Tài liệu Không gian bán công cộng và sự hình thành dư luận xã hội: nghiên cứu trường hợp quán cà phê ở hà nội: 72 Xó hội học, số 2 - 2009
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
Sự kiện - Nhận định
KHễNG GIAN BÁN CễNG CỘNG VÀ SỰ HèNH THÀNH DƯ LUẬN XÃ
HỘI: NGHIấN CỨU TRƯỜNG HỢP QUÁN CÀ PHấ Ở HÀ NỘI
NGUYỄN QUí THANH - TRỊNH NGỌC HÀP0F1
1. Đặt vấn đề
Khụng gian cụng cộng (public space) là một khu vực hay một nơi chốn cú tớnh
chất mở rộng đối với tất cả mọi người khụng kể giới tớnh, chủng tộc, dõn tộc, độ tuổi
hay mức sống [1]. Đú là một nơi chốn mà mọi người đến đú cú thể tự do cựng xỏc định
và bàn luận về những vấn đề chung của xó hội, về cỏc lĩnh vực cụng cộng (public
sphere). Núi cỏch khỏc, đú là nơi mà những cỏ nhõn hay những nhúm xó hội cựng chia
sẻ những mối quan tõm chung và cú thể tỡm thấy những nhận định chung [2, 86). Vớ
dụ, đú là cỏc đường phố, cỏc quảng trường, cỏc cụng viờn, một số nơi như thư viện hay
một số toà nhà của chớnh quyền v.v.
Khụng gian bỏn cụng cộng (semi-public space), một mặt mang một phần đặc tớnh
của khụng gian cụng cộng, nhưng m...
10 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Không gian bán công cộng và sự hình thành dư luận xã hội: nghiên cứu trường hợp quán cà phê ở hà nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72 Xã hội học, số 2 - 2009
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
Sù kiÖn - NhËn ®Þnh
KHÔNG GIAN BÁN CÔNG CỘNG VÀ SỰ HÌNH THÀNH DƯ LUẬN XÃ
HỘI: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP QUÁN CÀ PHÊ Ở HÀ NỘI
NGUYỄN QUÝ THANH - TRỊNH NGỌC HÀP0F1
1. Đặt vấn đề
Không gian công cộng (public space) là một khu vực hay một nơi chốn có tính
chất mở rộng đối với tất cả mọi người không kể giới tính, chủng tộc, dân tộc, độ tuổi
hay mức sống [1]. Đó là một nơi chốn mà mọi người đến đó có thể tự do cùng xác định
và bàn luận về những vấn đề chung của xã hội, về các lĩnh vực công cộng (public
sphere). Nói cách khác, đó là nơi mà những cá nhân hay những nhóm xã hội cùng chia
sẻ những mối quan tâm chung và có thể tìm thấy những nhận định chung [2, 86). Ví
dụ, đó là các đường phố, các quảng trường, các công viên, một số nơi như thư viện hay
một số toà nhà của chính quyền v.v.
Không gian bán công cộng (semi-public space), một mặt mang một phần đặc tính
của không gian công cộng, nhưng mặt khác, một số qui tắc đối với hành động của
những người tiếp cận có thể được đặt ra giống như việc tiếp cận các không gian tư
nhân (private space). Thí dụ, những người chủ các không gian bán công cộng đó có thể
đưa ra những qui định về ăn mặc, về hành vi, về quảng cáo v.v.[1]. Nói cách khác,
trong không gian công cộng các cá nhân vừa có cảm giác đó là một nơi mình có thể
đến, nói chuyện và thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau (công cộng và riêng tư), nhưng
đồng thời họ cũng nhận thấy cần phải tuân thủ những qui định được những người chủ
sở hữu đặt ra. Với tính chất như vậy, những người đến đây có thể tìm thấy một góc
riêng cho mình. Sự thu hẹp các không gian công cộng [3] do thương mại hoá và tư
nhân hoá dẫn nhu cầu của người dân tìm kiếm những khu vực thay thế ở các địa hạt
khác. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các quán cà phê không có hay có sự hỗ trợ của các
phương tiện truyền thông hiện đại như cà phê wifi, cà phê bóng đá (truyền hình vệ
tinh), các trung tâm mua bán v.v. với tư cách như những không gian bán công cộng là
điều đáng quan tâm tìm hiểu.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về không gian công cộng ở Việt Nam thường được
tiếp cận dưới góc độ kiến trúc, qui hoạch và quản lý đô thị mà còn ít những nghiên cứu
về không gian công cộng từ góc độ của khoa học xã hội. Hơn thế, các nghiên cứu về
không gian bán công cộng ở Việt Nam hoàn toàn vắng bóng trong khoa học xã hội nói
chung, của xã hội học nói riêng.
