Tài liệu Khuyến cáo của hội thảo toàn quốc về khúc xạ tại Ninh Thuận từ ngày 16 - 18/12/2004: 103
KHUYẾN CÁO CỦA HỘI THẢO TOÀN QUỐC VỀ KHÚC XẠ
TẠI NINH THUẬN TỪ NGÀY 16 - 18/12/2004
Hội thảo toàn quốc về khúc xạ đã
có sự tham gia hướng dẫn của Gs.Ts.
Luke Lin, Chủ nhiệm Khoa Mắt thuộc
Bệnh viện Trường ĐH Y khoa Đài Loan,
nhiều Gs và Ts của Bệnh viện Mắt TW,
các đại biểu của 31 Bệnh viện Mắt, Trung
tâm Mắt, Khoa mắt thuộc TTPCBXH và
25 Khoa Mắt bệnh viện tỉnh, 2 bộ môn
Mắt thuộc Trường ĐH Y khoa Hà Nội và
Thái Bình. Hội thảo đã thống nhất đưa ra
các khuyến nghị như sau:
1. Về điều tra tật khúc xạ trong lứa
tuổi học sinh:
1.1. Mục đích:
- Xác định tỷ lệ tật khúc xạ ở trẻ em
tuổi đi học (từ 6 đến 18 tuổi) ở những
tỉnh thành có đủ điều kiện về kinh phí,
cán bộ và trang thiết bị cần thiết, từ đó có
kế hoạch phục vụ tật khúc xạ cho học
sinh.
- Theo dõi sự tiến triển của tật khúc
xạ , đặc biệt là cận thị theo lứa tuổi học
sinh
- Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ
liên quan tới cận thị.
1.2. Cách tiến hành điều tra:
- Đối tượng: học...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khuyến cáo của hội thảo toàn quốc về khúc xạ tại Ninh Thuận từ ngày 16 - 18/12/2004, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
103
KHUYẾN CÁO CỦA HỘI THẢO TOÀN QUỐC VỀ KHÚC XẠ
TẠI NINH THUẬN TỪ NGÀY 16 - 18/12/2004
Hội thảo toàn quốc về khúc xạ đã
có sự tham gia hướng dẫn của Gs.Ts.
Luke Lin, Chủ nhiệm Khoa Mắt thuộc
Bệnh viện Trường ĐH Y khoa Đài Loan,
nhiều Gs và Ts của Bệnh viện Mắt TW,
các đại biểu của 31 Bệnh viện Mắt, Trung
tâm Mắt, Khoa mắt thuộc TTPCBXH và
25 Khoa Mắt bệnh viện tỉnh, 2 bộ môn
Mắt thuộc Trường ĐH Y khoa Hà Nội và
Thái Bình. Hội thảo đã thống nhất đưa ra
các khuyến nghị như sau:
1. Về điều tra tật khúc xạ trong lứa
tuổi học sinh:
1.1. Mục đích:
- Xác định tỷ lệ tật khúc xạ ở trẻ em
tuổi đi học (từ 6 đến 18 tuổi) ở những
tỉnh thành có đủ điều kiện về kinh phí,
cán bộ và trang thiết bị cần thiết, từ đó có
kế hoạch phục vụ tật khúc xạ cho học
sinh.
- Theo dõi sự tiến triển của tật khúc
xạ , đặc biệt là cận thị theo lứa tuổi học
sinh
- Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ
liên quan tới cận thị.
1.2. Cách tiến hành điều tra:
- Đối tượng: học sinh trong độ tuổi
đi học từ 6-18 tuổi, chia theo các cấp
học: tiểu học, trung học cơ sở và trung
học phổ thông.
- Kiểu nghiên cứu: cắt ngang mô tả
(Cross - sectional Study)
- Cỡ mẫu và cách chọn mẫu:
Cách 1: Điều tra tiến hành ngẫu
nhiên trên địa bàn toàn tỉnh:
- Trước tiên cần thống kê toàn bộ số
học sinh của từng cấp học trong toàn tỉnh
và theo từng trường, theo từng huyện rồi
tính tỷ lệ số học sinh từng cấp chia cho
tổng số học sinh của cả tỉnh.
- Lập danh sách các lớp học của từng
trường kèm sỹ số học sinh.
