Khóa luận Xây dựng ứng dụng tính toán phân tán trên nền tảng sức mạnh các máy tính cá nhân - Nguyễn Chí Công

Tài liệu Khóa luận Xây dựng ứng dụng tính toán phân tán trên nền tảng sức mạnh các máy tính cá nhân - Nguyễn Chí Công: ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ Nguyễn Chí Công XÂY DỰNG ỨNG DỤNG TÍNH TOÁN PHÂN TÁN TRÊN NỀN TẢNG SỨC MẠNH CÁC MÁY TÍNH CÁ NHÂN KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY Ngành: Công Nghệ Thông Tin HÀ NỘI -2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ Nguyễn Chí Công XÂY DỰNG ỨNG DỤNG TÍNH TOÁN PHÂN TÁN TRÊN NỀN TẢNG SỨC MẠNH CÁC MÁY TÍNH CÁ NHÂN KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY Ngành: Công Nghệ Thông Tin Cán bộ hướng dẫn: ThS. Đào Minh Thu HÀ NỘI - 2010 Tóm tắt nội dung Tính toán phân tán là một công nghệ mới và rất thiết thực hiên nay. Những hệ thống tính toán phân tán giúp giải quyết những bài toán khoa học lớn mà một máy tính không thể giải quyết được. Ngày nay có khá nhiều middleware phục vụ cho việc xây dựng hệ thống tính toán phân tán. Trong khóa luận này trình bày một số nghiên cứu về tính toán phân tán, những nghiên cứu về kiến trúc, cách thức hoạt động của một số hệ thống tính toán phân tán phổ biến, giới thiệu một số...

doc53 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Xây dựng ứng dụng tính toán phân tán trên nền tảng sức mạnh các máy tính cá nhân - Nguyễn Chí Công, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ Nguyễn Chí Công XÂY DỰNG ỨNG DỤNG TÍNH TOÁN PHÂN TÁN TRÊN NỀN TẢNG SỨC MẠNH CÁC MÁY TÍNH CÁ NHÂN KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY Ngành: Công Nghệ Thông Tin HÀ NỘI -2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ Nguyễn Chí Công XÂY DỰNG ỨNG DỤNG TÍNH TOÁN PHÂN TÁN TRÊN NỀN TẢNG SỨC MẠNH CÁC MÁY TÍNH CÁ NHÂN KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY Ngành: Công Nghệ Thông Tin Cán bộ hướng dẫn: ThS. Đào Minh Thu HÀ NỘI - 2010 Tóm tắt nội dung Tính toán phân tán là một công nghệ mới và rất thiết thực hiên nay. Những hệ thống tính toán phân tán giúp giải quyết những bài toán khoa học lớn mà một máy tính không thể giải quyết được. Ngày nay có khá nhiều middleware phục vụ cho việc xây dựng hệ thống tính toán phân tán. Trong khóa luận này trình bày một số nghiên cứu về tính toán phân tán, những nghiên cứu về kiến trúc, cách thức hoạt động của một số hệ thống tính toán phân tán phổ biến, giới thiệu một số dự án tính toán khoa học đang được thực thi nhờ hệ thống tính toán phân tán. Khóa luận này cũng trình bày bước đầu xây dựng một hệ thống tính toán phân tán, với phần mềm bên phía người dùng được tích hợp vào ứng dụng facebook. Người dùng không cần cài đặt một phần mềm client nào, mà chỉ cần có một trình duyệt web là có thể tham gia vào những dự án tính toán. Việc này sẽ tạo điều kiện mở rộng dự án tính toán được dễ dàng hơn, làm tăng hiệu suất của những hệ thống tính toán phân tán. Mục lục Danh mục các hình vẽ Hình 2.1: Kiến trúc hệ thống BOINC 10 Hình 2.1: Kiến trúc hệ thống Condor 15 Hình 2.3: Kiến trúc hệ thống Globus Toolkit 17 Hình 3.1: Kiến trúc tổng thể hệ thống 22 Hình 3.2: Kiến trúc chi tiết hệ thống 24 Hình 3.3: Mô hình kết nối TCP/IP của hệ thống 26 Hình 4.1: Hình ảnh mô tả phân chia task tới những máy tính Node 47 Hình 4.2: Biểu đồ thời gian thực thi khi có một máy tính 47 Hình 4.3: Biểu đồi thời gian thực thi khi có ba máy tính 48 Chương I – Giới thiệu Đặt vấn đề Khi khoa học phát triển đặt ra nhiều bài toán với khối lượng tính toán lớn, cùng với một lượng lớn dữ liệu cần xử lý. Trong nhiều ngành khoa học khác nhau những bài toán này đang tồn tại và chúng ta luôn muốn xử lý chúng. Trong thiên văn học có một điều mà chúng ta luôn muốn khám phá đó là “liệu có một nền văn minh nào ngoài trái đất không?”, đây là một câu hỏi lớn mà nhiều năm qua con người vẫn chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Với khoa học kỹ thuật như hiện nay chúng ta có thể thu được những tín hiệu từ bên ngoài trái đất, chúng ta có thể xử lý những tín hiệu này để hy vọng có thể tìm ra một nền văn minh nào đó bên ngoài trái đất. Nhưng những tín hiệu thu được ngoài trái đất rất nhiều, nếu dùng một máy tính có công suất tính toán lớn cũng phái mất rất nhiều thời gian để xử lý lượng tín hiệu này, như vậy sẽ rất lâu chúng ta mới có thể tìm được câu trả lời cho câu hỏi kia. Trong ngành công nghệ thông tin có một bài toán quen thuộc đó là bài toán phá mã. Một phương pháp phá mã đơn giản nhất là duyệt toàn bộ, ta thử lần lượt tất cả trường hợp có thể của khóa cho đến khi tìm được khóa đúng. Độ dài của khóa sẽ quyết định đến số lượng các phép thử, ví dụ với hệ mã hóa DES sử dụng 56 bit làm khóa, tức là sẽ có 256 = 72x1016 giá trị có thể của khóa. Nếu sử dụng một máy tính bình thường có tốc độ tính toán 1 giải mã /μs sẽ phải mất khoảng 1142 năm, thời gian này là quá lâu so với tuổi thọ của thông tin. Muốn phá mã nhanh có thể dùng một máy tính chuyên dụng (giá khoảng 250.000$) có thể phá mã trong 3 ngày. Nhưng đó là trường hợp sử dụng 56 bit làm khóa, nếu sử dụng khóa với độ dài 128 bit hay 126 bit thì máy tính đó cũng tỏ ra không hiệu quả. Trong y học cũng có nhiều dự án với khối lượng tính toán lớn, dự án “Help Defeat Cancer [10]” là một dự án nghiên cứu khả năng chống căn bệnh ung thư. Với dự án này, các nhà nghiên cứu cần phân tích số lượng lớn mô ung thư cùng một lúc, nếu dùng một máy tính thông thường mất khoảng 168 năm, như vậy là quá lâu vì chúng ta cần tìm ra phương pháp trị bệnh ung thư càng sớm càng tốt. Trong nhiều ngành khoa học khác như toán học, sinh học … cũng có nhiều bài toán lớn được đặt ra, việc giải quyết những bài toàn này giúp phát triển các ngành khoa học phục vụ cuộc sống, Vì vậy nhu cầu giải quyết những bài toán như thế là rất thiết thực Ngày nay mạng máy tính phát triển mạnh, nhất là mạng Internet với hàng triệu máy tính kết nối với nhau. Đối với người dùng bình thường công suất tính toán của máy tính thường không được sử dụng hết. Trong những khoảng thời gian máy tính nhàn rỗi, khả năng tính toán của nó không được tận dụng. Vậy tại sao ta không sử dụng khả năng tính toán đó để giải quyết những bài toán phức tạp trên? Mỗi máy tính khi nhàn rỗi có thể sử dụng để tính toán một phần nhỏ của bài toán, nhiều máy tính cùng tham gia tính toán sẽ tao lên một hệ thống tính toán hết sức mạnh mẽ. Nếu chúng ta có thể kết nối hàng triệu máy tính trên Internet, chúng ta sẽ tạo ra một mạng lưới tính toán khổng lồ, khi đó những bài toán lớn có thể được giải quết trong thời gian ngắn. Để mọi người tham gia tính toán cho một dự án nào đó, họ cần biết về dự án đó, và biết cách để có thể sử dụng máy tính của mình tham gia vào hệ thống tính toán. Vì vậy ta cần quảng bá cho người dùng biết về những dụ án tính toán, và cung cấp cho họ những công cụ để tham gia vào hệ thống tính toán. Mạng xã hội ngày nay rất phát triển, Facebook là một mạng xã hội có lượng người dùng lớn nhất hiên nay. Nó có thể là một nơi lý tưởng để quảng bá thông tin về những dự án tính toán. Trên Facebook bạn có thể giao lưu, liên lạc với bàn bè, với rất nhiều người cùng tham gia Facebook. Khi một người dùng Facebook tham gia vào một dự án tính toán, họ có thể giới thiệu cho bạn bè, người thân hay một ai đó mà họ quen biết trên Facebook. Những dự án tính toán thường là những dự án có ích cho xã hội nên mọi người sẽ rất sẵn lòng tham gia vào dự án tính toán. Một vấn đề có thể khiến mọi người ngại tham gia vào hệ thống tính toán đó là các hệ thống tính toán hiện nay, thường bắt người dùng phải cài một phần mền lên máy của mình để tham gia vào việc tính toán. Bất kỳ một máy tính nào muốn tham gia vào hệ thống tính toán cũng cần cài đặt phần mềm này. Vậy nếu có thể xây dựng một hệ thống tính toán phân tán, mà người dùng không cần cài đặt phần mền vẫn có thể tham gia vao hệ thống sẽ giúp khả năng huy động được lượng người dùng lớn, tình nguyện tham gia vào dự án tính toán. Web là một một công cụ rất hữu ích cho chúng ta, nó thực sự đã thay đổi cuộc sống của chúng ta. Một trang web với một chương trình applet có thể thay thế cho phần mềm tham gia vào hệ thống tính toán. Khi người dùng truy cập vào trang web, chương trình applet