Tài liệu Khóa luận Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang các nước Đông và Đông Nam Á cùng một số kiến nghị: CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
I – Khái quát về xuất khẩu lao động
Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trước hết em xin được đề cập các khái niệm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động.
1, Khái niệm :
1.1 Lao động : Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống bản thân họ, gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con người đến độ tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong muốn và có quyền được lao độn...
74 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang các nước Đông và Đông Nam Á cùng một số kiến nghị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
I – Khái quát về xuất khẩu lao động
Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trước hết em xin được đề cập các khái niệm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động.
1, Khái niệm :
1.1 Lao động : Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống bản thân họ, gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con người đến độ tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong muốn và có quyền được lao động để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu cho xã hội.
1.2 Sức lao động : Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội.
1.3 Nguồn lao động : Là một bộ phận của dân cư bao gồm những người trong độ tuổi lao động, không kể số người mất khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên hoặc dưới tuổi lao động) nhưng thực tế có tham gia lao động. (Nước ta độ tuổi lao động quy định từ 15-55 đối với nữ và 15-60 đối với nam).
1.4 Thị trường lao động : Thị trường là một phạm trù riêng của kinh tế hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nội dung của thị trường được biểu hiện qua hai nhân tố có quan hệ mật thiết với nhau : cung và cầu hàng hoá.
Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra quá trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử dụng lao động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành nên thị trường lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động gồm những người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động chinh là tiền công mà người sử dụng lao động trả cho người lao động.
Khi cung và cầu lao động gặp nhau và hoạt động mua bán, trao đổi hay thuê mướn sức lao động diễn ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì ta có thị trường lao động nội địa, khi diễn ra ngoài biên giới quốc gia một nước thì ta có thị trường lao động quốc tế.
1.5 Xuất khẩu sức lao động : Là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê mướn hàng hoá sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá nhân cung ứng sức lao động của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá nhân sử dung sức lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động.
Như vậy. khi hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện sẽ có sự di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước khác. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước xuất khẩu lao động, nước tiếp nhận sức lao động được coi là nước nhập khẩu lao động. Trên thực tế có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm nhiệm vụ trung gian, môi giới hoặc kinh doanh.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động xuất khẩu lao động, khác so với các loại hàng hoá khác xuất phát từ tính đặc thù của loại hàng hoá này. Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt vì con người là chủ thể lao động, có tư duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên trong hiệp đinh hay hợp đồng cung ứng lao động, ngoài những điều khoản quy định như đối với các loại hàng hoá bình thường còn phải có những điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này bị chi phối phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hoá của các quốc gia tham gia vào lĩnh vực này.
Có hai hình thức xuất khẩu lao động là :
- Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (LHQ dùng khái niệm di dân quốc tế) : là hình thức đầu tư lao động sống ra nước ngoài nhằm thu hút thu nhập quốc dân từ nước ngoài về cho đất nước.
- Xuất khẩu lao động tại chỗ: Theo luật Đầu tư nước ngoài của nước ta, là hình thức đầu tư lao động sống ở trong nước để thực hiện giá trị sức lao động cho mình đối với nước ngoài.
Trong nội dung khoá luận này, em chỉ xin đề cập đến hình thức xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
2, Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động
Trong tác phẩm "Phép biện chứng tự nhiên", F. Ăng - ghen viết : "Con người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là loại động vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ". Ngay từ buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động đến những miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy, sự di cư lao động quốc tế thể hiện tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Chính sự phân bố không đồng đều về dân cư, về điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân số trên thế giới đã hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư đến những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ cao di chuyển đến những nước có mật độ dan cư thấp. Như vậy việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tương khách quan trong quá trình làm việc của bản thân người lao động.
Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan khác như : chính sách của quốc gia, ý chí của nhà nước, của các tổ chức cung ứng và tiếp nhận lao động...
Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây :
Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao động một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước.
Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một nước có thể là do nước dó có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong nước lạc hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do nước đó có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể phù hợp ngay với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh.
Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện tượng thiếu lao động.
Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà trong nước không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.
Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và phát triển của xuất khẩu lao động.
Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao động tự những nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như : Cuba, Malaysia, Bungari...
Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế. Hơn nữa, việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động
II – Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam
1, Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động tại Việt Nam
Cùng với việc giải quyết việc làm trong nước, hoạt động xuất khẩu lao động có vị trí quan trọng. Nó là hoạt động đặc thù nhằm đạt kết quả tổng hợp về kinh tế xã hội. Nhà nước ta đã xác định : "Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách và góp phần tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế - văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với các nước sử dụng lao động Việt Nam.
a, Xuất phát từ vấn đề kinh tế.
Các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu thị trường lao động khu vực và quốc tế đều nhận thấy một điều nổi bật, rõ ràng là: Một số nước công nghiệp phát triển cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Italia... lẫn một số nước mới phát triển như Thailand, Malaisia, Philipine... ngay từ đầu, khi nền kinh tế còn chưa phát triển đều biết sử dụng một phương tiện đầy hiệu quả, đó là xuất khẩu lao động. Theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khoản thu nhập của người lao đông của nước ngoài mỗi năm đạt tới 65,5 USD, trong khi đó hàng năm tổng các khoản viện trợ chính thức (ODA) chỉ đạt mức 51 tỷ USD. Người đi làm việc ở nước ngoài thường có mức thu nhập bình quân cao hơn trong nước từ 6 đến 10 lần. Chênh lệch về thu nhập là nguyên nhân khiến nhiều nước tận dụng mọi thời cơ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại Việt Nam cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong hơn 10 năm (1991 - hết tháng 6/2003) theo cơ chế mới đã đưa được gần 250.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đem lại thu nhập hàng năm 1 -1,5 tỷ USD. Tuy còn khiêm tốn trên thị trường lao động thế giới nhưng về mặt kinh tế đã góp phần đáng kể làm tăng trưởng ngân sách quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải quyết việc làm trong nước giữa hoàn cảnh nước ta còn đang chắt chiu từng đồng ngoại tệ mạnh. Có thể sử dụng một so sánh : Để có được 800 triệu USD do xuất khẩu hàng dệt may chúng ta phải đầu tư rất nhiều cơ sở vật chất, xây dựng nhà máy, trang bị máy móc thiết bị, đảm bảo cơ sở hạ tầng... Nhưng với gần 20.000 lao động xuất khẩu hàng năm, chúng ta thu được lượng ngoại tệ gần gấp đôi mà số vốn đầu tư lại ít hơn nhiều lần.
Về lâu dài xuất khẩu lao động nước ta có khả năng đóng góp cao cho thu nhập quốc dân khi phạm vi xuất khẩu lao động được mở rộng, số lượng người đưa đi lớn, ngành nghề hình thức đa dạng, chính sách và thủ tục đưa lao động đi thông thoáng.
b, Xuất phát từ vấn đề dân số và giải quyết việc làm
Sự gia tăng dân số, lao động ở Việt Nam là yêu cầu bức xúc phải phát triển xuất khẩu lao động.
Sự phát triển dân số, lao động đối với Việt Nam hiện nay là một trong những vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp và gay gắt chẳng những trong giai đoạn hiện nay mà còn trong những năm tới. Trong dân số có lực lượng lao động - yếu tố quyết định của sản xuất, đồng thời dân số lại là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Mối quan hệ này được cụ thể hoá thành quan hệ giữa dân số và phát triển là nội dung quan trọng của chiến lược kinh tế xã hội.
Với tốc độ tăng dân số ở mức trên dưới 2% như hiện nay tạo nên áp lực đối với đời sống và việc làm. Hàng năm, Việt Nam phải tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới, khoảng gần 8 triệu lao động thiếu việc làm, hàng chục vạn bộ đội phục viên, lao động dôi dư ở khu vực Nhà nước... Trong những năm qua, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó có việc giải quyết việc làm trong nước; tuy nhiên so với số lượng lao động cần giải quyết việc làm hàng năm cũng chỉ đạt 35% nhu cầu. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp vô cùng quan trọng, không chỉ trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Nhu cầu việc làm càng ngày càng lớn mà khả năng giải quyết còn rất hạn chế trong khi tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm lớn song lại chưa được khai thác và phát huy, chưa gắn được lao động với tiềm năng đất đai và tài nguyên.
Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm càng gay gắt khi đổi mới cơ cấu kinh tế, tổ chức lại lao động cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế tất yếu dẫn đến việc đẩy lao động tách khỏi việc làm cho một bộ phận lớn lao động trở nên dư thừa, trước hết ở khu vực Nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp... Trong các năm qua, lao động khu vực Nhà nước dư thừa khoảng 30%-50%, tương đương 1 triệu người. Mâu thuẫn trong bản thân vấn đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế xã hội cơ bản lâu dài có tính chiến lược, lại vừa là vấn đề cấp bách trước mắt như đối tượng thanh niên mới lớn, lao động thôi việc từ khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, gia đình chính sách xã hội... Không giải quyết được vấn đề việc làm thì sẽ nảy sinh các vấn đề xã hội trầm trọng dẫn đến mất an toàn xã hội, thậm chí mất ổn định chính trị.
Chính từ những mâu thuẫn trên chúng ta thấy việc phát triển xuất khẩu lao động như là một trong các hướng giải quyết việc làm, có tầm quan trọng to lớn và cần thiết đối với đất nước ta hiện nay.
c, Xuất phát từ vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu lao động mang lại một nguồn ngoại tệ mạnh cho đất nước góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc sẽ học tập được tác phong làm việc công nghiệp sản xuất lớn, thái độ đúng đắn trong công việc... cùng với một tay nghề vững chắc khi về nước họ sẽ là nguồn nhân lực đáng quý tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Người Việt Nam ra nước ngoài lao động tốt sẽ góp phần tăng thêm uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tăng cường sự hiểu biết và góp phần thúc đẩy quan hệ hơp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Đó là điều quan trọng không thể thiếu được nếu muốn tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
d, Lợi thế của lao động xuất khẩu Việt Nam.
Thứ nhất, xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định : "Phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động", hoạt động xuất khẩu lao động trong những năm gần đây đã được sự quan tâm chú ý của các ngành, các cấp và các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Thứ hai, nguồn lao động nước ta dồi dào, theo thống kê số lượng người trong độ tuổi lao động tính đến tháng 7/2002 là 40.694.360 người, mỗi năm bình quân có thêm hơn 1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động đó.
Thứ ba, cơ cấu dân số nước ta thuộc loại trẻ, đại bộ phận (53%) ở độ tuổi dưới 30, dưới 40 là 78%, chỉ có 22% dân số ở độ tuổi trên 40.
Thứ tư, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, có sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế.
Thứ năm, Việt Nam đang không ngừng tiến xa hơn trên con đường hội nhập với thế giới, trong khi thị trường lao động quốc tế cũng không ngừng tăng trưởng và đa dạng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam tham gia và phát huy lợi thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động của ta cũng đã qua nhiều lần thay đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc tế của ta trong từng thời kỳ. Đánh giá chung, có thể nói công tác xuất khẩu lao động của ta đã đạt được những yêu cầu cơ bản trong mục tiêu đặt ra và góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam có thể chia thành hai thời kỳ.
a, Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế theo cơ chế bao cấp (1980-1990).
Thời kỳ này, lao động Việt Nam chủ yếu được đưa sang các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, gồm : Liên Xô (cũ), Cộng hoà dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ) và Bungari. Một bộ phận công nhân xây dựng với số lượng đáng kể được đưa đi làm việc ở Irăc, Liby, Angiêri cùng với một số chuyên gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc tại nhưng nước Châu Phi khác (Ăng - gô - la, Mô - zăm – bich, Công – gô, Y- ê –men, Madagasca...).
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khi đó nước ta là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) nên hoạt động xuất khẩu lao động mang tính chất hợp tác lao động, giúp đỡ lẫn nhau : bạn cần lao động để bù đắp sự thiếu hụt lao động trong phát triển kinh tế đất nước; ta cần bạn giúp đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động và giải quyết việc làm cho bộ phận lao động này. Nền kinh tế nước ta, đặc biệt là kinh tế đối ngoại, liên kết chặt chẽ với các nước thành viên khác của SEV, cơ chế quản lý kinh tế của ta cũng tương tự như cơ chế quản lý của các nước đó mang tính quản lý tập trung, bao cấp.
Các nước như Irăc, Liby và các nước Châu Phi đón nhận lao động và chuyên gia của Việt Nam cũng đều có cơ chế quản lý tương tự.
Vì vậy, cũng như các quan hệ kinh tế khác, quan hệ hợp tác sử dụng lao động giữa ta và các nước nay đều thông qua các Hiệp định chính phủ, thpả thuận giữa ngành với ngành. Trong bối cảnh đó, cơ chế hợp tác sử dụng lao động và chuyên gia theo mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức thực hiện đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
Số lượng lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời kỳ này là gần 300.000 người, trong đó đi lao động ở 4 nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô cũ, Cộng hoà dân chủ Đức cũ, Tiệp Khắc cũ và Bungari) là 261.605 người; đi làm chuyên gia ở các nước Châu Phi là 7.200 người, đi làm công nhân xây dựng ở Trung Đông khoảng 18.000 người, ngoài ra còn có 23.713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã chuyển sang lao động trong những năm 80.