- Chọn mẫu theo cách phân tầng:
theo cấp học và theo địa dư hành
chính(huyện)
- Tính toán cỡ mẫu theo công thức:
(1,96)2 x p x (1- p)
với CI =95% n = ----------------------
-
SE2
5. Bản tin nhãn khoa
104
Trong đó: n là số trẻ học sinh cần khám
p là tỷ lệ tật khúc xạ qua các
cuộc điều tra trước đây, ví dụ p =10%=
0,1
SE là sai số chuẩn do ta chọn
lựa, ví dụ SE=0,015
Áp dụng vào công thức trên ta có
n=1536 học sinh.
Cỡ mẫu này thích hợp cho điều tra
tại 1 tỉnh, nếu điều tra toàn quốc sẽ cần
cỡ mẫu lớn hơn vì đại diện cho 8 vùng
sinh thái cả nước.
Ví dụ: với khoảng tin cậy là CI =
95%, ta có độ tin cậy của điều tra là:
P = 10% ± (1,96 x SE) = 0,10
± 0,029 ( 7,1% - 12,9%).
Chú ý: Tuỳ theo điều kiện của từng
tỉnh, ta có thể chọn SE nhỏ hơn nữa thì
nghiên cứu càng chính xác hơn, nhưng
cỡ mẫu cần khám sẽ lớn hơn.
- Sau đó, phân bổ cỡ mẫu cho từng
mẫu tầng để tìm số học sinh cần điều tra
tại mỗi cấp học, mỗi huyện. Ví dụ:
Số toàn tỉnh Huyện A Huyện B Huyện C.
Số HS
Cần
khám
Số HS
Cần
khám
Số HS
Cần
khám
Số HS
Cần
khám
Số HS cấp tiểu
học
60,000
60%
922 30,000
50 %
461 20,000
33,3%
307 10,000
16,7%
154
Số HS cấp THCS
30,000
30%
461 12,000
40 %
184 12,000
40 %
184 6,000
20 %
93
Số HS cấp THPT
10,000
10%
153 4,000
40%
61 3,500
35%
54 2,500
25%
38
Tổng số 100.000 1.536 46,000 706 35,500 545 18,500 285
Khoảng cách đơn vị mẫu là
100.000/ 1.536 = 65.
- Theo danh sách học sinh của từng
lớp, ta chọn ngẫu nhiên hệ thống, cứ 65
em lại chọn 1 em để khám, cuối cùng sẽ
chọn khám được 922 em ở cấp tiểu học,
461 em cấp THCS và 153 em ở cấp
PTTH trong toàn tỉnh.
* Cách 2: Điều tra tiến hành ngẫu
nhiên trên địa bàn hẹp hơn:
- Cách này khả thi hơn (vì chỉ tiến
hành ở 1 số trường học bắt thăm ngẫu
nhiên) nhưng tính đại diện của điều tra
cho toàn tỉnh kém hơn.
- Trước tiên, cần chọn khoảng cách
mẫu thích hợp, ví dụ là 10 (có thể từ 5
đến 10), có nghĩa cứ 10 em trong danh
sách học sinh lại chọn 1 em để khám.
- Sau đó lấy cỡ mẫu đã tính toán
nhân với khoảng cách mẫu đã chọn để
105
tìm tổng quần thể đối tượng học sinh cần
tiến hành điều tra, ví dụ:
1.536 em x 10 = 15.360 em
- Cần phân địa bàn tỉnh ra các vùng
khác nhau, ví dụ thành phố (thị xã),
huyện ven thành phố, huyện nông thôn và
tính tỷ lệ học sinh từng cấp ở mỗi vùng so
với tổng số học sinh trong toàn tỉnh, để
phân cỡ mẫu theo 3 vùng đó và theo 3
cấp học, ví dụ:
Số toàn tỉnh Thành phố
Các huyện
nông thôn
Các huyện
ven thành phố
Số HS
Cần
khám
Số HS
Cần
khám
Số HS
Cần
khám
Số HS
Cần
khám
Số HS
cấp tiểu
học
60,000
60%
922 30,000
50 %
461 20,000
33,3%
307 10,000
16,7%
154
Số HS
cấp THCS
30,000
30%
461 12,000
40 %
184 12,000
40 %
184 6,000
20 %
93
Số HS
cấp THPT
10,000
10%
153 4,000
40%
61 3,500
35%
54 2,500
25%
38
Tổng số 100.000 1.536 46,000 706 35,500 545 18,500 285
- Như vậy, ta cần khám 706 học
sinh ở vùng thành phố, trong đó 461
em học sinh cấp tiểu học, 184 em cấp
THCS và 61 em cấp THPT. Vì khoảng
cách mẫu đã chọn là 10, do đó phải bắt
thăm ngẫu nhiên trong số các trường ở
vùng thành phố chọn 5 trường tiểu học
(với sỹ số khoảng 4600 em), 2 trường
PTCS (với sỹ số khoảng 1800 em) và 1
trường PTTH.