Những nghiên cứu ban đầu của chúng tôi cho thấy rằng, khác với nhiều nước,
người Việt Nam dường như ít có thói quen thảo luận những vấn đề chung, những
1 PGS.TS, Đại học Quốc gia Hà Nội
CN, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguyễn Quý Thanh
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
73
vấn đề công cộng ở những không gian công cộng. Họ dường như lựa chọn những
không gian hoàn toàn mang tính chất riêng tư như là tại nhà mình hoặc ở những
không gian công cộng nhưng lại có tính chất riêng tư, nơi họ vẫn có thể tụ họp cùng
những người bạn của mình để thảo luận về các vấn đề quan tâm. Thêm vào đó, tại
các đô thị lớn như Hà Nội không gian công cộng đang bị thu hẹp do quá trình tư
nhân hoá, thương mại hoá. Chính vì vậy, các quán cà phê - một không gian bán
công cộng chính là một lựa chọn tốt cho những người muốn trò truyện, thảo luận ở
bên ngoài gia đình với bạn bè, đồng nghiệp hay kể cả với người lạ về những vấn đề
khác nhau đang diễn ra trong xã hội cũng như về các vấn đề riêng tư. Trong bối
cảnh như vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu xem những vấn đề chung của xã hội được
thảo luận như thế nào trong các quán cà phê - một dạng không gian bán cộng cộng
rất phổ biến ở Việt Nam. Những câu hỏi nghiên cứu chính chúng tôi đặt ra ở đây là
"thành phần xã hội của những người đến các quán cà phê họ là ai?’, "các cá nhân
thảo luận về những chủ đề gì trong các quán cà phê?’, ‘những chủ đề trên các
phương tiện truyền thông đại chúng được các cá nhân này thảo luận tại đó như thế
nào?’
2. Khung lý thuyết về "lĩnh vực công cộng" của Jurgen Habermas
Khái niệm "không gian công cộng" hay khái niệm "không gian bán công cộng" có
mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với khái niệm "lĩnh vực công cộng". Lĩnh vực công cộng
là "một địa hạt mà là nơi chốn thoải mái để các công dân tranh luận, cân nhắc thiệt
hơn, thoả thuận thống nhất và hành động" [4]. Vì vậy, để có nền tảng lý thuyết phù hợp
trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng khung lý thuyết về lĩnh vực công cộng của
J. Habermas. Theo đó, ông đã liệt kê ra những đặc trưng của sự tự do và bình đẳng mà
cần thiết cho một “tình huống phát biểu lý tưởng” trong một xã hội dân chủ. Tuy nhiên,
thành viên của các lĩnh vực công cộng cũng phải tôn trọng những qui tắc nhất định của
“tình huống phát biểu lý tưởng”. Những đặc trưng đó là:
1. Mọi chủ thể có kiến thức (trình độ) để nói và hành động đều được tham dự
thảo luận.
2. Mọi người đều được nhận định mọi vấn đề.; đều được đưa mọi sự nhận định
vào thảo luận, đều được bày tỏ thái độ, mong muốn và nhu cầu của mình.
3. Không một diễn giả nào bị ngăn ngừa trong việc thực thi các quyền của họ như
được trình bày tại mục (1) và (2), bằng bất kỳ sự ép buộc bên trong hoặc bên ngoài nào
[4]
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng, các định đề mà Habermas nói về lĩnh
vực công cộng có thể áp dụng khi nghiên cứu không gian bán công cộng - trường hợp
quán cà phê ở Việt Nam.
