mục tiêu Xác định tỷ lệ người dân trên địa bàn tỉnh Bình Dương có kiến thức, thái độ, hành vi đã thực hiện về phòng chống sốt xuất huyết năm 2018 và các yếu tố liên quan đến thói quen vệ sinh môi trường của người dân. Phương pháp Thiết kế cắt ngang mô tả được sử dụng trong việc phỏng vấn người dân; người thu thập dữ kiện là cán bộ phụ trách chương trình phòng chống sốt xuất huyết của Trạm Y tế, Trung tâm Y tế huyện/thị/thành phố thực hiện giám sát việc thu thập dữ liệu từ nhân viên các Trạm Y tế. Kết quả Chỉ 39,5% người dân tiếp nhận thông tin từ tờ gấp/tờ bướm; chỉ 1,3% người dân nhận thức rằng nhiệm vụ phòng chống sốt xuất huyết là nhiệm vụ của từng cá nhân; có 82,8% người dân duy trì hành vi ngủ màn, 66,6% thường loại bỏ dụng cụ phế thải quanh nhà, 48,8% gia đình đậy kín lu/chum/vại, 46,2% thường xuyên thay nước lọ hoa, khoảng 40% khai thông cống rãnh và 26,1% từng đề nghị hàng xóm phối hợp thực hiện các biện pháp vệ sinh môi trường,có 55,4% sử dụng hóa chất để diệt/xua muỗi. So với người 18-24 tuổi, các nhóm tuổi khác có tỷ lệ thực hiện vệ sinh môi trường cao hơn là có ý nghĩa thống kê (p<0,05); tương tự với người đã từng có người thân mắc bệnh sẽ thực hiện vệ sinh môi trường cao gấp 1,50 lần (KTC95%: 1,11-1,98) so với người chưa từng có người thân mắc bệnh; những người biết Nghị định 176/NĐ-CP có tỷ lệ thực hiện vệ sinh môi trường cao gấp 1,70 lần (KTC95%: 1,23-2,34) so với những người không biết. Chỉ những người cho rằng bệnh sốt xuất huyết là “rất nguy hiểm cho mình” hoặc “rất nguy hiểm cho cộng đồng” thì mới có hành vi vệ sinh môi trườngtốt hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với những người không xem sốt xuất huyết là bệnh nguy hiểm. Đồng thời, chỉ những người “rất đồng ý” mới có hành vi vệ sinh môi trường tốt hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với những người không đồng ý. Kết luận Đẩy mạnh việc thực thi Nghị định 176/NĐ-CP là 1 trong những yếu tố làm tăng sự tuân thủ của người dân trong việc thực hiện vệ sinh môi trường xung quanh Từ khóa Sốt xuất huyết, vệ sinh môi trường ABTRACT KNOWLEDGE, ATTITUDE, BEHAVIOURS IN PREVENTING DENGUE FEVER OF PEOPLE LIVING IN BINH DUONG IN 2018 AND RELATED FACTORS Huynh Thanh Ha, Nguyen Binh Phuong, Nguyen Van Chinh, Tran Tan Tai * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 237-245 Background: Knowledge, attitude regarding preventing Dengue Fever and self-protecting behaviors of people living in Binh Duong province is mainly subjective and has not having any proved quantity data. * Sở Y tế Bình Dương **Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Bình Dương Tác giả liên lạc: ThS Nguyễn Văn Chinh ĐT: 0988341427 Email: Vanchinhcc@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 238 Objective: This study aims to identify the proportion of people living in Binh Duong province having the knowledge, attitude, behaviors have been done to prevent dengue fever in 2018 and relevant factors to the practice of people’s environmental hygiene. Method: Description- Cross sectional study is used in interviewing people; data is collected by community health station- officer responsible for the dengue fever preventing program. Health Center in Town/Province oversees the data collecting process. Results: Only 39.5% people receive information from brochures/leaflets; only 1.3% people know that dengue fever prevention is themselves mission. Approximately 82.8% people sleep in net, 66.6% people always eliminate broken – things around house, 48.8% household cover the water – containing things, and 46.2% household often replace the water