- Tương tự như vậy, ta cần khám
545 học sinh ở vùng nông thôn, trong
đó 307 em học sinh cấp tiểu học, 184 em
cấp THCS và 54 em cấp THPT. Cần
phải bắt thăm ngẫu nhiên trong số các
trường ở vùng nông thôn chọn 3 trường
tiểu học (với sỹ số khoảng 3100 em), 2
trường PTCS (với sỹ số khoảng 1800 em)
và 1 trường PTTH.
- Tương tự, phải bắt thăm ngẫu
nhiên trong số các trường ở vùng ven
thành phố chọn 2 trường tiểu học (với
sỹ số khoảng 1600 em để khám được 154
em), 1 trường PTCS (với sỹ số khoảng
1000 em để khám được 93 em) và 1
trường PTTH (với sỹ số khoảng 400 em
để khám được 38 em). Như vậy tổng số
trường cần chọn ngẫu nhiên để điều tra
là:
+ Trường tiểu học: = 5 + 3 + 2 = 10
+ Trường THCS: = 2 + 2 + 1 = 5
106
+ Trường THPT: = 1 + 1 + 1 = 3
- Tại tất cả các trường đã bắt thăm
chọn khám (18 trường), phải làm danh
sách tất cả học sinh ở các lớp, rồi theo
danh sách học sinh của từng lớp, ta chọn
ngẫu nhiên hệ thống, cứ 10 em lại chọn 1
em để khám được 1536 em với phân bố ở
các vùng và các cấp học như đã nói ở
phần trên.
1.3. Kỹ thuật khám điều tra:
- Tất cả học sinh có tên trong danh
sách mẫu được chọn phải có phiếu khám
riêng và được thử thị lực.
- Sau đó tất cả được đo khúc xạ bằng
máy đo khúc xạ tự động, chưa tra thuốc
liệt điều tiết.
- Sau đó tất cả học sinh này được tra
thuốc liệt điều tiết Cyclogyl 1% x 3 lần,
sau 30 phút nhắm mắt lại đo lại bằng máy
đo khúc xạ tự động.
- Sau đó được khám đáy mắt để loại
trừ các bệnh mắt khác.
- Nếu có điều kiện, có thể đo trục
nhãn cầu cho tất cả các em bằng siêu âm
A thì càng tốt.
1.4. Xử lý số liệu:
- Số liệu đo được cần xử lý theo từng
mắt riêng biệt (MP, MT).
- Mắt được coi là cận thị khi số đo
bằng máy đo khúc xạ tự động sau liệt
điều tiết > 0,5 DS.
- Mắt được coi là viễn thị khi số đo
bằng máy đo khúc xạ tự động sau liệt
điều tiết có Công suất cầu tương đương
2,0 DS ( Công suất cầu tương đương =
công suất cầu + 1/2 công suất trụ) vì viễn
thị < + 2,00 DS không ảnh hưởng tới thị
lực của trẻ em.
- Mắt được coi là loạn thị khi số đo
bằng máy đo khúc xạ tự động sau liệt
điều tiết của 2 trục chênh lệch nhau > 0,5
DS.
Chú ý: Vì những yêu cầu khắt
khe nói trên về cách chọn mẫu và kỹ
thuật khám, việc điều tra tật khúc xạ ở
học sinh chỉ nên được tiến hành tại
những nơi có đủ điều kiện về kinh phí,
trình độ cán bộ và trang thiết bị, thuốc
men thích ứng, không nên làm tràn
lan.
2. Về khám sàng lọc tật khúc xạ
trong lứa tuổi học sinh:
2.1. Mục đích:
- Khám sàng lọc nhằm phát hiện
sớm những trẻ em có tổn thương thị lực
do tật khúc xạ thị ở lưá tuổi từ 8 đến 15
tuổi ( hoặc từ 11-15 tuổi là nhóm có ưu
tiên cao), từ đó có kế hoạch cấp kính và
điều trị lác và nhược thị cho các em.
- Khám sàng lọc để tìm trẻ em có tổn
thương thị lực có ý nghĩa chỉ nên tiến
hành ở những nơi có đủ các nguồn lực
về kinh phí, cán bộ và phương tiện
thích hợp để tiến hành đo khúc xạ và cấp
kính tiếp theo.