3. Phương pháp, mẫu và quá trình thu thập dữ liệu
Đây là một nghiên cứu định tính vì vậy phương pháp thu thập dữ liệu chính được
Không gian công cộng và sự hình thành dư luận xã hội...
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
74
sử dụng là quan sát có tham dự và các phỏng vấn bán cấu trúc. Chúng tôi đã soạn thảo
và thử nghiệm một bảng kiểm (checklist) dùng để ghi nhận thông tin trong quá trình
quan sát. Để tham dự, nghiên cứu viên cũng đã trực tiếp đến các quán café và hành
động như một khách hàng thực sự. Để giảm bớt tính chất chủ quan của thông tin thu
được, hoạt động quan sát được chúng tôi tiến hành vào nhiều thời điểm khác nhau
trong ngày cũng như vào các ngày khác nhau trong tuần cũng được thực hiện tại
những khoảng thời gian khác nhau trong ngày.
Địa bàn nghiên cứu được chọn có chủ đích theo chiến lược "tiêu chí" với 4 quán
cà phê nằm theo trục đô thị hoá từ khu vực ngoài vi (Hà Đông), đến khu vực gần trung
tâm Hà Nội - đường Huỳnh Thúc Kháng. Chiến lược chọn mẫu này nhằm mục đích thu
thập thông tin về các thành phần người đến quán cà phê khác nhau. Địa điểm quan sát
tại 4 quán cà phê có sự khác biệt về vị trí, về nội thất. Việc quan sát được thực hiện
tổng số 20 lần, với 5 lần tại mỗi quán. Các đặc trưng chính của 4 quán cà phê này được
trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Các đặc trưng chính của các quán cà phê được nghiên cứu
STT Quán Đặc điểm
1 Nam Hải Quán cà phê “Nam Hải” nằm trên đường Nguyễn Trãi,
gần các trường đại học, các nhà máy, cơ quan lớn. Quán
có mức giá đồ uống phù hợp với túi tiền của sinh viên và
người lao động có thu nhập trung bình.
2 8X Café “8X Café” đặt tại tầng 1 thuộc 1 toà nhà tại làng Sinh viên
Hacinco, đường Nguỵ Như Kon Tum. Khách hàng của
quán chủ yếu là sinh viên có điều kiện kinh tế khá giả,
người lao động có thu nhập trung bình khá trở lên.
3 Moonlight Quán cà phê “Moonlight” nằm gần ngã tư địa phận giáp
ranh Hà Nội cũ – Hà Đông, tỉnh Hà Tây (cũ), gần Bến Xe
và cạnh trường đại học Đại Nam. Đối tượng khách hàng là
những người có thu nhập trung bình khá trở lên. Quán
nằm ở vị trí thuận lợi kinh doanh và được bày trí đẹp mắt.
4 Nắng
Sài Gòn
“Nắng Sài Gòn” là quán cà phê nằm tại ngã tư Nguyễn
Chí Thanh - Huỳnh Thúc Kháng, có vị trí đẹp, bày trí sang
trọng, lịch sự. Phần lớn khách hàng có điều kiện kinh tế
khá giả.
Nguyễn Quý Thanh
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
75
4. Các phát hiện
Thành phần của công chúng
Công chúng ở đây chính là những người khách hàng của các quán cà phê.
Theo các lý thuyết về dư luận xã hội, họ có thể chính là các chủ thể của dư luận xã
hội [5, 49]. Chúng tôi quan tâm đến câu hỏi là những thành phần công chúng xuất
hiện ở các quán cà phê họ là ai. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi được trình bày
trong bảng 2.
