Tài liệu Khóa luận Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam: Khoá Luận tốt nghiệp Cao Thị Hương-Lớp Nhật 1-K38F
- 1 -
Khoỏ Luận tốt nghiệp
Thực trạng, định hướng và giải
phỏp phỏt triển ngành dệt may
xuất khẩu Việt Nam
Cao Thị Hương-Lớp Nhật 1-K38F
Khoá Luận tốt nghiệp Cao Thị Hương-Lớp Nhật 1-K38F
- 2 -
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................... 3
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT
NAM.................................................................................................................. 6
I. VÀI NẫT VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM..................... 6
II. KHÁI QUÁT VỀ TèNH HèNH NHẬP KHẨU, TIấU THỤ HÀNG DỆT MAY
TRấN THẾ GIỚI ............................................................................................. 13
CHƯƠNG II HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH
DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM .......................................................... 23
I. THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM .....
95 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1068 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 1 -
Khoá Luận tốt nghiệp
Thực trạng, định hướng và giải
pháp phát triển ngành dệt may
xuất khẩu Việt Nam
Cao Thị Hương-Lớp Nhật 1-K38F
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 2 -
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................... 3
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT
NAM.................................................................................................................. 6
I. VÀI NÉT VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM..................... 6
II. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU, TIÊU THỤ HÀNG DỆT MAY
TRÊN THẾ GIỚI ............................................................................................. 13
CHƯƠNG II HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH
DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM .......................................................... 23
I. THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM ........ 23
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
......................................................................................................................... 59
CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM ..................... 68
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT
NAM................................................................................................................ 68
II. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM ................................................ 80
KẾT LUẬN..................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 94
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 3 -
LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỉ 21 xu thế quốc tế hoá ngày càng mạnh mẽ, phân công
lao động ngày càng sâu sắc, hầu hết các quốc gia đều mở cửa nền kinh tế để tận
dụng triệt để hiệu quả lợi thế so sánh của nước mình.
Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước thì ngành dệt may là một ngành đóng vai trò quan trọng
không thể thiếu trong công cuôc xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên
cạnh vai trò cung cấp hàng hoá cho thị trường trong nước, ngành dệt may hiện nay
đã vươn ra các thị trường nước ngoài, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam. Sản phẩm của ngành hiện nay ngày càng đa dạng phong phú,
khả năng cạnh tranh cao trên thị trường, thu được một nguồn ngoại tệ lớn cho đất
nước. Với tốc độ tăng trưởng và khả năng mở rộng xuất khẩu của ngành, Đảng và
Nhà nước ta đã nhận thấy cần thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu dệt may và các mặt
hàng khác vì đó là giải pháp tốt nhất cho nền kinh tế của nước ta. Nhà nước đã kịp
thời có những quy định nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất hàng xuất khẩu, cụ thể là
chiến lược phát triển kinh tế theo hướng thị trường mở, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
và đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Chính nhờ những chính sách
và những quy định mới đó đã đưa lại cho ngành dệt may những động lực và định
hướng phát triển mới.
Trong thời gian qua, ngành dệt may Việt Nam tuy chưa hẳn là phát triển
mạnh mẽ nhưng cũng đủ để chứng tỏ là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Từ năm 1995 tới nay, sản lượng xuất khẩu cũng như sản lượng sản xuất của ngành
không ngừng tăng, đặc biệt đến năm 2003 này ngành dệt may đã đạt thành tựu khá
đáng kể, kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm đứng đầu trong các mặt
hàng xuất khẩu vượt qua cả dầu khí.
Với xu hướng phát triển không ngừng của ngành dệt may Việt Nam
trong môi trường kinh tế thế giới nhiều biến động thì đây chính là một sự kiện
đáng mừng của ngành trong thời gian qua. Trước những thành quả to lớn đáng tự
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 4 -
hào đó, tác giả đã chọn đề tài: "Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển
ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam" với mục đích phân tích thực trạng của
ngành dệt may Việt Nam, xu hướng của thị trường dệt may thế giới đánh giá
những thuận lơị khó khăn của ngành dệt may trong tình hình hiện nay từ đó đưa ra
các biện pháp thích hợp để nâng cao tính cạnh tranh của mặt hàng này.
Khoá luận tốt nghiệp tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực sản xuất
và xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua, tình hình tiêu thụ
hàng dệt may trên thị trường thế giới. Đồng thời phân tích những tác động của các
chính sách quốc gia và môi trường quốc tế, đặt ngành dệt may của Việt Nam trong
xu thế toàn cầu hoá kết hợp với đánh giá năng lực sản xuất và xuất khẩu của một
số sản phẩm dệt may phổ biến của Việt Nam như hàng dệt kim, dệt thoi, hàng may
sẵn, bông…Những sản phẩm khác của ngành dệt may như hàng dệt kỹ thuật...sẽ
không là đối tượng nghiên cứu của luận văn này.
Với phương pháp duy vật biện chứng, so sánh, tổng hợp phân tích, kết
hợp những kết quả thống kê với sự vận dụng lý luận làm sáng tỏ những vẫn đề
nghiên cứu. Hơn nữa, khoá luận tốt nghiệp còn vận dụng các quan điểm, đường
lối phát triển chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát, hệ thống và
khẳng định các kết quả nghiên cứu.
Khoá luận tốt nghiệp gồm ba chương
Chương I - "Khái quát về ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam và
thị trường tiêu thụ hàng dệt may thế giới" khái quát chung về ngành dệt may
xuất khẩu Việt Nam, quá trình phát triển của ngành, những lợi thế mà ngành có
được, vai trò vị trí đối với nền kinh tế quốc dân. Phân tích tình hình nhập khẩu
hàng dệt may của một số thị trường nhập khẩu chính như Nhật, Mỹ, EU.
Chương III - "Hoạt động sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may
xuất khẩu Việt nam" sẽ phân tích cụ thể về thực trạng cơ sở sản xuất, máy móc
thiết bị, công nghệ, sản lượng, mặt hàng, hình thức tổ chức sản xuất hàng dệt may
xuất khẩu. Phân tích thực trạng xuất khẩu của ngành thông qua phân tích đánh giá
kim ngạch xuất khẩu, chủng loại mặt hàng, và thị trường xuất khẩu của ngành dệt
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 5 -
may Việt Nam. Từ đó đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành, thấy được điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội mà ngành có được và những thách thức mà ngành đang và
sẽ phải đương đầu trong hiện tại và trong thời gian tới.
