Tài liệu Khung năng lực nghề nghiệp cho học viên trường Đại học Phòng cháy chữa cháy - Nguyễn Văn Hiệp: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 455 (Kì 1 - 6/2019), tr 24-28
24
KHUNG NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
Nguyễn Văn Hiệp - Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy
Ngày nhận bài: 20/04/2019; ngày sửa chữa: 28/04/2019; ngày duyệt đăng: 03/05/2019.
Abstract: Professional competence framework of fire fighting & prevention describes the
necessary competencies for each officer and soldier to carry out the work of fire prevention and
rescue. This professional competence framework includes measurable and observable work
performance indicators and standards; it is a scientific basis, which has the effect of orienting
teaching activities at the University of Fire Fighting & Prevention to develop professional
competency for learners.
Keywords: Competency, professional competency, competency framework, fire prevention and
rescue.
1. Mở đầu
Dạy học phát triển năng lực, phẩm chất người học là
một xu hướng tất yếu của giáo dục Việt Nam và của c...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khung năng lực nghề nghiệp cho học viên trường Đại học Phòng cháy chữa cháy - Nguyễn Văn Hiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 455 (Kì 1 - 6/2019), tr 24-28
24
KHUNG NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
Nguyễn Văn Hiệp - Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy
Ngày nhận bài: 20/04/2019; ngày sửa chữa: 28/04/2019; ngày duyệt đăng: 03/05/2019.
Abstract: Professional competence framework of fire fighting & prevention describes the
necessary competencies for each officer and soldier to carry out the work of fire prevention and
rescue. This professional competence framework includes measurable and observable work
performance indicators and standards; it is a scientific basis, which has the effect of orienting
teaching activities at the University of Fire Fighting & Prevention to develop professional
competency for learners.
Keywords: Competency, professional competency, competency framework, fire prevention and
rescue.
1. Mở đầu
Dạy học phát triển năng lực, phẩm chất người học là
một xu hướng tất yếu của giáo dục Việt Nam và của các
nước trên thế giới hiện nay. Nghị quyết số 29-NQ/TW
tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Khóa
XI đã khẳng định: “Phát triển GD-ĐT là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn” [1].
Trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực
nghề nghiệp, Khung năng lực nghề nghiệp chính là
Chuẩn đầu ra của hoạt động dạy học. Vì thế, xây dựng
khung năng lực nghề nghiệp là một yêu cầu cấp thiết, cần
phải được tiến hành sớm.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Nhận thức chung về năng lực nghề nghiệp Phòng
cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Đã có nhiều khái niệm về năng lực theo các phạm trù
khác nhau, dù diễn đạt theo cách nào thì năng lực đều có
một số đặc điểm chung, cơ bản là:
- Năng lực là kết quả của sự phối hợp (huy động tổng
hợp) nhiều nguồn lực khác nhau (những tư chất sẵn có,
kiến thức, động cơ, thái độ, ý chí, kĩ năng...) trong hoạt
động của con người.
- Năng lực chỉ tồn tại trong hoạt động. Khi con người
chưa hoạt động thì năng lực vẫn còn tiềm ẩn, chỉ có thể
quan sát được năng lực qua hoạt động của cá nhân ở tình
huống nhất định.
- Năng lực thể hiện qua mức độ thành công, tính hiệu
quả của hoạt động, đó là thước đo để đánh giá năng lực.
- Năng lực được hình thành và phát triển trong suốt
cuộc đời con người, ở cả trong và ngoài nhà trường. Một
năng lực nào đó có thể sẽ bị yếu hoặc mất đi nếu không
được sử dụng, rèn luyện thường xuyên.
Do đó, theo chúng tôi: năng lực là tổ hợp các thuộc
tính của cá nhân, gồm những thành tố kiến thức, kĩ năng,
thái độ, phù hợp với một lĩnh vực hoạt động cụ thể, đảm
bảo cho hoạt động đó có hiệu quả trong bối cảnh nhất định.
