Tài liệu Kiểm soát tình trạng thay đổi độ sâu gây mê bằng BIS trong gây mê phẫu thuật bụng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 74
KIỂM SOÁT TÌNH TRẠNG THAY ĐỔI ĐỘ SÂU GÂY MÊ BẰNG BIS
TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT BỤNG
Nguyễn Văn Chinh**, Nguyễn Kỳ Tài*, Võ Đức Chiến*, Chung Nguyễn Anh Hùng*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nghiên cứu này nhằm kiểm tra việc theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS có kiểm soát tình trạng thay đổi
độ sâu trong gây mê và giúp giảm lượng thuốc mê propofol, ổn định mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê
cũng như giảm lượng sevoflurane duy trì mê ở phẫu thuật bụng.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
trên 66 bệnh nhân người cao tuổi từ 65 - 85 được phẫu thuật ở bụng, tất cả khởi mê bằng phương pháp gây mê
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Nhóm BIS gồm 33 trường hợp và điều
chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman. Nhóm không BIS gồm 33 trường hợp và điều chỉnh độ mê dựa trên các dấu hiệu
lâm sàng....
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm soát tình trạng thay đổi độ sâu gây mê bằng BIS trong gây mê phẫu thuật bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 74
KIỂM SOÁT TÌNH TRẠNG THAY ĐỔI ĐỘ SÂU GÂY MÊ BẰNG BIS
TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT BỤNG
Nguyễn Văn Chinh**, Nguyễn Kỳ Tài*, Võ Đức Chiến*, Chung Nguyễn Anh Hùng*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nghiên cứu này nhằm kiểm tra việc theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS có kiểm soát tình trạng thay đổi
độ sâu trong gây mê và giúp giảm lượng thuốc mê propofol, ổn định mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê
cũng như giảm lượng sevoflurane duy trì mê ở phẫu thuật bụng.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
trên 66 bệnh nhân người cao tuổi từ 65 - 85 được phẫu thuật ở bụng, tất cả khởi mê bằng phương pháp gây mê
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Nhóm BIS gồm 33 trường hợp và điều
chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman. Nhóm không BIS gồm 33 trường hợp và điều chỉnh độ mê dựa trên các dấu hiệu
lâm sàng. Xử lý số liệu bằng phần mền thống kê STATA 13,0.
Kết quả: Lượng propofol trung bình trong giai đoạn khởi mê nhóm bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2
mg), ít hơn nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS (67,2 ± 8,1 mg), với p = 0,001, sự thay đổi mạch và huyết áp
trong quá trình khởi mê cả hai nhóm hầu như ít thay đổi, có mối tương quan tuyến tính nghịch, vừa giữa BIS và
nồng độ propofol tại não trong quá trình khởi mê (r = -0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến tính BIS = 89
– 13 × Ce-propofol, lượng sevoflurane trung bình tiêu thụ trong nhóm bệnh nhân sử dụng BIS giảm 20% so với
nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS, với p = 0,003.
Kết luận:Nhờ có BIS theo dõi độ sâu trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có hiệu quả và an
toàn trong quá trình khởi mê ở người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane trong duy trì mê.
Từ khóa: Chỉ số lưỡng phổ, phẫu thuật bụng, propofol, sevoflurane, kiểm soát nồng độ đích, nồng độ
propofol huyết tương, nồng độ propofol tại não.
ABSTRACT
MONITORING THE STATE TRANSITION OF THE DEPTH ANAESTHESIA BY BIS PECTRAL INDEX
IN ABDOMINAL SURGERY
Nguyen Van Chinh, Nguyen Ky Tai, Vo Duc Chien, Chung Nguyen Anh Hung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 74 – 79
Background: This study to examine whether or not there is monitoring indicators of anesthesia with BIS
monitoring the state transition of the depth anaesthesia and reduces the anesthetic propofol, stable pulse, blood
pressure during induction and maintenance of anesthesia reduces sevofluane abdominal surgery.
Methods: We performed clinical trial randomized 66 patients controlled on elderly people from 65-85
abdominal surgery, all of induction of anesthesia with intravenous propofol target concentration control and
maintaining anesthesia with sevoflurane. BIS group includes 33 cases and adjust the scheme Gurman maze.