in vase, about 40% clear the drain obstruction, 26.1% asked the neighbor corporation in implementing environmental hygiene activities, 55.4% use chemicals to kill/keep away from mosquitos. Comparing to people at the age from 18-24, other groups have the proportion of practicing environment hygiene higher with statistical significance (p<0.05); similar to people those have relatives diagnosed with dengue fever, they practice environmental hygiene activities 1.50 time higher (CI 95%: 1.11-1.98) than those who never have had any relatives diagnosed with dengue fever. People who know the Decree 176/NĐ-CP have the proportion of practicing environmental hygiene activities 1.70 times higher than those do not know the Decree. People who think that dengue fever is very dangerous for themselves or is very dangerous for the community have the behavior of environmental hygiene better with statistical significance (p< 0.05) than those thought that dengue fever is not dangerous. In parallel, people who are “very agree” will have the behavior of environmental hygiene better with statistical significance (p<0.05) than whom say, “do not agree”. Conclusion Boosting the implementation of Decree 176/NĐ-CP is one of the factors increasing the compliance of people in practicing surrounding environmental hygiene. Key words: Dengue Fever, environmental hygiene ĐẶT VẤN ĐỀ Bình Dương là một trong những khu vực kinh tế năng động và gia tăng nhanh dân số do yếu tố cơ học là chủ yếu; tình trạng di dân tự do làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp như nhà ở, việc làm, nước sạch, vệ sinh môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân v.v. “Chiến dịch Tổng vệ sinh môi trường và truyền thông phòng chống sốt xuất huyết, tay chân miệng và zika” triển khai từ năm 2012 đến nay huy động toàn xã hội tham gia với nhiều hoạt động, trong đó công tác vệ sinh môi trường và truyền thông phòng chống các bệnh dịch đã có hiệu quả góp phần nâng cao kiến thức, chuyển biến thái độ và thay đổi hành vi theo hướng có lợi cho việc phòng bệnh cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, tình hình sốt xuất huyết của tỉnh Bình Dương vẫn diễn tiến khó lường, chu kỳ dịch rút ngắn và số trung bình trong 1 chu kỳ cao hơn giai đoạn trước đây (2017 là 404 ca/100.000 dân, 2018 là 382 ca/100.000 dân), ở mức cao so với trung bình cả nước và các năm trước đây (78 ca/100.000 dân vào năm 2011(6). Nhiều tồn tại trong công tác phòng chống dịch bệnh với nhiều nguyên nhân được nhận định như hiệu quả phối hợp liên ngành chưa cao; cộng tác viên chưa làm hết chức trách nhiệm vụ, chỉ chú trọng phát tờ rơi, kiểm tra dụng cụ chứa nước hộ gia đình quá qua loa, chưa tích cực tuyên truyền; công tác tuyên truyền tuy rầm rộ, nhiều hình thức nhưng mức độ tiếp nhận thông tin của người dân vẫn chưa cao v.v.(5); đánh giá về kiến thức, thái độ của người dân về phòng chống sốt xuất huyết khá chủ quan, báo cáo về hành vi của người dân trong việc tự phòng chống sốt xuất huyết thiếu định lượng khách quan, trìn h bày thiên về nhận định chủ quan của chuyên trách. Từ những lý do nêu trên, để có giải pháp tốt hơn trong công tác phòng chống Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 239 sốt xuất huyết phù hợp với thực tiễn,nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu như sau: Mục tiêu Xác định tỷ lệ người dân trên địa bàn tỉnh Bình Dương có kiến thức, thái độ, hành vi đã thực hiện về phòng chống sốt xuất huyết năm 2018 và các yếu tố liên quan đến thói quen vệ sinh môi trường của người dân. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế cắt ngang mô tả thông qua phỏng vấn người dân và quan sát thực tế hộ gia đình về kiến thức (đặc điểm truyền bệnh, hiểu biết về qui định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, giải pháp phòng chống,), thái độ (mức độ nguy hiểm, mức độ chấp nhận các biện pháp tự phòng bệnh như ngủ màn, đậy kín vật chứa nước, vệ sinh môi trường xung quanh, biện pháp tiêu diệt muỗi và xử phạt hành chính) và hành vi (ngủ màn/mùng, loại bỏ vật chứa nước xung quanh, vệ sinh và đậy kín dụng cụ chứa nước, thay nước lọ hoa, sử dụng hóa chất diệt muỗi và huy động người khác cùng tham gia v.v). Thu thập dữ kiện từ tháng 5/2018 đến tháng 08/2018 tại tất cả các xã/phường/thị trấn trên địa bàn toàn tỉnh Bình Dương với cỡ mẫu 578 được tính dựa trên công thức ước lượng một tỷ lệ với tỷ lệ người dân có hành vi đúng là 50%, sai lầm loại I trong nghiên cứu là 5%, sai số cho phép là 5% và hệ số thiết kế là 1,5 nên cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 578 người. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc phân bố số liệu mẫu cần phải lấy tại mỗi xã/phường/thị trấn là 7 người (ước cỡ mẫu thu thập đủ là 637 người). Kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện được sử dụng; cụ thể như sau: Mỗi xã/phường/thị trấn lựa chọn 7 hộ gia đình (mỗi nhà riêng biệt được xem như 1 hộ) để phỏng vấn về phòng chống sốt xuất huyết của người dân trên địa bàn tỉnh. Cách thức chọn hộ gia đình như sau: Từ UBND xã/phường/thị trấn đi về phía bên phải 1 km, theo trục đường, chọn nhà đầu tiên; chọn hộ thứ 2 là nhà thứ 2 nằm trong đường hẻm/đường cắt ngang trục đường (đầu tiên) kể từ hộ 1 (bên phải của hướng đi); chọn hộ thứ 3 trở đi: cứ cách một hộ (kể từ hộ 2), chọn một hộ cho đến khi đủ 07 hộ theo yêu cầu (trường hợp hộ không có ai ở nhà thì chọn hộ kế tiếp, nếu là khu nhà trọ thì chọn phòng cuối cùng của khu nhà trọ, gặp hẻm cùng/cụt thì quay lại và trình tự chọn áp dụng như hướng dẫn). Người đầu tiên trên 16 tuổi trong hộ mà nhân viên y tế tiếp cận đầu tiên là người được chọn phỏng vấn. Tất cả các dữ kiện được nhập bằng phần mềm Epidata 3.0 và xử lý bằng phầm mềm Stata 10.0. Tất cả dữ liệu được trình bày bằng tần số và tỷ lệ %, sử dụng phép kiểm chi bình phương và giá trị PR được sử dụng để đo lường mức độ liên quan, với p<0,05 xác định có mối liên quan. Nghiên cứu không tác động xấu lên thân thể và tinh thần của đối tượng. Chỉ thực hiện trên đối tượng đã đồng ý tự nguyện tham gia sau khi đã giải thích rõ mục đích nghiên cứu, có khả năng trả lời các câu hỏi. Thông tin cung cấp không ghi nhận tên, địa chỉ người phỏng vấn. Điều tra viên là cán bộ phụ trách dự án phòng chống sốt xuất huyết của Trạm Y tế, Trung tâm Y tế huyện/thị/thành phố đã được hướng dẫn. Giám sát viên Sở Y tế thực hiện giám sát việc thu thập dữ liệu. KẾT QUẢ Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=598) Đặc điểm Tần số (tỷ lệ%) Nam giới 282(47,2) Dân tộc kinh 563(95,3) Nhóm tuổi 18-24 40(6,7) 25-34 103(17,3) 35-44 132(22,2) 45-54 167(28,1) 55-64 113(19,0) >64 39(6,6) Nghề nghiệp Công nhân viên nhà nước 68(11,4) Nhân viên phi chính phủ 73(12,3) Tự làm chủ 241(40,5) Học sinh/sinh viên 15(2,5) Nội trợ 13(2,2) Nghỉ hưu 102(17,1) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 240 Đặc điểm Tần số (tỷ lệ%) Phụ thuộc/thất nghiệp 83(14,0) Hộ khẩu thường trú 484(81,6) Thu nhập dưới 2 triệu 25(4,4) Có trẻ em trong nhà (dưới 15 tuổi) 343(58,0) Vị trí nhà Nằm trục đường nhựa 210(35,6) Khác (đường hẻm, khu nhà trọ v.v) 380(64,4) Người thân mắc bệnh (cha mẹ, con, anh/chị/em v.v ) 226(37,8) Nam giới trong nghiên cứu là 47,2% và dân tộc kinh chiếm đa số; nhóm