Năng lực không mang tính chung chung, khi nói đến
năng lực bao giờ cũng nói đến năng lực thuộc về một
hoạt động cụ thể nào đó. Trong hoạt động nghề nghiệp,
con người luôn biểu hiện những khả năng nhất định để
thực hiện công việc của nghề nghiệp đó. Khi thực hiện
những hoạt động ấy, con người cần phải có tri thức, kinh
nghiệm cần thiết tương ứng với hoạt động, có khả năng
tập trung chú ý, tư duy... có như vậy, mới thực hiện hoạt
động theo mục đích. Những yếu tố đó biểu hiện khả năng
thực hiện hoạt động nghề nghiệp của con người, được
gọi là năng lực nghề nghiệp.
Năng lực nghề nghiệp tích hợp kiến thức, kĩ năng và
thái độ: các kĩ năng thực hành, giao tiếp, giải quyết vấn
đề và các kĩ năng trí tuệ; thái độ lao động nghề nghiệp;
khát vọng học tập và cải thiện; khả năng thích ứng để
thay đổi; khả năng áp dụng kiến thức vào công việc; ý
thức và khả năng hợp tác, làm việc cùng với người khác
trong tổ, nhóm... Trong đó, các thành tố kĩ năng thực
hành là biểu hiện cao nhất của năng lực nghề nghiệp.
Là thành phần quan trọng của lực lượng Công an
nhân dân, Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy (PCCC) là
nòng cốt trong triển khai các biện pháp phòng ngừa, kịp
thời chữa cháy và cứu nạn cứu hộ (CNCH) các vụ cháy,
nổ, sự cố, tai nạn, hạn chế thiệt hại về người và tài sản,
góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước.
Tuy nhiên, tình hình cháy, nổ, sự cố, tai nạn vẫn diễn biến
phức tạp, thường xuyên xảy ra nhiều vụ cháy, tai nạn, sự
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 455 (Kì 1 - 6/2019), tr 24-28
25
cố làm nhiều người chết và bị thương, gây thiệt hại lớn
về tài sản, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, môi trường đầu
tư và an sinh xã hội. Do vậy, Trường Đại học PCCC là
nơi duy nhất thực hiện chức năng và nhiệm vụ đào tạo
nghiệp vụ PCCC và CNCH của nước ta, có trách nhiệm
đào tạo đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm công tác PCCC và
CNCH phải có chuyên môn nghiệp vụ cao đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước.
Học viên của trường phải có sức khỏe theo tiêu chuẩn
tuyển dụng của Bộ Công an nhằm đáp ứng yêu cầu phục
vụ ngành lâu dài; có tác phong nhanh nhẹn, linh hoạt
thích ứng với môi trường công tác chiến đấu của ngành
và nghề nghiệp PCCC và CNCH. Học viên khi ra trường
phải có chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH
được giao, gồm: - Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp
luật, kiến thức nghiệp vụ, xây dựng phong trào quần
chúng PCCC và CNCH; - Kiểm tra, hướng dẫn và đề
xuất các giải pháp an toàn PCCC; - Tổ chức hoạt động
thẩm duyệt, thiết kế và nghiệm thu về PCCC đối với nhà
và công trình; - Tiến hành phối hợp điều tra ban đầu vụ
cháy và xử lí các vi phạm quy định về PCCC theo pháp
luật; - Tổ chức, quản lí hoạt động của đội hướng dẫn kiểm
tra về an toàn PCCC, đội chữa cháy chuyên nghiệp, đội
CNCH chuyên nghiệp, đội quản lí phương tiện PCCC và
CNCH; - Có kĩ năng chuyên sâu về phòng cháy trong
xây dựng, trong các quá trình công nghệ sản xuất, thiết
bị điện, tài nguyên thiên nhiên, công tác quản lí an toàn
vật liệu nổ công nghiệp; - Tham mưu, đề xuất, xây dựng
và tổ chức thực hiện được các văn bản quy phạm pháp
luật về PCCC và CNCH, triển khai ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ trong lĩnh vực PCCC và CNCH;
- Phân tích và giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn công tác phòng cháy, tổng kết kinh nghiệm
công tác chỉ huy chữa cháy, đúc kết kinh nghiệm về công
tác CNCH; - Xây dựng và tổ chức thực tập các phương
án chữa cháy và CNCH; - Có khả năng đánh giá nhận
định diễn biến đám cháy và tổ chức chỉ huy các hoạt động
chữa cháy; - Có khả năng chuyên sâu về nhận định, đánh
giá tình hình diễn biến sự cố, tai nạn và tổ chức các hoạt
động CNCH; - Có khả năng thích ứng, tự học tập, nghiên
cứu để nâng cao trình độ; - Có khả năng làm việc độc lập
và tổ chức phối hợp, làm việc theo nhóm.