None BIS group includes 33 cases and adjust the maze based on clinical signs. Data analysis using STATA
software 13.0.
Results: The average amount of propofol in the induction phase patients using BIS (55.2 ± 6.2) mg less than
the group of patients not using BIS (67.2 ± 8.1) mg with p = 0.001, changes in pulse and blood pressure during
*Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Thành phố Hồ Chí Minh.
**Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: PGS. TS. BS Nguyễn Văn Chinh, ĐT: 0903885497, Email: chinhnghiem2006@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 75
induction of anesthesia both groups hardly changed, with a linear inverse correlation, just between BIS and
propofol concentrations in the brain in the process of induction (r = -0.53, p = 0.001), the linear regression
equation BIS = 89 - 13 × Ce- propofol, sevoflurane average amount consumed in the group of patients using BIS
decreased 20%, with p = 0.003.
Conclusions: Thanks to BIS monitor depth of anesthesia intravenously control target levels are very
effective and safe during induction of anesthesia in the elderly, 20% reduction in the amount maintaine
sevoflurane anesthesia.
Keywords: Bispectral index, abdominal surgery, propofol, sevoflururane, target controlled infusion, Cp-
propofol, Ce-propofol.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, người gây mê hồi sức chuẩn bị
phương pháp gây mê cho bệnh nhân dựa vào
những yếu tố sinh học của người bệnh như: giới
tính, tuổi, cân nặng, chỉ số BMI và dấu hiệu lâm
sàng. Trong lúc phẫu thuật, quá trình gây mê
được điều chỉnh dựa vào kinh nghiệm của người
gây mê hồi sức, kết hợp với các dấu hiệu sinh
tồn có được từ các thiết bị hỗ trợ. Do đó, người
gây mê hồi sức, dựa trên kinh nghiệm chủ quan
của bản thân, phải tổng hợp tất cả thông tin từ
các thiết bị, cùng với những thông tin sinh học,
dấu hiệu lâm sàng để đưa ra quyết định điều
chỉnh trong quá trình gây mê.
Nghiên cứu nhằm phát triển thêm phương
pháp để theo dõi sự thay đổi các giai đoạn trong
quá trình gây mê và đáp ứng cá nhân của mỗi
bệnh nhân đối với quá trình gây mê. Bằng cách
theo dõi đáp ứng khác nhau của bệnh nhân
trong quá trình gây mê, liều lượng thuốc mê cho
bệnh nhân sẽ được tối ưu hóa cho từng bệnh
nhân. Kết quả nghiên cứu này sẽ được áp dụng
để kiểm soát tốt hơn quá trình gây mê như là
tránh gây mê nông hoặc quá sâu, ngăn ngừa tỉnh
mê trong khi phẫu thuật và rút ngắn thời gian
tỉnh mê. Hơn nữa, nghiên cứu này sẽ được áp
dụng để phát triển thiết bị mới trong tương lai
để theo dõi độ mê sâu bằng cách kết hợp tín hiệu
EEG và dữ liệu sinh học của bệnh nhân để cá
nhân hóa chỉ số độ sâu gây mê cho từng bệnh
nhân, điều này sẽ làm giảm sự đánh giá chủ
quan bằng kinh nghiệm của người gây mê.
Chính vì thế theo hướng dẫn của BIS giúp kiểm
soát nồng độ propofol hiệu quả khi khởi mê, ổn
định mạch, huyết áp, đảm bảo độ mê đủ sâu để
tiến hành đặt nội khí quản an toàn và trong quá
trình duy trì mê tránh nguy cơ thức tỉnh, giảm
lượng thuốc mê thể khí, thiết lập nguyên tắc
dùng thuốc vận mạch, xử trí thay đổi huyết
động một cách kịp thời(15,16,17)
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tổng lượng trung bình propofol
trong quá trình khởi mê.
Lượng sevoflurane tiêu thụ trung bình trong
quá trình duy trì mê.