Chương III - "Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam" qua việc đánh giá sơ bộ về xu hướng
chuyển dịch việc sản xuất hàng dệt may trong khu vực và trên thế giới, nhu cầu
hội nhập của ngành dệt may Việt Nam, những định hướng, mục tiêu phát triển của
ngành trong tương lai sẽ đưa ra những giải pháp cần thiết cho ngành dệt may Việt
Nam để tháo gỡ những khó khăn trước mắt, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất
và xuất khẩu hàng dệt may, khuyến khích và mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng
cao năng lực cạnh tranh cho ngành dệt may để ngành trở thành một ngành công
nghiệp mũi nhọn trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường đại học
Ngoại Thương, những người đã truyền đạt rất nhiều kiến thức bổ ích và tạo điều
kiện thuận lợi cho em suốt quá trình học tập tại Trường. Đặc biệt xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo Nguyễn Quang Hiệp, người đã nhiệt tình hướng dẫn,
động viên em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 6 -
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU
VIỆT NAM
I. VÀI NÉT VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành
Hiện nay ngành dệt may trên thế giới đã đạt được những thành tựu vượt
bậc đó chính là thành quả đáng tự hào của quá trình hình thành và phát triển từ
thời xa xưa của ngành này trên thế giới. Mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển mạnh
mẽ của ngành dệt may là vào thế kỉ 18 khi máy dệt ra đời ở nước Anh và từ đó sức
lao động đã được thay bằng máy móc nên năng suất dệt vải tăng chưa từng thấy
trong lịch sử loài người. Và bắt đầu từ khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra thì
các thành tựu khoa học kĩ thuật được chuyển giao và có mặt ở nhiều nước trên thế
giới. Kinh tế đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu ăn mặc không chỉ
dừng lại ở chỗ chỉ để phục vụ cho việc bảo vệ cơ thể, sức khoẻ con người mà còn
để làm đẹp thêm cho cuộc sống.
Ở Việt Nam, mặc dù là một nước lạc hậu, kém phát triển nhưng so với
ngành dệt may trên thế giới thì cũng có rất nhiều điểm nổi bật. Trước đây, vào thời
phong kiến khi máy móc, khoa học kĩ thuật chưa phát triển ở nước ta thì ngành dệt
may Việt Nam đã hình thành từ ươm tơ, dệt vải với hình thức đơn giản thô sơ
nhưng mang đầy kĩ thuật tinh sảo và có giá trị rất cao. Sau đó ươm tơ dệt vải đã trở
thành một nghề truyền thống của Việt Nam được truyền từ đời này qua đời khác
nhờ vào những đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Việt Nam. Dù những công
việc đó rất giản đơn nhưng chính những nghề truyền thống này đã tạo ra một
phong cách rất riêng cho ngành dệt may Việt Nam ta mà không một nước nào có
được.
Ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu phát triển từ những năm
1958 ở miền Bắc và đến năm 1970 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 khi đất
nước thống nhất, ngành dệt may mới được ổn định. Nhà máy được hình thành ở 3
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 7 -
miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Các nhà máy này đã thu hút và giải
quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Khi đất nước vừa thoát khỏi ách
thống trị, đang còn trong tình trạng kinh tế trì trệ kém phát triển thì các nhà máy
của ngành đóng một vai trò rất to lớn đối với đất nước.
Lúc đầu, các nhà máy chỉ sản xuất hàng hoá để phục vụ nhu cầu trong
nước. Sản lượng sản xuất ra không nhiều vì lúc đó máy móc, thiết bị còn lạc hậu,
toàn là những máy cũ nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa, hơn nữa trình độ quản lý
cũng còn rất hạn chế. Ngay cả hàng sản xuất để phục vụ cho nhu cầu trong nước
cũng không đáp ứng đủ yêu cầu về chất lượng, mẫu mã còn nghèo nàn ít ỏi.
Thời kì từ năm 1975 đến năm 1985 nền kinh tế nước ta hoạt động theo
cơ chế tập trung bao cấp, đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung ứng theo chỉ
tiêu của Nhà nước, việc sản xuất và quản lý theo ngành khép kín và hướng vào
nhu cầu tiêu dùng nội địa là chính còn xuất khẩu trong giai đoạn này chỉ thực hiện
trong khuôn khổ Hiệp định và Nghị định thư của nước ta kí kết với khu vực Đông
Âu - Liên Xô trước đây. Do đó ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu đi nước ngoài
chủ yếu là sang thị trường Liên Xô và thị trường Đông Âu. Tuy nhiên, hàng xuất
khẩu chủ yếu là gia công hàng bảo hộ lao động cho hai thị trường này với nguyên
liệu, thiết bị do họ cung cấp. Sản lượng dệt may cho tới năm 1980 đạt 50 triệu sản
phẩm các loại, 80% xuất sang Liên Xô còn lại là Đông Âu và khu vực II.
Đến cuối năm 1990, khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa bị tan rã,
nước ta rơi vào thế hoàn toàn cô lập so với nhiều nước lớn mạnh khác, thị trường
xuất khẩu bị ảnh hưởng mạnh mẽ. Nền kinh tế nước ta trở nên đình trệ, thất nghiệp
tăng, nhiều xí nghiệp bị đóng cửa, ngành dệt may cũng không thoát khỏi tình trạng
này.
Cùng thời gian đó Đảng và Nhà nước ta bắt đầu chính sách đổi mới nền
kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế bao cấp sang cơ chế quản lý tự hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa. Thời kì này, ngành dệt may gặp nhiều khó khăn phải đối mặt với
việc: thiếu vốn, thiếu công nghệ, đặc biệt thiếu đối tác đầu mối tiêu thụ hàng hoá.
Trong nhiều năm qua ngành đã phải đưa ra nhiều chiến lược, biện pháp để duy trì
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 8 -
sản xuất, đảm bảo cung cấp sản phẩm cho thị trường nội địa đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng đồng thời tự lo vốn đổi mới thiết bị, tăng cường thiết bị chuyên dùng, áp
dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến, hoàn thiện dần hệ thống quản lí tổ chức…
Giai đoạn 1990 - 1995 nhờ có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may
Việt Nam. Mặc dù phát triển chậm hơn so với các nước láng giềng Châu Á, nhưng
ngành đã tự đứng dậy vươn lên, phát triển một cách đầy ấn tượng. Bước đầu năm
1993 kim ngạch xuất khẩu đạt 350 triệu USD và đến cuối năm 1997 xuất khẩu đạt
1,35 tỷ USD. Không dừng lại ở con số này, hàng dệt may xuất khẩu đã trở thành
một trong 10 mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam nằm trong chiến lược
phát triển CNH, HĐH của đất nước trong thời gian tới.
Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,75 tỷ USD, trong 8 tháng đầu
năm 2003 này kim ngạch xuất khẩu đạt được xấp xỉ 2,597 tỷ USD và dự kiến đến
cuối năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ đạt được 3,5 tỷ USD. Với
tốc độ tăng mạnh của công nghiệp dệt may nước ta hiện nay, các chuyên gia có thể
khẳng định ngành dệt may có thể đạt mục tiêu 4,5 - 5 tỷ USD xuất khẩu vào năm
2005 và đến năm 2010 là 8 tỷ USD. (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 143 -
ngày 2 tháng 8 năm 2003).
Các mặt hàng dệt may xuất khẩu cũng tương đối phong phú, đa dạng,
mẫu mã dần dần được cải tiến đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Bước đầu, ngành dệt may Việt Nam đã có tên tuổi trên một số thị
trường lớn trên thế giới: EU, Mĩ, Nhật…tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất
nước.
Đặc biệt ngày 23 tháng 4 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt
chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010 theo QĐ số 55/2001/QĐ-TTg.
Với chiến lược này ngành dệt may có nhiều cơ hội mới để phát triển đó là: Chính
phủ có nhiều chính sách đầu tư hỗ trợ, khuyến khích phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh như được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư, được Ngân hàng đầu tư và
phát triển, các Ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 9 -
xuất khẩu, cho vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, được
hưởng thuế thu nhập ưu đãi 25%. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
đang từng bước đổi mới để hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá của cả thế giới.
2. Lợi thế phát triển của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
Thực tế cho thấy trong vài năm gần đây quần áo, sản phẩm của ngành
dệt may do các cơ sở trong nước sản xuất, chất lượng ngày càng được nâng cao,
mẫu mã phong phú đa dạng, tiêu thụ với khối lượng lớn trên thị trường. Nhiều
người tiêu dùng đã nhận xét: trong khi chất lượng hàng hoá không kém hàng
ngoại thì kiểu dáng và mẫu mã lại phù hợp hơn, giá cả rẻ hơn. Những thành tựu
mà ngành dệt may xuất khẩu đã đạt được trong thời gian gần đây chủ yếu là nhờ
vào nhiều yếu tố thuận lợi sẵn có của Việt Nam.
Với số dân trên 80 triệu người, tỷ lệ nữ giới lại rất lớn, đó là đội ngũ lao
động rất phù hợp cho ngành dệt may, một ngành đòi hỏi sự tỉ mỉ khéo léo, cần mẫn.
Người dân Việt Nam đặc biệt là phụ nữ Việt Nam nổi tiếng là những người siêng
năng chuyên cần, thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, là điều kiện thuận lợi cho
ngành dệt may Việt Nam. Ở Việt Nam giá nhân công thấp ở mức dưới 2,5
USD/giờ (thuộc loại thấp nhất trong khu vực). Chi phí đầu tư thấp nhờ có sẵn nhà
xưởng cho thuê với giá rẻ của các tổ chức Nhà nước và tiếp cận được nhiều chủng
loại thiết bị cơ bản không đắt tiền mới cũng như đã qua sử dụng của một số nước
thì chi phí sản xuất dệt may của Việt Nam là thấp 0,08 USD (CFSX/phút) (CFSX:
chi phí sản xuất) thấp hơn mức bình quân là 0,13 USD bằng chi phí sản xuất ở
Banglades, thấp hơn so với Trung Quốc (0,09 USD ).
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 10 -
Bảng giá thành sản xuất tính theo các nước
Nước Chi phí sản xuất (USD) (không gồm chi phí vận chuyển) Xu hướng
Trung Quốc 0,09 ổn định
Hồng Kông 0,19 ổn định
Thái Lan 0,16 Tăng
Đài Loan 0,2 Tăng mạnh
Indonesi 0,10 ổn định
Việt Nam 0,08 ổn định
Trung Bình 0,13
Nguồn: Phân tích chi phí sản xuất SECO, 2001
Ngành dệt may là ngành không đòi hỏi phải có nhiều vốn đầu tư lớn. Để
có thể xây dựng chỗ làm việc cho ngành dệt may thì vốn bỏ ra không nhiều và thu
hồi vốn cũng khá nhanh. Đối với Việt Nam một quốc gia còn nhiều khó khăn về
vốn đầu tư thì đây là một ngành rất thích hợp để phát triển kinh tế. Cũng chính vì
thế mà các cơ sở sản xuất dệt may xuất khẩu ngày càng tăng và phát triển mạnh.
Ngoài ra, các công ty trong khu vực đóng một vai trò quan trọng trong
việc cung cấp các mối liên kết marketing thiết yếu với thị trường tiêu thụ và cung
cấp gần như toàn bộ nguyên liệu cần thiết. Các đối tác thương mại khu vực Châu
Á và liên minh Châu Âu (EU) đã đem đến cho Việt Nam những cơ hội rất lớn
trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài, điều này ý nghĩa rất quan trọng đối với
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, nói vậy không phải ngành dệt may của Việt Nam hoàn toàn
chỉ có thuận lợi trên con đường phát triển. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế
các nước đang bị giảm sút, thị trường bị co hẹp lại, ngành dệt may bị chịu nhiều
ảnh hưởng lớn của nền kinh tế thế giới. Hơn nữa, ngành dệt may xuất khẩu của
Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều yếu kém như vấn đề về năng lực sản xuất của
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 11 -
doanh nghiệp còn nhỏ bé cả về quy mô lẫn công suất, chất lượng sản phẩm sản
xuất ra chưa thật sự đem lại uy tín cho doanh nghiệp, trình độ công nghệ của
ngành còn lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 10 đến 20 năm, nguyên phụ
liệu cho sản xuất cung cấp không ổn định, có rất nhiều nguyên phụ liệu mà trong
nước không sản xuất được nên chủ yếu dựa vào nhập khẩu, vì vậy giá thành so với
các nước trong khu vực còn cao hơn rất nhiều.