Hoạt động chữa cháy và CNCH là công việc hết sức
phức tạp, nguy hiểm, đòi hỏi các chiến sĩ tham gia chữa
cháy và CNCH phải dũng cảm, mưu trí, phối hợp, tuân
thủ mệnh lệnh của chỉ huy mới có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Vì vậy, cán bộ, chiến sĩ phải được chuẩn bị
chu đáo về tinh thần, tư tưởng, tâm lí, chính trị, nghiệp
vụ, chuyên môn kĩ thuật, tổ chức chỉ huy và khả năng sẵn
sàng chiến đấu cao.
Như vậy, năng lực nghề nghiệp PCCC và CNCH là
tổ hợp các kiến thức, kĩ năng, thái độ nghề nghiệp phù
hợp với những yêu cầu đặc trưng của công tác PCCC và
CNCH, nhằm đảm bảo thực hiện có trách nhiệm và hiệu
quả các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống khác
nhau thuộc lĩnh vực PCCC và CNCH và đem kết quả tốt.
Năng lực nói chung và năng lực nghề nghiệp PCCC
và CNCH nói riêng có quan hệ chặt chẽ với kiến thức và
kĩ năng. Kiến thức và kĩ năng vừa là thành phần của năng
lực, đồng thời cũng là cách biểu hiện của năng lực nghề
nghiệp PCCC và CNCH. Vì vậy, phát triển năng lực
nghề nghiệp PCCC và CNCH có quan hệ chặt chẽ với
phát triển kiến thức và nâng cao kĩ năng nghề nghiệp
PCCC và CNCH cho cán bộ, chiến sĩ. Đồng thời, cần
phải tạo môi trường làm việc tốt giúp cán bộ, chiến sĩ có
khả năng tích hợp các kiến thức, kĩ năng, thái độ để thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao.
2.2. Xây dựng Khung năng lực nghề nghiệp Phòng
cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Khung năng lực nghề nghiệp PCCC và CNCH được
đề xuất dựa trên cơ sở Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban
chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn
diện GD-ĐT, chỉ rõ: “Tập trung phát triển trí tuệ, thể
chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát
hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp
cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống văn hóa, lịch
sử, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ
năng thực hành, vận dụng kiến thức mới vào thực tiễn.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học
tập suốt đời” [1]. Căn cứ theo Điều 48 (Luật Phòng
cháy và Chữa cháy) [2] quy định chức năng, nhiệm vụ
của lực lượng Cảnh sát PCCC. Theo Điều 5 và Điều 26,
Nghị định số 83/2017/NĐ-CP của Chính phủ, quy định
về công tác CNCH của lực lượng PCCC [3].
Năng lực của cán bộ, chiến sĩ thực hiện công tác
PCCC và CNCH tại các đơn vị Cảnh sát PCCC và
CNCH theo chức năng, nhiệm vụ được giao thuộc loại
năng lực nghề nghiệp, năng lực chuyên biệt, đặc trưng
của lĩnh vực PCCC và CNCH. Cấu trúc của năng lực này
được tích hợp bởi các loại năng lực thành phần như: năng
lực chuyên môn; năng lực phương pháp; năng lực xã hội
và năng lực cá nhân để thực hiện các hoạt động chuyên
môn, thực hiện nhiệm vụ nghiệp vụ được giao, nghiên
cứu khoa học. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của lực
lượng PCCC, có thể đưa ra một cách tổng quát về Khung
năng lực nghề nghiệp PCCC và CNCH như sau:
2.2.1. Năng lực chuyên môn nghề
Nội dung của năng lực chuyên môn ở từng nghề có
sự khác nhau, nhưng cấu trúc của năng lực chuyên môn
ở mọi nghề đều giống nhau, gồm:
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 455 (Kì 1 - 6/2019), tr 24-28
26
- Phải nắm vững kiến thức chuyên môn nghề nghiệp
ở mức chuyên sâu, lí thuyết chuyên môn là tri thức của
kĩ năng, vì vậy, các chiến sĩ cần đạt được: Có kiến thức
chuyên môn PCCC và CNCH sâu rộng, chính xác và
thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn, thông tin,
kĩ thuật để nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ công
tác; có kiến thức chuyên ngành, hiểu biết thực tiễn và khả
năng liên hệ, vận dụng phù hợp khi thực hiện nhiệm vụ
công tác.