sẽ chạy và thực thi việc tính toán. Chúng ta có thể vào web ở bất kỳ máy tính nào có kết nối mạng Internet, và ngay lập tức có thể tham gia vào công việc tính toán. Tích hợp trang web đó vào một ứng dụng Facebook sẽ tạo thành một công cụ tuyệt vời để phát triển các dự án tính toán. Theo thông kê mới nhất của Nielsen (một công ty khảo sát thị trường) cho thấy Facebook là địa chỉ gây tốn thời gian nhất của người dùng trên Web. Người dùng Facebook cũng bỏ thời gian lên mạng gấp 3 lần so với người không tham gia mạng lưới giao tiếp xã hội này. Một ứng dụng Facebook có thể sử dụng như những phần mềm tham gia vào hệ thống tính toán phân tán, đó sẽ là một phướng án tốt để mở rộng hệ thống tính toán phân tán, tăng số người tham gia vào hệ thống, từ đó tăng khả năng tính toán Nội dung khóa luận Trong khóa luận này chúng tôi trình bày một số nghiên cứu về các hệ thống tính toán phân tán, các Middleware phổ biến dùng trong các hệ thống tính toán phân tán. Bước đầu triển khai một hệ thống tính toán phân tán, với một ứng dụng Facebook được sử dụng để người dùng có thể tham gia vào hệ thống tính toán. Nội dung chi tiết khóa luận gồm 5 chương: Chương I: Giới thiệu về khóa luận, đặt ra vấn đề cần giải quyết trong khóa luận. Chương II: Giới thiệu một số hệ thống tính toán phân tán, kiến trúc của hệ thống và đưa ra những so sánh. Ba hệ thống được giới thiệu là BOINC, Condor, Globus đây là 3 hệ thống phổ biến hiện nay. Chương III: Trình bày kiến trúc hệ thống tính toán phân tán sử dụng ứng dụng Facebook thay thế cho phần mềm . Chương IV: Trình bày cách cài đặt chương trình, triển khai một số ứng dụng tính toán phân tán trên hệ thống và kết quả. Chương V: Tổng kết, nhận xét về hệ thống, những thành quả đã đạt được và những kế hoạch phát triển của dự án. Chương II: Các hệ thống tính toán phân tán 2.1 BOINC 2.1.1: Giới thiệu BOINC [8] viết tắt của Berkeley Open Infrastructure for Network Computing (Cơ sở hạ tầng mã nguồn mở cho tính toán mạng) là một phần mềm trung gian cho việc tính toán tình nguyện và tính toán lưới. Ban đầu BOINC được xây dựng để phục vụ dự án SETI@home, một dự án tìm kiếm tín hiệu ngoài trái đất. Sau đó nó trở lên phổ biến và được sử dụng cho nhiều dự án tính toán khác nhau trong nhiều lĩnh vực như toán học, y học, sinh hoc… BOINC là một phần mềm mã nguồn mở, vì vậy những nhà phát triển có thể tải mã ngồn về để cấu hình và cài đặt theo ý muốn. 2.1.2: Kiến trúc BOINC Hệ thống BOINC gồm có 2 thành phần chính là hệ thống Server và phần mềm (Hình 2.1) Server Thành phần chính của BOINC là Backend Server, server có thể chạy trên một hoặc nhiều máy tính khác nhau, điều này giúp cho hệ thống BOINC dễ dàng mở rộng quy mô của dự án. BOINC Server chạy trên nền tàng hệ điều hành Linux và sử dụng APACHE, PHP và MySQL làm nền tảng cho hệ thống web và cơ sở dữ liệu. Các ứng dụng tính toán chạy trên máy tính thành viên, kết quả được gưi lên cơ sở dữ liệu của ứng dụng tính toán, tại đây nó sẽ được xử lý. Trước khi kết quả được gửi lên cơ sở dữ liệu của ứng dụng tính toán, nó được kiểm tra tính đúng đắn bởi Server Backend. Server Backend kiểm tra tính đúng đắn của kết quả bằng cách gửi các workunit tới nhiều máy khác nhau, và so sánh kết quả nhận được của một workunit khác nhau. Workunit là một khối lượng tính toán nhỏ của bài toán, được thực hiện trên máy tính . Một workunit gồm nhiều Task, Result là kết quả của một task, Server sẽ tự động tạo ra những tập kết quả tương ứng với các workunit khi workunit được tạo (không phải là result thật, mà chỉ là một thể hiện của kết quả), các result này được lưu vào cơ sở dữ liệu, khi một task hoàn thành và gửi kết quả lên server, result tương ứng trong cơ sở dữ liệu của server sẽ được đánh đấu là đã hoàn thành. Khi tập tất cả result của một workunit được đánh dấu, workunit đó được báo là đã hoàn thành BOINC server cung cấp một vài tính năng như: + Validator: Chức năng này kiểm tra kết quả gửi về từ có chính xác hay không. Một workunit được gửi tới nhiều máy cùng thực thi, kết quả gửi về từ những máy đó được server so sánh, kết quả có tỉ lệ cao nhất được coi là kết quả đúng. + Homogeneous redundancy: Chức năng này sẽ chỉ gửi một workunit tới những máy tính có cùng cùng một platform (cùng hệ điều hành…), điều này sẽ giúp quá trình validator được dễ dàng và chính xác hơn. +  Workunit trickling: Gửi các thông tin tới server trước khi các workunit hoàn thành, điều này giúp cho việc đánh giá để có thể gủi một workunit mới kịp thời, giúp cho việc tính toán nhanh hơn, giảm tối thiểu thời gian nhàn rỗi của máy . + Locality Scheduling: Chỉ gủi các workunit(không gửi các file cần thiết) tới các máy đã có các file cần thiết để nhanh chóng thực thi workunit. + Phân phối các workunit dựa vào các tham số của máy : Chức năng này đảm bảo việc gửi workunit tới những máy tính có khả năng thực thi workunit đó. BOINC server bao gồm 2 chương trình CGI và thường có 5 deamons. - Một chương trình CGI lập lịch xử lý các yêu cầu từ phía , nhận các workunit đã hoàn thành và gửi đi những workunit mới. - Một chương trình CGI xử lý việc upload file. - 5 deamons: + Feeder + Validator + Assimilator + File_deleter + Transitioner Sheduling Server DATA Server Web interfaces BOINC DB Core Client Project back end BOINC Server Complex Application Client Client API Server Client Project Specific component BOINC components Hình 2.1 Kiến trúc hệ thống BOINC Một workunit được chia thành nhiều task, mỗi task tương ứng với một result trong cơ sở dữ liệu, khi task hoàn thành gửi về server, result tương ứng được đánh dấu đã hoàn thành. Một deamons Feeder có trách nhiệm đọc các task trong cơ sở dữ liệu và lưu chúng trong các khối nhớ, bộ lập lịch sẽ đọc các task trong khối nhớ và gửi chúng tới , Feeder sẽ định kỳ là rỗng các khe trong khối nhớ sau khi task được gửi đi. Khi các result của một workunit được thực hiện xong và gửi về server, deamon Validator sẽ tiến hành so sánh chúng, Validator có thể được viết bởi người phát triển ứng dụng để đặt ra những thuật toán so sánh, hay những hàm đánh giá các kết quả, hoặc đơn giản là so sánh các bit. Nếu các kết quả trùng nhau nó sẽ được coi là hợp lệ và được sử dụng làm kết quả của workunit. Tiếp đó deamon Assimilator thực hiện việc xử lý các kết quả hợp lệ dựa trên code của dự án, việc xử lý này là phụ thuộc vào từng dự án, có dự án cần phân tích các file kết quả và lưu chúng vào cơ sở dữ liệu, hoắc đơn giản chỉ là copy từ nới này sang nơi khác. Deamon File_deleter có nhiệm vụ xóa những output đã được xử lý bởi Assimilator và các file input không cần thiết. Deamon Transitioner xử lý việc chuyển trạng thái của workunit và result, nó cũng tạo ra các result từ workunit khi chúng được tạo ra, hay tạo thêm những result nếu cần thiết(cho những trường hợp result không thoa mãn trong quá trình validator hoặc không gửi được lên server). BOINC Client BOINC Client là một kết cấu gồm một số ứng dụng độc lập, chúng sử dụng cơ chế BOINC remote procedure call (thủ tục gọi điều khiển từ xa của BOINC) để liên lạc với nhau. Những thành phần ứng dụng gồm có: + Chương trình BOINC , đây là một chương trình đóng vai trò là lõi của , nó có những tính năng và thực hiện những nhiệm vụ sau: Tạo và duy trì kết nối giữa và server Tải về những ứng dụng khoa học, cung cấp một cơ chế đăng nhập thống nhất để đảm nảo rằng các ứng dụng khoa học được cập nhật, lập lịch sử dụng tài nguyên CPU của các ứng dụng khoa học. BOINC chạy trên Unix như một chương trình deamon. Trên Windows, ban đầu BOINC không phải là một dịch vụ danh cho Windows mà chỉ là một ứng dụng bình thường. sau này có một vài phiên bản dành cho windows và nó là một tùy chọn trong quá trình cài đặt. Phụ thuộc vào cách cài đăt BOINC nó có thể là một chương trình chạy nền hoặc được chạy khi người dùng khởi động máy. + Một hoặc một vài ứng dụng khoa học: Những ứng dụng khoa học này thực hiện việc tính toán các bài toán khoa học, những ứng dụng này là đặc trưng cho từng dự án tính toán phân tán. Những ứng dụng khoa học sử dụng BOINC deamon để tải về và gửi đi những workunit, hay để trao đổi những thông tin thống kê với server. + Một boincmgr (boincmgr.exe): là một giao diện tương tác với lõi của ứng