Xác định mối tương quan giữa BIS với nồng
độ thuốc mê propofol tại não trong quá trình
khởi mê.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối
chứng, không mù.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân từ 65 - 85 tuổi, được phẫu
thuật bụng từ tháng 11 - 2015 đến 6 - 2018, tại Bv
Nguyễn Tri Phương, có ASAII-III, thời gian
phẫu thuật < 4 giờ, không dị ứng với propofol,
không suy tim nặng (phân suất tống máu <
35%), BMI < 23, men gan (SGOT, SGPT) < 2 lần
bình thường, Creatinine máu < 200 umol/l,
không rối loạn đông máu, nghe và trả lời bằng
tiếng Việt.
Phương pháp tiến hành
Tại phòng phẫu thuật bệnh nhân được gắn
các thiết bị theo dõi như ECG, Sp02, đặt đường
truyền tĩnh mạch kim 18G, huyết áp động mạch
không xâm lấn. Nhóm bệnh nhân theo dõi độ
mê bằng BIS chuẩn bị như sau: lau trán bênh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 76
nhân bằng alcool, đợi khô để dán điện cực như
đề nghị của nhà sản xuất, trong gây mê nên duy
trì BIS 40 - 60.
Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: 33
trường hợp được theo dõi bằng BIS (nhóm I), 33
trường hợp theo dõi độ mê dựa trên dấu hiệu
lâm sàng (nhóm II). Tất cả bệnh nhân hai nhóm
được khởi mê từ từ bằng TCI, cài đặt nồng độ
propofol ban đầu Cp = 2 mcg/ml, sau mỗi phút
tăng lên 0,5 mcg/ml. Đối với nhóm I, khi BIS = 50
chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg đợi 3 phút
đặt nội khí quản, còn nhóm II khi OASS = 1,
chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg cũng đợi 3
phút đặt nội khí quản.
Cả 2 nhóm duy trì thuốc mê thể khí
sevoflurane và oxy, với lưu lượng khí mới 2
lít/phút và có theo dõi nồng độ khí mê, CO2 bằng
máy gây mê Dragger. Nhóm I điều chỉnh độ mê
theo sơ đồ Gurman, nhóm II chỉnh độ mê dựa
trên dấu hiệu lâm sàng và duy trì mạch, huyết
áp trong khoảng ± 20% so với giá trị ban đầu.
Dùng các thuốc vận mạch như nicardipine,
ephedrine khi cần, tắt sevoflurane sau khi đóng
da xong.
Ghi nhận các trị số nồng độ Cp-propofol,
Ce-propofol, mạch, huyết áp tại các thời điểm
khởi mê, % sevoflurane tại các thời điểm duy
trì mê và BIS tại các thời điểm suốt quá trình
phẫu thuật.
Phân tích và xử lý số liệu
Tất cả phương pháp thống kê và phân tích
được thực hiện bằng phần mềm STADA 13.0.
Biến số định lượng có phân phối chuẩn được
trình bày bằng giá trị trung bình, độ phân tán
với độ lệch chuẩn. Nếu không có phân phối
chuẩn được trình bày bằng giá trị trung vị, và
mô tả độ phân tán bằng giá trị lớn nhất và nhỏ
nhất hoặc bằng khoảng tứ phân vị. So sánh sự
khác biệt giữa các tỉ lệ (biến số định tính) dùng
phép kiểm chi bình phương (X2). So sánh sự
khác biệt giữa các trung bình (biến số định
lượng) của 2 mẫu độc lập dùng phép kiểm t.
Hệ số tương quan r (theo Pearson) để đánh giá
sự tương quan giữa 2 biến số định lượng liên
tục. p < 0,05 được coi là sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của bệnh nhân trước phẫu
thuật
Bảng 1. Đặc điểm chung của bệnh nhân trước phẫu thuật
Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p
Giới tính
Nam (TH, %) 16 (48,48) 19 (57,58)
0,459
Nữ (TH, %) 17 (51,52) 14 (42,42)
Tuổi (năm)
TB ± ĐLC 71,6 ± 5,5 70,8 ± 6,8 0,6074
Cân nặng (kg)
TB ± ĐLC 46,2 ± 5,1 44,6 ± 5,4 0,2489
BMI (kg/m
2
)
TB ± ĐLC 18,7 ±1,8 18,7 ±1,7 0,6974
TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn, TH: trường hợp.