- Năng lực thực hành nghề: Căn cứ vào thực tiễn tại
hiện trường sự cố, tai nạn, cháy nổ để cán bộ, chiến sĩ
đưa ra các giải pháp, phương án hành động (từ thiếu sót,
sai phạm để đưa ra cách khắc phục; đề ra các phương án
cứu người và chữa cháy mang lại hiệu quả cao nhất....);
có năng lực thực hành nghề nghiệp vững vàng, phải biết
vận dụng kiến thức chuyên môn vào giải quyết các vấn
đề trong thực tiễn nghề nghiệp; thành thạo các kĩ năng
của lĩnh vực chuyên môn và thường xuyên cập nhật các
kĩ năng nghề nghiệp mới; biết được phương pháp huấn
luyện, quy trình tổ chức huấn luyện nghiệp vụ PCCC và
CNCH; xây dựng được kế hoạch huấn luyện, hướng dẫn
được kĩ thuật cá nhân và đội hình chữa cháy và CNCH
cho cán bộ, chiến sĩ; xây dựng được phương án chữa
cháy và CNCH.
- Năng lực tổ chức, quản lí: Để đảm nhận vai trò tiểu
đội trưởng, đội trưởng một đội nghiệp vụ, quản lí hành
chính cơ sở, cần phải có năng lực: Tổ chức, quản lí hoạt
động cho một đơn vị đảm bảo theo đúng chế độ quy
định và có hiệu quả cao trong quá trình hoạt động (chế
độ sinh hoạt, thời gian, nội dung tập luyện...); khả năng
đúc rút kinh nghiệm từ thực tế công tác để đề xuất, đưa
nội dung mới vào trong kiến thức, kĩ năng khi thực hiện
công tác PCCC trên địa bàn được giao; có khả năng tổ
chức, sắp xếp công việc, đánh giá kết quả công việc; tổ
chức thực tập, diễn tập phương án chữa cháy và CNCH
theo quy định; có khả năng đúc rút kinh nghiệm từ thực
tế công tác để đề xuất, đưa nội dung mới vào trong kiến
thức, kĩ năng khi thực hiện công tác PCCC trên địa bàn
được giao.
2.2.2. Năng lực thực hiện nhiệm vụ nghiệp vụ được giao
Năng lực này đòi hỏi phải có những năng lực cần thiết
như:
- Năng lực sử dụng trang thiết bị, phương tiện chuyên
dụng: Nhằm mang lại hiệu quả cao nhất khi giao và sử
dụng được các phương tiện, thiết bị PCCC và CNCH phù
hợp với tình huống, đặc thù sự cố, tai nạn, phù hợp với
môi trường, với không gian và phù hợp với cá nhân
người sử dụng...; có khả năng cập nhật thường xuyên và
sử dụng được các phương tiện, thiết bị mới, hiện đại để
nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ công tác; nhận
dạng được các thiết bị, dụng cụ trang bị trên phương tiện
PCCC và CNCH; thực hiện các biện pháp an toàn trong
quá trình chuẩn bị, kiểm tra, vận hành thành thạo phương
tiện PCCC và CNCH cơ bản; đánh giá, xử lí và phán
đoán chính xác tình trạng hoạt động của trang thiết bị,
phương tiện PCCC và CNCH; phân tích tác dụng, đặc
điểm kĩ thuật, ưu nhược điểm của trang thiết bị, phương
tiện với công tác PCCC và CNCH; hiểu rõ nguyên lí làm
việc của trang thiết bị, phương tiện để ứng dụng vào công
tác PCCC và CNCH.