Bảng 1. Số lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1980-1990)
LAO ĐỘNG PHÂN CHIA THEO KHU VỰC VÀ NGÀNH NGHỀ
SỐ LƯỢNG
(người)
Tổng số
288.106
Bao gồm :
* Chuyên gia
* Lao động
Chia theo khu vực :
* Đi các nước XHCN
* Đi các nước ngoài XHCN
Chia theo ngành nghề :
* Cơ khí
* Công nghiệp nhẹ
* Hoá chất
* Công nghiệp thực phẩm
* Xây dựng và sản xuất vật liệu XD
* Nông, lâm nghiệp
* Các ngành khác
7.200
280.906
261.605
19.301
71.077
117.432
8.329
3.542
64.247
6.160
10.119
( Nguồn : Bản tin Việc làm ngoài nước - Số 6/1999)
Như vậy, hơn 10 năm hợp tác lao động với nước ngoài (1980 -1990) ta đã thu được những kết quả đáng kể, song cũng còn một số tồn tại do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, do sự thiếu kinh nghiệm cũng như chưa có nghiệp vụ chuyên môn và đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động này. Nhưng chính từ đây chúng ta đã rút ra được những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu để phát triển hoạt động xuất khẩu lao động cho giai đoạn sau.
b, Thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường (1991 – 6/2003)
Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động của ta đều xảy ra những biến động chính trị lớn, dẫn đến sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế; ở nhiều nước Châu Phi có chuyên gia ta làm việc cũng có khủng hoảng kinh tế, chính trị; ở Irăc xảy ra chiến tranh. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn nhu cầu nhận tiếp lao động và chuyên gia Việt Nam, hoặc nếu có nhu cầu thì cũng không nhận lao động và chuyên gia theo cơ chế như trước đây nữa. Đồng thời, cơ chế quản lý kinh tế cua nước ta thời kỳ này đang từng bước đổi mới chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trước tình hình đó, nếu chúng ta không đổi mới cơ chế xuất khẩu thì sẽ không đưa được lao động sang làm việc tại các khu vực mới, trong lúc ở khu vực truyền thống ta có nguy cơ phải đưa về nước hàng loạt lao động và chuyên gia khi vẫn chưa chuẩn bị được các điều kiện tiếp nhận và bố trí việc làm, gây khó khăn và mất ổn định cho tình hình trong nước. Thực tiến khách quan và chủ quan đặt ra yêu cầu bức bách là phải đổi mới cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia cho phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế.
Một cơ chế mới về hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia được hình thành, trong đó phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Nhà nước thống nhất quản lý xuất khẩu lao động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng cung ứng lao động ký với bên nước ngoài.
Trong thời gian đầu chuyển đổi sang cơ chế mới, do các doanh nghiệp mới thoát ra khỏi sự bao cấp của Nhà nước nên gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong việc tìm kiếm thị trường lao động ngoài nước; đôi khi thậm chí trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, chưa có sự chủ động trong việc khai thác hợp đồng. Các thị trường chủ yếu tiếp nhận lao động của ta lâu nay do những bíên động về chính trị, kinh tế, xã hội đã không còn khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam như trước đây. Đối với thị trường mới, ta còn chưa quen, thiếu nhiều thông tin, kinh nghiệm và kiến thức. Hơn nữa, quan hệ đối ngoại trong môi trường quốc tế những năm đầu thập niên 90 (1991 -1993) chưa thuận lợi đối với ta. Trong tình hình đó, chỉ có một số ít doanh nghiệp là ký hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với số lượng nhỏ, khoảng hơn 5000 lao động cho cả 3 năm này.
Những năm sau đó, các doanh nghiệp đã bước đầu có sự chủ động trong nghiên cứu, tiếp thị và học tập kinh nghiệm từ các nước có truyền thống xuất khẩu lao động và từng bước hoà nhập thị trường lao động quốc tế. Cho đến nay, chúng ta đã tiếp cận và thâm nhập được vào thị trường lao động thuộc trên 40 nước và khu vực trên thế giới như khu vực Đông và Đông Nam Á, Trung Đông, Bắc Phi; ngoài ra ta đang từng bước mở rộng thị trường lao động đến một số đảo Nam Thái Bình Dương và khu vực Bắc Mỹ.
Số lượng lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài tăng nhanh qua các năm kể từ năm 1994, có giảm đáng kể vào năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nhưng lại đặc biệt tăng mạnh từ thời điểm năm 1999 trở lại đây. Trong vòng hơn 12 năm qua, Việt Nam có xấp xỉ 1/4 triệu người đi xuất khẩu lao động. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2003 ta đã đưa được 43.000 người đi xuất khẩu lao động, gần bằng con số 46.122 người của cả năm 2002. Dự kiến trong năm nay ta sẽ đưa được 5 vạn lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc.
Bảng 2. Số liệu lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1991 - 06/2003)
Năm
Số lượng (người)
1991
1.022
1992
816
1993
3.960
1994
9.230
1995
10.050
1996
12.660
1997
18.470
1998
12.240
1999
21.810
2000
31.500
2001
37.000
2002
46.122
06/2003
43.000
Tổng số
247.880
( Nguồn : Số liệu lưu trữ của Cục quản lý lao động với nước ngoài )
Thời kỳ này, số lượng người đi xuất khẩu lao động tăng mạnh qua từng năm cho thấy sự đi lên về chất lượng cũng như nhận thức của người lao động, sự cố gắng của Nhà nước cùng với sự vươn lên của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Hiện có gần 200 doanh nghiệp đã được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động và đa phần các doanh nghiệp này hoạt động khá hiệu quả. Các doanh nghiệp lớn như : VINACONEX, LOD, VIETRACIMEX, SIMCO, SOVILACO ... bình quân hàng năm đưa được 1000 – 2000 lao động ra nước ngoài làm việc. Ngành nghề xuất khẩu lao động cũng rất đa dạng, có đến trên 30 ngành nghề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như : xây dựng, cơ khí, giúp việc gia đình và khán hộ công, điện tử, dệt may, chế biến thuỷ sản, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học v.v.. Số lao động nữ hiện nay chiếm khoảng hơn 25%, tập trung chiếm ưu thế ở các lĩnh vực : dệt, may (69%), điện tử (80%), chăm sóc người bệnh và giúp việc gia đình (94%). Xuất khẩu lao động của Việt Nam đang không ngừng vươn lên ngang tầm các nước có truyền thống xuất khẩu lao động ở Châu Á như Philippines, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh.... Tuy nhiên, cần nhận thấy đây vẫn chỉ là những bước đi khởi đầu để tạo đà cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam tiếp tục phấn đấu, mở rộng thêm thị trường lao động và tăng số lượng cũng như chất lượng lao động xuất khẩu trong thời gian tới.
Trong giai đoạn qua, bên cạnh việc góp phần giải quyết vấn đề việc làm trong nước, xuất khẩu lao động còn mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho đất nước. Lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập bằng ngoại tệ có khả năng chuyển đổi thành ngoại tệ mạnh. Nguồn ngoại tệ này rất cần thiết để xây dựng đất nước. Mức thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài thường cao hơn từ 6 – 10 lần thu nhập của người làm việc trong nước. Mức thu nhập ròng hàng tháng (kể cả làm thêm giờ, sau khi đã trừ đi chi phí sinh hoạt ngoài nước) bình quân đầu người khoảng 350USD/người. Như vậy, với gần 250.000 lao động đã đưa đi, trung bình mỗi hợp đồng làm việc là là 2 năm thì tổng số tiền được chuyển về cho đất nước ước tính khoảng 2,8 tỷ USD. Chỉ tính riêng trong năm 2001, tổng số tiền lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau gửi về nước đã đạt 1,3 tỷ USD. Đó là khoản thu lớn góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, phục vụ thiết thực cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà.
Tuy nhiên cần nhận thấy hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta cũng còn nhiều bất cập, nhiều tồn tại cần khắc phục. Đầu tiên phải kể đến công tác quản lý xuất khẩu lao động chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tế. Chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động với các cơ quan chức năng trong việc quản lý và chỉ đạo triển khai thực hiện các hợp đồng lao động. Việc tuyển chọn và làm thủ tục cho lao động dù đã có sự cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng hiện vẫn còn qua rất nhiều khâu trung gian nên người lao động phải mất nhiều thời gian và chi phí bất hợp lý. Cá biệt vẫn có tình trạng lừa đảo, thu tiền bất chính từ người lao động. Thêm vào đó, công tác đào tạo chuẩn bị nguồn lao động trước khi đi cũng như quản lý lao động tại nước đến chưa được sự quan tâm đúng mức từ phía doanh nghiệp, lao động trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ còn yếu, ý thức chấp hành nội quy và pháp luật nước sở tại rất kém, dẫn đến tình trạng tỷ lệ lao động phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc hay bị trả về nước do không đạt yêu cầu còn cao. Đây là những vấn đề bức thiết mà chúng ta cần phải khắc phục và phải khắc phục nhanh để hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta thực sự đạt đến hiệu quả kinh tế - xã hội tương xứng với tiềm năng và cơ hội của mình.
III – Vị trí, vai trò của khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á đối với hoạt động xuất khẩu lao động nước ta.
1, Các thị trường xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta.
Bước sang thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường, chúng ta đã mất hầu hết các thị trường hợp tác lao động truyền thống trước đây, song bằng nỗ lực của chính mình, ta đã tiếp cận mở thêm và phát triển được nhiều thị trường xuất khẩu lao động mới. Trong vòng hơn 10 năm qua, ngành xuất khẩu lao động nước ta đã đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại trên 30 thị trường thuộc nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.
Các thị trường tiếp nhận lao động chủ yếu của nước ta hiện nay có thể phân thành bốn khu vực thị trường bao gồm : khu vực thị trường Trung Đông, khu vực thị trường Châu Phi, khu vực thị trường trên biển và khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á.
a, Khu vực thị trường Trung Đông :
Trung Đông là một trong những khu vực thu hút số lượng lao động lớn nhất trên thế giới thường xuyên có khoảng 9 -10 triệu lao động ngoại quốc làm việc tại các thị trường này) với các ngành nghề đa dạng : xây dựng,
dầu khí, cơ khí, dệt may, giúp việc gia đình và chuyên gia các ngành. Khu vực này có điều kiện làm việc rất khó khăn, khí hậu và môi trường sinh hoạt rất khắc nghiệt, công việc chủ yếu làm ngoài trời nắng nóng, tiền lương thấp (100 – 150 USD/tháng đối với lao động tay nghề thấp và 200 – 300 USD/tháng đối với công nhân kỹ thuật, kỹ sư, cán bộ quản lý) nhưng phải chịu nhiều loại thuế, phong tục tập quán đạo Hồi nghiêm ngặt.
Thời gian vừa qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã đưa lao động xây dựng, dệt may sang Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) với số lượng không nhiều (tổng cộng khoảng gần 2000 người). Ngoài ra, một vài doanh nghiệp khác đã nhận thầu công trình xây dựng ở Kuwait cũng đã đưa lao động sang đây nhưng do chưa có kinh nghiệm tổ chức thi công và quản lý lao động ở nước ngoài nên hoạt động chưa có mấy hiệu quả.
Tổng số lao động ta đã đưa sang thị trường Trung Đông từ năm 1991 – 2001 là 2.927 người, nhưng từ đầu năm 2002 đến nay ta không có thêm lao động nào tại thị trường này.
b, Khu vực thị trường Châu Phi :
Ở Châu Phi có một số quốc gia có nhu cầu nhận lao động nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ta chủ yếu chỉ đưa lao động sang Libya. Đây là thị trường tiếp nhận lao động tương đối ổn định của ta. Cho đến nay, bằng hình thức cung ứng trực tiếp và cung ứng qua nước thứ ba, ta đã đưa được trên 10.000 lượt lao động sang Libya làm việc trong lĩnh vực xây dựng. Song do mức lương ở đây không cao (150 -200 USD/tháng), điều kiện làm việc và sinh hoạt lại hết sức khắc nghiệt nên thị trường gần đây không tỏ ra hấp dẫn người lao động.
Ngoài ra, tại một số nước Châu Phi khác tuy có tỷ lệ lao động cao nhưng vẫn có nhu cầu nhận nhiều lao động nước ngoài cho các công trình xây dựng. Các doanh nghiệp ta có khả năng đưa được số lượng lớn lao động thông qua các công ty quốc tế thắng thầu ở khu vực này.
Bên cạnh đó, ta còn đưa một số chuyên gia nông nghiệp, y tế và giáo dục sang các nước như Angola, Mozambique... nhưng với số lượng không nhiều và không thường xuyên.
c, Khu vực thị trường trên biển :
Hiện nay, nhu cầu của thị trường thế giới đối với lao động trên biển còn rất lớn. Trong thời gian qua, ta đã đưa được trên 26 nghìn lượt sĩ quan, thuyền viên tàu vận tải, thuỷ thủ đánh bắt cá đi làm việc trên biển. Trong đó hiện có trên 2.000 người đang làm việc trong các đội tàu của Hàn Quốc, Nhật Bản, Na Uy, Đài Loan, Singapore và các nước khác. Tuy nhiên trên thực tế lao động của ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các chủ tàu cả về số lượng và chất lượng.
d, Khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á :
Đây là khu vực thị trường chính mà em muốn đề cập đến trong khoá luận tốt nghiệp này. Khu vực này chính xác hơn có thể chia thành hai nhóm thị trường nhỏ hơn là : nhóm thị trường Đông Á (bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan) và nhóm thị trường Đông Nam Á (bao gồm Lào và Malaysia). Vượt trên các khu vực thị trường đã kể trên, Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay. Khu vực này đồng thời cũng bao gồm những thị trường tiếp nhận lao động có quy mô lớn nhất ở Châu Á với tổng số lao động nước ngoài đi theo con đường hợp pháp lên đến trên 2.000.000 người, chưa kể hàng triệu lao động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp khác. Không chỉ lớn mạnh về số lượng lao động nước ngoài tiếp nhận hàng năm, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á còn rất đa dạng về ngành nghề tiếp nhận lao động nước ngoài (gồm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế), hình thức tiếp nhận (hợp dồng tu nghiệp sinh hoặc lao động), trình độ lao động (lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật, chuyên gia)...
2, Vị trí, vai trò của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đối với hoạt động xuất khẩu lao động nước ta.
Có thể nói không ngần ngại rằng khu vực Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường xuất khẩu lao động có tầm quan trọng bậc nhất đối với nước ta hiện nay và theo dự báo của các chuyên gia trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, khu vực thị trường này vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ chốt cả trong những năm tới đây.