Lượng propofol trong quá trình khởi mê của
hai nhóm
Bảng 2. Lượng propofol trong quá trình khởi mê của
hai nhóm
Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p
Liều propofol (mg)
TB ± ĐLC
55,2 ± 6,2 67,2 ± 8,1 0,001
Sự thay đổi mạch tại các thời điểm của hai
nhóm trong quá trình khởi mê
Bảng 3. Sự thay đổi mạch tại các thời điểm của hai
nhóm trong quá trình khởi mê
Thời điểm
Mạch
Nhóm BIS
(lần/phút)
Không BIS
(lần/phút)
p
T2 72 ± 0,9 69,3 ± 0,7 0,02
T3 71 ± 0,8 69,6 ± 0,9 0,34
T4 70 ± 0,6 68,7 ± 0,8 0,25
T5 69,6 ± 0,8 68,5 ± 0,7 0,29
T6 69,6 ± 0,8 67,2 ± 0,6 0,02
Sự thay đổi huyết áp trung bình tại các thời
điểm của hai nhóm trong quá trình khởi mê
Bảng 4. Sự thay đổi huyết áp trung bình tại các thời
điểm của hai nhóm trong quá trình khởi mê
Thời điểm HATB
Nhóm BIS
(mmHg)
Không BIS
(mmHg)
P
T2 100 ± 8 97 ± 7 0,07
T3 95 ± 8 93 ± 6 0,65
T4 90 ± 7 88 ± 7 0,22
T5 88 ±6 85 ± 7 0,09
T6 88 ± 6 76 ± 6 0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 77
Nồng độ propofol tại não (Ce- propofol) và BIS
tại các thời điểm khởi mê
Bảng 5. Nồng độ propofol tại não (Ce- propofol) và
BIS tại các thời điểm khởi mê
Thời điểm Ce propofol (mcg/ml) BIS
T3
TB ± ĐLC
NN-LN
1,1 ± 0,1
9 – 1,3
87,4 ± 3,1
82 - 91
T4
TB ± ĐLC
NN-LN
1,4 ± 0,26
1,1 - 1,7
79,7 ± 5,0
74 - 86
T5
TB ± ĐLC
NN-LN
1,7 ± 0,3
1,3 - 2,1
68,5 ± 4,7
64 -74
T6
TB ± ĐLC
NN-LN
2,0 ± 0,4
1,5 – 2,5
50
NN: nhỏ nhất , LN lớn nhất.
Thời gian phẫu thuật, lượng sevoflurane trong
giai đoạn duy trì mê
Bảng 6. Thời gian phẫu thuật, lượng sevoflurane
trong giai đoạn duy trì mê
Nhóm BIS Không BIS p
Lượng sevoflurane
(ml/giờ)
23,9 ± 6,2 29,9 ± 9,2 0,0031
BÀN LUẬN
Lượng thuốc propofol trong giai đoạn khởi mê
với TCI có sử dụng BIS và không sử dụng BIS
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá
khởi mê bằng propofol dưới hướng dẫn của BIS,
tổng liều propofol trung bình (bảng 2) nhóm
bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2 mg), còn
nhóm bệnh nhân không có sử dụng BIS (67,2 ±
8,1 mg) khi khởi mê.
Tác giả Ercan Gurses(5), thấy rằng nhóm
dùng BIS giảm được 43% lượng propofol trong
giai đoạn khởi mê so với nhóm dùng dấu hiệu
lâm sàng để theo dõi độ mê lần lượt với lượng
propofol là 84,3 ± 11,4 mg so với 147 ± 12,1 mg
(nhóm không có BIS).
Nghiên cứu của Liu(13), khi phân tích kết quả
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đánh giá hiệu
quả của BIS trong gây mê phẫu thuật về trong
ngày: tiêu thụ propofol ít hơn có ý nghĩa trong
nhóm được gây mê bằng BIS so với nhóm chứng
(1253 mg so với 946 mg ở nhóm BIS).
Theo Gan(6), trong một thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên, có nhóm chứng, mù, đa trung tâm
về BIS cho thấy giảm 23% propofol sử dụng và
giúp điều chỉnh propofol trong phẫu thuật
(nhóm BIS lượng propofol truyền là 116
mcg/kg/phút so với nhóm không BIS là 136
mcg/kg/phút).