Bảng 2. Thành phần của công chúng
Đặc điểm “Nam Hải” “8X Café” “Moonlight” “Nắng Sài
Gòn”
Độ tuổi Thanh niên;
Trung niên
Thanh niên Thanh niên;
Trung niên
Thanh niên;
Trung niên
Trình độ học
vấn
Cao đẳng,
đại học
Phổ thông
trung học; Cao
đẳng, đại học
Cao đẳng,
đại học; Sau
đại học
Cao đẳng, đại
học; Sau đại
học
Nghề nghiệp Cán bộ, công
nhân viên các
cơ quan, nhà
máy xung
quanh
Sinh viên các
trường đại học,
cao đẳng
Cán bộ, viên
chức; Kinh
doanh, buôn
bán
Cán bộ, viên
chức; Kinh
doanh, buôn
bán
Mức sống Trung bình Trung bình;
Khá giả
Khá giả Giàu có
Do vị trí nằm tại khu vực có nhiều nhà máy, cơ quan, trường học, quán cà phê
Nam Hải thu hút khách hàng thuộc nhóm công nhân và các viên chức nhà nước. Quán
này cung cấp dịch vụ bình dân, phù hợp với nhóm khách hàng có mức thu nhập trung
bình. Khách hàng tới đây chủ yếu là thanh niên hoặc trung niên, đã đi làm, và có trình
độ cao đẳng, đại học.
Trong khi đó, quán 8X Café nằm giữa khu làng sinh viên Hacinco và những văn
phòng cho các công ty tư nhân thuê cho nên có đối tượng khách hàng bao gồm cả học
sinh, sinh viên và nhân viên văn phòng. Những người đến đây hầu hết có trình độ cao
đẳng, đại học, tuy nhiên, cũng có những học sinh phổ thông thuộc dạng khá giả. Đa
phần khách hàng ở đây đa số thuộc thế hệ 8X (sinh những năm 80 của thế kỷ 20) và trẻ
hơn.
Quán Moonlight nằm ở vị trí giữa điểm giao nhau giữa quận Thanh Xuân và quận
Hà Đông. Quán có nhóm đối tượng khách hàng khá đa dạng. Những người thường lui
Không gian công cộng và sự hình thành dư luận xã hội...
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
76
tới đây là cán bộ nhà nước, nhân viên văn phòng và những người làm dịch vụ, buôn
bán v.v. với trình độ học vấn phần lớn cao đẳng, đại học. Về độ tuổi, có cả những
khách hàng thuộc nhóm trung niên và thanh niên, nhưng khách hàng là trung niên
chiếm phần lớn. Họ có mức sống khá giả, đủ điều kiện đứng sử dụng và tiếp cận những
sản phẩm, dịch vụ cung cấp tại quán này.
Quán cà phê Nắng Sài Gòn nằm ở giao điểm của những con đường phố lớn, gần
trung tâm thành phố. Chính vì vậy, nhóm khách hàng ở đây thường là những người có
học vấn cao, từ cao đẳng, đại học, đa số thuộc lứa tuổi trung niên, nghề nghiệp khá đa
dạng, bao gồm doanh nhân, cán bộ, nhân viên văn phòng, trí thức, nhưng chủ yếu là
những doanh nhân giàu có.
Các chủ đề được thảo luận
Vấn đề thứ hai mà chúng tôi quan tâm, đó là các nhóm công chúng thảo luận, trao
đổi về những vấn đề gì tại các không gian bán công cộng - quán cà phê. Tóm tắt về kết
quả nghiên cứu được trình bày trong hình 1.
Hình 1. Các chủ đề được thảo luận
Hình 1 cho thấy các nhóm công chúng tại các quán cà phê thảo luận về những vấn
đề không khác nhau nhiều lắm. Có thể thấy mọi nhóm công chúng ở các quá cà phê
đều thảo luận về những vấn đề cá nhân của các thành viên trong nhóm, những vấn đề
Quán
Nam Hải
Quán
Moonlight
Quán
8X Café
Nắng
Sài Gòn
Các vấn đề cá
nhân/liên cá
nhân/tổ chức
Các vấn đề
xã hội
Các vấn đề
kinh tế
Các vấn đề
đời sống văn
hoá/lối sống
Nguyễn Quý Thanh
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
77
liên cá nhân (xung đột, hợp tác) hay nhưng vấn đề thuộc về cơ quan, tổ chức mà họ là
thành viên.