dụng(core ) sử dụng remote procedure call. Mặc định core chỉ cho phép kết nối từ cùng một máy tính, nhưng nó có thể cấu hình để có thể kết nối từ những máy tính khác. + BOINC screensaver: cung cấp một framework nhờ đó các ứng dụng khoa học có thể hiển thị hình ảnh trên cửa sổ screensaver của người dùng. Thông thường BOINC screensaver hiển thị những hoạt ảnh thể hiện chi tiết của ứng dụng khoa học, hoặc những biểu đồ hay những đồ thị thể hiện việc tính toán. 2.1.3 Một số dự án đang thực hiện bởi BOINC SETI@Home: SETI@Home [8] là một thí nghiệm khoa học, sử dụng những máy tính kết nối trên Internet để tìm kiếm nền văn minh ngoài trái đất. Đây là một phần của dự án SERENDIP (Search for Extraterrestrial Radio Emissions from Nearby Developed Intelligent Populations) của đại học California, Berkeley. Đài thiên văn Arecibo thu thập những tin hiệu trên không trung, sau đó những tín hiệu này được gửi tới những máy tính tham gia vào dự án để tính toán và phân tích. Các kết quả được trả lại server của dự án. Để tham gia vào dự án, người dùng phải tải về và cài đặt phần mềm tính toán trên máy của mình, mỗi khi máy tính rỗi, phần mềm sẽ tự động tải về một lượng dữ liệu (khoảng 300KB) và tiến hành tính toán. Thông tin chi tiết về dự án có tại trang chủ của dự án ABC@Home: ABC@Home [7] là một dự án toán học nhằm tìm ra bộ 3 số a,b và c để chứng minh cho giả thuyết về bộ 3 số ABC (ABC conjecture), giả thuyết 3 số ABC nêu lên rằng, chỉ tồn tại duy nhất 3 số a,b và c sao cho log(c) / log(rad(a * b * c)) > h với h là một số thực lớn hơn 1. Ba số a,b,c thỏa mãn điều kiện trên khi nó thỏa mãn những điều kiện sau + a + b = c + a<b<c + a,b,c không có ước số chung + c > rad(a * b * c) Việc chứng minh được giả thuyết ABC sẽ giúp giải đáp nhiều câu hỏi trong toán học. dự án đang được thực hiện bởi trường đại học Leiden, thông tin về dự án có trên trang chủ 2.2: Condor 2.2.1 Giới thiệu Condor là kết quả của một dự án nghiên cứu trong trường đại học Wisconsin-Mandison, Condor là một hệ thống quản lý, lập lịch cho những công việc cần tính toán lớn, người dùng gửi công việc của họ lên Condor, Condor lưu chúng trong hàng đợi của nó, lựa chon nơi nào, khi nào sẽ thực thi công việc đó, và báo cho người dùng kết quả khi hoàn thành. Khác với những hệ thống cổ điển, Condor không đòi hỏi cần có những máy móc chuyên dụng, Condor sẽ gửi những công việc (jobs) tới những máy phù hợp với yêu cầu của công việc đó. 2.2.2 Kiến trúc Hệ thống Condor [1] gồm 3 thành phần chính: Central Manager, Submit Machine, Execution Machine (Hinh 2.2). Central Manager Central Manger có nhiệm vụ thu thập những nguồn tài nguyên, và những thông tin về tất cả các máy tính tham gia vào mạng lưới tính toán, và đưa ra những chính sánh hoạt động chung cho cả mạng lưới, Dựa vào những thông tin này, một job sẽ được gửi tới những máy có tài nguyên phù hợp với yếu cầu tính toán của nó. Những deamon chính chạy trên Central Manager. Condor_collector: Deamon này chịu trách nhiệm thu thập thông tin về trạng thái của những máy tính tham gia vào Condor Pool(một tập hợp máy tính tham gia vào hệ thống phân tán). Tất cả những deamons khác định kỳ gửi ClassAd tới collector. ClassAd là những bản ghi về tài nguyên cần thiết của một job cũng như tài nguyên có của những máy tham gia vào mạng lưới, điều này giúp cho việc gửi job tới đúng những máy có thể thực thi chúng. Condor_collector có thể coi như một cơ sở dữ liệu động của ClassAd. Lệnh condor_status có thể dùng để truy vấn tới collector về những thông tin của hệ thống Condor. Những deamon khác cũng có thể truy vấn tới collector để lấy những thông tin quan trọng như địa chỉ sử dụng để gửi lệnh tới những máy tính ở xa. Condor_negotiator: Deamon này chịu trách nhiệm tạo ra tất cả những kết nối trong hệ thống Condor. Nó cũng có trách nhiệm quản lý quyền ưu tiên của những người dùng trong hệ thống. Submit Machine Submit Machine cho phép người dùng gửi những job tới một hàng đợi ảo ở trên máy cục bộ (scheduler). Scheduler sẽ đàm phán với Central Manage để yêu cầu Central Manager cấp cho những tài nguyên cần thiết cho việc thực thi job. Khi có một tài nguyên được cấp cho job, Scheduler sẽ gọi chương trình deamon Shadow, chương trình này chịu trách nhiệm quản lý việc thực thi job đó, đồng thời thực thi những công việc như: kiểm tra trạng thái hoàn thành, lập lịch lại trong các trường hợp job bị lỗi, hay thực thi những lệnh gọi hệ thống của những máy tính đang chạy job. Condor_collector Condor_negotiator Submit Machine Controlling Deamons schedd Condor_shadow Controlling Deamons startd/starter User’s job User’s code Condor_Syscall_Lib Checkpoint file and saved to disk System call performed Central Manager Execution Machine Hình 2.2 Kiến trúc hệ thống Condor Những deamon chính chạy trên Submit Machine Condor_schedd: Deamon này có nhiệm vụ miêu tả job trong Condor Pool, người dùng có thể gửi những job tới một condor_schedd đang chạy, những job này được lưu trong job queue, những demons khác có nhiệm vụ xem và thao tác tới job queue như: condor_submit, condor_q, condor_rm sẽ kết nối tới condor_schedd để thực thi công việc của nó. Condor_shadow: Deamon này sẽ chạy khi một job được thực thi, khi một job hoàn thành, deamon này thực hiện việc truyền file, ghi những log file và đưa ra những bản thống kê về quá trình thực thi job. Jobs được liên kết tới Condor's Standard Universe, cái mà thực thi những lệnh gọi hệ thống thông qua condor_shadow. Tất cả những lệnh gọi hệ thống được thực hiện trên máy tính từ xa đều được gửi qua mạng tới condor_shadow, condor_shadow sẽ thực thi những lệnh gọi thế thống (như vào ra file) rồi gửi kết quả trả lại cho máy tính đó. Execution Machine Exeution Machine chạy trên các máy tính tham gia vào lưới tính toán, deamon Startd thực thi những job mà Submit Machine gửi tới, khi chạy nó gửi tới Central Manager những thông tin về khả năng thực thi của nó, những thông tin như dung lượng bộ nhớ hay tốc độ của CPU. Một deamon khác là Starter chịu trách nhiệm quản lý việc thực thi job trên máy đó, nó có thể đưa ra những chính sách riêng để quản lý việc thực thi job Những deamon chính chạy trên Execution Machine Condor_startd: Deamon này chạy trên các máy tính tham gia vào Condor Pool, nó như một thể hiện của máy tính tham gia vào mạng lưới tính toán. Condor_startd gửi ClassAd của máy tính mà nó chạy tới Central Manager, những thông tin trong ClassAd gồm có những thông tin về khả năng thực thi của máy đó, cũng như chính sách hoạt động của máy đó. Một máy tính chạy condor_startd sẽ có thể thực thi job, condor_startd chịu tránh nhiệm thi hành những chính sách thực thi một job trên máy tính đó, như việc chạy, tạm dừng, khôi phục, bỏ không, hoặc hủy bỏ job. Khi condor_startd chạy và sẵn sàng thực thi job, nó sẽ gọi tới condor_starter. Condor_starter: Deamon này chịu trách nhiệm thiết lập môi trường thực thi và điều khiểm việc thực thi job. Khi một job đang được thực thi, condor_starter lấy thông tin về trạng thái hoàn thành của job và gửi những thông tin này lên Submit Machine, khi job hoàn thành deamon này sẽ ngừng. 