Thứ nhất, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay. Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi xem Bảng 3 thống kê về số lượng người Việt Nam đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường trong thời gian qua dưới đây.
Bảng 3. Số người đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường
(1991 – 6/2003)
Khu vực thị trường
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Đông và Đông Nam Á
193.540
78,08
Trên biển
26.563
10,72
Châu Phi
12.695
5,12
Trung Đông
2.927
1,18
Các thị trường khác
12.156
4,9
Tổng số
247.880
100
(Nguồn : Tổng hợp số liệu báo cáo Cục Quản lý lao động với nước ngoài)
Số lao động Việt Nam đã và đang làm việc tại các thị trường thuộc khu vực này chiếm đến 78,08% trong tổng số 247.880 lao động ta đã đưa đi làm việc ở nước ngoài trong vòng hơn 10 năm qua; trong khi đó, các khu vực thị trường khác nhiều nhất cũng chỉ chiếm đến trên dưới 10%. Có thể thấy rõ đây là khu vực thị trường tập trung lao động đi xuất khẩu số một của nước ta hiện nay.
Là khu vực thị trường có nhiều lao động Việt Nam sinh sống và làm việc nhất, đây cũng đồng thời là khu vực cung cấp nguồn kiều hối lớn nhất của ta. Năm 2002, lao động Việt Nam tại các thị trường này chuyển về nước khoảng 1,2 tỷ USD, chiếm 80% trong tổng số 1,5 tỷ USD kiều hối mà ta nhận được trong cả năm.
Thứ hai, khu vực thị trường này tiếp nhận lao động của ta với cơ cấu rất đa dạng, bao gồm cả lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật và chuyên gia trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Chính khu vực thị trường này đã giữ vai trò chủ yếu tạo nên tính đa dạng trong lĩnh vực xuất khẩu lao động của ta.
Trong số lao động Việt Nam đưa sang các nước Đông và Đông Nam Á, lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ cao, lên đến 70%, chủ yếu là lao động tại các vùng nông thôn. Trong bối cảnh tình trạng thất nghiệp ở nông thôn Việt Nam còn tương đối phổ biến như hiện nay, như vậy khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đã góp phần quan trọng để giải quyết vấn đề trên thông qua con đường xuất khẩu lao động. Nhiều lao động phổ thông qua quá trình làm việc tại đây, ngoài việc có được thu nhập đáng kể còn có điều kiện học hỏi để trở thành lao động có nghề.
Thứ ba, trong số các khu vực thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam, khu vực Đông và Đông Nam Á có điều kiện gần gũi nhất về địa lý, điều kiện tự nhiên, nền văn hoá cũng như phong tục tập quán với ta. Đó là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc đưa lao động của ta sang làm việc tại những thị trường này. Sự gần gũi về địa lý làm cho các chi phí đi lại, liên lạc của lao động cũng như của doanh nghiệp xuất khẩu lao động thấp hơn rất nhiều so với các khu vực thị trường khác. Trong khi sự gần gũi về điều kiện tự nhiên, nền văn hoá, phong tục tập quán lại khiến giới chủ sử dụng dễ dàng chấp nhận lao động Việt Nam vào làm việc, hai bên dễ dàng tìm được tiếng nói chung trong công việc cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Lao động Việt Nam có được nhiều thuận lợi hơn so với các khu vực thị trường khác trong việc hoà nhập vào đời sống kinh tế xã hội của nước sở tại. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng để Đông và Đông Nam Á trở thành khu vực thị trường xuất khẩu lao động chủ chốt của nước ta.
Thứ tư, khu vực thị trường này tập trung những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật vào loại phát triển nhất trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là những con rồng Châu Á với nền kinh tế có hàm lượng khoa học công nghệ cao, Malaysia cũng có nền khoa học kỹ thuật rất phát triển. Xuất khẩu lao động sang những thị trường là cơ hội quan trong cho phép lao động ta tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất.
Thứ năm, đây đồng thời là khu vực thị trường xuất khẩu lao động rất có triển vọng trong tương lai. Một mặt, triển vọng thể hiện rõ ở nhu cầu lao động nước ngoài còn rất lớn của những thị trường mà ta đã đưa lao động sang làm việc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào và đặc biệt là Malaysia - thị trường mới mở gần đây đều có nhu câu rất lớn về lao động nước ngoài mà lượng lao động đã tiếp nhận mới chỉ đáp ứng được một phần. Hơn nữa, với đà phát triển kinh tế của những nước trên, dự báo nhu cầu này còn tăng lên nhiều trong thời gian tới.
Ngoài ra, triển vọng còn thể hiện ở một số thị trường tiếp nhận lao động nước ngoài có tiếng khác trong khu vực Đông và Đông Nam Á như Singapore hay Bruney. Tuy trước mắt những thị trường này vẫn chưa chính thức tiếp nhận lao động của ta (trừ một số ít y tá sang Singapore) song chính phủ ta đang nỗ lực tiến hành nhiều hoạt động tích cực nhằm xúc tiến tiếp cận tìm cách đưa lao động của ta sang đây.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC ĐÔNG VÀ ĐÔNG NAM Á
I – Vài nét về thị trường các nước Đông và Đông Nam Á
1, Thị trường Nhật Bản :
Nhật Bản là một quốc đảo với diện tích 377.682 km2, dân số 127.100.000 người, nền kinh tế đứng thứ ba trên thế giới. Với dân số có tỷ lệ người già đã quá tuổi lao động chiếm đến 30% dân số và một nền kinh tế phát triển như vậy, nhu cầu về lao động nước ngoài của Nhật Bản là rất lớn. Tuy nhiên, Nhật Bản lại được các chuyên gia quốc tế nghiên cứu về xuất khẩu lao động coi là một nước có chính sách đóng cửa với lao động nước ngoài. Trong Luật kiểm tra về người nhập cư và di tản của Nhật Bản được phê chuẩn năm 1990 đã quy định không được tuyển dụng lao động người nước ngoài không nghề vào Nhật Bản, chỉ cho phép tuyển dụng những chuyên gia có trình độ và những lao động đặc biệt lành nghề từ các quốc gia khác. Song cũng từ đầu những năm 90, Nhật Bản đã đưa ra chính sách tiếp nhận lao động từ các nước đang phát triển sang Nhật Bản tu nghiệp nâng cao tay nghề theo "Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật" tại các xí nghiệp vừa và nhỏ với số lượng hàng năm khoảng 50.000 người, người lao động được gọi là "tu nghiệp sinh". Theo quan điểm của các nhà hoạch định chính sách Nhật Bản, đây là một biện pháp chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển, cũng là giảm số lượng lao động nước ngoài bất hợp pháp tại đây, đồng thời đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang thiếu lao động trầm trọng. Đối với các nước xuất khẩu lao động, đây cũng là một biện pháp được hoan nghênh vì nó mở ra một kênh để đưa lao động sang Nhật Bản. Tuy người lao động chỉ được hưởng quy chế tu nghiệp sinh (ít quyền lợi hơn so với quy chế các lao động thông thường tại Nhật Bản) và hưởng trợ cấp tu nghiệp, nhưng mức thu nhập này vẫn cao hơn nhiều so với mức lương của người lao động ở nhiều thị trường khác, thông thường đạt 670 – 780 USD/ tháng.
Nhật Bản tiếp nhận tu nghiệp sinh trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và cả các ngành thủ công truyền thống. Theo quy định, tu nghiệp sinh nước ngoài phải là người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp của nước phái cử có nghề chuyên môn sẽ tu nghiệp tại Nhật Bản. Họ được doanh nghiệp cử đi cam kết sẽ sẽ tiếp nhận lại làm việc sau khi hết hạn tu nghiệp. Thời hạn tu nghiệp tại Nhật Bản từ 2 – 3 năm, tuỳ theo từng ngành nghề. Trong năm đầu tiên, tu nghiệp sinh vừa học lý thuyết vừa được đào tạo thực hành trong sản xuất, hưởng quy chế trợ cấp tu nghiệp. Từ năm 1994 đến nay, chính sách đối với lao động nước ngoài của Nhật Bản được mở rộng thêm một bước : Sau khi kết thúc giai đoạn 1, tu nghiệp sinh phải qua kỳ thi sát hạch tay nghề để chuyển qua giai đoạn 2, nếu đạt, tu nghiệp sinh sẽ được hưởng quy chế nhận tiền công theo công việc gần giống lao động thông thường.
Tham gia vào chương trình này của Nhật Bản có rất nhiều nước Châu Á, chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Philippnines, Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Đài Loan và một số nước khác. Hiện có tổng cộng gần 320.000 tu nghiệp sinh người nước ngoài hiện đang làm việc tại Nhật Bản, trong đó, Trung Quốc là nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất với 123.117 người, chiếm đến trên 40% tổng số tu nghiệp sinh nước ngoài tại Nhật Bản.
Nhật Bản bắt đầu tiếp nhận tu nghiệp sinh của Việt Nam từ năm 1992, là một trong những thị trường xuất khẩu lao động sớm nhất của nước ta tại khu vực Đông và Đông Nam Á. Thị trường Nhật Bản tương đối khó tính, chỉ tiếp nhận lao động có nghề, lao động phải có trình độ tiếng Nhật cơ sở, đặc biệt yêu cầu rất cao về tính kỷ luật của lao động; thêm vào đó thủ tục xin visa nhập cảnh rất phức tạp và tốn nhiều thời gian, chi phí cho các khâu trung gian, đặt cọc... rất cao (từ 8.000 – 10.000 USD). Do vậy, việc đưa tu nghiệp sinh Việt Nam sang làm việc tại Nhật Bản cần có sự nỗ lực rất cao cả từ phía người lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Tuy nhiên, ở thị trường Nhật Bản cũng giống như ở thị trường Hàn Quốc, phát sinh vấn đề tu nghiệp sinh nước ngoài tự ý bỏ hợp đồng, đi làm việc tại doanh nghiệp khác có mức lương cao hơn và tu nghiệp sinh các nước sau khi hết thời hạn làm việc không chịu về nước, trốn ở lại Nhật Bản làm việc bất hợp pháp. Hiện tượng này tạo nên rất nhiều phức tạp về mặt xã hội ở Nhật Bản. Tỷ lệ tu nghiệp sinh nước ngoài bỏ hợp đồng và trốn ở lại làm việc cao là vấn đề đau đầu của cả giới chức Nhật Bản lẫn các nước phái cử. Áp dụng các biện pháp hữu hiệu để giảm được tỷ lệ này chính là một trong những vấn đề mấu chốt để nâng cao sức cạnh tranh của lao động nước ta tại thị trường này.
2, Thị trường Hàn Quốc :
Hàn Quốc nằm ở khu vực Đông Á mà chính xác hơn là ở Đông Bắc Á, diện tích 99.600 km2, dân số 48.800.000 người. Hàn Quốc là một nước công nghiệp phát triển với nền công nghệ điện tử cao dựa trên hàm lượng cao về khoa học và công nghệ. Nền kinh tế Hàn Quốc đạt tỷ lệ tăng trưởng cao bắt đầu từ thập niên 60 và trong vòng 25 năm kể từ năm 1967 đến 1991, giá trị GNP của Hàn Quốc đã tăng 7,3 lần.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu sử dụng lao động cũng ngày một tăng mạnh. Hơn thế nữa mức tiền lương của người lao động Hàn Quốc cũng tăng cao nhanh chóng. Những điều này đã khiến cho lao động Hàn Quốc có sự lựa chọn chỗ làm việc. Họ từ chối làm việc ở những chỗ lương thấp hoặc trong những ngành thuộc khu vực 3D (dangerous, dificult, dirty – nguy hiểm, khó khăn và độc hại) mà chuyển sang các ngành dịch vụ, văn phòng hay kỹ thuật cao. Tình hình đó đã khiến Hàn Quốc phải đối phó với sự mất cân đối về cung và cầu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở Hàn Quốc dù rất cao nhưng những công việc có mức lương thấp hoặc thuộc khu vực 3D nói trên thì vẫn rất thiếu nhân công. Để bù đắp sự thiếu hụt đó, Hàn Quốc buộc phải nhập khẩu lao động nước ngoài. Tháng 11/1993, chính phủ Hàn Quốc đã triển khai hệ thống tu nghiệp sinh công nghiệp, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tiếp nhận người nước ngoài với danh nghĩa tu nghiệp sinh. Năm 1996, chủ trương này đã được mở rộng ra các lĩnh vực đánh cá, nông nghiệp và xây dựng.
Chương trình tu nghiệp sinh của Hàn Quốc có nhiều điểm giống với chương trình này tại Nhật Bản. Nhưng khác với Nhật Bản - các chủ sử dụng trực tiếp tuyển chọn và tiếp nhận lao động - tại Hàn Quốc, chính phủ giao cho 4 hiệp hội bao gồm Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc (KFSB), Hiệp hội xây dựng Hàn Quốc (CAK), Hiệp hội các tổ hợp nông nghiệp Hàn Quốc, Hiệp hội các tổ hợp ngư nghiệp Hàn Quốc, đứng ra làm đầu mối tiếp nhận tu nghiệp sinh nước ngoài về giao cho các doanh nghiệp. Chi tiêu tu nghiệp sinh nước ngoài được phép tiếp nhận được phân bổ cho các doanh nghiệp theo từng khu vực ngành nghề với phần lớn chỉ tiêu thuộc về KFSB. Ví dụ như : năm 2003, Hàn Quốc chủ trương tiếp nhận 145.500 tu nghiệp sinh nước ngoài, trong đó khu vực các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ được tiếp nhận 130.000 người, ngành đánh bắt cá : 3.000 người, nông nghiệp : 5.000 người và xây dựng 7.500 người.