Tuy nhiên, đối với từng nhóm đối tượng với những đặc điểm về lứa tuổi, nghề
nghiệp, mức sống, học vấn, nội dung thảo luận có sự khác biệt. Những nhóm thanh
niên, học sinh sinh viên thường có xu hướng bàn luận tới những vấn đề thuộc văn hoá,
lối sống như các sản phẩm tiêu dùng đang được ưu chuộng, các loại mốt hiện hành v.v.
Trong khi đó, những nhóm trung niên có học vấn và thu nhập cao lại thường thảo luận
về những vấn đề kinh tế - xã hội và đưa ra những phân tích, nhận định của họ về sự lên
xuống của thị trường chứng khoán, vấn đề môi trường ô nhiễm, an toàn vệ sinh thực
phẩm, sự lên xuống của giá cả tiêu dùng.
Hộp 1 cung cấp cho chúng ta thí dụ về một chủ đề cụ thể được thảo luận: vấn đề
giá xăng.
Hộp 1:
Nhóm nhân viên văn phòng và việc giảm giá xăng
Quan sát và phỏng vấn kéo dài 90 phút, được thực hiện tại quán cà phê Nam Hải,
vào lúc 12h40 đến 14h10, vào một ngày làm việc trong tuần tháng 12 năm 2008.
Thành phần: Nhóm nhân viên văn phòng ở công ty giầy Thượng Đình, gồm 3
nam và 2 nữ; có 2 nam và 1 nữ ở độ tuổi thanh niên, 2 người còn lại ở độ tuổi
trung niên và nắm giữ chức vụ cao hơn 3 thanh niên.
Chủ đề: Họ thảo luận về nhiều vấn đề như những việc nội bộ trong cơ quan, tiền
lương, giá cả thị trường và đặc biệt là giá xăng. Chủ đề giá xăng giảm thu hút
được hầu hết các ý kiến từ 5 thành viên.
Quá trình và nội dung thảo luận: Trước những vấn đề đưa ra trao đổi, nhóm ở độ
tuổi thanh niên tỏ ra tôn trọng và lắng nghe ý kiến, nhận định của “cấp trên”.
Nhiều vấn đề được đưa ra, nhưng vấn đề xuất hiện nhiều nhất và được thảo luận
một cách sôi nổi nhất của cả nhóm là việc giảm giá xăng liên tiếp, nhưng mức
giảm ít trong những ngày cuối tháng 10 và đầu tháng 11 năm 2008. Hầu hết ý
kiến của các thành viên đều cho rằng việc giảm giá như vậy chưa hơp lý và lý do
để giảm ít có nhiều điểm gây tranh cãi. Tất cả đều nhất trí với ý kiến cho rằng,
giá xăng cần giảm mạnh chứ không nên giảm nhiều lần, mỗi lần giảm từ 500
đến 1.000 đồng. Nhóm thanh niên đặt ra những câu hỏi “Tại sao” đối với nhóm
trung niên, và nhóm trung niên đưa ra những câu trả lời theo quan điểm của
họ. Qua việc thảo luận về giảm giá xăng, họ đưa ra và bàn luận về cuộc sống, về
công việc, về tiền lương và giá cả như giá các phương tiện giao thông công cộng
có thể giảm, giá cả các mặt hàng thiết yếu trên thị trường có thể giảm theo.
Không gian công cộng và sự hình thành dư luận xã hội...
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
78
Truyền thông đại chúng và sự thảo luận tiếp diễn tại không gian bán công cộng
Chúng tôi đã có những phỏng vấn với những người đến các quán cà phê nhằm
xác định xem các nguồn thông tin về những vấn đề công cộng được các cá nhân thu
nhận là những nguồn nào, sự tiến nối thảo luận các vấn đề được nêu trên các phương
tiện truyền thông đại chúng ra sao. Chúng ta đã biết dư luận xã hội được hình thành
như là kết quả của một quá trình thảo luận xã hội [5, 46]. Đồng thời lý thuyết "thủ lĩnh
ý kiến" của Lazarsfield, Berelson và Gaudet (1948) [6] nhấn mạnh đến vai trò của
những giao tiếp, thảo luận liên cá nhân trong viêc định hình ý kiến, quan điểm của cá
nhân. Qua quan sát và phỏng vấn, chúng tôi thấy rằng nguồn thông tin cho các thảo
luận khá đa dạng.