Tác giả Villeret I(20) với nồng độ ce-propofol
0,9 mcg/ml có thể sử dụng an toàn để gây mê đặt
nội khí quản với bệnh nhân người cao tuổi.
Tại Việt Nam, tác giả Châu Thị Mỹ An(4), cho
thấy liều khởi mê 1,6 - 2,1 mg/kg, p = 0,001).
Nguyễn Văn Chinh(15), đánh giá sự thay đổi
BIS trong gây mê TCI trên phẫu thuật tổng quát
đã cho thấy liều khởi mê 1,47 ± 0,06 mg/kg.
Nguyễn Thị Như Hà(17), liều trung bình trong
lúc khởi mê 100 ± 1,2 mg nhóm BIS, so với 125
mg ± 2,1 mg nhóm không sử dụng BIS.
Đánh giá sự thay đổi mạch, huyết áp trung
bình quá trình khởi mê của hai nhóm
Sự thay đổi mạch
Trong quá trình khởi mê cả hai nhóm, một
nhóm có hướng dẫn sử dụng BIS để theo dõi và
một nhóm được đánh giá dựa vào mức độ an
thần theo thang điểm OAA/S vì có lẽ chúng tôi
khởi mê từ từ theo từng nấc nên từ giai đoạn T3
đến giai đoạn T5 (bảng 3) mạch hầu như không
thay đổi, giai đoạn T2 mạch cao hơn nhẹ ở nhóm
BN sử dụng BIS (nhóm BN sử dụng BIS: 72 ± 0,9;
nhóm BN không sử dụng BIS: 69,3 ± 0,7, p =
0,02), nhưng đến giai đoạn T6 (BIS: 69,6 ± 0,8;
không BIS: 67,2 ± 0,6, p = 0,02) mạch ở nhóm BIS
giảm nhẹ, còn nhóm không sử dụng BIS thì BN
ngủ sâu hơn nhiều vì có thể do đánh giá chủ
quan dựa vào mức độ an thần (OAA/S=1) của
chúng tôi ở mỗi bệnh nhân khác nhau.
Nghiên cứu của Ali (2009)(1), thực hiện trên
90 bệnh nhân chia ngẫu nhiên 3 nhóm, so sánh
hiệu quả của 3 kỹ thuật gây mê (sevoflurane (s),
isoflurane (i), gây mê kiểm soát nồng độ đích
bằng propofol (p), đánh giá dựa trên huyết động
và tính hồi phục cho những bệnh nhân u tuyến
yên được phẫu thuật nội soi qua đường mũi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 78
dưới sự hướng dẫn của BIS. Tác giả đã kết luận
bệnh nhân sử dụng nhóm propofol thì ổn định
mạch, huyết áp khi đặt nội khí quản.
Sự thay đổi về huyết áp trung bình
Trong nghiên cứu của chúng tôi sự thay đổi
huyết áp tương đối ổn định, huyết áp trung bình
từ thời điểm T3 đến T5 thay đổi nhưng không có
ý nghịa thống kê (bảng 4), nhưng đến thời điểm
T6 (BIS: 88 ± 6 mmHg; không BIS: 76 ± 6 mmHg,
p = 0,001) thì huyết áp trung bình nhóm bệnh
nhân không sử dụng BIS giảm nhiều hơn có thể
là lúc này lượng propofol lên não nhiều hơn,
ngủ sâu hơn.
Tác giả Liu(12), nhận thấy huyết áp trung bình
khi khởi mê nhóm S1 (Ce-propofol: 2,7 mcg/ml)
thấp hơn nhẹ so với nhóm S3 (Ce-propofol: 2,8
mcg/ml).
Tác giả Jung(9), mô tả một trường hợp 79 tuổi
tụt huyết áp nặng (60/30 mmHg) kèm theo
ngưng thở 6 phút và mạch còn 30 lần/phút, cũng
như tác giả XU Chuan-Ya(22), cũng báo cáo có 7
trường hợp tụt huyết áp sau khi tiêm propofol.