2.3: Globus Toolkit 2.3.1 Giới thiệu Globus Toolkit [6] là một sản phẩm của Gobus Alliance, một tổ chức quốc tế chuyên về phát triển những công nghệ dựa trên nền tảng tính toán lưới. Globus Toolkit là một phần mêm mã nguồn mở, cho phép xây dựng lưới tính toán. Nó cho phép người dùng chia sẻ khả năng tính toán, cơ sở dữ liệu hay những công cụ trong một tổ chức, cơ quan hay một vùng địa lý rộng lớn. 2.3.2 Kiến trúc Globus Toolkit gồm 3 nhóm dịch vụ chính, có thể truy cập tới thông qua một lớp dịch vu bảo mật (Hình 2.3) Resource Management Data Management Information Services Applications Third Party User – Level Middleware Grid Resources and Local Services Security Layer (GSI) Grid Resource Management (GRAM,GRASS) Grid Information Services (MDS) Grid Data Management(GridFTP, Replica Catalog) Globus Hình 2.3 Kiến trúc hệ thống Globus Tầng Local Services bao gồm những dịch vụ của hệ điều hành, dịch vụ mạng như TCP/IP, Submit Jobs, truy vấn Queues…. Tầng lõi của Globus cung cấp dịch vụ bảo mật, Submit Jobs, quản lý dữ liệu, quản lý tài nguyên. Tầng cao hơn (Level Middleware và Application) chứa những công cụ để liên lạc với tầng dưới, và bổ sung những chức năng còn thiếu ở tầng dưới. Security Layer Grid Security Infrastructure (GSI) cung cấp phương thức cho việc xác thực người dùng và đảm bảo những kết nối, nó sử dụng những công cụ như SSL (Security Sockets Layer), PKI (Public Key Infrastructure) và X.509. GSI cung cấp những dịch vụ, giao thức và những thư viện để thực hiện những việc sau. Xác thực một người dùng tham gia sử dụng dịch vụ lưới tính toán. Xác thực các nguồn tài nguyên tham gia vào lưới tính toán dựa. Mã hóa dữ liệu. Khi một người dùng muốn truy cập vào hệ thống, họ cần có một tài khoản được chứng thực bởi một cơ quan chứng thực. Hầu hết các dịch vụ của hệ thống đều yêu cầu xác thực người dùng trước khi cung cấp cho họ, điều này đảm bảo cho việc bảo mất dự liệu cho cả hai bên, Resource Management Resource Management cho phép phân phối tài nguyên phù hợp cho từng yêu cầu của Job, điều khiển việc thực thi Job và thu thập kết quả tính toán. Nhóm này có 2 thành phần chính. Globus Resource Allocation Manager (GRAM): GRAM cung cấp việc điều khiển và báo cáo trạng thái quá trình thực thi của các máy . Khi một gửi một Job tới hệ thống, một deamon Gatekeeper sẽ kiểm tra tính xác thực của , nếu xác thực, gatekeeper sẽ khởi chạy một Job manager để quản lý việc thực thi Job đó. Job manager được tạo ra độc lập trên những bộ lập lịch bộ phận. GRAM có những bộ lập lịch như Portable Bacth System (PBS), Load Sharing Facility (LSF), và LoadLeveler. Những yêu cầu chi tiết của Job được chỉ định rõ trong Globus Resource Specification Language (RSL), đây là một thành phần của GRAM, RSL miêu tả rõ những tài nguyên một Job cần để thực thi như kích thước tối thiếu của bộ nhớ, hay tốc độ của CPU. Globus Access to Secondary Storage (GASS): GASS là một cơ chế truy cập file, nó cho phép các ứng dụng có thể thực hiện những thao tác với file từ xa như đọc, viết vào file. GASS sử dụng để cung cấp file cho việc thực thi Job và nhận các kết quả khi Job hoàn thành. Nó cũng được sử dụng để truy cập các dòng xuất nhập chuẩn và các dòng báo lỗi. Information Services Information Services quản lý thông tin của những node tham gia vào hệ thống lưới. Thành phần chính của nó là Monitoring and Discovery Service (MDS). MDS cung cấp cơ chế cho phép công bố và truy vấn những thông tin, các node có thể gửi những thông tin của nó lên server, và có thể truy vấn tới server để lấy những thông tin cần thiết. MDS có 3 lớp. Information Providers (IPs): Lớp dưới cùng có nhiệm vụ thu thập thông tin và trạng thái của các tài nguyên, chuyển những thông tin đó theo định dạng mà nó quy định. Grid Resource Information Service (GRIS): Lớp này là một deamon, chạy trên các máy tính tham gia vào lưới. GRIS lấy những thông tin trên các máy đó và gửi những thông tin mà nó lấy được về server quản lý thông tin. GRIS thường xuyên update những thông tin này sau một khoảng thời gian time-to-live (là khoảng thời gian thông tin về máy còn hiệu lực) được quy định bởi IPs. Grid Information Index Service (GIIS): Thực hiện việc đánh chỉ mục những thông tin về các tài nguyên. Data Management Data Management cung cấp những tiện ích và những thư viện cho việc vận chuyển, lưu trữ và quản lý dữ liệu được tao ra bởi các ứng dụng tính toán. Những thành phần của nhóm này có: GridFTP: Là một mở rộng của giao thức FTP, cung cấp khả năng bảo mật, tin cậy, hiệu suất cao trong việc vận chuyển dữ liệu trong môi trường lưới. Ngoài những chức năng như chuẩn FTP, GridFTP cung cấp khả năng xác thự dữ liệu truyền, được hỗ trợ bởi GSI, truyền song song và bán song song. Replica Location and Management: Thành phần này cho phép một file có thể được lưu trữ tại nhiều nơi trên hệ thống lưới. Sử dụng dịch vụ của Replica Management, một file có thể đăng ký với Replica Location Service (RLS) để tạo những bản sao của nó và lưu trữ tại nhiều nơi trên hệ thống. Trong RLS một file được gán với một Logical File Name (LFN), và được lưu trong một logical collection, những bản ghi của một file sẽ trỏ tới vị trí vật lý của file đó. 2.4: So sánh 2.4.1 Độ phức tạp hệ thống BOINC BOINC Server được thiết kết để chạy trên nền tảng Linux, có thể chạy trên Windows nhưng khó khăn trong việc triển khai. Sử dụng APACHE, PHP, MySQL làm hệ thống web và database. Condor Có thể chạy cả trên nền tảng Unix và Windows. Globus Toolkit Chạy trên nhiều nền tảng khác nhau, có thể chạy trên Web server hoặc non-Web server. Có nhiều thành phần khác nhau trong hệ thống, người phát triển chỉ cần chọn những thành phần mình muốn để chạy ứng dụng, không cần sử dụng hết các thành phần. 2.4.2 Độ phức tạp cho người phát triển ứng dụng BOINC Cung cấp hệ thống API cho người phát triển ứng dụng tính toán, nhưng người phát triển viết ứng dụng tính toán dựa trên API được BOINC cung cấp. Ứng dụng tính toán chủ yếu được viết bằng ngôn ngữ C, cung có thể viết bằng ngôn ngữ Java. Condor Không cung cấp API cho người phát triển, các ứng dụng tính toán được chia thành nhiều loại. Mỗi loại được viết bằng một ngôn ngữ riêng và liên kết với thư viện của Condor để có thể triển khai tính toán trên hệ thống Condor. Mỗi loại Job được mô tả trong những file mô tả job, những file này được lưu cùng thư mục với những file thực thi. Globus Toolkit Cung cấp hệ thống API cho người phát triển ứng dụng tính toán. Độ phức tạp cho người dùng BOINC Người dùng có thể dễ dàng tải phần mềm BOINC về để tham gia vào lưới tính toán. Dễ dàng mở rộng phạm vi của dự án. Condor Khó cài đặt cho người sử dụng thông thường, thường sử dụng xây dựng một mạng lưới tính toán cho một tổ chức hay một công ty. Globus Toolkit Khó khăn cho người sử dụng bình thường tham gia vào lưới tính toán. Cần phải xác thực người dùng và các tài nguyên khi tham gia vào lưới tính toán. Chương III: Kiến trúc hệ thống 3.1: Kiến trúc tổng thể Server Project Server Facebook App Node N Input data, Task Output data User GUI, Node Applet Facebook App Node1 Facebook App Hình 3.1 Kiến trúc tổng thể hệ thống Server Project Server Project là nơi chạy ứng dụng cần tính toán, tại đây một bài toán lớn sẽ được chia nhỏ thành nhiều phần. Những phần nhỏ của bài toán được gọi là một Task, Server Project sẽ quản lý những Task này, cùng với những dữ liệu đầu vào cần thiết cho việc tính toán, dữ liệu này được lưu trong cơ sở dữ liệu của server. Khi một máy tính Node kết nối tới server, Task và những dữ liệu cần thiết sẽ được gửi tới máy Node. Sau đó Server sẽ lắng nghe việc thực thi trên Node, Node thực thi một Task xong, kết quả được trả về cho Server Project, Server Project tiến hành xử lý chúng và lưu vào cơ sở dữ liệu. Server Facebook App Server Facebook App chứa chương trình ứng dụng facebook, ứng dụng này có chứa một Node Applet, Node Applet là một chương trình java chạy dưới dang applet. Node Applet là thành phần tạo kết nối tới Server Project, nhận các yêu cầu tính toán và thực thi chúng. Node Node là những máy tính tham gia vào những dự án tính toán, máy tính Node sử dụng bộ nhớ và tài nguyên CPU trong những lúc máy tính rảnh rỗi, để phục vụ cho việc tính toán. Khi một máy Node chạy ứng dụng trên Facebook, một applet sẽ được chạy, applet này thực hiện việc kết nối tới Server Project mà người dùng chọn. nhận những task và file input từ Server Project, thực thi chúng trên máy tính Node, và gủi trả kết quả lại cho Server Project. 