Thời hạn làm việc của tu nghiệp sinh tại Hàn Quốc là 3 năm, trong đó thời gian học việc là 1 năm. Từ 17/7/2002, Cục phát triển nhân lực Hàn Quốc (HRDS) quy định : hết năm thứ nhất nếu tu nghiệp sinh qua khoá học kéo dài 3 ngày tại các trung tâm của HRDS sẽ được gia hạn visa 2 năm, chuyển qua chế độ lao động (được hưởng lương và bảo hiểm như người lao động thông thường), nếu làm việc tốt họ còn có thể được gia hạn hợp đồng thêm 1 năm. Trước đây, sau giai đoan học nghề, tu nghiệp sinh nước ngoài vẫn phải trải qua kỳ sát hạch để được cấp giấy phép lao động 2 năm. Nhưng từ năm 2000 – 2002, có đến 23,2% thí sinh tham dự kỳ thi sát hạch này không đỗ, nhiều người đã trốn khỏi hợp đồng, ở lại bất hợp pháp ở Hàn Quốc. Chính sách mới đưa ra một mặt để bảo vệ quyền lợi của người lao động nước ngoài, mặt khác cũng để phần nào ngăn ngừa tình trạng tu nghiệp sinh trốn bỏ hợp đồng vốn đã quá nghiêm trọng ở Hàn Quốc.
Về thu nhập của tu nghiệp sinh kỹ thuật tại Hàn Quốc, trong thời kỳ đầu, KFSB quy định mức lương cho tu nghiệp sinh nước ngoài theo từng quốc tịch (cao nhất là tu nghiệp sinh Trung Quốc, sau đó đến Phillipines, Việt Nam đứng thứ 3). Nhưng sau này, do nhiều vấn đề phát sinh, chính phủ Hàn Quốc quy định cho mọi tu nghiệp sinh nước ngoài được hưởng mức lương tối thiểu của Hàn Quốc. Mức lương tối thiểu này thường xuyên được điều chỉnh qua từng thời kỳ, hiện nay vào khoảng 480 USD/tháng. Khi chuyển qua chế độ lao động, lương bình quân của người lao động có thể đạt từ 600 – 700 USD/tháng, trên thực tế người lao động còn có mức thu nhập cao hơn thế nhiều do có thời gian làm thêm giờ.
Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật thực hiện từ năm 1993 đến nay với tổng chỉ tiêu 130.000 người được phân bổ cho các quốc gia phái cử. Hiện nay có tất cả 15 nước Châu Á tham gia vào chương trình này của Hàn Quốc, trong đó nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất là Trung Quốc với chỉ tiêu 30.790 người, chiếm 23,7%; thứ hai là Indonesia với chỉ tiêu 22.480 người, chiếm 17,3%; Việt Nam đứng thứ 3 với chỉ tiêu 18.770 người chiếm 14,4%.
Vấn đề nổi cộm nhất với thị trường Hàn Quốc hiện nay là tình trạng lao động bất hợp pháp. Số lao động bất hợp pháp này - bao gồm những lao động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp vào Hàn Quốc và các tu nghiệp sinh, lao động trong khuôn khổ Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật bỏ hợp đồng trốn ra ngoài tìm việc làm có thu nhập cao hơn trở thành lao động nước ngoài bất hợp pháp – đã gia tăng đến con số báo động. Theo công bố của chính phủ Hàn Quốc, đến cuối tháng 10/2002, trong số 603.294 người nước ngoài sinh sống ở Hàn Quốc thì đã có đến 287.639 người là lao động bất hợp pháp (chiếm 47,7%). Tỷ lệ tu nghiệp sinh nước ngoài tự ý phá hợp đồng, trốn ra ngoài làm việc trung bình vào khoảng 56%, trong đó cao nhất là Bangladesh : 78,60%, thứ hai là Myanmar : 72,90% và Việt Nam – đứng thứ ba với 59,25%.
Việt Nam tham gia vào Chương trình tu nghiệp sinh sinh kỹ thuật của Hàn Quốc ngay từ thời kỳ đầu. Thị trường Hàn Quốc không khó tính như thị trường Nhật Bản. Tiêu chuẩn đối với lao động đi làm việc tại Hàn Quốc là có sức khoẻ tốt và chăm chỉ làm việc. Phía Hàn Quốc chỉ yêu cầu tuyển lao động phổ thông, không cần có nghề, do vậy đây là một thị trường đầy tiềm năng với lao động Việt Nam. Tuy nhiên, muốn duy trì và tiếp tục phát triển thị trường này thì chúng ta nhất định cần phải giải quyết dứt điểm tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp và bỏ trốn không chịu về nước sau khi đã kết thúc thời hạn hợp đồng.
3, Thị trường Đài Loan :
Đài Loan nằm cách bờ biển Đông Nam lục địa Trung Hoa khoảng 150 km, ngăn cách với lục địa Trung Hoa bởi eo biển Đài Loan. Đài Loan bao gồm 64 đảo lớn nhỏ thuộc quần đảo Bành Hồ và trên 20 đảo khác với tổng diện tích trên 53.960 km2. Đài Loan cách Philippnes 350 km và Nhật Bản 1090 km, dân số có trên 22 triệu người. Thủ phủ Đài Bắc là nơi có mật độ dân số cao nhất, tiếp sau đó là thành phố Cao Hùng ở phía Nam. Gần 60% dân số Đài Loan tập trung ở 4 thành phố lớn : Đài Bắc, Cao Hùng, Đài Trung và Đài Nam. Đó cũng là những địa phương tiếp nhận lao động nước ngoài chủ yếu, đa phần lao động nước ngoài tập trung tại 4 thành phố này và các khu vực phụ cận.
Từ năm 1989, do sức ép của vệc nâng lương trong nước cũng như cần tiến hành nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, để giải quyết tình trạng thiếu nhân lực, chính quyền Đài Loan đã mở cửa cho phép nhận lao động nước ngoài vào làm việc.
Không giống như Nhật Bản, Hàn Quốc tuyển dụng lao động nước ngoài theo quy chế tu nghiệp sinh, Đài Loan có chính sách nhận lao động nước ngoài chính thức (ký hợp đồng lao động chính thức), có hệ thống luật lệ và quy chế tương đối rõ ràng và chặt chẽ với lao động nước ngoài. Từ đầu những năm 90, Đài Loan đã nhận lao động từ 4 nước Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia, đến cuối năm 1999 tiếp nhận thêm lao động Việt Nam. Khởi đầu quy mô lao động nước ngoài bị chính quyền giới hạn khoảng 15.000 người/năm. Những năm gần đây, con số này được nâng lên và dao động trong khoảng 240.000 đến trên dưới 300.000 người/năm. Theo số liệu của Uỷ ban lao động Đài Loan (CLA), tính đến cuối tháng 5/2003 số lượng lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan là 301.780 người, trong đó : Thái Lan : 110.782 người (chiếm 36.7%); Indonesia : 79.777 người (chiếm 26,44%); Philippines : 71.516 người (chiếm 23,7%); Việt Nam : 36.675 người (chiếm 13,15%), Malaysia : 30 người (chiếm xấp xỉ 1%)
Trong số lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan, có khoảng 140.000 lao động (chiếm 46%) làm nghề giúp việc gia đình, chủ yếu là chăm sóc người già và trẻ em; 92.035 lao động làm việc trong các doanh nghiệp sản xuất chế tạo (chiếm 36,8%); 47.803 người làm việc trong các dự án đầu tư lớn của nước ngoài (chiếm 16%); 573 lao động làm việc trong các dự án xây dựng của tư nhân (chiếm 0.2%) và 3156 lao động làm thuỷ thủ tàu cá (chiếm 1%).
Lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan được điều chỉnh bởi một hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ và thống nhất cho mọi nước có lao động đi làm việc tại Đài Loan. Hợp đồng lao động thường có thời hạn là 2 năm, sau khi hết hạn được gia hạn một lần và thời gian gia hạn không được quá 1 năm. Đài Loan vẫn duy trì chế độ ngày làm việc 8h/ngày và 6 ngày/tuần, từ tháng 1/2001 là 5,5 ngày/tuần(trừ một số ngành nghề đặc thù như giúp việc gia đình và khán hộ công). Nếu có nhu cầu làm thêm giờ thì doanh nghiệp và người lao động phải có sự thoả thuận trên cơ sở tuân thủ các quy định của Luật lao động tiêu chuẩn Đài Loan. Tiền lương cơ bản cho mỗi lao động là 15840 Đài tệ/tháng (khoảng 450 USD), nếu cộng thêm tiền làm thêm giờ mức lương bình quân là 20.000 Đài tệ/tháng. Riêng trong ngành điện tử, nếu 1 ngày làm việc 12 giờ thì tiền lương đạt 30.000 Đài tệ, nhưng cũng có trường hợp không làm thêm giờ thì tiền lương chỉ được 15.840 Đài tệ. Đương nhiên lương cơ bản của lao động nước ngoài và của người bản xứ là không giống nhau và cũng khác nhau khi làm ở các lĩnh vưc khác nhau. Mức lương này có thể được điều chỉnh tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế. Người lao động được tham gia bảo hiểm lao động, bảo hiểm y tế và phải nộp thuế thu nhập (6% thu nhập chịu thuế nếu số ngày làm việc trong năm lớn hơn 183 ngày và 20% nếu số ngày làm việc trong năm không đủ 183 ngày).
Việc cung ứng lao động nước ngoài sang Đài Loan có thể qua một trong hai kênh sau :
Kênh thứ nhất, chủ sử dụng trực tiếp tuyển dụng người lao động nước ngoài và trực tiếp thuê chuyên gia đến làm nhiệm vụ quản lý lao động. Đi theo kênh này là các xí nghiệp lớn hoặc các chủ công trình bao thầu lớn và thực tế cho thấy đi qua kênh này cũng chỉ có khoảng gần 10% số lao động nước ngoài làm việc tai Đài Loan, với lao động Việt Nam hầu như hoàn toàn không sử dụng kênh này.
Kênh thứ hai, các hợp đồng được ký thông qua các công ty môi giới, các công ty có chức năng tìm kiếm các quota nhận lao động, tuyển dụng lao động theo sự uỷ quyền của chủ sử dụng lao động và tham gia vào quá trình quản lý lao động nước ngoài tại Đài Loan. Trên 90% số lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan đã đi theo kênh này. Phí môi giới do người lao động phải chịu, mức phí này thường khá cao. Mặc dù chính phủ Đài Loan đã quy định rõ : " Công ty môi giới không được thu phí môi giới của người lao động nước ngoài làm việc trong mọi lĩnh vực" nhưng trên thực tế, các công ty môi giới Đài Loan vẫn thường thu của người lao động từ 56.000 Đài tệ (1750 USD) cho đến 90.000 Đài tệ (2810 USD) cho mỗi hợp đồng, khoản phí môi giới này - được nguỵ trang dưới nhiều tên gọi khác nhau để "lách luật" - thậm chí còn cao hơn thế do các công ty cung ứng lao động nước ngoài đã không ngừng tăng cao chi phí môi giới trả cho các công ty môi giới Đài Loan nhằm tranh giành các quota lao động. Ngoài chi phí môi giới, người lao động còn phải chi thêm một khoản tiền phục vụ cho công tác quản lý, mức phí này dao động trong khoảng 1500 - 1800 Đài tệ/ tháng.
Thị trường Đài Loan cũng là một thị trường tương đối khó tính, Đài Loan chủ yếu nhận lao động có nghề, phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và có những quy đinh rất ngặt nghèo về sức khoẻ. Đồng thời, đây cũng là một thị trường có tính cạnh tranh cao. Cho đến hiện nay số lượng lao động của chúng ta tại thị trường này vẫn đứng sau Thái Lan, Indonesia và Philippines. Những nước này đã có mặt tại thị trường Đài Loan từ những năm 1990 -1991, trong khi nước ta mới bắt đầu từ năm 1999. Lao động Thái Lan chiếm số lượng đông nhất trong số lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan, được đánh giá là cần cù, chịu khó, có sức khoẻ và dẻo dai. Số lao động Indonesia đứng thứ hai, chăm chỉ, nhẫn nại, hơi yếu về tiếng Hoa nhưng bù lại có sức khoẻ và tính kỷ luật cao. Lao động Phippines thì khá tiếng Hoa, đặc biệt là tiếng Anh, có trình độ, chuyên môn tốt, tuy có nhược điểm là hay cãi chủ và hay xin nghỉ. Trong khi đó, các công ty cung ứng lao động của Thái Lan và Indonesia sẵn sàng chấp nhận mức phí môi giới cao để kéo các đơn hàng về mình. Chi phí vé máy bay của nước ta đến Đài Loan lại cao hơn mặt bằng chung trong khu vực rất nhiều khiến các chủ sử dụng phải tính toán, lựa chọn giữa việc tuyển mộ lao động nước ta với lao động các nước khác để giảm tiền vé máy bay. Nói chung, những "đối thủ" của chúng ta rất mạnh và cạnh tranh tìm được chỗ đứng trong một thị trường như vậy là một điều hoàn toàn không dễ dàng. Tuy Philippines và Indonesia hiện nay đều đã bị "đông kết" không được phép đưa lao động vào thị trường Đài Loan nữa nhưng khả năng mở cửa lại với các nước cung ứng lao động này vẫn còn, nghĩa là nguy cơ cạnh tranh với lao động Việt Nam là rất lớn. Vấn đề chủ yếu đặt ra với chúng ta khi đưa lao động sang làm việc tại thị trường này là phải tổ chức đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động thật tốt, đảm bảo trang bị đầy đủ cho người lao động những kiến thức về công việc, ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Hoa) và pháp luật, phong tục, tập quán Đài Loan nhằm nâng cao chất lượng lao động. Ngoài ra, chúng ta cần chú ý khắc phục và ngăn chặn tình trạng lao động tự ý phá bỏ hợp đồng, trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, tránh dẫm lại "vết xe đổ" của Indonesia (đã bị "đông kết" ngừng tiếp nhận lao động từ tháng 8/2002 do có tỷ lệ lao động bỏ trốn quá cao). Điều này chỉ có thể làm được khi các công ty cung ứng làm tốt công tác tuyển chọn, thực hiện chế độ tài chính rõ ràng với người lao động, tiến hành công tác giáo dục đào tạo tốt đồng thời quản lý theo dõi sát xao tình hình sinh hoạt và làm việc của người lao động. Người lao động cũng phải tự nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình khi làm việc tại thị trường này, quyền lợi của bản thân phải gắn liền với quyền lợi của cộng đồng và của xã hội.