Điều này có thể lý giải do thiết kế nghiên cứu
khác nhau, chúng tôi dùng hệ thống kiểm soát
nồng độ đích TCI còn tác giả truyền liên tục hay
lặp lại.
Xét về mối tương quan giữa BIS và nồng độ
propofol tại não trong giai đoạn khởi mê.
Nghiên cứu của chúng tôi thấy tương quan
giữa BIS và nồng độ propofol tại não (Ce
propofol) là mối tương quan nghịch, vừa (r = -
0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến tính
BIS = 89 – 13 × Ce-propofol.
Tác giả Irwin(7), khi nghiên trên 60 bệnh
nhân phẫu thuật tổng quát, đã thấy được sự
liên quan giữa nồng độ hiệu quả của propofol
50 (CP50) là 2,66 mcg/ml, tương ứng với giá trị
BIS là 68.
Nguyễn Thị Như Hà(17), nghiên cứu đánh giá
hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật tim
trên người lớn đã thấy có mối tương quan
nghịch, yếu giữa BIS và nồng độ propofol tại não
Ce -propofol (r = -0,27, p = 0,027) trong giai đoạn
khởi mê.
Lượng thuốc sevoflurane sử dụng trong quá
trình duy trì mê của hai nhóm
Lượng sevoflurane trong nghiên cứu của
chúng tôi giảm 20%.
Jeliish(8), sevoflurane thích hợp hơn propofol
trong quá trình duy trì mê phẫu thuật nội soi ở
bệnh nhân cao tuổi.
Tác giả Nabaweya(14), 60 bệnh nhân lớn tuổi
phẫu thuật tổng quát, đã giảm 32% lượng
sevoflurane, BIS 50 - 60, giai đoạn duy trì và 55 -
70 gần kết thúc cuộc phẫu thuật.
Tác giả Sebel(19), bệnh nhân phẫu thuật tổng
quát đã giảm 20 - 30% lượng sevoflurane.
Tác giả Nguyễn Thị Như Hà(17), nghiên cứu
hiệu quả của theo dõi BIS trên sự tiêu thụ
sevoflurane trong phẫu thuật tim người lớn đã
tiết kiệm 17% lượng thuốc mê sevoflurane.
KẾT LUẬN
Xác định mức độ mê của người bệnh là
một yêu cầu cần thiết và quan trọng. Quá trình
này đòi hỏi phải có những điểm mốc hướng
dẫn quá trình gây mê, đi từ mê nông (độ mê
quá nhẹ), đến độ mê sâu (tức độ mê quá
nhiều), hay ngược lại, làm sao cho phù hợp với
từng loại phẫu thuật và từng giai đoạn của
phẫu thuật, cho từng người bệnh. Hơn nữa,
một khi đã xác định được độ mê chính xác thì
người gây mê có thể dùng một số lượng thuốc
mê ít nhất, nhưng phải đủ đảm bảo cho cuộc
phẫu thuật tiến hành thuận lợi và quan trọng
nhất là phải đảm bảo được an toàn cho bệnh
nhân, tránh dùng thuốc gây mê quá nhiều, bởi
vì hầu hết thuốc mê đều là thuốc độc, những
thuốc này thường gây độc hại, gây ra những
tai biến, biến chứng rất nguy hại cho người
bệnh. Nghiên cứu này, gây mê trong phẫu
thuật bụng ở người cao tuổi, khi theo dõi độ
mê bằng chỉ số BIS bằng phương pháp gây mê
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có hiệu
quả và an toàn trong quá trình khởi mê ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 79
người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane
trong duy trì mê.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali Z, Prabhakar H, Bithal PK, Dash HH ( 2009), “Bispectral
index-guided administration of anesthesia for transsphenoidal
resection of pituitary tumors: a comparison of 3 anesthetic
techniques”, J Neurosurg Anesthesiol, 21, pp.10-15.
2. Alkire MT, Hudezt AG, Tononi G (2008), “Target controlled
infusion in anaesthetic practice”, Consciousne Astra Zeneca, pp.1-20.
3. Cazalà JBLJ, Servin F (2009), Anesthetic agents used in TCI, 2nd
Edition, pp. 33.
4. Châu Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh (2011), “Gây mê tĩnh mạch
toàn diện bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trong phẫu
thuật bụng”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 15 (3), tr.179-181.