- Năng lực biểu đạt (sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp):
Ngôn ngữ là phương tiện giao, truyền tải thông tin và
điều chỉnh đến người có liên quan đến công tác PCCC.
Cán bộ, chiến sĩ khi thực hiện nhiệm vụ PCCC và CNCH
phải có khả năng diễn đạt tốt, có ngôn ngữ rõ ràng, có
khả năng biểu cảm ngôn ngữ (nhắc nhở, hướng dẫn, điều
chỉnh việc chấp hành các quy định, hoạt động tuyên
truyền, phổ biến, huấn luyện về PCCC và CNCH). Ngôn
ngữ phải truyền đạt thông tin đảm bảo được tính chính
xác, ngắn gọn, rõ ràng nhằm mang lại hiệu quả chiến đấu
cao, duy trì được tính kỉ luật, thống nhất ở đơn vị chiến
đấu. Trong nhiều điều kiện phải thông qua kí hiệu bằng
tay, qua dây, tiếng còi, ánh sáng, qua ánh mắt để phối
hợp hoạt động nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả làm việc:
có khả năng giao tiếp tốt, có kĩ năng giao tiếp bằng văn
bản, qua thư điện tử và các phương tiện truyền thông
khác; có kĩ năng thuyết trình, vận động những vấn đề về
chuyên môn, nghiệp vụ PCCC và CNCH trước mọi
người; có khả năng diễn đạt ngôn ngữ rõ ràng, đảm bảo
được tính chính xác, ngắn gọn; có khả năng nắm bắt được
tâm lí trong giao tiếp; có khả năng hiểu và biểu đạt được
ngôn ngữ cử chỉ (hành động), tín hiệu, kí hiệu.
- Năng lực đánh giá: Năng lực đánh giá rất quan
trọng, giúp phát hiện được các dấu hiệu vi phạm có yếu
tố nguy hiểm trực tiếp phát sinh cháy, nổ, sự cố để có thể
đưa ra được các biện pháp khắc phục kịp thời; qua đánh
giá để hạn chế, loại trừ các nguy hiểm trực tiếp cho tính
mạng, sức khỏe của bản thân, đồng đội khi chữa cháy và
CNCH (như: sụp đổ, nguy cơ nổ, bùng cháy, tai nạn thứ
cấp); phân tích, đánh giá được nội dung, yêu cầu kiểm tra
an toàn PCCC; phân tích, đánh giá được các biện pháp
đảm bảo an toàn PCCC, các hình thức xử lí vi phạm quy
định về PCCC; đánh giá được các biện pháp an toàn
trong chữa cháy và CNCH; đánh giá được các đặc điểm
liên quan đến chiến thuật chữa cháy, đặc điểm của đám
cháy xảy ra ở nhà và các dạng công trình, thiết bị; đánh
giá, phân tích được đặc điểm các dạng sự cố, tai nạn tại
hiện trường, hướng dẫn và tổ chức áp dụng chiến kĩ thuật
CNCH tại hiện trường sự cố, tai nạn.
- Năng lực làm việc với người khác và làm việc theo
nhóm: Năng lực này nhằm tác động có hiệu quả với người
khác (với từng người hoặc cả nhóm) gồm: sự hiểu biết và
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 455 (Kì 1 - 6/2019), tr 24-28
27
cùng nhau đáp ứng những yêu cầu, tình huống thực tiễn
của công việc PCCC và CNCH có hiệu quả với tư cách là
một thành viên của nhóm để đạt mục đích. Trong công tác
chữa cháy và CNCH, cán bộ, chiến sĩ phải hoạt động theo
nhóm, theo đội hình nhằm đảm bảo an toàn cho nhau, cho
người bị nạn và mang lại hiệu quả cao trong phối hợp sử
dụng phương tiện, thiết bị và chiến thuật. Gồm có: Đảm
bảo sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực; đảm bảo ý
thức trách nhiệm của mỗi cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ;
phối hợp tốt với đồng đội khi thực hiện điều tra, kiểm tra
hướng dẫn công tác PCCC và CNCH; phối hợp tốt với
đồng đội khi thực hiện kĩ thuật và đội hình chữa cháy,
CNCH; phối hợp quản lí an toàn cho đồng đội, nạn nhân
khi thực hiện nhiệm vụ chữa cháy và CNCH; phối hợp
hoạt động của các tổ, đội với nhau khi cùng tham gia thực
hiện nhiệm vụ chữa cháy và CNCH.