Những thông tin được thảo luận tại những quán cà phê đa phần đều xuất phát từ
truyền hình, từ Internet và báo in. Phương tiện đài phát thanh không còn được ưa
chuộng để thu thập thông tin. Trong số những loại phương tiện truyền thông đại chúng
được sử dụng để thu thập thông tin cho những cuộc thảo luận, truyền hình và Internet
trở thành hai nguồn thông tin chính, với mức độ sử dụng ngang nhau. Các loại ấn phẩm
vẫn được sử dụng nhiều để cập nhật thông tin, tuy không nhiều như Internet hay truyền
hình. Tuy nhiên, có thể thấy, các nhóm công chúng tại quán 8X Café, với đặc trưng là
nhóm trẻ tuổi, chủ yếu thu thập về vấn đề thảo luận trên Internet hoặc một phần từ
truyền hình chứ họ hầu như không tiếp cận với các ấn phẩm cũng như đài phát thanh.
Trong trường hợp thảo luận về giảm giá xăng ở trên, những thông tin về việc giá
xăng giảm được nhóm nhân viên văn phòng lấy từ các báo in, từ truyền hình, và đặc
biệt là từ Internet.
5. Thảo luận
Kết quả nghiên cứu dường như cho thấy rằng không gian tại các quán cà phê
không dành cho đại chúng. Xét từ phía các quán cà phê, thành phần công chúng
dường như được "sàng lọc một cách không chính thức" thông qua giá dịch vụ, hình
thức bài trí cũng như vị trí của quán cà phê. Mỗi quán cà phê được thiết kế phục vụ
một nhóm đối tượng nhất định dựa trên độ tuổi, học vấn, mức sống v.v. Những công
chúng không nằm trong nhóm có tiêu chí phù hợp với một quán cà phê nào đó không
hoàn toàn bị loại trừ một cách chính thức. Tuy nhiên, họ thường khó hoà nhập với các
nhóm khác và khó thảo luận một cách tự nhiên về các vấn đề họ quan tâm tại đây với
những người lạ.
"Sự sàng lọc không chính thức" có thể sẽ dẫn đến một hệ quả tiếp theo là chính
những người vượt qua sự "sàng lọc" sẽ có khả năng là những nhóm tham gia sẽ định
hình quan điểm được coi là của "đại chúng" về một vấn đề nào đó của xã hội. Nói cách
khác, đúng theo Habermas đã nhận định không phải toàn thể đại chúng đều tham gia
vào các quá trình thảo luận xã hội mà chí một bộ phận nhỏ của đại chúng [4]. Bộ phận
này, ở không gian bán công cộng họ có thể là những nhóm nam giới, có trình độ học
vấn từ trung bình đến cao trong xã hội, từ trẻ đến nhóm trung niên, công nhân viên
Nguyễn Quý Thanh
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
79
chức, có thu nhập từ trung bình đến khá. Nói cách khác công chúng (public) hữu danh
và hữu hình hơn nhiều so với đại chúng (mass). Công chúng chính là các nhóm năng
động nhất trong việc hình thành cái gọi là "quan điểm chung" của xã hội về một vấn đề
nào đó.