Với những yếu kém của ngành dệt may Việt Nam hiện nay đã làm giảm
sức cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường trong khu vực và trên thị trường
quốc tế do đó ngành đang nỗ lực đầu tư, đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường
sức cạnh tranh và khẳng định uy tín mặt hàng dệt may của Việt Nam ở thị trường
trong và ngoài nước.
3. Vị trí và vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển nền kinh tế
quốc dân.
Ngành dệt may đã tạo ra sản phẩm rất quan trọng không thể thiếu đối
với cuộc sống của mỗi người. Trong 10 năm qua ngành dệt may xuất khẩu đã trở
thành một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, có những
bước tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân là
24,8%/năm, vượt lên đứng ở vị trí thứ nhất trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu,
vượt cả qua ngành dầu khí. Mặt hàng dệt may đã trở thành một trong 10 mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế, góp phần thúc
đẩy nhanh tự do hoá thương mại. Mặc dù hiện nay ngành dệt may Việt Nam còn
nhiều điểm yếu kém, bất cập nhưng cũng có ý nghĩa to lớn đối với sự tăng trưởng
kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Xuất khẩu dệt may tăng lên tạo đà cho các
doanh nghiệp mở rộng sản xuất góp phần giải quyết công ăn việc làm cho đội ngũ
lao động dư thừa ngày càng tăng mạnh của Việt Nam. Hơn 10 năm qua ngành đã
thu hút hơn nửa triệu lao động trong cả nước. Mặt khác nhờ có sự tăng trưởng
mạnh của xuất khẩu nên đã đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, đồng thời
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 12 -
Vị trí của ngành dệt may xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Chỉ số Đơn vị 1995 1999 2000 2001
1.GDP Tỷ VNĐ 228,892 339,942 444,139 474,340
2.CNN Tỷ VNĐ 34,318 70,767 82,992 94,780
3.Ngành dệt may Tỷ VNĐ 3,100 7,700 9,120 10,260
4.Tỉ lệ 3/2 % 9,03 10,88 11,0 10,8
5.Tỉ lệ 3/1 % 1,4 1,9 2,1 2,1
6. Tổng giá trị XK Triệu USD 5.449 11.540 14.308 15.810
7.XK dệt may Triệu USD 850 1.747 1.892 1.962
8.Tỷ lệ 7/6 % 15,6 15,1 13,2 12,4
Nguồn: Theo thống kê của Hiệp hội VITAS, năm 2001
Nếu như ngành dệt may vào năm 1995 chỉ chiếm 3,1% trong toàn ngành
công nghiệp nhẹ thì đến năm 2001 đã tăng lên 10,26%, chiếm 21% trong GDP,
góp phần làm tăng GDP của cả nước. Xuất khẩu mặt hàng dệt may đóng một vai
trò đáng kể vào sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nước ta trong
thời gian qua. Năm 1995 xuất khẩu dệt may chỉ đạt 850 triệu USD đến năm 2001
con số đã tăng lên là 1,962 tỷ USD và năm 2002 đạt kim ngach xuất khẩu là 2,752
tỷ USD, vượt mức kế hoạch mà ngành đã đặt ra trong năm 2002. Qua đây ta thấy
xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam trong thời gian gần đây rất có hiệu quả.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 13 -
II. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU, TIÊU THỤ HÀNG DỆT MAY
TRÊN THẾ GIỚI
1. Dung lượng thị trường thế giới về hàng dệt may
Trên thế giới hiện nay có khoảng 194 quốc gia sản xuất và xuất khẩu
hàng dệt may. Nhu cầu về hàng dệt may trên thế giới không phải là nhỏ. Những
năm gần đây sau cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực Châu Á, từ năm 2002 trở đi,
kinh tế thế giới đã hồi phục, nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may cũng tăng lên, nhất là
tại các nước Châu Á. Bước sang thế kỉ mới này, ngành gia công sợi Châu Á sẽ
phát triển trong môi trường có nhiều thuận lợi, ngành may mặc cũng đóng góp
một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước trong khu vực.
Tình hình nhập khẩu hàng dệt may trên thế giới
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm 1990 1995 1999 2000 2001
May 112074 170325 200648 214123 209645
Dệt 131564 148055 142954 149370 138590
Tổng cộng 243638 318380 343602 363493 348235
Nguồn: Theo thống kê hàng năm của ASEAN Textile
Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may trên thế giới ngày càng gia tăng mạnh.
Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của thế giới đã tăng lên 363,493 tỷ
USD trong đó mặt hàng may mặc tăng lên là 214,12 tỷ USD tương đương 6,7% so
với năm 1999 và tăng lên 91% so với năm 1990. Đối với mặt hàng dệt, kim ngạch
nhập khẩu là 149,370 tỷ USD tăng 4,5% so với năm 1999; và tăng 13,5% so với
kim ngạch nhập khẩu năm 1990. Qua bảng ta có thể thấy, lượng nhập khẩu về
hàng may mặc tăng lên rất lớn từ năm 1990 đến năm 2000, còn lượng nhập khẩu
về hàng dệt thì tăng không đáng kể. Tuy nhiên đến năm 2001 thì lượng nhập khẩu
hàng dệt may bị chững lại, tổng kim ngạch nhập khẩu của thế giới chỉ đạt 348,235
tỷ USD giảm đi 4,2% so với năm 2000. Hàng dệt giảm 10,788 tỷ USD tương
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 14 -
đương 52,25%. Nguyên nhân là do nhu cầu của thị trường thế giới giảm mạnh đối
với hàng dệt, đồng thời do nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn đặc biệt là 2
nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Nhật đang rơi vào tình hình khủng hoảng,
nền kinh tế bị đình trệ. Tại Mỹ và Nhật Bản lượng hàng dệt may nhập khẩu từ các
nước trên thế giới giảm đáng kể. Trong đó tại thị trường Mỹ lượng nhập khẩu
hàng may mặc giảm 724 triệu USD, còn lượng hàng dệt nhập khẩu vào thị trường
này cũng giảm 484 triệu USD. Thị trường Nhật nhập khẩu hàng dệt giảm đi 190
triệu USD, hàng may mặc giảm 516 triệu USD. Ngoài ra, thị trường EU là một
trong những thị trường lớn của thế giới về tiêu thụ hàng dệt may thì lượng nhập
khẩu cũng bị giảm xuống đáng kể, nhập khẩu hàng may mặc giảm 812 triệu USD,
hàng dệt giảm 3086 triệu USD.
Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của một số thị trường lớn trên thế giới
(Đơn vị: Tỷ
USD)
Thị Năm 1990 Năm 1995 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
trường Dệt May Dệt May Dệt May Dệt May Dệt May
EU 50.370 56.844 57.227 74.183 51.037 82.204 48.706 80.084 45.620 79.263
Nhật 4.106 8.737 5.985 18.758 40547 16.402 4.939 19.709 4.749 19.148
Mỹ 6.370 26.977 10.441 41.376 14.305 58.785 16.008 67.115 15.492 66.391
TQ, HK 10.182 6.913 16.895 12.654 12.652 14.757 13.717 16.008 12.177 16.098
ơ
TQ, HK: Trung Quốc và Hồng Kông
Nguồn: Thống kê hàng năm của ASEAN Textile năm 2001
Nhìn chung nhu cầu mặt hàng dệt may trên thế giới tăng nhanh (trừ
trường hợp năm 2001 là ngoại lệ do ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ, Nhật bị khủng
hoảng). Trong đó ta cũng thấy rõ, hàng năm thị trường EU tiêu thụ một khối lượng
lớn hàng dệt may (cả mặt hàng dệt kim và hàng may mặc). Do đó để đẩy mạnh
xuất khẩu hàng dệt kim thì cần đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường
EU và thị trường Nhật Bản là tốt nhất.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 15 -
Hiện nay, trên thế giới Nhật và Mỹ là 2 quốc gia tiêu thụ hàng dệt may
nhiều nhất thế giới, đặc biệt là hàng Trung Quốc. Để cạnh tranh với hàng Trung
Quốc, Mỹ có thể sẽ điều chỉnh nguồn hàng nhập khẩu. Tại Mỹ, giá cạnh tranh rất
gay gắt, nhu cầu tiêu dùng đang dần thu hẹp lại nên giá cả ở thị trường này đang
giảm liên tiếp. Đồng thời Mỹ cũng đang hạn chế việc xuất khẩu hàng dệt may từ
các nước đang phát triển đây là điều bất lợi cho nước ta khi xuất khẩu vào Mỹ.
Còn Nhật Bản là nước không có hạn ngạch hạn chế nhập khẩu về mặt hàng dệt
may nên thị phần hàng dệt may của Trung Quốc chiếm hơn 80% tổng nhập khẩu
hàng dệt may vào thị trường này.
Việt Nam đang tập trung đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Nhật
và EU. Tuy nhiên, để thực hiện thành công điều này thì Việt Nam còn phải đối mặt
với không ít khó khăn.
2. Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu chính
a. Thị trường Mỹ
Thị trường Mỹ là một thị trường lớn và năng động nhất thế giới. Nhu
cầu tiêu dùng ở thị trường này là rất lớn. Với dân số hơn 280 triệu người, vào năm
2001 người dân ở Mỹ tiêu thụ tới 272 tỷ USD cho quần áo, bình quân một người
Mỹ mua khoảng 54 bộ quần áo. Đây là thị trường lớn mà nhiều năm qua Trung
Quốc đang là nhà xuất khẩu lớn. Mặc dù hàng Việt Nam vẫn kém chất lượng so
với hàng Trung Quốc nhưng hiện nay ở thị trường Mỹ những nhà nhập khẩu lớn
đang muốn tìm nhà cung cấp khác thay thế nhà cung cấp Trung Quốc đặc biệt sau
năm 2005 khi mọi quy định về hạn ngạch bị dỡ bỏ. Đây là một thuận lợi lớn đối
với ngành dệt may Việt Nam. Bên phía đối tác Mỹ rất chú trọng đến thời gian giao
hàng và chất lượng sản phẩm.
Người tiêu dùng Mỹ là những người đã quen dùng hàng hiệu có tên tuổi
(mặc dù sản phẩm đó đã được may mặc hay gia công tại Việt Nam). Những hàng
hiệu nổi tiếng là những sản phẩm dễ dàng được chấp nhận ở thị trường này. Tiêu
chuẩn nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ đặt ra cũng tương đối khắt khe. Các công
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 16 -
ty dệt may xuất khẩu cần đạt tiêu chuẩn ISO 9.000, ISO 14.000, SA 8000,
WRPA…Đây là một yêu cầu hoàn toàn mới đối với phía Việt Nam.
Hiện nay Tổng công ty dệt may Việt Nam có 28 doanh nghiệp thực hiện
theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, 2 doanh nghiệp thực hiện ISO 14.000,
4 doanh nghiệp thực hiện SA 8.000. Trước mắt, phía Mỹ yêu cầu các doanh
nghiệp Việt Nam làm theo SA 8000, khi chưa có chứng chỉ, nhằm đáp ứng được
những điều kiện môi trường làm việc của người lao động. Các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam đang nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tạo điều kiện lao
động để đáp ứng được những yêu cầu của thị trường này.
Hiện nay, hàng may mặc Việt Nam còn đang ở mức thang điểm thấp
trong đánh giá chất lượng của người tiêu dùng Mỹ - theo đánh giá của hiệp hội dệt
may và da giầy Mỹ (AAFA). Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam muốn vào thị trường
này cần phải hết sức nỗ lực. Hơn nữa, doanh nghiệp Mỹ cũng nhìn vào khả năng
cung cấp hạn ngạch xuất khẩu, các chương trình ưu đãi thuế quan, nguồn cung cấp
nguyên liệu, chất lượng lao động, sự ổn định của đồng tiền, năng lực xuất khẩu,
mức độ tuân thủ các thủ tục hải quan Mỹ, môi trường lao động…AAFA tỏ rõ thái
độ: “Các bạn cần phải sản xuất cái chúng tôi cần, cần kiên nhẫn với thị trường Mỹ
và chúng tôi sẽ kiên nhẫn với bạn”. AAFA dự báo, các doanh nghiệp Việt Nam
phải tăng năng suất 50% mới có khả năng cạnh tranh lâu dài trên thị trường dù là
hàng đó có giá cả thấp.