- Năng lực giải quyết vấn đề: cán bộ, chiến sĩ rất cần
khả năng nhận biết, phán đoán chính xác các nguy cơ gây
nguy hiểm để đề phòng, ngăn chặn và để ra các quyết
định thực hiện kịp thời nhằm đảm bảo an toàn cho nạn
nhân, bản thân, đồng đội và hạn chế thấp nhất thiệt hại.
Khi thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ sẽ phải làm việc
trong môi trường nguy hiểm (khói, nhiệt độ cao, nguy cơ
sụp đổ...), hiện trường sự cố, tai nạn có diễn biến phức
tạp, nhanh chóng. Vì vậy, cán bộ, chiến sĩ cần: Có khả
năng nhận biết, phán đoán chính xác các nguy cơ gây
nguy hiểm từ đám cháy và hiện trường sự cố, tai nạn để
ra các quyết định thực hiện kịp thời nhằm đảm bảo an
toàn và hạn chế thấp nhất thiệt hại; biết lựa chọn các hoạt
động chữa cháy và CNCH cần thiết phù hợp khi thực
hiện nhiệm vụ chữa cháy và CNCH; quyết định các hình
thức xử lí vi phạm quy định PCCC và CNCH, đưa ra các
biện pháp ngăn chặn kịp thời nhằm không để xảy ra sự
cố, tai nạn.
- Năng lực lập kế hoạch: Khi đứng trước một nhiệm
vụ cụ thể, người thực hiện công việc đều phải có mục
đích, kế hoạch. Năng lực này được rèn luyện giúp cán
bộ, chiến sĩ thực hiện lên lịch kiểm tra hướng dẫn công
tác phòng cháy, tổ chức tập luyện, huấn luyện tại đơn vị
theo chuyên đề, tổ chức điều tra cơ bản có liên quan đến
chữa cháy và CNCH..., theo đúng thời gian được quy
định của đơn vị theo từng tháng, từng quý và năm. Gồm
có: Nghiên cứu các quy định có liên quan, hồ sơ của cơ
sở, lên kế hoạch kiểm tra hướng dẫn công tác phòng
cháy; năng lực xây dựng kế hoạch tổ chức tập luyện,
huấn luyện tại đơn vị theo chuyên đề, theo nhóm; lập kế
hoạch tổ chức điều tra cơ bản có liên quan đến chữa cháy
và CNCH..., theo đúng thời gian được quy định của đơn
vị theo từng tháng, từng quý và năm.
- Năng lực thống kê và lập báo cáo: thông qua thu
thập được các kiến thức, thông tin có liên quan, cán bộ,
chiến sĩ cần phân tích, xử lí thông tin số liệu, dữ liệu
nhằm hoàn thiện các báo cáo và đưa ra các ý kiến, các
quyết định hợp lí hỗ trợ hiệu quả cho công tác PCCC và
CNCH (số lượng và chất lượng của phương tiện, số lượt
kiểm tra hướng dẫn với số kiến nghị, lỗi xử lí vi phạm
của loại hình cơ sở...). Năng lực này được thông qua kĩ
năng lựa chọn thông tin, mô hình hóa và đọc hiểu dữ liệu
thông tin thống kê từ các mô hình, quan sát thông tin
thống kê và mô tả số liệu bằng bảng biểu, biểu đồ. Gồm
có: Có khả năng thu thập, phân tích và xử lí thông tin
trong quá trình điều tra cơ bản về PCCC và CNCH, lập
hồ sơ quản lí, theo dõi hoạt động PCCC và kiểm tra an
toàn về PCCC; thông qua thu thập được các kiến thức,
thông tin có liên quan nhằm hoàn thiện các báo cáo và
đưa ra các ý kiến, các quyết định hợp lí hỗ trợ hiệu quả
cho công tác PCCC và CNCH; lựa chọn thông tin, mô
hình hóa và đọc hiểu dữ liệu thông tin thống kê từ các mô
hình, quan sát thông tin thống kê và mô tả số liệu bằng
bảng biểu, biểu đồ; khả năng quan sát thông tin thống kê
để rút ra các kết luận thống kê.