3.2: Các thành phần chính Hệ thống gồm có 3 thành phần chính (được minh họa trên hình 3.2) Server Task Server Task nằm trên Server Project, có nhiệm vụ nhận những task được gủi tới từ Server Application và phân phối task đến máy tính Node, đồng thời nhận các kết quả trả về từ Node và gửi kết quả tới Server Application Server Application Server Application nằm trên Server Project có nhiệm vụ phân chia một bài toán thành nhiều Task và gủi những task này đến cho Server Task, đồng thời nhận kết quả trả về từ Server Task và xử lý. Node Applet Node Applet nằm trên Server Facebook App và được chạy trên các máy tính tham gia vào hệ thống tính toán. Node Applet có nhiệm vụ thực thi những Task mà Server Task gửi tới, và gửi trả kết quả về cho Server Task Input Data Pool Output Data Pool Web Server Application Server Task Node Server Application Project Participant Task Manager Data Manager GUI App Facebook GUI Task GUI Task Engine Task Data Node Applet (applet) Web pages Admin GUI Server Application Hình 3.2 Kiến trúc chi tiết hệ thống 3.2.1: Server Task 3.2.1.1: Nhiệm vụ Server Task là một chương trình có thể chạy trên một máy hoặc nhiều máy tính khác nhau. Server Task có 2 nhiệm vụ chính: - Nhận task từ Server Application và phân phối chúng tới Node - Nhận kết quả trả về từ Node và gửi kết quả này tới Server Application xử lý 3.2.1.2: Chức năng Server Task cung cấp 3 chức năng chính: Load balancing (cân bằng tải) Node Applet chạy trên nhiều máy tính khác nhau với cấu hình khác nhau, chính vì thế khả năng tính toán ở mỗi máy tính Node là khác nhau. Server Task cung cấp một chức năng cân bằng tải. Khi một máy tính Node kết nối tới Server Task, nó sẽ tự động gửi những thông tin cấu hình của nó tới Server Task, Server Task dựa vào những thông tin cấu hình của từng máy và tốc độ kết nối mạng tới các máy tính đóng vai trò là Node, để gủi số lượng Task phù hợp với khả năng tính toán của từng máy. Một tập hợp nhiều Task được gửi tới Node gọi là một “bundle”, dựa vào các thuật toán cân bằng tải server tính số lượng Task phù hợp cho từng Node, và gửi một “bundle” với số lượng Task đó tới Node Quản lý tiến tình tính toán (Jobs) Chức năng quản lý quá trình tính toán giúp người quản lý có thể dừng hoặc khôi phục lại việc thực thi công việc tính toán, đồng thời đưa ra các thông kê về tiến trình thực thi của công việc tính toán, những số liệu được thống kê như hiệu suất công việc, thời gian tính toán trung bình, thời gian dự tính hoàn thành công việc. Quản lý Node Chức năng quản lý Node, quản lý các Node kết nối tới Server Task, quản lý thông tin cũng như số lượng Node kết nối tới Server Task. Việc quản lý Node giúp cho việc đưa ra những thống kê về thời gian tính toán, và ướng lượng thời gian hoàn thành công việc. 3.2.1.3: Cấu hình Server Task sử dụng 3 kết nối TCP để tạo kết nối tới Server Application, Node và Server Task khác. Server Task Server Application Node Applet Server Task TCP/IP Port: 11112 TCP/IP Port: 11113 TCP/IP Port: 11111 TCP/IP Port: 11112 TCP/IP Port: 11113 Hình 3.3 Mô hình kết nối TCP/IP Một kết nối TCP tới Server Application để nhận task gửi từ Server Application tới và gủi kết quả về cho Server Application xử lý. Khi Server Task chạy, nó luôn lắng nghe kết nối từ Server Application một cổng, mặc định là 11112 Một kết nối TCP tới Node để gửi task và file input tới Node, nhận kết quả trả về từ Node, Server Task lắng nghe kết nối từ Node trên một cổng, mặc định là 11113 Một kết nối TCP tới Server Task khác để chia sẻ task và file input, Server Task lắng nghe kêt nối từ những Server Task khác trên cổng mặc định là 11111 Server Task có 2 tiến trình chính là: “Controller” và “Server”, tiến trình “controller” sẽ khởi chạy server như một tiến trình độc lập va theo dõi trạng thái hoạt động của nó, trạng thái của server được ghi nhận trong một mã trạng thái, dựa vào mã này tiến trình controller sẽ quyết định viết bắt đầu hay dừng tiến trình server. Tiến trình controller cung cấp những thông số cần thiết để tiến trình server có thể thực thi. + Các cấu hình ( nằm trong một file file cấu hình) + Biến môi trường + Java Class path 3.2.2: Server Application 3.2.2.1: Nhiệm vụ Server Application là một chương trình java chạy trên một máy tính nào đó, có thể cùng hoặc khác Server Task, Server Application có thể kết nối tới một hay nhiều Server Task. Server Application có nhiệm vụ tạo ra Task và những file input, gửi các task và các file input tới Server Task, nhận kết quả trả về từ Server Task và xử lý những kết quả đó. 3.2.2.2: Chức năng Server Application cung cấp 2 chức năng: Recovery and Failover Khi kết nối giữa Server Application và Server Task bị ngắt do một lý do nào đó, Server Application sẽ tự động cố gắng kết nối tới Server Task trong một khoảng thời gian được ấn định. Validator Những kết quả từ máy tính Node gửi lên có thể không chính xác, do việc tính toán sai ở máy tính Node.Validator là một chức năng kiểm tra kết quả gửi về từ Node có chính xác hay không, để thực hiện chức năng này Server Application yêu cầu Server Task gửi một task tới hai Node để thực thi và nhận kết quả gủi trả về từ các Node đó. Server Application sẽ tiến hành so sách các kết quả này, nếu hai kết quả bằng nhau thì kết quả đó được coi là đúng, nếu sai Server Application sẽ yêu cầu Server Task gửi lại task đó tới Node để tính toán lại. 3.2.2.3: Cấu hình Server Application có 2 modun chính, một modun dùng tạo kết nối với Server Task, nhận và gủi dữ liệu tới Server Task thông qua một kết nối TCP, modun này được JPPF Frame Work cung cấp sẵn. Modun thứ 2 là những lớp java thực hiện việc tính toán bài toán, modun này do người phát triển ứng dụng tính toán viết và cấu hình dựa trên hệ thống JPPF API, những dữ liệu đầu vào phục vụ cho việc tính toán cũng được những người phát triển tạo ra. Khi Server Application chạy, nó thực hiện việc biên dịch những lớp java mô tả việc tính toán thành những file .class, những file .class và những file dữ liệu đầu vào được gửi tới Server Task, tại đây chúng được phân phối tới các Node. Trong quá trình chạy, Server Application đồng thời gửi Task tới Server Task, và nhận kết quả trả về của những Task đã hoàn thành, xử lý các kết này. 3.2.3: Node Applet 3.2.3.1: Nhiệm vụ Node Applet là một java applet, chạy trên những máy tính tham gia vào hệ thống tính toán, có nhiệm vụ nhận task và file input gủi về từ Server Task, thực thi chúng và gủi trả kết quả về cho Server Task. 3.2.3.2: Chức năng Recovery and Failover Tương tự như Server Application, khi kết nối giữa Node và Server Task bị ngắt do một lý do nào đó, Node sẽ tự động thử kết nối tới Server Task sau một khoảng thời gian được ấn định. Task Checkpoint Trong quá trình thực thi một Task, Node Applet có thể gặp một số vấn đề nào đó cần phải dừng việc thực thi một Task. Để có thể khôi phục lại quá trình tính toán của một Task. Node Applet cung cấp chức nằng Task Chekpoint, chức năng này lưu lại trang thái hoàn thành của một Task, một Task có thể bị dừng thực thi do người dùng dừng việc chạy ứng dụng, hoặc cũng có thể do một sự cố đột ngột nào đó, để tăng hiệu năng thực thi của một Task và tránh trường hợp phải thực hiện lại Task nhiều lần do sự cố. Chức năng Task Chekpoint sẽ tự động lưu trạng thái hoàn thành của một task sau một khoảng thời gian nhất định. 3.2.3.3: Cấu hình Khi một người dùng Facebook chạy ứng dụng tính toán phân tán trên Facebook, và chọn một Project để tham gia và lưới tính toán, Node Applet sẽ được chạy, Node Applet lấy địa chỉ của Server Project từ một file cấu hình. Sau đó nó thực hiện tạo kết nối TCP tới Server Task. Khi kết nối TCP tạo xong, Server Task gửi Task và những file input cần thiết về máy tính Node. Node Applet chạy những task mà Server Task gửi về để bắt đầu thực hiện việc tính toán. Khi quá trình tính toán hoàn thành, Node Applet gửi kết quả về cho Server Task thông qua kết nối TCP tạo ra lúc trước, và sau đó kết nối này sẽ bị ngắt, Node Applet sau đó sẽ tạo một kết nối TCP khác tới Server Task để tiếp tục nhận Task khác về thực thi. Quá trình như vậy sẽ liên tục được thực hiện cho đến khi người dùng ngừng chạy ứng dụng hoặc ứng dụng tính toán đã thực hiện xong. Máy Node thực hiện việc tính toán bằng một chương trình applet, nên người dùng không cần phải tải về và cài đặt các chương trình tính toán trên máy tính của mình. Người dùng có thể truy cập vào trang web của ứng dụng để thực hiện việc tính toán. 3.3: Ứng dụng tính toán 3.3.1: Định nghĩa Là những ứng dụng java được chạy trên hệ thống tính toán phân tán, thực hiện việc tính toán một bài toán nào đó. Những bài toán này thường là những bài toán có khối lượng tính toán lớn, nếu thực thi trên một máy tính thì thời gian tính toán sẽ rất lâu, hoặc cần có những máy tính có khả năng tính toán cao, các máy tính loại này thường rất đắt.Vì vậy muốn tăng tốc độ tính toán cần có một lượng lớn máy tham gia vào việc tính toán, để làm được điều này, một ứng dụng tính toán cần được chia thành nhiều phần, mỗi phần được gọi là