Ngoài ra, khi thâm nhập vào thị trường này thì các doanh nghiệp Việt
Nam cần hiểu rằng đây là một thị trường có hệ thống pháp luật hoàn thiện nhưng
đầy phức tạp. Muốn thâm nhập vào thị trường này cần nắm được pháp luật chính
sách thương mại của Mỹ, các án lệ, các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định
thương mại để giành quyền chủ động. Hiện tại ở Mỹ có 4 loại luật pháp bảo hộ
mậu dịch mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thường gặp phải là: Luật quản lý nhập
khẩu bảo vệ kinh tế nội địa bằng các biện pháp trừng phạt hoặc hạn chế nhập
khẩu; Luật quản lý xuất khẩu nhằm hạn chế xuất khẩu những mặt hàng hay bán
hàng cho những nước mà Mỹ muốn hạn chế và khuyến khích xuất khẩu những
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 17 -
mặt hàng có lợi cho Mỹ; Luật quản lý xuất khẩu vì các lý do an ninh chính trị hay
an ninh kinh tế; Luật về tiêu dùng hoá thương mại và cấm phân biệt đối xử.
Sau sự kiện ngày 1 tháng 9 năm 2001, Mỹ quan tâm nhiều đến xuất xứ
hàng hoá, cũng như thông tin liên quan về hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Mỹ
phải đầy đủ, nếu không hàng tới Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng trực tiếp tới
tiến độ giao hàng, nhiều khi vi phạm hợp đồng đã kí kết. Bên phía Việt Nam cần
thận trọng tránh xảy ra tranh chấp thương mại với Mỹ, vì khi hợp đồng đã xảy ra
tranh chấp thì rất khó kéo đối tác Mỹ trở lại.
b. Thị trường EU
EU là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam sau
Nhật Bản. Tuy nhiên, khi xuất khẩu vào thị trường EU thì mặt hàng dệt may xuất
khẩu của ta gặp rất nhiều khó khăn. EU là một thị trường lớn với 378,5 triệu dân,
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt trên 8.400 tỷ EURO, sức tiêu thụ vải tương đối
cao 17kg/ người, mỗi năm EU nhập khẩu bình quân 63 tỷ USD quần áo, trong đó
có khoảng 35% là nhập khẩu từ Châu Á, do vậy thị trường EU là thị trường không
thể bỏ qua của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Hiện nay, đồng EURO đang có chiều hướng tăng giá so với đồng USD.
Do đó đây là một cơ hội thuận lợi đối với Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường
EU. Vì tỷ giá giữa đồng EURO và VND đang tăng thì hàng hoá của Việt Nam so
với hàng hoá của các nước EU là tương đối rẻ hơn do đó thúc đẩy EU nhập khẩu
hàng hoá từ nước ngoài đặc biệt là Việt Nam nhiều hơn. Lời khuyên từ đại diện
phòng Thương Mại - Công Nghiệp Châu Âu (EURO CHAM) tại thành phố Hồ
Chí Minh về kế hoạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU: các doanh
nghiệp Việt Nam nên tiến nhanh vào EU và muốn xuất được hàng vào năm 2004
thì phải bắt đầu xúc tiến ngay từ bây giờ.
Lúng túng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn là thông tin:
nên xuất gì, xuất như thế nào? EU có 15 quốc gia và mỗi quốc gia là một thị
trường có thị hiếu và nhu cầu khác nhau. Tuy nhiên, theo EURO CHAM, hàng dệt
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 18 -
may Thổ Nhĩ Kì và Trung Quốc hiện nay đang tràn ngập EU. Khi đưa ra hàng dệt
may vào thị trường EU cần chú ý điều kiện khí hậu, thị hiếu từng vùng để có hàng
hoá thích hợp: ví dụ người Italia thường thích màu sắc sặc sỡ nhưng người Pháp
lại không như thế.
Hàng Việt Nam vào thị trường này không chỉ phải cạnh tranh về chất
lượng mà còn phải cạnh tranh bằng giá cả. Vì vậy, hàng muốn bán được, phải có
những ưu điểm hơn sản phẩm cùng loại. EURO CHAM cũng khuyến cáo, do thị
trường EU đa dạng nên muốn xuất khẩu vào nước nào thì cách tốt nhất của doanh
nghiệp Việt Nam là làm sao tiếp cận được kênh phân phối, tìm được người đại
diện bán hàng tốt vào từng thị trường của EU. Giải quyết vấn đề này, ngoài việc
thường xuyên cập nhật mạng, theo EURO CHAM, các doanh nghiệp nên tận dụng
các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn xuất khẩu như EURO CHAM, CBL, Cục xúc tiến
thương mại, VietEuro. Tại các đơn vị này đều có những chương trình hỗ trợ doanh
nghiệp đi hội chợ, gặp gỡ đối tác giới thiệu địa chỉ giao dịch. VietEuro còn mở các
dịch vụ giới thiệu bán hàng qua catalogue, qua mạng, cho thuê kho, thuê gian
hàng trưng bày với mức phí 10 - 20 USD/m2 mỗi tháng (thuê 2 m2 cũng được),
nhận tư vấn và đảm nhận các thủ tục về xác lập quyền sở hữu thương hiệu trên 15
nước thuộc EU, làm các dịch vụ kiểm hoá, giao hàng xuất khẩu…Tận dụng những
dịch vụ này doanh nghiệp sẽ tránh được tình trạng do không am hiểu quy định có
thể đầu tư thừa, không hiệu quả cho các thủ tục chứng nhận chất lượng hoặc kiểm
tra hàng hoá xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp cũng có thể mua dịch vụ chào
hàng giúp, thu thập thông tin, tìm kiếm đối tác từ các công ty tư vấn với mức phí
hoa hồng chỉ tính khi được xuất hàng. Tại thị trường EU, các công ty của Trung
Quốc có người đại diện rong xe đi chào khắp nơi, họ có thể cung cấp hàng sau 7
ngày, trả lời mọi thông tin đặt hàng qua điện thoại trong 8 giờ, và như vậy thông
tin thị trường từ đầu mối này cũng được cập nhật trở lại nhà sản xuất nhanh chóng.
Do đó, để vào thị trường EU thuận lợi, ngoài cạnh tranh ráo riết về giá thành, chi
phí các doanh nghiệp còn phải tăng tốc hơn nữa trong lĩnh vực tiếp thị, đầu tư
nhân sự đủ khả năng giao dịch trực tiếp, tìm đầu mối và chân hàng trực tiếp.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 19 -
EU vốn là thị trường khó tính, yêu cầu chất lượng cao, sản phẩm phải có
yếu tố chú trọng bảo vệ sức khỏe. Nhiều nhà nhập khẩu của EU thường đòi hỏi các
doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường này phải sưu tập đủ bộ tiêu chuẩn chất
lượng gồm các chứng chỉ chất lượng sản phẩm: HACCP; CE; ISO 9.000; SA
8000; và quan trọng nhất là hệ thống chứng chỉ môi trường ISO 14.000.