Xét từ phía công chúng, những cá nhân tham gia lĩnh vực công cộng không có sự
phân biệt về địa vị. Nhưng, rõ ràng tự bản thân các nhóm công chúng ý thức thấy rằng
họ phải có trình độ, khả năng nhất định, điều kiện nhất định để có thể tập hợp lại và
bàn luận về những vấn đề quan tâm. Quan sát cho thấy, các nhóm xã hội tự thấy mình
đáp ứng đủ những tiêu chí của sự "sàng lọc không chính thức" mới tham dự một cách
chủ động vào những cuộc thảo luận tại những không gian bán công cộng. Chính cơ chế
"sàng lọc không chính thức" này đã khiến cho những người "không đáp ứng tiêu
chuẩn" không đến các quán này và từ đó không tham gia vào các thảo luận. Rất có thể,
những nhóm công chúng bị "sàng lọc không chính thức" sẽ tham gia thảo luận về các
vấn đề công cộng tại những không gian khác, thí dụ, trong không gian công cộng ảo
trên Internet. Tuy nhiên, với sự phát triển hiện tại của Internet ở Việt Nam, ý nghĩa sự
tham gia của những nhóm công chúng này trong sự hình thành quan điểm chung của xã
hội sẽ không phải là cao.
Các chủ đề thảo luận tại các không gian công cộng tập trung nhiều vào các vấn
đề kinh tế xã hội mang tính công cộng hay riêng tư, ít có những thảo luận về các chủ đề
chính trị - xã hội. Theo Habermas những chủ đề thảo luận ở không gian công cộng cho
rằng phạm vi của những vấn đề thảo luận là không giới hạn. Tuy nhiên, tại các không
gian bán công cộng - quán cà phê, chủ đề được thảo luận chỉ tập trung ở các về kinh tế,
xã hội, văn hoá, lối sống và những thông tin khác bao gồm những thông tin về công
việc, đời tư, kinh nghiệm sống v.v. Chúng tôi nhận thấy, có ít các thảo luận tại các
quán cà phê về các chủ đề chính trị - xã hội. Như vậy, nội dung các vấn đề đưa ra thảo
luận, trên thực tế, không hoàn toàn giống với những đặc điểm của chủ đề thảo luận mà
Habermas đã trình bày trong lý thuyết về lĩnh vực công cộng của mình. Nói cách khác,
ở Việt Nam, những chủ đề thảo luận trong các không gian bán công cộng - quán cà
phê dường như hẹp hơn so với quan điểm của Habermas.
Các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là phương tiện truyền
thông kiểu mới Internet là nguồn cung cấp các sự kiện quan trọng cho việc thảo
luận tại các không gian bán công cộng - quán cà phê. Trường hợp nhóm nhân viên
thảo luận về việc giảm giá xăng đã trình bày ở trên cho thấy thảo luận liên cá nhân
là một trong những mắt xích lan toả, mở rộng dư luận xã hội. Một lần nữa điều này
khẳng định những quan điểm của Lazarsfield, Berelson và Gaudet [6] về vai trò của
những giao tiếp liên cá nhân trong việc hình thành những quyết định cá nhân và
định hình dư luận xã hội theo nhiều bậc truyền thông (Multi-Flow Communication).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các phương tiện truyền thông đại chúng kết nối
mạnh mẽ tới địa hạt của không gian bán công cộng. Qua đây, có thể thấy truyền
thông đại chúng, đặc biệt là Internet đã góp phần không nhỏ vào việc cung cấp
thông tin, các vấn đề để thảo luận, thu hút những “nhóm tinh hoa” sử dụng dịch vụ
Không gian công cộng và sự hình thành dư luận xã hội...
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
80
(tại quán cà phê) và tạo lập những không gian thảo luận kiểu mới theo hướng phi
vật thể. Có thể nói, ngồi trong một quán cà phê wifi, chúng ta vừa có cảm giác làm
việc trong không gian riêng lại vừa có cảm giác về sự chia sẻ với bạn bè hoặc những
người xung quanh. Mặc dù thông tin về những sự kiện xã hội quan trọng thường
được công bố trên những phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng với mỗi cá
nhân, dựa trên các kinh nghiệm cũng như hệ giá trị của mình sẽ có những nhận thức
và cách đánh giá khác nhau trước mỗi vấn đề. Những đánh giá đó được thảo luận,
được thống nhất, được khách quan hoá để giảm bớt những những nhận định mang
màu sắc chủ quan, chúng được chia sẻ cho những cá nhân khác trong các mối quan
hệ xã hội.