4, Thị trường Malaysia :
Malaysia nằm ở khu vực Đông Nam Á, diện tích khoảng 330.417 km2. Nước này có 13 bang, mỗi bang có đặc điểm và tính chất khác nhau. Dân số malaysia là 23,7 triệu người, trong đó người Mã Lai chiếm hơn 50%, 30% là người Hoa, 10% là người Ấn, còn lại là các dân tộc khác. Tôn giáo chính thống ở đây là đạo Hồi, ngoài ra còn có đạo Thiên Chúa Giáo. Về kinh tế, Malysia hiện có GDP bình quân đầu người khoảng gần 4000 USD. Như vậy, so với Việt Nam thì diện tích Malaysia tương đương nhưng dân số chưa bằng 1/3 và GDP bình quân đầu người cao gấp nhiều lần.
Kinh tế Malaysia phát triển mạnh dựa vào các lĩnh vực chủ yếu sau : Cao su, dầu cọ, điện tử, công nghiệp chế tạo và dầu mỏ. Nước này là một quốc gia vừa nhập, vừa xuất khẩu lao động. Lao động có trình độ cao của Malaysia phần lớn sang làm việc ở Singapore, đồng thời Malaysia cũng tiếp nhận lao động của nhiều nước, trong đó người Indonesia chiếm ưu thế.
Từ những năm 70, Malaysia tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ với mức tăng trưởng bình quân 11% thời kỳ 1970 – 1980. Công nghiệp và dịch vụ thu hút rất nhiều lao động từ khu vực nông nghiệp và đồn điền, gây nên làn sóng lao động nước ngoài lần thứ nhất (chủ yếu là người Indonesia và Philippines) vào làm việc trong khu vực nông nghiệp và xây dựng đang bị thiếu hụt lao động. Và từ nửa cuối những năm 80 đến nay, Malaysia thực hiện chính sách tự do hoá kinh tế, với mức tăng trưởng cao trên 8% năm, dân số ít, quốc gia này ở vào tình trạng thiếu lao động trầm trọng. Điều đó đã tạo nên làn sóng lao động người nước ngoài vào làm việc ở Malaysia lần thứ hai.
Hiện nay, có khoảng hơn 1 triệu lao động từ 12 nước, bao gồm Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ, Campuchia, Pakistan, Myanma, Nepal, Philippines, Thái Lan, Sri Lanca và Việt Nam đang làm việc hợp pháp tại Malaysia, trong đó lao động Indonesia chiếm 70% với 5 lĩnh vực được phép thuê lao động nước ngoài : Công nghiệp : sử dụng khoảng 33,19% tổng số lao động nước ngoài; Nông nghiệp : 21,2%; Dịch vụ gia đình : 19,55%; Xây dựng : khoảng 16,72%; Dịch vụ (khách sạn, nhà hàng, bán hàng, vệ sinh công cộng...) : 9%.
Ngoài ra, vào cuối những năm 90, ước tính tại Malaysia còn có gần 1 triệu lao động nước ngoài bất hợp pháp. Từ đầu tháng 8/2002, Malaysia thực hiện chính sách nhập cư mới, đưa lao động bất hợp pháp về nước để thay thế bằng lao động hợp pháp, mỗi ngày trục xuất khoảng 5000 người; vì thế hiện nay, con số này đã giảm đáng kể.
Theo quy định của pháp luật Malaysia, lao động nước ngoài được hưởng các quyền lợi bình đẳng như lao động trong nước. Thời hạn hợp đồng được quy định là 3 năm, có thể gia hạn đến 5 năm với lao động có tay nghề thấp và đến 6 năm với lao động có tay nghề cao. Malaysia không quy định mức lương tối thiểu mà để chủ sử dụng lao động và người lao động tự thoả thuận theo sự điều tiết của thị trường. Vì vậy, mức lương của lao động phụ thuộc vào từng ngành nghề và từng chủ sử dụng lao động. Tổng thu nhập của lao động nước ngoài bình quân khoảng 200 USD/tháng.
Những năm trước đây, Chính phủ Malaysia cấp phép tuyển nhân công nước ngoài cho các đại lý lao động. Điều này dẫn đên tình trạng số lao động nước ngoài do các đại lý đưa vào Malaysia vượt quá nhu cầu sử dụng thực tế. Từ sau năm 1998, chính phủ Malaysia chủ trương cấp giấy phép trực tiếp cho chủ sử dụng lao động (công ty, xí nghiệp, chủ sử dụng tư nhân) căn cứ vào nhu cầu thực tế của họ và chủ sử dụng được phép trực tiếp tuyển chọn nhân công từ các nguồn do chính phủ quy định. Tuy nhiên nhiều chủ sử dụng không đủ kinh nghiệm và điều kiện tiếp xúc với các nguồn lao động nước ngoài để tuyển chọn trực tiếp nên đã uỷ thác cho các đại lý Malaysia tuyển chọn theo giấy phép được cấp và yêu cầu chất lượng do chủ sử dụng đặt ra, phí môi giới hoàn toàn do chủ sử dụng chịu. Từ 6/2/2002, chính phủ Malaysia quy định việc tuyển dụng nhân công nước ngoài phải dựa trên cơ sở Hiệp định cấp chính phủ giữa nước tiếp nhận và cung ứng lao động.
Theo nhận định của các chuyên gia, hiện tại cũng như nhiều năm tới, Malaysia là thị trường có nhu cầu lớn về lao động nước ngoài, đặc biệt trong một số lĩnh vực như công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ và một số ngành nghề khác đòi hỏi có tay nghề chuyên môn cao. Ngày 6/2/2002, sau rất nhiều nỗ lực xúc tiến tích cực từ cả hai phía, Chính phủ Malaysia đã công bố chủ trương mở cửa thị trường cho lao động Việt Nam và không ấn định về số lượng lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia. Chủ trương của Malaysia là nhận lao động Việt Nam thông qua một văn bản thoả thuận giữa hai chính phủ. Hiện nay, về cơ bản, văn bản thoả thuận đã được hai bên xem xét đi đến thống nhất ký kết. Tuy nhiên trong thời gian chờ ký kết, Malaysia đã cho phép lao động Việt Nam sang Malaysia làm việc từ tháng 5/2002.
Với khoảng cách gần Việt Nam, khí hậu và điều kiện sinh hoạt không có gì khác biệt nhiều, Malaysia là một thị trường mới đầy tiềm năng của lao động Việt Nam. Mặc dù mức thu nhập không cao như các nước Đông Á Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan song với mức chi phí trước khi đi thấp (từ 800 – 1200 USD, trong đó đã có một nửa được cho vay), yêu cầu về tay nghề và chuyên môn ở mức vừa phải, thị trường này khá phù hợp cho đại bộ phận lao động khu vực nông thôn Việt Nam.
Malaysia là một thị trường tương đối dễ tính, tuy nhiên khi đưa lao động sang thị trường Malaysia, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của ta vẫn cần chuẩn bị tốt cho lao động về tay nghề cần thiết, trình độ ngoại ngữ tiếng Anh hoặc tiếng Trung cơ bản để có thể nghe hiểu những yêu cầu của chủ sử dụng và giao tiếp đơn giản. Ngoài ra, Malaysia là một nước Hồi giáo, thành phần dân cư phức tạp, pháp luật rất nghiêm khắc và có nhiều điểm khác biệt đặc thù, do vậy cần căn cứ vào đặc điểm của từng địa bàn tiếp nhận để trang bị cho người lao động những hiểu biết tối thiểu về xã hội, luật pháp, văn hoá, tôn giáo, phong tục tập quán, những điều kiêng kỵ ... để người lao động tránh được những vi phạm đáng tiếc. Đặc biệt, theo dư luận giới chủ ở Malaysia, điều quan trọng nhất khi tiếp nhận lao động không phải là tay nghề hay trình độ văn hoá mà là tính kỷ luật của người lao động. Chính sự thiếu kỷ luật, kỷ cương, vi phạm pháp luật của người lao động đã dẫn đến những phức tạp về mặt xã hội trong thời gian qua và chính phủ Malaysia đã phải quyết định cắt giảm số lượng, tạm ngừng hoặc đình chỉ tiếp nhận lao động từ một số nước đã từng là nguồn cung cấp lao động rất lớn cho Malaysia như Bangladesh, Indonesia. Bởi thế, giáo dục lao động có tính kỷ luật cao chính là biện pháp rất hiệu quả hiện nay để nâng cao vị thế cạnh tranh của lao động Việt Nam tại thị trường này.
5, Thị trường Lào :
Đất nước Lào rộng 236.800km2, dân số 5.400.000 người, hoàn toàn nằm lọt trong lòng bán đảo Đông Dương. Là một nước có diện tích lãnh thổ lớn, dân số ít, tài nguyên dồi dào, lại đang trong qua trình đổi mới cơ chế cho nên hiện nay Lào đang rất thiếu nguồn lao động có trình độ tay nghề.
Việt Nam và Lào là 2 nước có quan hệ gần gũi truyền thống do yếu tố địa lý và do cả các điều kiện lịch sử. Trong lịch sử hiện đại mối quan hệ truyền thống đó được nâng lên thành quan hệ anh em ở cấp quốc gia, trở thành tình hữu nghị đặc biệt. Trong các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chống lại đế quốc Pháp và Mỹ, dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh , giúp đỡ lẫn nhau cả về sức người, sức của; hiện nay lại đang phối hợp chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng đất nước. Phù hợp với chủ trương của hai Đảng, hai Nhà nước, lao động và chuyên gia Việt Nam đã và đang được đưa sang làm việc tại Lào với số lượng lớn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của nước bạn. Ngoài ra, do chi phí đi lại làm việc tại Lào thấp hơn nhiều so với chi phí đi làm việc tại các nước khác, mức tiền lương cũng phù hợp với số đông lao động ở các vùng nông thôn miền Trung, vị trí địa lý lại gần và thuận tiện, thị trường Lào tỏ ra rất thích hợp với lao động Việt Nam.
Hiện đang có khoảng 40 quốc gia có lao động ở Lào, trong đó nhiều nhất vẫn là Việt Nam, sau đó đến Trung Quốc và Thái Lan. Lao động Việt Nam và Trung Quốc sang Lào là các chuyên gia và công nhân làm việc theo các hợp đồng nhận thầu công trình, liên doanh liên kết, nhận khoán công việc... cùng một bộ phận không nhỏ là lao động tự do trốn qua biên giới sang đây làm việc còn lao động Thái Lan chủ yếu là lao động tự do. Theo ước tính, hiện nay tại Lào có khoảng gần 100.000 lao động nước ngoài đang sống và làm việc.
Ngày 29/06/1995, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã theo uỷ quyền của Chính phủ ký với Lào Hiệp định về hợp tác lao động, trong đó hai bên đã thoả thuận về việc tạo điều kiện pháp lý cho việc đẩy mạnh hợp tác lao động giữa hai nước và tăng cường các biện pháp quản lý công tác này, đặc biệt phải giải quyết vấn đề số lao động tự do nhập cảnh và làm việc bất hợp pháp ở Lào theo thời vụ hàng năm.
II - Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường các nước Đông và Đông Nam Á
1, Tình hình chung :
Theo em được biết, hiện nay chưa có một báo cáo hay số liệu thống kê cụ thể mang tính chính thức nào từ phía các cơ quan chức năng về tình hình hoạt dộng xuất khẩu lao động sang khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á, mà chỉ có các báo cáo riêng rẽ về từng thị trường trong khu vực. Toàn bộ nhận định đánh giá và số liệu trong phần này do em tổng kết từ các báo cáo và số liệu riêng rẽ nói trên.
Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :
Khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á (trừ Lào đã có quá trình hợp tác lao động lâu dài trước đây) đều là những thị trường mới của ngành xuất khẩu lao động Việt Nam với thị trường có "tuổi đời" lớn nhất là Nhật Bản cũng mới chỉ có 11 năm và thị trường mới nhất là Malaysia mới được hơn 1 năm. Tuy nhiên, đây lại tại khu vực thị trường có tốc độ phát triển rất nhanh, trung bình trong vòng hơn 12 năm qua mỗi năm quy mô lao động Việt Nam tại các thị trường này tăng 53,85%. Trong đó, nhanh nhất là vào các năm 1993 (154,8%) và 1994 (221,6%) là những năm đánh dấu bước ngoặt mở rộng thêm thị trường xuất khẩu lao động của nước ta. Có 4 năm tốc độ phát triển âm là năm 1991, 1992, 1998 và 2001 do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng về chính trị (1991,1992) cũng như kinh tế (1998) khác nhau trên thế giới và trong khu vực.
Tính đến nay, tổng số lao động của ta sang làm việc tại các nước Đông và Đông Nam Á đã lên đến con số 193.540 lượt người, chiếm gần 80% lượng lao động xuất khẩu của ta. Số lượng cụ thể qua từng năm như sau :
Bảng 4. Số lao động Việt Nam đi làm việc tại các nước Đông và Đông Nam Á qua các năm (1991 – 6/2003).
Năm
Số lượng (người)
Tốc độ tăng (%)
1991
503
- 66,6
1992
482
- 4,2
1993
1.228
154,8
1994
3.949
221,6
1995
4.380
10,9
1996
7.110
62,3
1997
14.056
97,7
1998
9.094
- 35,3
1999
16.522
81,7
2000
28.203
70,7
2001
26.759
- 5,1
2002
42.189
57,7
6/2003
39.065
-
Tổng số
193.540
(Nguồn : Tổng hợp số liệu báo cáo Cục Quản lý lao động với nước ngoài)
Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :
Khu vực thị trường này tiếp nhận lao động của ta với cơ cấu ngành nghề rất đa dạng : công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, xây dựng, đánh bắt cá, khai thác tài nguyên, chuyên gia y tế, giáo dục, tin học ... Tuy nhiên số lượng lao động trong từng ngành nghề lại rất khác nhau. Số lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất : khoảng gần 80% , dịch vụ (chủ yếu là khán hộ công và giúp việc gia đình tại Đài Loan) khoảng 12%, còn lại là các ngành nghề khác.