một Task, Task được gửi tới nhiều máy tính khác nhau để tính toán. Nhứng ứng dụng tính toán được viết dựa vào một API được cung cấp bởi hệ thống JPPF. 3.3.2: JPPF API JPPF API cung cấp những thư viện cho người lập trình phát triển những ứng dụng tính toán của mình. JPPF Frame Work cung cấp hệ thống các lớp để tạo kết nối, thực hiện việc phân phối Task, và các chức năng quản lý. Người phát triển ứng dụng khi muốn triển khai ứng dụng tính toán của mình trên hệ thống JPPF, họ sẽ định nghĩa những Task được kế thừa từ lớp JPPFTask, những Task được thừa kế từ lớp này sẽ có thể được triển khai trên hệ thống JPPF. JPPF API cung cấp những lớp giúp việc tạo kết nối giữa ứng dụng và Server Task, bao gồm một số tính năng sau. + Quản lý một hoặc nhiều kết nối tới Server Task + Gửi Task tới Server Task và nhận kết quả từ Server Task + Xử lý những thông báo về việc thực thi Task 3.4: Task 3.4.1: Định nghĩa Task Task là một đơn vị tính toán nhỏ của một ứng dụng tính toán, được thực thi trên máy tính Node. Một ứng dụng tính toán lớn muốn tăng hiệu suất tính toán cần được chia nhỏ làm nhiều task, để có thể phân phối tới nhiều máy tính Node thực thi, làm tăng hiệu năng tính toán của ứng dụng. Một Task được những người triển khai ứng dụng tính toán định nghĩa, chúng được quản lý bởi server application. Để thực thi một task, máy tính Node cần tải về những java class, java class này chính là những chương trình thực thi một phần nhỏ của một ứng dụng tính toán. Chu trình thực thi một Task trên là quá trình tạo kết nối, nhận những file .class và những file dữ liệu đầu vào, thực hiện tính toán trên những dữ liệu đó, tao ra kết quả và gửi trả về cho Server Task, đóng kết nối TCP. Sau đó lại tạo một kết nối TCP khác để nhận một Task khác. Một Task do người phát triển viết muốn thực thi được trên hệ thống JPPF, nó cần được viết dựa vào API mà JPPF cũng cấp. JPPFTask là một lớp cơ sở cho tất cả task, những Task do người phát triển viết phải kế thừa lớp này. 3.4.2: Input Data File Input data file là những dữ liệu cần thiết để thực thi một task, những file này được Server Application gửi lên Server Task, Server Task lưu chúng trong cở sở dữ liệu của mình. Khi một kết nối tới Server Task, nếu Task mà nó thực hiện cần có các file đầu vào, Server Task sẽ gửi file input cùng với các file .class của Task về máy , các file này sẽ được lưu trong thư mục %temp% của máy , khi một ngừng việc thực thi task cho một project, những file này sẽ tự động được xóa bỏ. 3.4.3: Result Result là những kết quả tính toán của một task, khi một task được thực thi xong, result được gửi trả về cho Server Application thông qua Server Task, các kết quả này được Server Application xử lý, những kết quả được chấp nhận sẽ được lưu vào cơ sở dữ liệu trên ở Result cũng được định nghĩa bởi người phát triển ứng dụng tính toán. Sử dụng một số phương thức tạo Result và lấy Result do JPPF API cung cấp, người phát triển có thể định nghĩa Result cho bài toán của mình. Có 2 phương thức đơn giản để ứng dụng lưu giữ và nhận về một result là: public void setResult(Object result) public void getResult() ví dụ việc tạo result. public class MyTask extends JPPFTask { public void run() { // ... some code here ... setResult("This is the result"); } } Result sẽ được nhận về bằng phương thức getResult(). String result = (String) myTask.getResult(); Ngoài ra còn có các cách khác để lưu trữ và nhận về một result: + Lưu trữ hoặc nhận về từ một cơ sở dữ liệu + Sử dụng files + Sử dụng một ứng dụng khác ….. Chương IV: Cài đặt hệ thống 4.1 Server Task Server Task có nhiệm vụ nhận task từ server application và phân phối task tới những node tham gia vào lưới tính toán. Khi khởi chạy server task tạo ra 3 server socket lắng nghe kết nối từ server application, node và serve task khác. Những lớp chính trong Server Task 4.1.1 JPPFDriver JPPFDriver là lớp chính trong Server Task, nó chuẩn bị và khởi chạy những môdun của Server Task. Nó chạy một server cho Server Task kết nối đến, một server cho Node kết nối đến và một class server để xử lý những yêu cầu từ những class loader từ xa. Những thuộc tính chính: taskQueue: Thuộc tính này có kiểu là đối tượng JPPFQueue, là một hàng đợt lưu trức task để thực thi. applicationServers: là môt đối tượng có kiểu JPPFAppli cationServer. Lớp đối tượng này lắng nghe những kết nối tới từ Server Application, mỗi khi có một kết nối tới server một thread được tạo để lắng nghe những yêu cầu của Server Application, và đặt những yêu cầu này vào hàng đợi thực thi nodeNioServer: là một đối tượng có kiểu NodeNioServer. Lớp đối tường NodeNioServer thực hiện tạo kết nối với Node, gửi yêu cầu thực thi task tới Node. classServer: là một đối tường có kiểu ClassNioServer. lớp đối tượng này xử lý những yêu cầu từ những class loader . NodeNioServer ClassNioServer JPPFApplicationServer JPPFDriver - void run() - void shutdown() - void createConnectionInformation() - void main() - JPPFApplicationServer[] applicationServers - NodeNioServer nodeNioServer - ClassNioServer classServer Những phương thức chính: run(): Phương thức được gọi bởi hàm main() sẽ khởi chạy Server Task, phương thức run() sẽ khởi tạo những đối tượng ClassNioServer, NodeNioServer và JPPFApplicationServers, và chạy chúng. Nó cũng khởi tạo đối tượng JPPFBroadcaster để quảng bá thông tin của Server Task nếu được cấu hình. Nếu thuộc tính "jppf.management.enabled" trong file cấu hình được gán bằng true, nó sẽ khởi tạo đối tượng JMXServerImpl để thực thi việc thực thi task. shutdown(): Shutdown Server cùng nhưng thành phần của nó. createConnectionInformation(): Lấy thống tin về host và cổng dùng cho những kết nối tới Server Task từ file cấu hình. 4.1.2 JPPFNode Lớp JPPFNode là đối tượng thực thi task, lớp đối tượng này được gọi bởi Node thông qua Classloader, Một Node khi chạy dùng phương thức Classloader để load lớp JPPFNode về thực thi. JPPFNode - void run() - void perform() - void processResults() - void init() - NodeExecutionManager executionManager - NodeIO nodeIO - Runnable exitAction Những thuộc tính chính: executionManager: Thuộc tính này có kiểu là một đối tượng NodeExecutionManager dùng để thực thi task. nodeIO: Thuộc tính này có kiểu là một đối tượng NodeIO dùng để đọc những task bundle do server gửi về. exitAction: Thuộc tính này có kiểu là đối tường Runable, nếu exitAction khác null, node sẽ được dừng. Những phương thức chính: init(): Phương thức này khởi tạo node, tạo những socket kết nối tới Server Task run(): Khởi chạy JPPFNode, gọi phương thức init() để tạo node, khi quá trình tạo node hoàn thành nó sẽ gọi phương thức perform() để thực thi task. perform(): Đây là phương thức thực thi task, phương thức này sẽ gọi đối tượng NodeIO để đọc những task do server gửi về, sau đó gọi đối tượng executeManage để thực thi task và gọi phương thức processResults thực thi gửi trả kết quả về server. stopNode(): Phương thức dừng node và giải phóng tài nguyên nó sử dụng. 4.1.3 Server Task Configuration Thông tin cấu hình server được lưu trong một file cấu hình. Cấu hình thông tin mạng Cấu hình cổng lắng nghe kết nối từ Server Application, Node và Class loader. # class loader port class.server.port = 11111 # communication with the applications app.server.port = 11112 # communication with the nodes node.server.port = 11113 Server Task có thể gửi quảng bá những thông tin của nó trên mạng (địa chỉ host và số cổng) thông qua cơ chế UDP multicast. Nhờ cơ chế này Node và Server Application có thể tự tìm được những Server Task đang hoạt động trên mạng. Để Server Task tự động quảng bá thông tin của nó trên mạng ta cần gán thuộc tính jppf.discovery.enabled bằng true. # Enable or disable automatic discovery of JPPF drivers jppf.discovery.enabled = true # UDP multicast group to which drivers broadcast their connection parameters jppf.discovery.group = 230.0.0.1 # UDP multicast port to which drivers broadcast their connection parameters jppf.discovery.port = 11111 # How long a driver should wait between 2 broadcasts, in milliseconds jppf.discovery.broadcast.interval = 1000 Server Task có thể kết nối tới Server Task khác tạo thành một mạng kiểu mạng ngang hàng. Có 4 loại kết nối giữa 2 