tuổi 18-24 chỉ chiếm 6,7%, nhóm trên 64 tuổi chiếm 6,6% và nhóm từ 45-54 tuổi chiếm cao hơn các nhóm khác chiếm 28,1%. Trong khi đó, nhóm người sống phụ thuộc/thất nghiệp chiếm 14% thì nhóm tự làm chủ chiếm tỷ lệ cao nhất 40,5% và nhóm nghề chiếm tỷ lệ thấp nhất là nội trợ chỉ chiếm 2,2%. Hầu hết có hộ khẩu thường trú chiếm 81,6%, nhóm có thu nhập dưới 2 triệu/tháng chiếm 4,4%. Khoảng hơn ½ đối tượng tham gia nghiên cứu có trẻ em dưới 15 tuổi trong nhà và 35,6% có vị trí nhà nằm trên trục đường nhựa. Có đến 37,8% người tham gia nghiên cứu đã từng có người thân mắc bệnh (Biểu đồ 1). Biểu đồ 1. Tỷ lệ người dân có nghe về bệnh sốt xuất huyết, nguồn thông tin nhận được và kênh thông tin thích sử dụng (n=598) Hầu hết người dân đều đã từng nghe về bệnh sốt xuất huyết đạt 98,5%. Kênh thông tin phổ biến như loa/đài (78,1%), truyền hình (72,9%); kênh từ nhân viên y tế chỉ hơn 50%, từ tờ gấp/tờ bướm là 39,5% và từ sách báo/tranh ảnh là 27,1%; nguồn thông tin khác dưới 10% (trong đó, nhận thông tin từ cán bộ nhà nước chỉ 5%). Khoảng 65% người dân thích thông tin từ loa/đài và truyền hình; thích thông tin từ nhân viên y tếkhoảng 50%, từ tờ gấp/tờ bướm khoảng 30% và từ sách báo/tranh ảnh là 24%; thích nhận từ các nguồn thông tin khác chỉ dưới 10%. Chỉ 64% người dân biết đúng tên muỗi gây bệnh, khoảng 2/3 biết nơi sinh sản của muỗi là dụng cụ chứa nước ngoài nhà cao hơn biết nơi sinh sản là dụng cụ chứa nước trong nhà (chiếm 32,8%); biết các nơi khác như lọ hoa chiếm 51,8% và vật phế thải chứa nước đọng chiếm 72,6% (Bảng 2). Chỉ 16,1% người dân biết về Nghị định số 176/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế. Khoảng 30% cho rằng nhiệm vụ phòng chống sốt xuất huyết là của toàn xã hội, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 241 nhiệm vụ của ngành y tế (31,3%), của gia đình là 23,4%, của các cấp/các ngành là 13% và chỉ 1,3% đó là nhiệm vụ của từng cá nhân. Hình thức mà người dân cho rằng tốt nhất để phòng chống sốt xuất huyết là “Nhắc nhở của UBND xã/phường/thị trấn” (67,1%), phạt hành chính (22,1%) và các hình thức như tuyên truyền/vận động chỉ chiếm 10,8%. Bảng 2. Kiến thức về phòng chống bệnh sốt xuất huyết (n=598) Kiến thức về phòng chống bệnh Tần số(tỷ lệ %) Muỗi gây bệnh Muỗi vằn/Aedes 383(64,0) Muỗi nói chung 159(26,6) Muỗi khác 6(1,0) Không biết 50(8,4) Nơi sinh sản của muỗi gây bệnh SXH Dụng cụ chứa nước trong nhà 196(32,8) Dụng cụ chứa nước ngoài nhà 407(68,1) Lọ hoa 310(51,8) Vật phế thải có thể chứa nước đọng 434(72,6) Khác 25(4,2) Nhiệm vụ phòng chống sốt xuất huyết Ngành y tế 187(31,3) Toàn xã hội 177(29,6) Gia đình 140(23,4) Các cấp/các ngành 78(13,0) Cá nhân 8(1,3) Biết Nghị định số 176/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế 96(16,1) Hình thức tốt nhất để người dân tham gia phòng chống sốt xuất huyết Nhắc nhở của UBND 401(67,1) Phạt hành chính 132(22,1) Khác (tuyên truyền, vận động) 63(10,8) Bảng 3. Thái độ về phòng chống sốt xuất huyết (n=598) Thái độ Tần số(tỷ lệ%) Nguy hiểm cho người mắc (n=596) Rất nguy hiểm 323(54,2) Nguy hiểm 270(45,3) Không nguy hiểm 3(0,5) Nguy hiểm cho cộng đồng (n=597) Rất nguy hiểm 301(50,4) Nguy hiểm 289(48,4) Không nguy hiểm 7(1,2) Dọn dẹp vật chứa nước xung quanh nhà (n=594) Rất đồng ý 262(44,1) Đồng ý 326(54,9) Không đồng ý 6(1,0) Ngủ màn/mùng để phòng Rất đồng ý 302(50,7) Thái độ Tần số(tỷ lệ%) chống bệnh (n=596) Đồng ý 285(47,8) Không đồng ý 9(1,5) Đậy kín các vật chứa nước trong nhà (n=592) Rất đồng ý 256(43,2) Đồng ý 323(54,6) Không đồng ý 13(2,2) Sử dụng bình xịt muỗi (n=594) Rất đồng ý 214(36,0) Đồng ý 354(59,6) Không đồng ý 26(4,4) Phạt