Lao động Việt Nam làm việc tại các thị trường này bao gồm cả lao động phổ thông, lao động có nghề và một số ít chuyên gia. Trong đó, lao động phổ thông chiếm tỷ trọng cao, khoảng trên dưới 70%, tập trung ở các nước Đài Loan, Hàn Quốc và Malaysia . Lao động có nghề và chuyên gia chủ yếu làm việc tại Nhật Bản và trong các công trình doanh nghiệp ta nhận thầu ở Lào.
Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :
Thu nhập của lao động tại khu vực này nói chung không đồng đều. Tu nghiệp sinh và lao động ở Nhật Bản, Hàn Quốc có mức lương cao hơn hẳn các thị trường khác, thị trường Đài Loan ở mức trung bình còn Malaysia và Lào thì thấp hơn. Thu nhập cụ thể ở từng thị trường sẽ được nêu cụ thể ở phần sau đây, nhưng nhìn chung là ổn định, không có nhiều biến động. Mức thu nhập trung bình ước tính cho cả khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á là khoảng 400 – 500 USD/người/tháng.
Hàng năm, lao động Việt Nam làm việc tại đây đã chuyển về nước từ 1 – 1,2 tỷ USD.
Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :
Hiện nay ở nước ta có trên 150 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động, thì gần như 100% số này đều có đưa lao động đi làm việc tại các thị trường trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Hoạt động xuất khẩu lao động sang các thị trường này thông qua nhiều hình thức khác nhau (dùng hợp động cung ứng lao động hoặc hợp đồng phái cử và tiếp nhận tu nghiệp sinh), theo nhiều kênh khác nhau (trực tiếp hay qua trung gian) v.v.. tuỳ theo từng đối tượng thị trường nhưng đều thống nhất tiến hành dưới sự chỉ đạo, giám sát sát sao của Nhà nước ta.
Hoạt động xuất khẩu lao động của ta sang khu vực thị trường này chủ yếu vẫn phải thông qua các công ty môi giới. Chính phủ ta và chính phủ nước bạn ký kết các hiệp định, thoả thuận về việc đưa và tiếp nhận lao động ở tầm vĩ mô, còn công việc cụ thể được giao cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam và các công ty môi giới tiến hành. Người lao động trước khi đi đều phải trải qua khoá học về ngoại ngữ, giáo dục định hướng và nghiệp vụ để được cấp chứng chỉ cần thiết. theo yêu cầu của phía tiếp nhận lao động.
Chính phủ ta đã có những văn bản chỉ đạo cụ thể với hoạt động xuất khẩu lao động trên từng thị trường thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á. Bám sát tình hình mỗi thị trường, những văn bản đó đã định hướng kịp thời hoạt động xuất khẩu lao động của ta. Công tác tổ chức xuất khẩu lao động của ta tại khu vực thị trường này sau một thời gian tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình mới, đối tượng mới đã dần đi vào ổn định. Song các cấp ngành hữu quan vẫn cần phải không ngừng quan tâm xem xét những động thái mới của thị trường để có sự thay đổi chính sách phù hợp hơn.
Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :
Nhìn chung chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và tại khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á nói riêng còn chưa đáp ứng được yêu cầu cần thiết. Lao động Việt Nam vốn nổi tiếng về sự thông minh, tính cần cù, chịu khó; những ưu điểm này rất được các nước tiếp nhận lao động của ta đánh giá cao. Song lao động Việt Nam lại hay mắc những nhược điểm không đáng có như trình độ ngoại ngữ không tốt, ý thức kỷ luật kém, tỷ lệ bỏ hợp đồng trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp còn rất cao. Trình độ nghiệp vụ của lao động chúng ta, đặc biệt là những khâu đòi hỏi hiểu biết về khoa học kỹ thuật còn thấp do điều kiện trong nước và khâu đào tạo tiến hành chưa tốt. Tác phong làm việc còn chậm chạp, giải quyết quan hệ chủ thợ còn nhiều lúng túng.
2, Thực trạng xuất khẩu lao động nước ta với từng thị trường trong khu vực các nước Đông và Đông Nam Á.
a, Thị trường Nhật Bản
Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :
Việt Nam bắt đầu đưa lao động đi tu nghiệp ở Nhật Bản từ năm 1992. Từ đó đến nay, số lao động Việt Nam tại Nhật Bản đều đặn tăng qua các năm, trừ thời điểm năm 1998 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ lịch sử con số này có suy giảm đôi chút, tuy nhiên lại nhanh hóng phục hồi và tăng mạnh từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến tháng 6/2003, trải qua hơn 10 năm thực hiện Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản, ta đã đưa được tổng cộng 16.049 tu nghiệp sinh sang Nhật Bản làm việc, những năm gần đây trung bình mỗi năm ta đưa đi khoảng 2.000 người. Thực ra, đây là con số khá khiêm tốn nếu so với số lao động của ta tại thị trường các nước Đông và Đông Nam Á khác cũng như nếu so với con số tu nghiệp sinh của các nước Châu Á khác đang làm việc tại Nhật Bản. Tuy nhiên, nó đã phản ánh sự cố gắng vượt bậc của các doanh nghiệp cũng như bản thân người lao động Việt Nam, bởi thị trường Nhật Bản là một trong những thị trường "khó tính", có yêu cầu vào loại cao nhất thế giới.
Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :
Tu nghiệp sinh Việt Nam làm việc tại Nhật Bản có mặt trong nhiều ngành nghề, đặc biệt chiếm tỷ lệ lớn trong lĩnh vực dệt, may, cơ khí và xây dựng (80%). Trong đó, dệt : 14%, may : 35%, cơ khí : 13% và xây dựng trên 18%. Bên cạnh đó, còn một bộ phận nhỏ lao động của ta làm việc trên các tàu cá, tàu vận tải (khoảng 10%). Ngoài ra, từ năm 1994, thực hiện thoả thuận về chương trình tiếp nhận tu nghiệp sinh y tá, hàng năm Việt Nam đã đưa từ 15 – 20 người sang học tại một số trường y tá Nhật Bản, sau khi tốt nghiệp ra trường, các y tá này được làm việc 4 năm tại các bệnh viện Nhật Bản, được hưởng lương và các chế độ khác như lao động người Nhật.
Do chính sách của thị trường Nhật Bản, 100% lao động Việt Nam sang đây đều là lao động có nghề, phần lớn trong số này là đối tượng đang trực tiếp làm công việc tương đương tại các doanh nghiệp trong nước. Tu nghiệp sinh Việt Nam phân bổ trên hầu khắp nước Nhật Bản, nhưng tập trung chủ yếu ở Tokyo và các thành phố lân cận khu vực Gifu, Fukui, Osaka và Nagoya. Tỷ lệ nữ tu nghiệp sinh của ta tại Nhật Bản cũng tương đối cao, chiếm xấp xỉ 33,1% tổng số tu nghiệp sinh của ta tại thị trường này.
Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :
Tu nghiệp sinh ở Nhật Bản chỉ được hưởng trợ cấp tu nghiệp, nhưng mức trợ cấp này vẫn cao hơn nhiều tiền lương lao động tại các thị trường khác, do đó thu nhập của tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản thuộc loại cao nhất trong số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Trợ cấp tu nghiệp của tu nghiệp sinh ta trong giai đoạn 1 (năm đầu tiên) là từ 670 – 780 USD/tháng. Trong giai đoạn 2 (từ năm thứ 2 -3), thu nhập chính thức của tu nghiệp sinh lên đến trên 1000 USD/tháng, nhiều người còn có thu nhập cao hơn do làm thêm giờ, cá biệt ở một vài nghề thậm chí có thu nhập từ 1500 -1900 USD/tháng.
Với mức thu nhập cao như vậy, hàng năm tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản đã chuyển về nước khoảng 460 triệu USD, góp phần đáng kể vào công cuộc xây dựng đất nước.
Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :
Như trên đã nói, người lao động Việt Nam đến Nhật Bản làm việc với danh nghĩa tu nghiệp sinh theo Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật của Nhật Bản. Đa phần trong số họ là đối tượng đang trực tiếp làm việc tại các doanh nghiệp phái cử trong nước. Hiện Việt Nam có khoảng 40 doanh nghiệp được cấp phép đưa tu nghiệp sinh đi tu nghiệp tại Nhật Bản. Hoạt động của các doanh nghiệp này đều nằm trong khuôn khổ quy định của các văn bản ký kết giữa Chính phủ ta và Tổ chức hợp tác đào tạo quốc tế Nhật Bản (JITCO). Doanh nghiệp phái cử sau khi ký kết Hợp đồng phái cử và tiếp nhận tu nghiệp sinh với các đối tác Nhật Bản, tiến hành tuyển chọn và đào tạo lao động (phải là công nhân đang làm việc trực tiếp tại các xí nghiệp, nhà máy, công trường... trong nước) rồi giao cho phía đối tác tuyển chọn chính thức. Các chủ sử dụng Nhật Bản yêu cầu rất cao về chất lượng tu nghiệp sinh, rất nhiều chủ sử dụng ngay cả khi chỉ nhận số lượng rất ít tu nghiệp sinh cũng bay đến Việt Nam, đích thân phỏng vấn lao động.
Toàn bộ các chi phí cho lao động trước khi đi như chi phí tuyển chọn, học tiếng Nhật, tư vấn, các thủ tục xuất nhập cảnh, vé máy bay đi và về nước.... đều do tổ chức tiếp nhận phía Nhật Bản cung cấp. Theo quy định, doanh nghiệp phái cử chỉ được thu của tu nghiệp sinh một khoản tiền đặt cọc bằng một lượt vé máy bay từ Việt Nam tới Nhật Bản và 01 tháng trợ cấp tu nghiệp (khoảng 1.200 – 1.500 USD), song trên thực tế hiện nay khoản đặt cọc này đã lên đến 8.000 – 10.000 USD nhằm mục đích hạn chế bớt tình trạng tu nghiệp sinh ta bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc sau khi đến Nhật Bản.
Việc quản lý tu nghiệp sinh của ta tại Nhật Bản hầu như giao phó cho danh nghiệp tiếp nhận, chính phủ ta chưa thành lập Bộ phận quản lý tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản, các doanh nghiệp phái cử cũng chưa có cán bộ tại chỗ để quản lý tu nghiệp sinh . Điều này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý tu nghiệp sinh tại Nhật Bản.
Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :
Phần lớn lao động Việt Nam đi tu nghiệp tại Nhật Bản là đối tượng trực tiếp làm việc ở các doanh nghiệp, đã có kinh nghiệm và trình độ tay nghề nhất định nên tiếp thu nhanh kỹ thuật công nghệ tiên tiến và tác phong làm việc công nghiệp từ các đồng nghiệp Nhật Bản. Lao động Việt Nam nhìn chung được phía Nhật Bản đánh giá cao về khả năng tiếp thu nhanh, tính cần cù, chịu khó. Do vậy, lao động của ta thường được chủ sử dụng đối xử rất tốt và có thu nhập cao. Các tu nghiệp sinh sau khi về nước đã phát huy tốt các kinh nghiệm, kiến thức và cả thu nhập có được từ quá trình tu nghiệp, góp phần không nhỏ vào việc cải tiến hiện đại hoá hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực rõ ràng ấy thì vấn đề chất lượng lao động của ta ở Nhật Bản cũng không phải là không có tồn tại phải lưu ý. Trước hết, tồn tại lớn nhất và bức xúc nhất là tình trạng tu nghiệp sinh ta tự ý phá bỏ hợp đồng, ra ngoài sống tự do, làm việc bất hợp pháp ở các doanh nghiệp khác để có mức lương cao hơn. Tỷ lệ tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng rất cao đang là vấn đề đau đầu với các doanh nghiệp Việt Nam. Theo thông báo của Tổ chức hợp tác đào tạo quốc tế Nhật Bản (JITCO), tỷ lệ tự ý bỏ hợp đồng của tu nghiệp sinh Việt Nam những năm gần đây trung bình là trên dưới 20%, gấp hơn nhiều lần tỷ lệ bỏ hợp đồng trung bình của tu nghiệp sinh các nước khác tại Nhật Bản; thời kỳ cao điểm (năm 2001) tỷ lệ này đã lên đến 28,53%. Trong khi đó, theo quy định của Chính phủ Nhật, nếu tỷ lệ tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng lên đến trên 10% thì Nhật Bản sẽ ngừng tiếp nhận tu nghiệp sinh. Chính phủ ta và Tổ chức hợp tác đào tạo quốc tế Nhật Bản đã tổ chức nhiều cuộc họp bàn và thảo luận để tìm ra biện pháp ngăn chặn tình trạng này, song cho đến nay vẫn chưa có biện pháp nào tỏ ra thực sự có hiệu quả. Chính vì điều đó mà các chủ sử dụng Nhật Bản không thể nhận nhiều lao động Việt Nam mặc dù rấ hài lòng về kết quả làm việc của lao động ta. Và hơn thế nữa, nếu các doanh nghiệp của ta không tìm ra giải pháp làm giảm bớt tỷ lệ tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng thì nguy cơ đánh mất thị trường Nhật Bản là diều hoàn toàn có thể xảy ra.