107
- Kết quả khám sàng lọc không nói
lên được tỷ lệ mắc tật khúc xạ của trẻ em
tại cộng đồng trong tỉnh vì không đại
diện cho quần thể trẻ em của tỉnh.
2.2. Cách tiến hành khám sàng lọc trẻ
em có tật khúc xạ:
- Đối tượng: học sinh trong độ tuổi
đi học từ 8-15 tuổi tại một hoặc 1 vài
trường học, ưu tiên vùng nghèo và vùng
ước tính có số trẻ mắc tật khúc xạ nhiều
hơn.
- Cách làm:
+ Đầu tiên huấn luyện y tá hoặc thầy
cô giáo tiến hành thử thị lực cho tất cả
học sinh trong trường, chỉ cần dùng
hàng thị lực 7/10, yêu cầu học sinh che
từng mắt và đứng cách xa bảng thị lực 5
mét. Nếu em nào không đọc được hàng
7/10 thì ghi danh sách lại để khám tiếp.
+ Sau đó tất cả các em có thị lực
dưới 7/10 cần được tra thuốc liệt điều
tiết Cyclogyl 1% x 3 lần, sau 20-30 phút
thì đo khác xạ bằng máy đo khúc xạ tự
động và soi đáy mắt để loại trừ các bệnh
mắt khác.
+ Những em có tật khúc xạ cần được
hẹn tái khám để thử kính và cấp đơn kính
(mua hoặc lắp sẵn). Những em có lác và
nhược thị cần được gửi đến các trung tâm
nhãn khoa để được hướng dẫn điều trị
tiếp.
3. Về khám và cấp kính chỉnh tật
khúc xạ tại các cơ sở nhãn khoa:
- Những trẻ em có thị lực thấp dưới
7/10 cần được khám thử thị lực qua kính
lỗ, thử kính chủ quan và cần làm liệt điều
tiết bằng Cyclogyl 1% hoặc Atropin 0,5%
rồi đo lại khúc xạ khách quan (soi bóng
đồng tử hoặc đo bằng máy đo khúc xạ tự
động) trước khi quyết định cấp kính.
- Những trẻ em có lác và tật viễn thị
cần được chỉnh kính đủ công suất và
được điều trị nhược thị (nếu có)
- Những trẻ có độ viễn thị nhẹ dưới +
2,00 DS và cận thị nhẹ - 0,5 DS có thể
không cần chỉnh kính
- Những trẻ có lệch khúc xạ 2 mắt do
mắc phải cần được chỉnh đủ công suất
kính. Những trẻ có lệch khúc xạ 2 mắt do
bẩm sinh có thể không cần chỉnh đủ hết
số kính chênh lệch.
- Tất cả trẻ có tật khúc xạ và lác nên
được khám phát hiện sớm nhược thị bằng
tet hình nổi để được gửi đi điều trị tiếp ở
các trung tâm nhãn khoa tuyến tỉnh trở
lên.
- Cần tuyên truyền hướng dẫn cho trẻ
em học sinh và phụ huynh biết các yếu tố
nguy cơ gây cận thị để phòng tránh như
làm việc bằng mắt quá lâu, quá nhiều ở
khoảng cách gần, thiếu ánh sáng, tư thế
học không đúng.
- Đối với người trên 45 tuổi: những
kính cầu lắp sẵn với giá phải chăng dùng
108
để đọc sách cần được có bán sẵn ở những
cộng đồng, những nơi ít được phục vụ.
Cần thử thị lực cho người trên 45 tuổi khi
họ đến khám mắt vì lý do nhìn không rõ
khi đọc sách. Nếu thị lực nhìn xa của mỗi
mắt bệnh nhân sau khi chỉnh kính là 3/10
hoặc hơn nữa, thì có thể cấp kính đọc
sách cho họ. Nếu thị lực nhìn xa của hai
mắt sau khi chỉnh kính của bệnh nhân
dưới 3/10, thì bệnh nhân cần được khám
mắt đầy đủ để phát hiện và điều trị các
bệnh mắt khác.
- Đối với người không còn thể
thuỷ tinh/người đã mổ đặt thể thuỷ tinh
nhân tạo: cần phổ biến cho nhân viên y
tế cộng đồng biết rằng bệnh nhân sau mổ
đục thể thuỷ tinh thường cần có kính đeo
và nếu kính không có sẵn thì nên chuyển
bệnh nhân lên tuyến trên để khám và
được cấp đơn mua kính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khuyen_cao_cua_hoi_thao_toan_quoc_ve_khuc_xa_tai_ninh_thuan.pdf