5. Ercan Gurses et al (2004) “Assessing Propofol Induction of
Anesthesia Dose Using Bispectral Index Analysis”, Anesth
Analg, 98, pp. 128-31.
6. Gan TJ, Glass PS, Windsor A et al (1997) “Bispectral index
monitoring allows faster emergence and improved recov-ery
from propofol, alfentanil, and nitrous oxide anesthesia”,
Anesthesiology, 84, pp. 808-815.
7. Irwin MG, Hui TW, Milne SE & Kenny GN (2002) “Propofol
effective concentration 50 and its relationship to bispectral
index”. Anaesthesia, 57, pp. 242–248.
8. Jellish WS, Lien CA, Fontenot HJ, Hall R (1996) “The
comparative effects of sevoflurane versus propofol in the
induction and maintenance of anesthesia in adult patients.”, 82,
pp.479-485.
9. Jung M. Hofmann C. Kiesslich R. Brackertz A (2000). “Improved
sedation in diagnostic and therapeutic ERCP: propofol is an
alternative to midazolam.” Endoscopy, 32, pp. 233-238.
10. Kirkpatrick T, Cockshott ID, Douglas EJ (1988). “Pharmacoki-
netics of propofol (Diprivan) in elderly patients”, Br J Anaesth,
60, pp. 146-150.
11. Lichtenstein DR. Jagannath S. Baron TH et al. (2008). “Sedation
and anesthesia in GI endoscopy.” Gastrointest Endosc, 68, pp.
815-826.
12. Liu SH, Wei W, Ding GN (2009) “Relationship between depth of
anesthesia and effect-site concentration of propofol during
induction with the target-controlled infusion technique in
elderly patients”, Chinese Medical Journal, 122, pp.935-940.
13. Liu SS (2004) “Effects of Bispectral Index monitoring on
ambulatory anesthesia: a meta-analysis of randomized
controlled trials and a cost analysis”. Anesthesiology, 101, pp.311-315.
14. Nabaweya Mostafa Kamal, S.H. Omar, et al (2009) “Bispectral
index monitoring taillors clinical anesthetic delivery and
reduces anesthetic drug consumption”. J.Med. Sci, 9, pp.10-16.
15. Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn Văn Chừng (2013), “Theo dõi BIS
trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích”, Tạp chí Y Học,
Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 17 (1), tr. 169-173.
16. Nguyễn Thị Quý (2012) “Gây mê tĩnh mạch với kiểm soát nồng
độ đích” Tạp chí Y Học thành phố Hố Chí Minh, 16 (2), tr. 15-27.
17. Nguyễn Thị Như Hà, Nguyễn Thị Qúy (2013), “Đánh giá lợi ích
của BIS trong việc theo dõi độ sâu gây mê trong quá trình phẫu
thuật tim hở”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 885 (21) tr.97.
18. Schnider TW et al (2000), “The influence of method of
administration and covariates on pharmacokinetics of propofol
in adult volunteers” Anesth. 93, pp. 1085-1094.
19. Sebel PS, (2001) “Can you monitor depth of anesthesia”.
International Anesthesia Reserch Society Review Course Lectures, pp
95-97.
20. Villeret I, Laffon M, Ferrandière M et al “Which propofol target
concentration for ASA III elderly patients for conscious sedation
combined with regional anaesthesia?” Ann Fr Anesth Reanim. 22
(3), pp.196-201.
21. Wiczling P, Bieda K, Przybyłowski K (2016), “Pharmacokinetics
and Pharmacodynamics of Propofol and Fentanyl in Patients
Undergoing Abdominal Aortic Surgery ”- A Study of
Pharmacodynamic Drug-Drug Interactions. Biopharm Drug
Dispos. 37(5): 252-63.
22. XU Chuan-ya, WU Xin-min, LU Wei, (2010), “Effect of
remifentanyl on propofol pharmacokinetics with target
controled infusion in elderly patients” Journal of Peking
University (Health Sciences), pp.1671-1679.
Ngày nhận bài báo: 31/07/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kiem_soat_tinh_trang_thay_doi_do_sau_gay_me_bang_bis_trong_g.pdf