server A và server B + A và B không có kết nối + A kết nối tới B ( A hoạt động như một Node kết nối tới B) + B kết nối tới A ( B hoạt động như một Node kết nối tới A) + A và B được kết nối với nhau. Có hai cách để định nghĩa một kết nối từ một server tới một server khác trong mạng. Tự động tìm kiếm server khác trong mạng để kết nối # Enable or disable auto-discovery of other peer servers (defaults to false) jppf.peer.dicovery.enabled = true Với cách này, các Server Task sẽ tự động tìm kiếm những Server Task khác đang hoạt động trong mạng để thực hiện kết nối. Cấu hình bằng tay. # define a space-separated list of peers to connect to jppf.peers = server_1 server_2 # connection to server_1 jppf.peer.server_1.server.host = host_1 class.peer.server_1.server.port = 11111 node.peer.server_1.server.port = 11113 # connection to server_2 jppf.peer.server_2.server.host = host_2 class.peer.server_2.server.port = 11111 node.peer.server_2.server.port = 11113 Với cách cấu hình bằng tay ta có thể chỉ định Server Task nào kết nối với những Server Task nào. Giá trị “jppf.peer.server_1.server.host” cần phải trùng với giá trị “class.server.host” trong file cấu hình của server_1 và giá trị “node.peer.server_1.port” cần phải trùng với giá trị “node.server.port” trong file cấu hình của server_1 Cấu hình thuộc tính cân bằng tải jppf.load.balancing.algorithm = JPPF cung cấp bốn thuật toán cân bằng tải: + manual: mỗi một bunle chứa cố định số task, tức là một node được chia cho số lượng task là như nhau. + autotuned: sử dụng thuật toán Monte Carlo + proportional: tính thời gian trung bình để thực thi task dựa vào việc tham gia của các node, từ đó gửi lượng task tương ứng với thời gian thực thi trung bình tới các node. + rl: thuật toán dựa trên một kỹ thuật trí thông minh nhân tạo gọi là reinforcement learning 4.2 Server Application Tạo kết nối tới Server Task, gửi task tới Server Task và nhận kết quả trả về để xử lý. Những lớp chính trong Server Application 4.2.1 JPPFClient Lớp JPPFClient cung cấp một API cho việc kết nối tới Server Task, gửi task và những câu lệnh điều khiển . JPPFClient - String uuid - JPPFClient() - void initPools() - List submit() - void close() Những thuộc tính chính. uuid: là định danh của một JPPF, định danh này để xác định những ứng dụng đang kết nối tới Server Task Những phương thức chính. initPools(): phương thức này đọc những thông tin trong file cấu hình và gọi phương thức newconnection để tạo kết nối tới Server Task. submit(): phương thức này thực hiện việc gửi Task tới Server Task, phương thức này có các đối số: tasklist, dataProvider, policy, priority. + tasklist: danh sách task cần submit. + dataProvider: là một cung cấp khả năng chia sẻ dữ liêu giữa các task, đối số này có thể bằng null. + policy: cơ chế thực thi task, đối số này quyết định một task có được thực thi trên một node nào đó không. + priority: quyền ưu tiên, xác định quyền ưu tiên thực thi của một task. close(): phương thức này thực hiện dừng Server Application và giải phóng tài nguyên nó sử dụng 4.2.2 JPPFTask Là một lớp trừu tượng cho tất cả task gửi tới server để thực thi, lớp này mô tả việc chia sẻ dữ liệu giữa các task, mô tả những ngoại lệ trong việc thực thi task, và mô tả kết quả của việc thực thi task. JPPFTask - String id - int position - Object result - Exeption exeption - DataProvider dataProvider - String getId() - void setId() - Object getResult() - void setResult() - Exeption getExeption() - void setExeption() - DataProvider getDataProvider() - void setDataProvider() - int getPosition() - void setPosition() Những thuộc tính chính. id: định danh của task position: vị trí của task theo thời gian nó được gửi tới server, đây chính là vị trí của nó trong hàng đợi thực thi task. result: kết quả thực thi của task exption: ngoại lệ trong việc thực thi task dataProvider: cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa các task Những phương thức chính. getId(): trả về id của task setId(): thiêt lập id cho task getResult(): trả về kết quả thực thi của task setResult(): thiết lập kết quả của task, phương thức này sẽ được người phát triển những ứng dụng tính toàn dùng để định nghĩa một kết quả của task theo từng ứng dụng tính toán. getExeption(): trả về ngoại lệ trong việc thực thi task setExeption(): thiết lập những ngoại lệ trong việc thực thi task getDataProvider(): trả về cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa các task setDataProvider(): thiết lập cơ chế chia sẻ dữ liệu gữa các task getPosition(): trả về vị trí của task trong hàng đợt thực thi task setPosition(): thiết lập vị trí của task trong hàng đợi thực thi task Ngoài ra JPPFTask còn định nghĩa một số phương thức khác như onCancel(), onRestart(), onTimeout() để xử lý những sự kiện xẩy ra đối với task 4.2.3 Server Application Configuration Server Application có thể kết nối tới nhiều Server Task, trong file cấu hình liệt kê tên và địa chỉ của những Server Task mà nó sẽ kết nối tới. # space-separated list of drivers this may connect to # defaults to “default-driver” jppf.drivers = driver-1 driver-2 Cấu hình thông tin mạng Với mỗi Server Task ta định nghĩa những thuộc tính của nó như địa chỉ host và số cổng. # host name, or ip address, of the host the JPPF driver is running on driver-1.jppf.server.host = localhost # port number for the class server that performs remote class loading driver-1.class.server.port = 11111 # port number the s / applications connect to driver-1.app.server.port = 11112 Thứ tự ưu tiên của Server Task # assigned driver priority driver-1.priority = 10 Giá trị này sẽ quyết định thứ tự ưu tiên của Server Task, Server Applicaton sẽ luôn sử dụng kết nối tới Server Task có độ ưu tiên cao nhất, khi kết nối tới Server Task có độ ưu tiên cao nhất bị ngắt, nó sẽ tạo kết nối tới Server Task có độ ưu tiên tiếp theo. Recovery and Failover # number of seconds before the first reconnection attempt reconnect.initial.delay = 1 # time after which the system stops trying to reconnect, in seconds # a value of zero or less means it never stops reconnect.max.time = 60 # time between two connection attempts, in seconds reconnect.interval = 1 Chúng ta có thể cấu hình cơ chế khôi phục khi kết nối giữa Server Application và Server Task gặp sự cố, với những thông tin cấu hình như trên, Server Application sẽ thực hiện việc khôi phục lại kêt nối sau 1s khi kết nối bị ngắt, nó sẽ cố gắng kết tạo kết nối trong 60s, sau 60 mà không tạo được kết nối nó sẽ chờ 1s sau để tiếp tục thử lại việc tạo kết nối Local execution # enable local job execution; defaults to false jppf.local.execution.enabled = true # number of threads to use for local execution # the default value is the number of CPUs or cores available to the JVM jppf.local.execution.threads = 4 Với việc cấu hình này sẽ cho phép Server Application cũng tham gia vào việc tính toán như một node. Mặc định giá trị này là false 4.3 Node Applet Chạy trên những máy tính tham gia vào lưới tính toán, thực thi Task và trả kết quả về cho Server Task Những lớp chính trong Node Applet 4.3.1 NodeRunner Là một applet, thực thi việc chạy Node, tạo kết nối tới Server Task, sử dụng cơ chế classloader tải lớp JPPFNode để thực thi task và gửi kết quả trả về Server Task. NodeRunner - JPPFClassLoader classLoader - SocketWrapper nodeSocket - MonitoredNode node - void init() - void runMain() - MonitoredNode createNode() - JPPFClassLoader getJPPFClassLoader() - void shutdown() Những thuộc tính chính. classLoader: có kiểu JPPFClassLoader, là một classloader dùng để load những lớp cần java khi chạy node. nodeSocket: có kiểu SocketWrapper, là socket kết nối tới Server Task. node: có kiểu MonitoredNode đối tượng này được tạo nhờ cơ chế classloader. NodeRunner dùng cơ chế classloader tải lớp JPPFNode trên Server Task để tạo một đối tượng kiểu MonitoredNode Những phương thức chính. init(): phương thức tạo applet runMain(): phương thức thực thi việc chạy node, phương thức này gọi tới hàm createNode để tạo node và chạy nó. createNode(): sử dụng cơ chế classloader tải lớp JPPFNode trên Server Task để tạo một node có kiểu là MonitoredNode. getJPPFClassLoader(): phương thức này trả về