tiền là phù hợp (khi có vật chứa nước không an toàn thuộc phạm vi quản lý) (n=593) Rất phù hợp 152(25,6) Phù hợp 239(40,3) Không phù hợp 202(34,1) Hầu hết người dân cho rằng bệnh sốt xuất huyết là nguy hiểm cho cá nhân và cộng đồng, nhưng tỷ lệ cho rằng “rất nguy hiểm” chỉ khoảng 50%; Hầu hết đều chấp nhận ngủ màn, dọn dẹp dụng cụ chứa nước xung quanh, đậy kín các vật chứa và đa số cũng chấp nhận sử dụng bình xịt muỗi/hương xua đuổi muổi nhưng chỉ khoảng 2/3 cho rằng “Phạt tiền” là phù hợp (khi có vật chứa nước không an toàn thuộc phạm vi quản lý) (Bảng 3). Bảng 4. Hành vi đã thực hiện trong việc phòng chống sốt xuất huyết (n=598) Hành vi đã thực hiện trong phòng chống sốt xuất huyết Tần số(tỷ lệ%) Ngủ màn/mùng 495(82,8) Loại bỏ dụng cụ phế thải xung quanh nhà v.v. 398(66,6) Sử dụng bình xịt muỗi, hóa chất, hương diệt muỗi để xua đuổi muỗi 331(55,4) Vệ sinh dụng cụ chứa nước 322(53,9) Đậy kín lu/chum/vại 292(48,8) Thường xuyên thay nước lọ hoa 276(46,2) Khai thông cống rãnh 238(39,8) Đề nghị hàng xóm thực hiện các biện pháp dọn dẹp vệ sinh môi trường 156(26,1) Khác 18(3,0) Bảng 5. Lý do không dọn dẹp các dụng cụ có thể chứa nước xung quanh nhà (n=598) Lý do Tần số(tỷ lệ%) Không có thời gian 256(42,8) Có nghĩ đến nhưng chưa sắp xếp để làm việc 153(25,6) Có làm nhưng không hiệu quả 128(21,4) Không quan tâm 52(8,7) Thấy không ảnh hưởng gì đến mình 19(3,2) Khác 20(3,3) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 242 Có 82,8% thực hiện ngủ màn, 66,6% loại bỏ dụng cụ phế thải xung quanh nhà; khoảng ½ thự hiện đậy kín lu/chum/vại và 46,2% thường xuyên thay nước lọ hoa; khoảng 40% đã từng khai thông cống rãnh và chỉ 26,1% đã từng đề nghị hàng xóm thực hiện các biện pháp dọn dẹp vệ sinh môi trường. Có đến 55,4% sử dụng bình xịt muỗi, hóa chất, hương diệt muỗi để xua đuổi muỗi (Bảng 4). Có khoảng 43% người dân “Không có thời gian” để dọn dẹp dụng cụ chứa nước trong nhà, khoảng 1/4 “Có nghĩ đến nhưng chưa sắp xếp thời gian thực hiện” và 21,4% “Đã từng làm nhưng thấy không hiệu quả”; có khoảng 10% “Không quan tâm và thấy không ảnh hưởng đến mình” (Bảng 5). Bảng 6. Các yếu tố liên quan đến việc vệ sinh môi trường xung quanh nhà của người dân Yếu tố Thực hiện vệ sinh môi trường PR(KTC95%) p Có Không Nam giới 63(22,3) 219(77,7) 0,92(0,69-1,24) 0,61 Dân tộc kinh 133(23,6) 430(76,4) 1,65(0,66-4,14) 0,25 25-34 1 25(24,3) 78(75,7) 9,71(1,36-69,3) 0,02 35-44 1 38(28,8) 94(71,2) 11,51(1,63-81,2) 0,01 45-54 1 38(22,8) 129(77,2) 9,10(1,28-64,3) 0,03 55-64 1 27(23,9) 86(76,1) 9,55(1,34-68,1) 0,02 >64 1 9(23,1) 30(76,9) 9,23(1,22-69,5) 0,03 Nhân viên phi chính phủ 2 21(28,8) 52(71,2) 0,85(0,52-1,38) 0,52 Tự làm chủ 2 49(20,3) 192(79,8) 0,60(0,40-0,91) 0,02 Học sinh/sinh viên 2 3(20) 12(80) 0,59(0,20-1,71) 0,33 Nội trợ 2 2(15,4) 11(84,6) 0,45(0,12-1,69) 0,24 Nghỉ hưu 2 21(20,6) 81(79,4) 0,61(0,36-1,01) 0,06 Phụ thuộc/thất nghiệp 2 20(24,1) 63(75,9) 0,71(0,43-1,18) 0,19 Hộ khẩu thường trú 125(25,8) 359(74,2) 2,34(1,34-4,08) <0,001 Thu nhập dưới 2 triệu 8(32,0) 17(68,0) 1,40(0,77-2,53) 0,29 Có trẻ em trong nhà (<15 tuổi) 87(25,4) 256(74,6) 1,28(0,94-1,74) 0,11 Nhà mặt tiền đường nhựa 56(26,7) 154(73,3) 1,23(0,92-1,65) 0,16 Người thân mắc 66(29,2) 160(70,8) 1,50(1,11-1,98) 0,007 Rất nguy hiểm cho mình 3 98(30,3) 225(69,6) // <0,001 Nguy hiểm cho mình 3 41(15,2) 229(84,8) // 0,98 Rất nguy hiểm cho cộng đồng 3 91(30,2) 210(69,8) // <0,001 Nguy hiểm cho cộng đồng 3 47(16,3) 242(83,7) // 0,98 Rất đồng ý dọn dẹp 3 84(32,0) 178(67,9) // <0,001 Đồng ý dọn dẹp 4 54(16,6) 272(83,4) // 0,98 Biết nghị định 176 34(35,4) 62(64,6) 1,70(1,23-2,34) 