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin: Nhằm khai
thác các thông tin liên quan đến nghề nghiệp (lĩnh vực
PCCC và CNCH liên quan trực tiếp đến sự phát triển của
nhiều ngành nghề trong xã hội) nên các kiến thức liên
quan đến nghề nghiệp cần phải được cập nhật liên tục để
kịp thời đáp ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng,
của từng địa phương...
2.2.3. Năng lực nghiên cứu khoa học
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của cán bộ,
chiến sĩ làm công tác PCCC và CNCH là nghiên cứu
khoa học để ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn
nhằm nâng cao chất lượng quản lí công tác PCCC và
CNCH, phục vụ xã hội, góp phần hạn chế thiệt hại về
người và tài sản khi có sự cố, cháy nổ xảy ra. Để phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học, trước hết cán bộ làm
công tác PCCC và CNCH phải được bồi dưỡng năng lực
nghiên cứu khoa học, được thực hành các kĩ năng nghiên
cứu khoa học và phải tự rèn luyện, bồi dưỡng để phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học cho bản thân. Bao
gồm: Phát hiện các vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn công
tác PCCC và CNCH; thực hiện các chương trình, đề án,
đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản, ứng dụng, phát triển
công nghệ trong lĩnh vực PCCC và CNCH; nghiên cứu
khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng kế hoạch, đưa
ra các biện pháp đảm bảo an toàn trong công tác PCCC
và CNCH; viết bài báo khoa học trên các tạp chí khoa
học; viết chuyên đề, báo cáo khoa học, tham luận tại các
hội nghị, hội thảo khoa học...
Ngoài ra, năng lực học tập cũng rất quan trọng để
nâng cao hiệu quả hoạt động PCCC và CNCH. Năng lực
học tập được thể hiện ở khả năng thực hiện các hoạt động
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 455 (Kì 1 - 6/2019), tr 24-28
28
cá nhân về nhiệm vụ học tập, tự cập nhật, tự lĩnh hội
những tri thức liên quan; qua đó, tự rèn luyện các kĩ năng
liên quan đến nghề sau quá trình dạy học. Năng lực học
tập của học viên luôn cần được chú trọng trong quá trình
dạy học theo hướng phát triển nghề PCCC và CNCH...
gồm có: Khả năng thực hiện các hoạt động cá nhân về
nhiệm vụ học tập; tự cập nhật, lĩnh hội những tri thức liên
quan đến công tác PCCC và CNCH; tự rèn luyện các kĩ
năng liên quan đến nghề sau quá trình học tập.
Như vậy, năng lực nghề nghiệp PCCC và CNCH
không phải là khả năng (potential); năng lực không thể
phát triển với những người có kiến thức chuyên môn
không phù hợp chuyên ngành PCCC và CNCH; năng lực
cũng không thể phản ánh qua bằng cấp hay quá trình
công tác..., mà là cái tồn tại thực sự, làm nên sự khác biệt
ở mỗi cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ PCCC và
CNCH. Sự tổng hòa của hệ thống các năng lực chuyên
môn, năng lực thực hiện nhiệm vụ nghiệp vụ được giao,
năng lực nghiên cứu khoa học... tạo thành một tập hợp.
Tập hợp những năng lực này được gọi là hệ thống năng
lực chuyên môn nghề nghiệp của cán bộ, chiến sĩ thực
hiện nhiệm vụ PCCC và CNCH, hay gọi tắt là Khung
năng lực nghề nghiệp PCCC và CNCH.