Ngoài ra, Chính phủ đã có văn bản quy định tu nghiệp sinh phải là công nhân đang làm việc trong doanh nghiệp có thâm niên công tác từ 2 năm trở lên. Tuy nhiên thực tế có một số doanh nghiệp chưa thực hiện đúng quy định này mà tiến hành tuyển lao động xã hội đưa vào xí nghiệp huấn luyện gấp rồi giao cho phía Nhật tuyển chọn. Số lao động này không đảm bảo chất lượng, không bắt kịp với tác phong làm việc công nghiệp ở Nhật Bản, cá biệt có hiện tượng cờ bạc, đánh lộn, ăn cắp đồ trong siêu thị... đã gây ấn tượng xấu về người lao động Việt Nam trong mắt chủ sử dụng và giới chức cũng như người dân Nhật Bản. Những vấn đề đó cần phải được chấn chỉnh, khắc phục ngay để góp phần củng cố, nâng cao vị trí của tu nghiệp sinh Việt Nam tại thị trường này.
b, Thị trường Hàn Quốc
Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :
Tu nghiệp sinh Việt Nam có mặt tại thị trường Hàn Quốc ngay từ giai đoạn đầu của Chương trình thực tập sinh công nghiệp (năm 1993). Trải qua 10 năm thực hiện chương trình này, tính đến tháng 12/2002, số lượng tu nghiệp sinh và lao động của ta đã và đang làm việc tại Hàn Quốc tổng cộng lên đến 30.090 lượt người, đứng thứ ba trong 15 quốc gia có tu nghiệp sinh ở Hàn Quốc. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm nay, ta còn đưa thêm được 2.853 tu nghiệp sinh mới sang thị trường này.
Con số tu nghiệp sinh Việt Nam đưa sang Hàn Quốc có biến động nhiều qua các năm, trung bình ở mức xấp xỉ 2.800 người/năm. Những năm từ 1994 – 1997, số lượng tu nghiệp sinh của ta sang Hàn Quốc tương đối ổn định trong khoảng trên 3000 người/năm. Năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, nền kinh tế Hàn Quốc gặp nhiều khó khăn nên trong năm này ta chỉ đưa được 735 tu nghiệp sinh sang tu nghiệp tại đây. Song ngay khi nền kinh tế Hàn Quốc có dấu hiệu phục hồi, số lượng tu nghiệp sinh của ta lập tức lại tăng lên nhanh chóng. Năm 2000 là năm ta đưa được nhiều tu nghiệp sinh đi làm việc tại đây nhất với 6.997 người. Đến năm 2002 vừa qua, con số này giảm giảm xuống mức thấp chưa từng có : 306 người. Hiện tượng này có nguyên nhân từ việc rất nhiều tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp hoặc trốn ở lại Hàn Quốc, không chịu về nước sau khi đã kết thúc hợp đồng. Chỉ tiêu tu nghiệp sinh của Việt Nam được KFSB phân bổ trọn gói là 18.770 người (ngoại trừ 500 tu nghiệp sinh xây dựng phân bổ qua Hiệp hội xây dựng Hàn Quốc) , ta đã sử dụng hết trên 17.000 chỉ tiêu, đến thời điểm ngày 31/12/2002 có tổng cộng 17.457 tu nghiệp sinh ta đang ở Hàn Quốc. Trong khi dó, chính phủ Hàn Quốc quy định, khi tu nghiệp sinh hoàn thành hợp đồng về nước thì các nước mới được đưa tu nghiệp sinh mới nhập cảnh. Với tỷ lệ "thất thoát chỉ tiêu" (do tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng và trốn ở lại Hàn Quốc) lên đến gần 60% như hiện nay thì việc đưa tu nghiệp sinh mới sang Hàn Quốc đối với ta là vô cùng khó khăn.
Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :
Thị trường Hàn Quốc không yêu cầu tu nghiệp sinh phải là lao động có nghề, do vậy gần như toàn bộ tu nghiệp sinh Việt Nam tại Hàn Quốc là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo nghề. Hầu hết số tu nghiệp sinh và lao động của ta ở đây làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc với các công việc 3D trong những ngành nghề : dệt may, cơ khí, lắp ráp điện tử, mộc... Ngoài ra, ta còn có 169 tu nghiệp sinh xây dựng mới đưa sang Hàn Quốc thời gian vừa qua và 1.100 thuyền viên làm việc trên biển.
Tỷ lệ tu nghiệp sinh nữ tại Hàn Quốc không cao, ước tính chỉ khoảng trên dưới 25%.
Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :
Tu nghiệp sinh Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc có mức thu nhập khá cao, tuy trong thời kỳ khủng hoảng tài chính (1997 -1998) có gặp một số khó khăn do tiền lương tối thiểu bị điều chỉnh thấp đi nhiều và một loạt doanh nghiệp không sắp xếp được giờ làm thêm song ngay sau đó đã ổn định trở lại. Trung bình một tu nghiệp sinh hàng tháng có mức thu nhập từ 700 – 1000 USD, cá biệt một số trường hợp có mức thu nhập thấp hơn cũng đạt đến 500 – 600 USD/ người/tháng. Khi chuyển qua chế độ lao động, thu nhập của họ còn cao hơn thế.
Trung bình hàng năm, Việt Nam nhận được khoảng 350 triệu USD do các tu nghiệp sinh đang làm việc tại thị trường này chuyển về.
Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :
Theo lựa chọn của KFSB, hiện nay chỉ có 9 doanh nghiệp được phép cung cấp tu nghiệp sinh cho Hàn Quốc bao gồm : LOD, TRACIMEXCO, TRACODI, VINACONEX, OLECO, IMS, SULECO, SOLAVICO và gần đây nhất là SIMCO ( thuộc Tổng Công ty xây dựng Sông Đà). Các doanh ngiệp này tiến hành tuyển chọn tu nghiệp sinh theo chỉ tiêu cụ thể được KSFB phân bổ, các ứng viên đăng ký phải qua vòng khám sức khoẻ rất gắt gao và vòng thi năng lực tiếng Hàn Quốc để chọn ra 50% người có số điểm cao nhất rồi dùng máy tính bốc thăm chọn ngẫu nhiên 1/5 số đó. Đây là hình thức tuyển chọn mới mà Hàn Quốc thí điểm tại Việt Nam.
Việt Nam được KFSB phân bổ 18.770 chỉ tiêu tu nghiệp sinh, số tu nghiệp sinh ta đưa sang chỉ có thể nằm trong con số này. Khi tu nghiệp sinh cũ hoàn thành hợp đồng, trở về nước thì ta mới được đưa tu nghiệp sinh mới sang thay vào vị trí đó. Thời gian qua, tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp hoặc trốn ở lại Hàn Quốc không chịu về nước sau khi đã hết thời hạn hợp đồng đã khiến các doanh nghiệp phái cử gặp rất nhiều khó khăn trong việc đưa tu nghiệp sinh mới sang thị trường này làm việc. Hàng năm, cứ sáu tháng một lần, KFSB lại tổ chức phân loại, đánh giá xếp hạng hoạt động quản lý tu nghiệp sinh của các doanh nghiệp phái cử một lần với tiêu chí đánh giá chủ yếu là tỷ lệ hoàn thành hợp đồng đúng luật (không bỏ ra ngoài làm việc, không trốn ở lại sau khi hết hạn hợp đồng) để trên cơ sở đó phân bổ lại chỉ tiêu cung cấp tu nghiệp sinh cho các doanh nghiệp này.
Việc đưa tu nghiệp sinh sang Hàn Quốc làm việc chịu sự chỉ đạo trực tiếp của KFSB, nhưng đồng thời phải thông qua các công ty Hàn Quốc được KFSB uỷ quyền quản lý lao động nước ngoài. Các công ty này đã yêu cầu một khoản phí môi giới lớn từ các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của ta để họ đi tìm chủ sử dụng cho lao động. Chính khoản phí môi giới này (trung bình khoảng 5.000 USD/tu nghiệp sinh) đã đẩy chi phí phải nộp trước khi đi của tu nghiệp sinh lên rất cao, cộng với tiền đặt cọc, tổng chi phí có thể lên tới 8.000 USD/người. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho các tu nghiệp sinh khi phải chuẩn bị một khoản tài chính lớn như vậy. Nhà nước ta đã có chính sách cho vay ưu đãi với các tu nghiệp sinh đi tu nghiệp tại Hàn Quốc song số vốn vay chỉ hỗ trợ được phần nào khoản tiền phải nộp chứ vẫn chưa đáp ứng hết được nhu cầu xin vay của các tu nghiệp sinh.
Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :
Thị trường Hàn Quốc không khó tính như thị trường Nhật Bản, tiêu chuẩn đối với lao động đi làm việc tại đây là có sức khỏe tốt và chăm chỉ làm việc. Nhìn chung, hầu hết tu nghiệp sinh Việt Nam đều đáp ứng được yêu cầu này của phía bạn, kể cả về năng lực tiếng Hàn Quốc. Phía Hàn Quốc cũng đánh giá rất cao tố chất và hiệu quả làm việc của các tu nghiệp sinh, lao động Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm nhất để giới chức và các chủ sử dụng Hàn Quốc không hài lòng đối với tu nghiệp sinh của ta cũng như tu nghiệp sinh của hầu hết nước khác tại thị trường này là việc tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng sang làm việc bất hợp pháp ở các doanh nghiệp khác có mức lương cao hơn hoặc trốn ở lại Hàn Quốc, không chịu về nước sau khi hết hạn hợp dồng. Tình trạng này đối với tu nghiệp sinh Việt Nam nói riêng đã lên đến mức báo động. Tính đến tháng 12/2002, với 17.457 tu nghiệp sinh hiện có mặt tại Hàn Quốc thì số người bỏ hợp đồng trốn ra ngoài đã là 11.282 người, chiếm 59,25% - một con số khiến người ta giật mình. Việt Nam dứng thứ 3 trên thị trường Hàn Quốc về số lượng chỉ tiêu được phân bổ và về số lượng tu nghiệp sinh có mặt tại đây, song cũng đứng thứ ba về tỷ lệ phá hợp đồng. Trong khi đó, Trung Quốc và Philippines là những nước có chỉ tiêu phân bổ lớn hơn ta lại có tỷ lệ bỏ hợp đồng thấp hơn. Vấn đề này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng là ý thức tôn trọng hợp đồng và luật pháp nước sở tại chưa được các tu nghiệp sinh Việt Nam quán triệt đầy đủ, lợi ích chung bị vứt bỏ vì chút lợi riêng trước mắt. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến vị trí của tu nghiệp sinh Việt Nam tại thị trường Hàn Quốc. Đặc biệt nếu xét theo góc độ dài hạn, khả năng tác động về phía bạn để mở rộng thêm chỉ tiêu được phân bổ là vô cùng khó khăn.
c, Thị trường Đài Loan
Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :
Việt Nam mới bắt đầu đưa lao động sang làm việc tại Đài Loan từ cuối năm 1999. Ngay từ đầu, chính phủ ta đã coi Đài Loan là một trong những thị trường trọng điểm về xuất khẩu lao động của đất nước. Xuyên suốt những năm qua, chủ trương này luôn được khẳng định và nhất quán, dồng thời nó cũng nhận được sự quan tâm rộng rãi của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế cũng như đông đảo người lao động và dư luận xã hội.
Qua gần 4 năm làm việc với thị trường Đài Loan, tính đến tháng 6/2003, chúng ta đã đưa được tổng cộng 37.607 lượt lao động sang đây làm việc. Con số lao động đưa đi tăng đều đặn qua từng năm và đặc biệt tăng mạnh nhất từ tháng 8/2002 trở lại đây, khi Uỷ ban lao động Đài Loan (CLA) thực hiện lệnh tạm thời "đông kết" đối với lao động Indonesia do các rắc rối về chính trị và có tỷ lệ bỏ trốn quá cao, các chủ sử dụng Đài Loan đã tăng cường tuyển mộ lao động Việt Nam. Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2003, chúng ta đã đưa được 11.158 lao động sang Đài Loan làm việc, nhiều hơn 442 người so với con số 10.716 lao động của cả năm 2002. Tức là từ đầu năm đến nay, trung bình mỗi tháng chúng ta xuất được gần 2.000 lao động sang thị trường này. Số lượng lao động Việt Nam liên tục tăng trong bối cảnh lao động của các nước khác ở Đài Loan như Indonesia và ngay cả Thái Lan có dấu hiệu giảm mạnh do nền kinh tế Đài Loan thời gian gần đây gặp nhiều khó khăn đã khẳng định vị thế của lao động nước ta tại thị trường này.
Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :
Lao động Việt Nam tại Đài Loan chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực giúp việc gia đình và khán hộ công, công nhân công xưởng (điện tử, dệt may, cơ khí v.v..), thuyền viên và một bộ phận nhỏ làm việc trong ngành xây dựng. Theo thống kê, tính đến hết tháng 5/2003, trong số 39.675 lao động Việt Nam làm việc tại Đài Loan có 23.939 lao động (chiếm 60,3%) là giúp việc gia đình và khán hộ công, 13.561 người (chiếm 34,2%) là công nhân công xưởng làm việc trong các ngành sản xuất chế tạo, 1.833 thuyền viên (chiếm 4,6%) và 342 công nhân xây dựng (chiếm 0,9%).
Nhìn vào cơ cấu lao động trên có thể thấy, bộ phận lớn lao động Việt Nam tại Đài Loan là giúp việc gia đình và khán hộ công. Giúp việc gia đình và khán hộ công là lĩnh vực mà thị trường Đài Loan có nhu cầu rất lớn và nhu cầu này còn có thể mở rộng nhiều trong thời gian tới. Đây là công việc lao động giản đơn, không yêu cầu cao về trình độ học vấn nhưng yêu cầu cao về độ chịu khó và chăm chỉ của người lao động, rất phù hợp với lao động nữ, đặc biệt là lao động nữ nông thôn Việt Nam. Có đến 99% khán hộ công và giúp việc gia đình là nữ giới, công việc này đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động nữ ở nông thôn, đồng thời giúp chị em có được nguồn thu nhập đáng kể về cho gia đình sau 2, 3 năm làm việc tại Đài Loan. Không chỉ tính riêng trong lĩnh vực giúp việc gia đình và khán hộ công mà xét chung trong tổng số lao động Việt Nam hiện đang làm việc tại Đài Loan, lao động nữ cũng chiếm số đông và tỷ trọng này ngày càng tăng lên. Theo báo cáo của Văn phòng Kinh tế - Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc, trong tổng số 19.310 bộ hồ sơ được thẩm định trong 6 tháng đầu năm nay, tương ứng với 25.005 lượt lao động thì đã có 20.641 lao động nữ. Ngoài giúp việc gia đình và khán hộ công, lao động nữ còn chiếm tỷ lệ cao trong số công nhân công xưởng thuộc các lĩnh vực điện tử, dệt may. Đây thực sự là tín hiệu đáng mừng cho ngành xuất khẩu lao động Việt Nam.
Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :
Việc làm và thu nhập của người lao động tại Đài Loan tương đối ổn định. Lương cơ bản của người lao động là 15.840 Đài tệ/tháng ( khoảng 450 USD), sau khi trừ đi các khoản chi phí mức lương bình quân được từ 250 – 300 USD/tháng, không ít lao động Việt Nam có mức thu nhập 400 – 600 USD/tháng, thậm chí cá biệt có lao động thu nhập gần 1000 USD/ tháng. Hiện chưa có một con số chính thức về lượng kiều hối được chuyển về Việt Nam từ các lao động của ta từ Đài Loan nhưng con số ước tính với bình quân trên 37.000 lao động, hàng năm chúng ta có thể nhận được gần 200 triệu USD từ thị trường này.
Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :
Hiện nay, nước ta có 152 doanh nghiệp được cấp phép đưa lao động sang Đài Loan làm việc và trong đó có 125 doanh nghiệp đã ký được hợp đồng cung ứng lao động với phía Đài Loan. Trong đó nổi bật là các doanh nghiệp như VINACONEX, VIETRACIMEX, TRAENCO ..., mỗi doanh nghiệp này hàng năm đưa được hàng nghìn lao động thuộc các ngành nghề khác nhau sang Đài Loan làm việc. Các doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động dưới hình thức ký hợp đồng cung ứng lao động với các công ty môi giới Đài Loan, xuất khẩu lao động qua các công ty này. Việc ký hợp đồng trực tiếp với chủ sử dụng lao động để giảm bớt phí môi giới cho người lao động mặc dù được cả Chính phủ hai bên khuyến khích nhưng hầu như không thể thực hiện được vì nhiều lý do khách quan cũng như chủ quan. Về phía các doanh nghiệp Việt Nam, chúng ta chưa đủ khả năng về nhân lực, tài lực để tiến hành đàm phán trực tiếp toàn bộ với các chủ sử dụng cũng như tự quản lý lao động của ta tại Đài Loan. Vả lại, trên thực tế việc này dù có thể tiến hành cũng không đem lại hiệu quả cao do tính chất rải rác, số lượng nhỏ khi các chủ sử dụng thuê lao động Việt Nam. Về phía chủ sử dụng Đài Loan mà chủ yếu là cá nhân và những công ty có quy mô vừa và nhỏ thì việc họ tự đứng ra ký hợp đồng nhận lao động với các doanh nghiệp Việt Nam và tự quản lý lao động là điều quá tốn kém và không hiệu quả. Bởi thế, các công ty môi giới Đài Loan vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc đưa lao động đi và quản lý lao động Việt Nam tại thị trường Đài Loan. Gần đây còn xuất hiện mô hình hợp tác đào tạo lao động giữa các công ty môi giới Đài Loan và các doanh nghiệp Việt Nam. Mô hình này tỏ ra khá hiệu quả do các công ty môi giới Đài Loan là người thông hiểu hơn hết yêu cầu của các chủ sử dụng cũng như điều kiện làm việc tại Đài Loan. Những hiểu biết này khi đóng góp vào quá trình đào tạo giúp cho nội dung đào tạo sát hợp hơn với thực tế, giúp nâng cao chất lượng lao động của ta tại thị trường Đài Loan. Tuy nhiên, nó cũng dẫn đến một số tiêu cực như phí môi giới bị đẩy lên rất cao, thoả thuận ngầm để ăn chia phần trăm phí môi giới và phí quản lý gây thiệt hại cho người lao động. Một số công ty Việt Nam thậm chí còn "cho mượn" giấy phép, chỉ treo biển công ty lên, còn toàn bộ quá trình đào tạo, làm thủ tục đưa lao động đi, quản lý lao động hoàn toàn phó thác cho các công ty môi giới Đài Loan. Điều này làm cho việc quản lý bị buông lỏng, quyền lợi người lao động không được đảm bảo, và cá biệt đã có trường hợp người lao động bị lừa đi Đài Loan bằng visa du lịch, phí dịch vụ (8,3% lương cơ bản/ tháng) của doanh nghiệp Việt Nam bị thất thoát, không thu được. Những tồn tại đó nếu được khắc phục, tháo gỡ kịp thời sẽ giúp hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường này đạt hiệu quả cao hơn nữa trong tương lai.
Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :
Trong thời gian hơn 3 năm kể từ khi những lao động Việt Nam đầu tiên được đưa sang Đài Loan làm việc, lao động Việt Nam đã từng bước hội nhập thị trường Đài Loan cùng với lao động Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaisia. Số lượng lao động Việt Nam ngày càng tăng và thậm chí tăng rất nhanh chứng tỏ hiệu quả lao động của người Việt Nam đã được khẳng định rõ nét tại thị trường này. Phản ứng từ phía giới chủ cũng như dư luận xã hội Đài Loan về lao động Việt Nam nhìn chung là rất tích cực. Cùng nền văn hoá phương Đông và phong tục tập quán giữa Việt Nam và Đài Loan có nhiều nét tương đồng là những yếu tố cộng hưởng khiến cho các chủ sử dụng Đài Loan dễ có cảm tình và chấp nhận lao động Việt Nam. Hơn nữa, lao động Việt Nam được đánh giá là có tinh thần làm việc, cần cù, chịu khó và dễ hoà nhập vào những môi trường có nhịp sống mang tính công nghiệp cao của Đài Loan. Đặc biệt, ở các lĩnh vực khán hộ công và giúp việc gia đình, chế tạo, điện tử, may mặc, dệt - lao động ta (nữ chiếm tỷ lệ cao) đang dần chiếm ưu thế, đã tiến lên gần như ngang hàng với lao động Thái Lan va Indonesia là những nước đã vững chân tại thị trường này trong một thời gian dài hơn chục năm. Tính đến tháng 5/2003, đã có 36.670 lao động Việt Nam có mặt tại Đài Loan, tương đương với 13,15% số lao động nước ngoài làm việc ở đây. Đó thực sự là một thành công đáng tự hào, là kết quả xứng đáng từ các nỗ lực của Nhà nước, của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và trước hết là của bản thân hàng vạn lao động nước ta đang làm việc tại Đài Loan.
Tuy nhiên, cũng như lao động của các nước khác sang làm việc tại Đài Loan, chúng ta không tránh khỏi tình trạng một số lao động phải về nước trước thời hạn. Trong số trên 4.000 lao động bị đưa về nước trước thời hạn (bằng 12% số lao động đã đưa sang, tỷ lệ này thấp hơn so với số lao động các nước khác phải đưa về) thì chiếm số đông là do trình độ tiếng Hoa kém, tay nghề yếu , không đáp ứng được yêu cầu công việc (85%), tiếp đến là lý do sức khoẻ, một bộ phận nhỏ là vì lý do cá nhân tự nguyện xin vể.
Tình trạng trên chủ yếu có nguyên nhân từ việc lao động của ta trước khi sang Đài Loan chỉ được tập trung đào tạo quá ngắn, nhất là lao động khán hộ công và giúp việc gia đình. Họ chưa được trang bị đầy đủ về ngoại ngữ, chưa được huần luyện và hướng dẫn chu đáo về phong cách giao tiếp, ứng xử, cách sử dụng các dụng cụ gia đình ở Đài Loan. Việc kiểm tra ngoại ngữ, tay nghề để cấp chứng chỉ cho người lao động thực hiện chưa nghiêm túc, còn mang tính chất "mua bằng" đối phó. Vì thế, lao động khi đến Đài Loan rất bỡ ngỡ, thiếu tự tin, không thể đáp ứng được yêu cầu giao tiếp và không hiểu được nội dung công việc hàng ngày phảỉ làm.
Thêm vào đó, tình trạng lao động nước ta tự ý phá hợp đồng, trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp còn khá phổ biến. Đặc biệt, số lao động sang làm thuyền viên và số đã hoàn thành hợp đồng về nước, nay sang trở lại bỏ trốn ra ngoài chiếm tỷ lệ lớn, thậm chí nhiều người trong số này vừa đến sân bay Đài Loan đã bỏ trốn.Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động với nước ngoài, tỷ lệ bỏ trốn chung là 4,8%, trong đó lao động thuyền viên có tỷ lệ bỏ trốn là 9%, giúp việc gia đình và khán hộ công là 7,8%. Tuy nhiên, con số thực tế có thể lớn hơn thế nhiều, do một số doanh nghiệp có lao động bỏ trốn không báo cáo đầy đủ lên Cục. Văn phòng Kinh tế - Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc cho biết, nếu chúng ta không hạ thấp được tỷ lệ lao động bỏ trốn, không loại trừ khả năng lao động Việt Nam sẽ bị "đông kết" ở thị trường này.
d, Thị trường Malaysia
Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :
Sau một thời gian dài Việt Nam thực hiện nhiều biện pháp tiếp cận thị trường lao động Malaysia, ngày 6/2/2002 chính phủ Malaysia đã quyết định mở cửa cho lao động nước ta vào làm việc và những lao động Việt Nam đầu tiên đã đặt chân lên đất Malaysia từ tháng 5/2002. Chúng ta thâm nhập vào thị trường này với những bước đi tương đối dè dặt nhưng kết quả đạt được thì thật sự gây bất ngờ lớn. Giai đoạn đầu, tính đến cuối tháng 12/2002, sau 7 tháng triển khai thí điểm đưa lao động của ta sang Malaysia làm việc, số lao động Việt Nam có mặt tại Malaysia đã là 23.455 lao động, vượt xa so với dự đoán ban đầu gần 1 vạn, gấp 4 lần so với chỉ tiêu dự kiến. Con số này đã nói lên quy mô, tốc độ xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường Malaysia cũng như tiềm năng rộng lớn của thị trường này.
Trong 6 tháng đầu năm nay, số lượng lao động của ta được đưa sang Malaysia tiếp tục tăng, đạt gần 26.000 người. Và hiện nay, theo thông báo mới nhất của Cục Quản lý lao động với nước ngoài, tính đến 30/11/2003 vừa qua, tổng cộng có khoảng 63.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại 12 trong số 13 bang của Malaysia. Đây là thị trường "sinh sau đẻ muộn" nhất trong số các thị trường thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á của ta, nhưng lại có quy mô và tốc độ phát triển lớn nhất. Bình quân mỗi tháng, chúng ta đưa được khoảng 4.000 lao động sang thị trường này, một tốc độ kỷ lục trong lịch sử xuất khẩu lao động của Việt Nam và chắc chắn con số này sẽ còn tăng lên rất nhiều trong thời gian tới.
Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :
Khi mở cửa thị trường lao động với Việt Nam, Malaysia cho phép lao động của ta làm việc trong 4 lĩnh vực : công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ, trừ dịch vụ gia đình. Tuy nhiên, hiện nay ta mới đưa lao động đi làm việc ở 2 lĩnh vực là công nghiệp và xây dựng. Trong đó số công nhân xây dựng chiếm 20,89%, công nhân dệt chiếm 7,68%, công nhân may chiếm 4,91%, công nhân điện tử chiếm 9,35% và lao động trong các ngành nghề khác chiếm 12,89%.
Về cơ cấu nam - nữ, thị trường Malaysia với đặc trưng công việc thiên về các lĩnh vực đòi hỏi thể lực và sức chịu đựng cao tỏ ra không mấy mặn mà với các lao động nữ Việt Nam. Đến hết tháng 12/2002, số lượng lao động nữ mới chỉ đạt 1.645 người trong tổng số 23.455 lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia ở thời điểm đó (chiếm 7,01%). Theo tính toán, con số này hiện nay còn thấp hơn thế, ước khoảng 6% - 6,3%.
Thứ ba, thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :
Đúng như lời cục trưởng Cục Quản lý lao động với nước ngoài - tiến sĩ Trần Văn Hằng đã nhận xét : "Malaysia là một thị trường để xoá đói giảm nghèo chứ không phải đi để làm giàu như một số thị trường khác...", thu nhập của lao động nước ta tại thị trường này không cao so với các thị trường xuất khẩu lao động khác của ta. Lương theo hợp đồng của lao động là 18 Ringit/ngày (3,8 Ringit = 1USD), tức là gần 400 Ringit/tháng (trên dưới 105 USD/tháng). Tuy nhiên qua tìm hiểu, với thời gian làm việc từ 10 – 12 giờ/ngày và chế độ thưởng hiệu suất của giới chủ Malaysia, thu nhập thực tế của phần lớn lao động ta ở Malaysia cao hơn rất nhiều so với hợp đồng, thông thường là gấp đôi mức lương đã ký trong hợp đồng. Trên 70% lao động cho biết, họ có thu nhập khoảng 800 Ringit/tháng (tương đương với 210 USD); 23,6% đạt mức xấp xỉ 1000 Ringit/tháng (tương đương 263USD). Cá biệt, không ít lao động có thu nhập 300 - 350 USD/tháng, số này chủ yếu tập trung ở anh em làm nghề xây dựng. Chỉ có rất ít lao động phải chịu mức lương thấp như hợp đồng do một số nhà máy không có nhiều việc làm, không bố trí được giờ làm thêm cho công nhân.
Theo báo cáo của Cục quản lý lao động với nước ngoài, từ tháng 5/2002 đến nay, lao động của ta làm việc tại Malaysia, đã chuyển về nước tổng cộng gần 100 triệu USD.
Thứ tư, về mô hình và côn