0,002 1: So với nhóm 18-24 tuổi, 2:So sánh với nhân viên nhà nước; 3: So sánh với nhóm không nguy hiểm, 4: So sánh với nhóm không đồng ý. Sự khác biệt khôngcó ý nghĩa (p>0,05) giữa giới tính, dân tộc, ngành nghề, thu nhập và vị trí nhà đang sinh sống với thực hiện vệ sinh môi trường. Hộ có trẻ em (<15 tuổi) thực hiện công tác vệ sinh môi trường tuy cao gấp 1,28 lần những nhà không có trẻ em, nhưng khác biệt này không có ý nghĩa (p=0,11). So với những người 18-24 tuổi,thì các nhóm tuổi khác thực hiện vệ sinh môi trường cao hơn và có ý nghĩa (p<0,05); người đã từng có người thân mắc bệnh (anh chị em/cha mẹ/con cái/họ hàng) thì thực hiện vệ sinh môi trường cao gấp 1,50 lần (KTC95%: 1,11-1,98) so với những người chưa từng có; những người biết nghị định 176/NĐ-CP có tỷ lệ thực hiện vệ sinh môi trường cao gấp 1,70 lần (KTC95%: 1,23-2,34) so với những người không biết. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 243 Chỉ những người cho rằng bệnh sốt xuất huyết là “rất nguy hiểm cho mình” hoặc “rất nguy hiểm cho cộng đồng” thì mới có hành vi vệ sinh môi trường tốt hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với những người không xem sốt xuất huyết là bệnh nguy hiểm. Đồng thời, chỉ những người “rất đồng ý” mới có hành vi vệ sinh môi trường tốt hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với những người không đồng ý. BÀN LUẬN Người dân hầu hết đã từng nghe nói về bệnh sốt xuất huyết. Tuy nhiên, việc hiểu đúng về bệnh chưa thực sự như mong đợi mặc dù chiến dịch triển khai liên tục từ năm 2012 với mục tiêu hơn 90% hộ gia đình được vãng gia phát tờ rơi, 100% xã tuyên truyền bằng loa truyền thanh, v.v. Cụ thể, chỉ gần 2/3 người dân biết đúng về muỗi gây bệnh là muỗi vằn/Aedes, cao hơn kết quả nhóm chứng trong cộng đồng dân cư (biết nguyên nhân gây bệnh là muỗi Aedes là 48%) được thực hiện vào năm 2007-2008 tại Khánh Hòa và Nam định(1) và nghiên cứu vào năm 2012 tại 4 tỉnh thành phía nam với tỷ lệ trong nghiên cứu này là 58,2%)(3); người dân chỉ chú ý nhiều đến nơi sinh sản của muỗi là dụng cụ chứa nước ngoài nhà (68,1%) hoặc vật phế thải chứa nước đọng (72,6%); trong khi biết dụng cụ chứa nước trong nhà khác là nơi sinh sản của muỗi thì chỉ khoảng 1/3 người dân biết; tuy nhiên, lọ hoa là vật dụng biết nhiều nhất (51,8%). Những nội dung người dân biết là những nội dung chủ yếu trong công tác truyền thông trong những năm gần đây (dọn dẹp vệ sinh xung quanh nhà, thay nước lọ hoa v.v.). Ngoài ra, vẫn còn một nhóm người dân chưa biết đầy đủ về nơi sinh sản của muỗi. Do vậy, cần phải có sự thay đổi nội dung trong công tác truyền thông, không nên chỉ nhấn mạnh lọ hoa là vật dụng chứa nước trong nhà vì có thể sẽ vô hình chung hình thành trong chính tiềm thức của người dân là chỉ cần thay nước lọ hoa hằng ngày và vệ sinh môi trường xung quanh là có thể phòng tránh sốt xuất huyết hoặc có đánh giá kỹ lưỡng hơn về hiệu quả của mỗi hình thức truyền thông. Đa số người dân cho rằng đây là bệnh nguy hiểm; tuy vậy, so với những người đánh giá bệnh không nguy hiểm thì những người đánh giá là nguy hiểm thì không có sự khác biệt về thực việc vệ sinh môi trường xung quanh; chỉ những người cho rằng bệnh rất nguy hiểm (cho cá nhân/cộng đồng) và đã từng có người thân mắc bệnh (có thể họ nhận thức được sự nguy hiểm của bệnh hơn qua sự tự tìm hiểu, qua tư vấn của nhân viên y tế và qua trải nghiệm trong chăm sóc người bệnh) thì tỷ lệ đã từng thực hiện vệ sinh môi trường xung quanh khắc biệt có ý nghĩa thống kê (bảng 7). Chỉ khi người dân hiểu được mức độ nguy hiểm của bệnh mới thôi thúc họ thực hiện những hoạt động phòng