3. Kết luận
Những năng lực chủ chốt trong Khung năng lực nghề
nghiệp PCCC và CNCH được đề xuất là những năng lực
có tính tổng quát, được hình thành thông qua các chương
trình của nhiều môn học trong nhà trường và trong thực
tiễn công tác PCCC và CNCH. Xác định và chọn lựa các
năng lực then chốt cần thiết giúp học viên hoàn thành tốt
nhiệm vụ công tác sau này, thích ứng được với sự phát
triển KT-XH đang có xu thế toàn cầu, có nền khoa học
công nghệ thay đổi nhanh chóng và liên tục. Những năng
lực này giúp học viên đối mặt được với thách thức của
hiện tại, tương lai trong lĩnh vực PCCC và CNCH; xác
định được mục tiêu tổng thể cho học tập và làm việc.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
[2] Quốc hội (2001). Luật Phòng cháy và chữa cháy.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[3] Chính phủ (2017). Nghị định số 83/2017/NĐ-CP
ngày 18/7/2017 quy định về công tác cứu nạn, cứu
hộ của lực lượng phòng cháy chữa cháy.
[4] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2015). Chỉ thị số
47-CT/TW ngày 25/6/2015 về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng cháy, chữa cháy.
[5] Trịnh Văn Biều - Trần Thị Ngọc Hà (2016). Đổi mới
giáo dục và tổ chức các hoạt động dạy học để phát
triển năng lực, phẩm chất người học. Tạp chí Khoa
học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, số 10, tr 88-91.
[6] Hoàng Hòa Bình (2015). Năng lực và cấu trúc của
năng lực. Tạp chí Khoa học giáo dục, số 117, tr 29-32.
[7] Bộ GD-ĐT (2009). Sổ tay giảng viên POHE. Dự án
Giáo dục đại học Việt Nam - Hà Lan.
[8] Bộ GD-ĐT (2014). Xây dựng chương trình giáo dục
phổ thông theo định hướng phát triển năng lực học
sinh. Hội thảo khoa học, Bộ GD-ĐT.
[9] Vũ Xuân Hùng (2016). Bàn về phát triển kĩ năng
nghề nghiệp. Tạp chí Khoa học dạy nghề, số 35,
tr 32-35.
GIẢI PHÁP TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC...
(Tiếp theo trang 17)
[2] Chính phủ (2012). Chiến lược Phát triển giáo dục
giai đoạn 2011-2020.
[3] Trường Đại học Vinh (2015). Nghị quyết Đại hội
đảng bộ Trường đại học Vinh lần thứ XXXI, nhiệm
kì 2015-2020.
[4] Trường Đại học Vinh (2018). Quyết định số
1278/QĐ-ĐHV ngày 28/12/2018 ban hành kế hoạch
chiến lược phát triển Trường Đại học Vinh giai
đoạn 2018-2025, tầm nhìn 2030.
[5] Nguyễn Thị Xuân Lộc (2018). Xây dựng kế hoạch
tuyển dụng, sử dụng đội ngũ giảng viên Trường Đại
học Vinh minh bạch, cạnh tranh và hiệu quả. Đề tài
nghiên cứu khoa học, Vinh, tháng 12/2018.
[6] Nguyễn Thị Phương Thảo - Nguyễn Văn Dũng
(2018). Tạo động lực làm việc thông qua biện pháp
đào tạo, bồi dưỡng viên chức Trường Cao đẳng Sư
phạm Nghệ An. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 6,
tr 68-71.
[7] Nguyễn Thị Thu Hương (2012). Xây dựng đội ngũ
giảng viên trong trường đại học - Thực trạng và giải
pháp. Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Luật học, số 28, tr 110‐116.
[8] Cảnh Chí Dũng (2013). Hoạt động tạo động lực cho
cán bộ giảng viên trường Đại học - Kinh nghiệm
quốc tế và một số gợi ý đối với Trường Đại học Kinh
tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài cấp trường;
Chủ trì: Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05nguyen_van_hiep_6458_2181723.pdf