Như chúng ta đã biết dư luận xã hội được hình thành khi các cá nhân có thông
tin về vấn đề, có cơ hội để trao đổi về nó và có không gian phù hợp dành cho thảo
luận về các thông tin về sự kiện mà các cá nhân thu được. Không gian bán công cộng
- quán cà phê là một không gian phù hợp vì nó tạo thuận lợi sự lan toả của dư luận xã
hội bằng việc cung cấp không gian để các nhóm công chúng có thể tập hợp, thoải mái
giao tiếp về những vấn đề chung, nhưng lại vẫn đảm bảo một sự riêng tư nhất định.
Điều này dường như phù hợp với đặc điểm tính cách của người Việt Nam là muốn
thảo luận về những vấn đề chung của xã hội những ở một bối cảnh khá riêng tư. Quán
cà phê cũng phù hợp cho việc truyền tải và thu nhận thông tin đa dạng và đa chiều về
những vấn đề chung, cùng với các không gian công cộng khác. Bằng việc cung cấp
một không gian bán mở cho các nhóm công chúng mang những đặc điểm xã hội nhất
định "tập hợp” và thảo luận, quán cà phê - một không gian bán công cộng, góp phần
đáng kể vào việc hình thành và phát triển dư luận xã hội trong xã hội Việt Nam.
6. Kết luận
Những luận điểm chính mà chúng tôi rút ra từ các câu trả lời cho câu hỏi nghiên
của chúng tôi là các quán cà phê - không gian bán công cộng là một địa hạt mà công
chúng có thể đến để thảo luận về các vấn đề chung của xã hội. Tuy nhiên, các không
gian bán công cộng này cũng có sự "sàng lọc" đối với các nhóm công chúng khiến
những người tham gia thảo luận xã hội có xu hướng là các nhóm "tinh hoa" hơn là đại
chúng. Các chủ đề thảo luận khá đa dạng, nhưng ít có sự hiện diện của các chủ đề
chính trị - xã hội. Quán cà phê - không gian bán công cộng có sự kết nối các phương
tiên truyền thông đại chúng thông qua việc thảo luận các thông tin do các phương tiện
này cung cấp. Nói một cách khác, khi những không gian công cộng bị thu hẹp cùng
với quá trình đô thị hoá, các không gian bán công cộng sẽ đóng vai trò là những diễn
đàn thay thế đế các nhóm xã hội thảo luận về những vấn đề công cộng. Đây chính là
một địa hạt để từ đó quan điểm chung, dư luận xã hội được thảo luận và hình thành.
Với tính chất của một nghiên cứu thăm dò, định tính, các phát hiện, kết luận về
vai trò của quán cà phê - không gian bán công cộng trong sự hình thành dư luận xã hội
sẽ là những gợi mở cho các nghiên cứu tiếp theo để kiểm chứng chúng về mặt định
lượng.
Nguyễn Quý Thanh
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn
81
Tài liệu tham khảo
[1] Public Space, trong từ điển mở trục tuyến wikepedia, có tại
Public_space, truy cập lần cuối ngày 26 tháng 4 năm
2009.
[2] Hauser, Gerard (1998). "Vernacular Dialogue and the Rhetoricality of Public
Opinion". Communication Monographs 65 (2).
[3] Võ Kim Cương, Không gian công cộng đang hẹp dần, báo cáo khoa học tại Hội
thảo chuyên đề "Đô thị hóa và cuộc sống đô thị trong tương lai ở Việt Nam - Bàn
về không gian công cộng trong đô thị" tháng 08/2005
[4] Habermas, Jurgen. "Discourse Ethics: Notes on Philosophical Justification." Moral
Consciousness and Communicative Action. Trans. Christian Lenhart and Shierry
Weber Nicholson. Cambridge: MIT Press, 1980.
[5] Nguyễn Quý Thanh (2006): Xã hội học về Dư luận xã hội, NXB. Đại học Quốc gia
Hà Nội
[6] Lazarsfield, Berelson và Gaudet (1948): The People’s Choice: How the Voters
Make up his mind in a Predential Campaign (second edition). New York:
Columbia University Press.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so2_2009_nguyenquythanh_4198.pdf