Trong thị trường EU thì Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt
Nam. Buôn bán với Đức trong nhiều năm qua có xu hướng tăng liên tục, từ 300
triệu USD năm 1985 lên tới 1 tỉ USD năm 1999 và 1,3 tỉ USD năm 2002. Các mặt
hàng xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là giày da, hàng may mặc. Thị trường
Đức cũng như thị trường EU nói chung muốn tăng xuất khẩu trong thị trường này
cần phải thực hiện tốt những quy định và đáp ứng được những nhu cầu, sở thích
“khó tính” của người tiêu dùng.
Nguồn: Tổng cục Hải quan, Hà Nội năm 2002
EU là thị trường lớn và truyền thống của hàng dệt may Việt Nam. Kim
ngạch xuất khẩu vào thị trường này thường chiếm 45 - 50% tổng kim ngạch xuất
XuÊt KhÈu hµng dÖt may sang EU n¨m
2002
6.5%
9.2%
6.0%
C¸c níc
kh¸c
9%
42.0%
12.5%
14.5%
Ph¸p
Hµ Lan
Anh
Italia
T©y Ban Nha
C¸c níc kh¸c
§øc
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 20 -
khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Do đó chúng ta phải có
những biện pháp để không bị giảm kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong
những năm tới.
c. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường truyền thống của Việt Nam đối với mặt hàng dệt
may xuất khẩu. Vốn là một thị trường Châu Á nên có nhiều điểm tương đồng với
thị trường Việt Nam. Thị trường Nhật Bản sức tiêu dùng lớn, đồng thời lại là thị
trường phi hạn ngạch do đó trong tình hình nước ta chưa gia nhập WTO thì việc
xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là
rất có ý nghĩa.
Với dân số hơn 127 triệu người, GDP đạt xấp xỉ 4.417.060 triệu USD
tương đương 512,2 nghìn tỷ Yên vào năm 2000, Nhật Bản là thị trường tiêu thụ
hàng hoá lớn thứ 2 trên thế giới sau Mỹ, đồng thời cũng là nước nhập khẩu lớn với
kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 300 - 400 tỷ USD. Thị trường Nhật Bản có
yêu cầu riêng về chất lượng của hàng hoá đó là Japan indutrial standard (JIS).
Hàng hoá có đáp ứng được tiêu chuẩn của JIS đề ra sẽ dễ tiêu thụ trên thị trường
Nhật Bản, bởi người Nhật Bản rất tin tưởng hàng hoá có đóng dấu JIS, nếu hàng
hoá mà không có đóng dấu này thì khó mà tiêu thụ được ở Nhật Bản.
Hiện nay, tại các thành phố lớn của Nhật Bản có hai xu hướng mua sắm
mới đó là: bán hàng qua bưu điện theo catalogue hàng mẫu và hàng bán qua
internet. Những phương thức này được ưa chuộng do tiết kiệm thời gian cho
những công chức Nhật vốn là những người luôn luôn bận rộn. Tuy nhiên việc bán
hàng theo phương thức này phải thay đổi mẫu mã liên tục bởi khách hàng đa phần
là phụ nữ. Hàng dệt may nên sản xuất theo mẫu mã, màu sắc, thiết kế của người
Nhật Bản. Nếu làm được điều này thì đây là một mặt hàng có thế mạnh của Việt
Nam vào Nhật Bản.
Việt Nam cũng nên thành lập trung tâm giới thiệu sản phẩm xuất khẩu
tại Nhật Bản để quảng bá hàng Việt Nam rộng rãi hơn. Bộ thương mại cần phối
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 21 -
hợp với Jetro (tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản) tại Việt Nam để tăng cường
hơn nữa công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Nhật tới các doanh
nghiệp, đặc biệt là các thông tin liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin
dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark. Tuy thị trường Nhật là thị
trường không có hạn ngạch nhưng cho tới nay Việt Nam và Nhật Bản vẫn chưa
thoả thuận được với nhau về việc Nhật Bản giành cho Việt Nam chế độ MFN đầy
đủ.
Các hoạt động xúc tiến thương mại vào thị trường Nhật Bản của các
doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế do chi phí khảo sát thị trường hết sức tốn
kém. Chính vì thế doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt được nhu cầu hàng hoá,
thị hiếu tiêu dùng cũng như quy định về quản lý nhập khẩu của thị trường Nhật
Bản. Với một thị trường hết sức năng động, mang nhiều nét đặc thù riêng như thị
trường Nhật Bản thì việc thiếu thông tin sẽ hạn chế khả năng thâm nhập vào thị
trường này. Thị trường Nhật Bản nhập khẩu lượng dệt kim của Việt Nam rất nhiều
do đó các doanh nghiệp Việt Nam nên thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt kim vào Nhật
Bản. Tại thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp Trung Quốc đã xây dựng một hệ
thống cập nhật thông tin chính xác cũng như có khả năng thích ứng kịp thời trước
những yêu cầu mới của môi trường để luôn luôn tung ra sản phẩm mới. Nghiên
cứu của các chuyên gia Nhật Bản cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ
tới việc thay đổi mẫu mã khi chu kỳ của sản phẩm đó bước sang giai đoạn thoái
trào, hàng không bán được nữa. Điều này đã khiến cho dù đã chấm dứt sản xuất
nhưng sản phẩm đó còn lưu thông rất nhiều trên thị trường. Trong khi đó tại Nhật
Bản các doanh nghiệp Trung Quốc luôn luôn thay đổi mẫu mã khi sản phẩm vẫn
còn ăn khách nên mẫu mã hàng hoá của doanh nghiệp Trung Quốc luôn mới. Lúc
này các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc theo công nghệ, trình độ của người
Nhật Bản với tiêu chuẩn chất lượng Nhật Bản được người tiêu dùng Nhật Bản đón
nhận dễ dàng hơn các sản phẩm cùng loại được sản xuất ở nước khác.