classloader dùng trong việc thực thi NodeRunner. shutdown(): phương thức dừng chạy Node. 4.3.2 JPPFClassLoader Một ClassLoader cho phép tải những lớp từ xa trong quá trình thực thi. JPPFClassLoader - SocketWrapper socketClient - List uuidPath - String requestUuid - void init() - void initSocketClient() - Class findClass() - JPPFResourceWrapper loadResourceData() - JPPFResourceWrapper loadRemoteData() Những thuộc tính chính. socket: socket kết nối tới remote host, để tải lớp uuidPath: danh sách id của những ứng dụng được gửi lên Server Task requestUuid: id của bundle task mà node thực hiện Những phương thức chính. Init(): tạo socket kết nối tới remote host initSocket(): thiết lập thông tin cho socket theo những thông tin trong file cấu hình. findClass(): phương thức này thực hiện tải class theo tên class được chỉ định, nếu gặp lỗi nó sẽ gọi phương thức System ClassLoader, phương thức này gọi tới phương thức loadResoureData() để lấy những thống tin về class cần tải, và dùng phương thức defineClass() để môt tả class được tải theo những thông tin lấy được nhờ phương thức loadResoureData(). loadResourceData(): phương thức này gọi tới phương thức loadRemoteData() để đọc những thông tin về class được chỉ định thông qua socket. Phương thức trả về một đối tượng JPPFResourceWrapper, đối tượng này tóm lược những thông tin của class được chỉ định. 4.3.3 Node Applet Configuration Cấu hình mạng # IP address or host name of the server jppf.server.host = my_host # class loader port class.server.port = 11111 # communication between node and server node.server.port = 11113 Thông tin cấu hình này định nghĩa địa chỉ và cổng của Server Task mà node sẽ kết nối tới. Server discovery # Enable or disable automatic discovery of JPPF drivers jppf.discovery.enabled = true # UDP multicast group to which drivers broadcast their connection parameters jppf.discovery.group = 230.0.0.1 # UDP multicast port to which drivers broadcast their connection parameters jppf.discovery.port = 11111 # How long in milliseconds the node will attempt to automatically discover a driver # before falling back to the manual configuration parameters jppf.discovery.timeout = 5000 Nếu giá trị jppf.discovery.enabled được gán bằng true, node sẽ tự động tìm kiếm những Server Task có trong mạng để kết nối. Recovery and failover # number of seconds before the first reconnection attempt reconnect.initial.delay = 1 # time after which the system stops trying to reconnect, in seconds # a value of zero or less means it never stops reconnect.max.time = 60 # time between two connection attempts, in seconds reconnect.interval = 1 Cũng giống như Server Application, những thông tin cấu hình này mô tả cơ chế thực hiện khôi phục kết nối khi bị ngắt. Security policy Chính này bảo mật sẽ giới hạn những việc node có thể làm trên máy tính mà nó chạy. Để kích hoạt chính sách này ta cần chỉ rõ đường dẫn tới file định nghĩa những chính sách bảo mất. # Path to the security file, relative to the current directory or classpath jppf.policy.file = jppf.policy Nếu giá trị này không được định nghĩa, chính sách bảo mật sẽ bị vô hiệu hóa. 4.4 Một số ứng dụng tính toán Chúng tôi đã xây dựng thử nghiệm bài toán giải mã DES trên hệ thống tính toán. Bài toán đặt ra là chúng ta có một bản rõ và một bản mã hóa của bản rõ đó, chúng ta cần tìn ra khóa đã dùng để mã hóa bả rõ đó. Để giải quyết bài toán này chúng ta sử dụng phương thức duyệt toàn bộ, chúng ta sẽ duyệt lần lượt các giá trị có thể của khóa, dùng khóa đó để giải mã bản mã hóa, sau đó so sánh với bản rõ để tìm ra khóa đúng. Bài toán cần được tính toán trên hệ thống tín toán phân tán để tăng năng suất tính toán, vì thế bài toán cần được chia ra làm nhiều phần nhỏ, mỗi phần nhỏ này là một task, một task ở đây chúng tôi định nghĩa là việc thử 100 khóa, kết quả trả về cho server sẽ là false nếu 100 khóa đó đều sai, nếu có khóa đúng kết quả trả về sẽ là true và giá trị của khóa đó. Do điều kiện vật chất không cho phép, chúng tôi đã cho chạy thử ứng dụng trên 3 máy, và chạy thử 5000 task, kết quả cho thấy hệ thống đã có thể chia task cho từng máy thực thi. Hình 4.1 Mô tả phân chia task tới những máy tính Node Thống kê thời gian thức thi cho thấy, khi chạy với 3 máy tính thời gian thực thi đã nhanh hơn 1 máy tính. Hình 4.2 là biểu đồ thời gian thực thi khi có một máy tính, đường màu đỏ cho thấy thời gian thực thi trung bình khoảng 51ms. Hình 4.2 Biểu đồ thời gian thực thi khi có một máy tính Hình 4.3 là biểu đồ thời gian thực thi khi có 3 máy tính, ta thấy thời gian thực thi trung bình khoảng 30ms Hình 4.3 Biểu đồ thời gian thực thi khi có ba máy tính Chương V – Tổng kết Dựa trên những kiến thức đã tìm hiểu được về tính toán phân tán và việc phát triển ứng dụng trên facebook. Chúng tôi đã phân tích và nắm bắt được kiến trúc cơ bản của một hệ thống tính toán phân tán, cách thức hoạt động và triển khai một hệ thống tính toán phân tán. Bên cạnh đó chúng tôi cũng nắm bắt được quy trình triển khai một ứng dụng trên facebook. Từ những kết quả nghiên cứu đó, chúng tôi đã bước đầu xây dựng một hệ thống tính toán phân tán kết hợp với ứng dụng facebook. Hệ thống có sử dụng một ứng dụng mã nguồn mở về tính toán lưới làm nền tảng để phát triển đó là ứng dụng JPPF [12]. Chúng tôi đã cải tiến ứng dụng tính toán lưới này để nó có thể triển khai trên môi trường web, giúp cho việc tham gia của người dùng được dễ dàng hơn. Chúng tôi cũng xây dựng một vài bài toán tính toán dựa trên hệ thống tính toán phân tán này, để kiếm thử quá trình hoạt đống của nó. Và hệ thống đã có thể thực hiện những bài toán trên môi trường lưới tính toán. Do điều kiện vật chất cũng như thời gian hạn hẹp nên hệ thống mới chỉ được triển khai trên quy mô nhỏ, nhưng chúng tôi tin rằng với việc phát triển của mạng máy tính cũng như mạng xã hội như hiện nay, hệ thống sẽ dễ dàng được mở rộng và phát triển. Việc phát triển các ứng dụng tính toán phân tán sẽ còn được quan tâm nhiều trong tương lai, vì đây là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết nhứng bài toán khoa học lớn. Trong tương lai chúng tôi sẽ xây dựng hệ thống với quy mô rộng lớn hơn. Cải tiến những thuật toán của chương trình để chương trình có thể vận hành tốt hơn, chính xác hơn, sử dụng tài nguyên của những máy tính trong lưới tính toán phù hợp hơn nhằm tăng hiệu năng của hệ thống. Về ứng dụng, chúng tôi sẽ cải tiến hệ thống API giúp cho những người phát triển bài toán tính toán có thể dễ dàng triển khai ứng dụng của mình Về ứng dụng facebook, chúng tôi sẽ cải tiến giao diện người dùng, giúp người dùng dễ dàng tham gia vào những dự án tính toán, biến nó trở thành một cầu nối giữa người dùng và dự án tính toán. Từ đó tạo điều kiện mở rộng dự án tính toán, tăng hiệu năng thực thi. Sẽ là rất tốt khi mọi người cùng chung nhau chung sức hoàn thành những dự án có ích cho toàn xã hội. Tài liệu tham khảo Tiếng Anh [1] Clovis Chapman, Paul Wilson, Todd Tannenbaum, Matthew Farrellee, Miron Livny, John Brodholt, Wolfgang Emmerich, Condor services for the Global Grid, [2] David P. Anderson, Gilles Fedak, The Computational and Storage Potential of Volunteer Computing, [3] Derek Wright, BOINC and Condor – Scavenging the Scavenger, [4] Jon Wakelin, Condor Globus and SRB: Tools for Constructing a Campus Grid, [5] Luis F. G. Sarmenta. Bayanihan: Web-Based Volunteer Computing Using Java. Proc. of the 2nd International Conference on World-Wide Computing and its Applications (WWCA'98), Tsukuba, Japan, March 3-4, 1998. Lecture Notes in Computer Science 1368, Springer-Verlag, 1998. pp. 444-461.  [6] Parvin Asadzadeh, Rajkumar Buyya, Chun Ling Kei, Deepa Nayar, Srikumar Venugopal, Global Grids and Software Toolkits:A Study of Four Grid Middleware Technologies, [7] [8] [9] [10] [11] [12] Tiếng việt [13] PGS.TS. Vũ Đức Thi, PGS.TS. Trần Văn Lăng, PGS.TS. Nguyễn Thanh Thuỷ, GS.TSKH. Phạm Kỳ Anh, PGS.TS. Lê Anh Dũng, Tính toán lưới và một số vấn đề nghiên cứu, phát triển tính toán lưới ở Việt Nam, Hội thảo quốc gia lần thứ XI: Một số vấn đề chọn lọc của CNTT - TT Huế, 12 – 13/6/2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguyen Chi Cong_K51MMT_Khoa luan tot nghiep dai hoc.doc