chống; do vậy, người dân chưa nhận thức đầy đủ về sự nguy hiểm của bệnh và còn thờ ơ với công tác vệ sinh môi trường (khoảng 1/3 người dân cho rằng nhiệm vụ phòng chống sốt xuất huyết là của ngành y tế, của toàn xã hội là 29,6% và các cấp/các ngành chỉ 13%; trong khi, vai trò của gia đình chỉ chiếm 23,4% và 1,3% là của cá nhân). Chỉ khoảng 2/3 người dân đã từng thực hiện vệ sinh môi trường xung quanh nhưng chỉ 26,1% đã từng đề nghị hàng xóm cùng thực hiện; điều này cho thấy việc huy động cộng đồng cùng tham gia phòng chống sốt xuất huyết chưa được như mong đợi; nhóm người chưa thực hiện vệ sinh môi trường tốt chủ yếu là nhóm dưới 24 tuổi, nhóm người nhập cư (Bảng 7); điều này phù hợp với các lý do phổ biến khi không dọn dẹp các dụng cụ chứa nước xung quanh nhà là không có thời gian (42,8%), chưa sắp xếp làm (25,6%) và có khoảng 21,4% đã từng làm nhưng không thấy hiệu quả. Những giải pháp như dọn dẹp vật chứa nước, đậy kín vật chứa nước, ngủ màn/ngủ mùng được hầu hết người dân chấp nhận thực hiện các giải pháp này; ngủ màn/mùng là cũng là thói quen phổ biến người dân, nhưng nghiên cứu cũng chưa đánh giá mức độ và thời gian ngủ mùng nên chưa đánh giá đúng hành vi này; do vậy, kết quả về tình trạng ngủ mùng trong phòng tránh sốt xuất huyết ở người dân thực tế Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 244 có thể thấp hơn kết quả trong nghiên cứu này (nghiên cứu năm 2012 tại 4 tỉnh thành phía nam có tỷ lệ người dân ngủ mùng là 65,6%)(3). Hành vi sử dụng hương muỗi/bình xịt muỗi đã đến mức báo động (Bảng 5) và cũng tương tự với các địa phương khác(3), nếu không được định hướng đúng và thay đổi hành vi này của người dân sẽ dẫn đến hệ lụy khó lường trong việc tăng sự kháng thuốc của quần thể muỗi nói chung (muỗi Aedes nói riêng). Mặc dù mục tiêu của chiến dịch là trên 90% hộ gia đình được vãng gia nhưng kiến thức về sốt xuất huyết của người dân có được chủ yếu từ phương tiện thông tin đại chúng như hệ thống truyền thanh/truyền hình và đây cũng là kênh thông tin người dân vẫn thích sử dụng; kiến thức nhận được từ cán bộ y tế khoảng hơn 50% và kiến thức nhận được từ tờ gấp/tờ bướm tuyên truyền khá thấp (chỉ khoảng 40%) và chỉ khoảng 24% người dân thích nhận thông tin tuyên truyền từ nguồn này; cung cấp thông tin tuyên truyền qua tờ gấp/tờ bướm là nội dung bắt buộc của chiến dịch, phải huy động nguồn kinh phí khá lớn cho hoạt động này(5); tuy nhiên, hiệu quả không cao và đa số người dân cũng không thích nhận từ nguồn này. Các nghiên cứu thực hiện tại địa phương khác cũng cho thấy điều tương tự, nguồn thông tin về bệnh sốt xuất huyết mà người dân nhận được từ tờ gấp/tờ bướm chiếm khoảng từ 20-40% và nguồn thông tin mà người dân nhận được từ các phương tiện truyền thông đại chúng vẫn chiếm ưu thế(2,3,4). Do vậy, cần tiếp tục duy trì hình thức trên các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường vai trò của nhân viên y tế và nghiên cứu thực hiện các giải pháp truyền thông khác trong phòng chống sốt xuất huyết như diễu hành bằng các nhóm xe (đạp, mô tô v.v) có các băng rôn tuyên truyền trong các đợt chiến dịch (các giải pháp marketing này thực hiện phổ biến trong lĩnh vực kinh tế khi phổ biến, tuyên truyền 1 sản phẩm mới v.v.). Nghị định số 176/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế có hiệu lực từ năm 2013 nhưng chỉ 16,1% người dân biệt được Nghị định này; những người biết Nghị định này có tỷ lệ thực hiện vệ sinh môi trường xung quanh cao hơn những người không biết; tuy nhiên, chỉ 65,9% người dân cho rằng phạt tiền (khi có vật chứa nước không an toàn thuộc phạm vi quản lý) là phù hợp và chỉ 22,1% người dân cho rằng “Phạt hành chính” là giải pháp tốt nhất để người dân tham gia phòng chống sốt xuất huyết và có đến 67,1% cho rằng cần có sự “Nhắc nhở của UBND” là hình thức tốt nhất để người dân tham gia phòng chống sốt xuất huyết; các giải pháp như tuyên truyền, vận động chỉ chiếm khoảng 11%. Đến thời điểm hiện tại, tỉnh Bình Dương cũng chưa công bố những cá nhân,tổ chức nào bị “Phạt hành chính” trong hoạt động phòng chống sốt xuất huyết; mặc dù, các báo cáo tổng kết hằng năm cho thấy những vật dụng chứa nước như lu/khạp/vại, vỏ xe, chén nhựa/sành v.v là những dụng cụ phổ biến ở nhà dân (tỷ lệ hộ gia đình có dụng cụ chứa nước dao động từ 15- 30%). Do vậy, cần có sự thay đổi trong công tác vận động người dân tham gia phòng chống sốt xuất huyết, đó là kết hợp các giải pháp nhắc nhở của UBND xã/phường/thị trấn kết hợp với việc thực thi Nghị định 176/NĐ-CP đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm nhiều lần. KẾT LUẬN Thông qua việc huy độngsử dụng nhiềuphương tiện và các hoạt động truyền thông trong các đợt chiến dịch, đã giúp người dân có kiến thức trong việc phòng chống sốt xuất huyết; tuy vậy, người dân vẫn chưa hiểu đúng về nguồn lây bệnh (chưa chú ý đến các vật chứa nước trong nhà là nơi sinh sản của muỗi v.v.), và chưa thật sự xem bệnh sốt xuất huyết là bệnh nguy hiểm (chỉ khi người dân cho rằng bệnh sốt xuất huyết là bệnh rất nguy hiểm thì mới thực hiện vệ sinh môi trường phòng tránh sốt xuất huyết); đẩy mạnh việc thực thi Nghị định 176/NĐ-CP là 1 trong những yếu tố làm tăng sự tuân thủ của người dân trong việc thực hiện vệ sinh môi trường xung quanh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 245 ĐỀ XUẤT Nâng cao vai trò của cộng tác viên thực hiện nhiệm vụ vãng gia thông qua việc tăng cường giám sát, kiểm tra, đôn đốc công tác này. Ngưng việc phát tờ rơi/tờ gấp đại trà trong hoạt động vãng gia của nhân viên y tế, chỉ cung cấp cho những người có nhu cầu tìm hiểu nhằm tránh lãng phí (có thể cung cấp tại bảng tin tại Trạm Y tế hoặc bảng tin của UBND xã/phường/thị trấn cho những người thực sự có nhu cầu). Đưa chỉ tiêu "Nhà không có lăng quăng" vào tiêu chí Gia đình văn hóa; tổ chức tuyên truyền về thực hiện nghị định 176/NĐ-CP và giao UBND xã/phường/thị trấn và áp dụng các hình thức phạt tiền hoặc nhắc nhở phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brian H K ,Tran T. T H , Nguyen H L and et al (2010). Sustainability and Cost of a Community-Based Strategy Against Aedes aegypti in Northern and Central Vietnam. The American Society of Tropical Medicine and Hygiene. 82(5): 822-830. 2. Đỗ Nguyễn Thùy Nhi, Nguyễn Lâm (2009). Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành sốt xuất huyết của học sinh trước và sau triển khai dự án can thiệp tại trường trung học cơ sở Tân Hưng huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang. Y học TP Hồ Chí Minh. 14(2): 1-6. 3. Đỗ Kiến Quốc, Lương Chấn Quang, Nguyễn Thị Thanh Thảo và cộng sự (2012). Tác động của cộng tác viên lên nhận thức và thực hành phòng chống sốt xuất huyết Dengue tại khu vực phía nam năm 2012. Y học thực hành. 10(146): 125. 4. Nguyễn Thị Hải Hà (2016). Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống sốt xuất huyết tại tỉnh Khánh Hòa. Tại: thai-do-thuc-hanh-ve-phong-chong-sot-xuat-huyet-60420.html. Truy cập ngày 14/8/2018. 5. Sở Y tế Bình Dương. Báo cáo chiến dịch tổng vệ sinh môi trường năm 2013-2017. 6. WHO Việt Nam. Sốt xuất huyết. Tại: vi/. Truy cập ngày 16/8/2009. Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_thai_do_hanh_vi_phong_chong_sot_xuat_huyet_cua_ngu.pdf
Tài liệu liên quan