Do đó, để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản cần tham gia các hội chợ
và triển lãm thương mại, liên kết với doanh nghiệp Nhật Bản, bán hàng trực tiếp
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 22 -
cho các nhà bán sỉ, hoặc bán lẻ (các cửa hàng chuyên biệt, các cửa hàng tổng
hợp…). Ngoài ra các doanh nghiệp nước ngoài có thể tham gia vào thị trường
Nhật Bản như một nhà bán lẻ hay một SPA (SPA là một doanh nghiệp họ chấp
nhận gánh rủi ro lớn vì phải quản lý tất cả các quá trình từ lúc chấp nhận đơn đặt
hàng và sản xuất cho đến khi bán hàng) và bán trực tiếp cho người tiêu dùng thông
qua đơn đặt hàng bằng thư. Hơn nữa, doanh nghiệp Việt Nam có thể liên kết với
doanh nghiệp thương mại địa phương tại Nhật hoặc hình thành một liên minh trực
tiếp với một nhà sản xuất tại thị trường này. Có thể bán hàng cho các doanh nghiệp
thương mại của Nhật, các sản phẩm này sẽ mang nhãn hiệu của một trong các sản
phẩm mà doanh nghiệp này đang mua bán. Vì vậy, nếu hàng với một nhãn hiệu
nào đó mà không bán chạy thì sẽ có thể bị chuyển sang nhãn hiệu khác bán chạy
hơn. Cách thức này ít rủi ro, nhưng không tạo được uy tín trong thị trường Nhật
Bản - điều vốn rất cần thiết đối với doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần khẳng
định uy tín của mình.
Hoặc có thể tiếp cận thị trường Nhật Bản như là một SPA. Cách thức
thâm nhập thị trường này có thể giúp cho doanh nghiệp sản xuất và bán hàng đúng
thời hạn đáp ứng nhu cầu thị trường và chi phí sản xuất. Sản phẩm dệt may Việt
Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đang có xu hướng giảm sút nên cần
nghiên cứu thật kỹ các đặc điểm của thị trường Nhật Bản để nhãn hiệu “made in
Việt Nam” của mặt hàng dệt may không bị lãng quên trên thị trường Nhật Bản.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 23 -
CHƯƠNG II HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CỦA
NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM
1. Hoạt động sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
a. Sản lượng sản xuất
Trong thời gian từ năm 1998 trở lại đây, ngành dệt may Việt Nam đặc
biệt là ngành may công nghiệp phục vụ xuất khẩu đã có những tiến bộ đáng kể.
Năm 1999 ngành dệt may Việt Nam mới chỉ sản xuất được khoảng 320 triệu mét
vải lụa và khoảng 40 triệu mét vải dệt kim chiếm khoảng 51% nhu cầu của cả
nước (700 triệu mét vải). Trong đó ngành dệt Việt Nam đạt sản lượng sản xuất
trung bình là 389.000 tấn sản phẩm dệt/năm và tốc độ tăng trung bình khoảng
50%/năm trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2005.
Năm 2000, theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê năng suất sản
xuất dệt kim là 35 triệu sản phẩm. Theo các chuyên gia đánh giá về dệt kim, sau
10 năm đầu tư, lĩnh vực dệt kim năm 1999 có 450 máy dệt, khả năng sản xuất
tương đương 90 triệu sản phẩm áo T. shirt. Cả ngành năm 1999 sản lượng sợi đạt
85.000 tấn, sản lượng lụa đạt 304 triệu m2, sản phẩm may là 400 triệu sản phẩm.
Sản lượng lụa năm 2000 giảm xuống 16 triệu m2 so với năm 99.
Năm 2002 toàn ngành đã sản xuất được 150.000 tấn sợi, 500 triệu m2
lụa và 70 tấn vải dệt kim các loại, tuy nhiên giá trị sản xuất công nghiệp của các
doanh nghiệp này cũng chỉ đạt non 6.300 tỷ đồng (theo giá 1994). (Nguồn: Thời
Báo Kinh Tế Việt Nam số 134 - 22/8/2003). Với giá trị sản lượng như trên ngành
dệt may Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc đầu tư vào trang thiết bị, máy
móc để nâng cao năng suất phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu trong thời gian tới.
b. Năng lực sản xuất, công nghệ
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 24 -
Do trình độ công nghệ sản xuất chưa cao, thiết bị thiếu đồng bộ, 20%
tổng số máy trong ngành may mặc tham gia sản xuất đã cũ và lạc hậu về công
nghệ. Ngành dệt cũng ở trong tình trạng tương tự nên không có khả năng đáp ứng
đủ nhu cầu. Trước hết, năng lực sản xuất vải trong nước theo công suất thiết kế là
800 triệu mét nhưng sản lượng sản xuất ra chỉ mới đạt 376 triệu mét, chưa được
50% công suất thiết kế. Trong gần 600 triệu mét vải sản xuất được thì phần lớn là
đáp ứng nhu cầu trong nước, phần cung cấp cho ngành may xuất khẩu chỉ có hơn
100 triệu mét (năm 2001).
Như vậy, ngành may xuất khẩu nhập khoảng hơn 280 triệu mét vải
(nhiều gấp 3 lần số vải do ngành dệt trong nước cung cấp). Dù đã tận dụng triệt để
sức lao động của công nhân và 100% công suất máy cũng chỉ sản xuất được chừng
120.000 sản phẩm dệt kim và 80.000 sản phẩm sơ mi trong một tháng. Hiện tại,
giá trị gia tăng nội địa ở mức rất thấp khoảng 25%. (Nguồn: Báo Thương Mại -
số3/2002)
Việt Nam có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động,
nhưng quy mô còn nhỏ bé. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong những năm qua tuy
đã bổ xung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt
trên tổng số máy hiện có là 15.500 máy thì cũng chỉ đáp ứng 15% công suất dệt.
Ngành may tuy liên tục mở rộng đầu tư sản xuất, đổi mới thiết bị dây chuyền đồng
bộ chuyên sản xuất các mặt hàng như: dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần
Jean, complete, hệ thống giặt là…nhưng cũng chưa đáp ứng được những nhu cầu
xuất khẩu ngày càng tăng. (Nguồn: Theo thống kê của Hiệp Hội Vitas, năm 2002).
Thực trạng cho thấy: ở khâu kéo sợi chỉ có 30% máy móc thuộc trình độ khá (gồm
cả máy mới, máy đã qua sử dụng, và máy được cải tạo), còn đến 70% máy móc
thuộc trình độ trung bình và dưới trung bình. Khâu dệt, trừ các thiết bị dệt kim là
tương đối khá, còn dệt thoi chỉ có trên 35% máy mới, khoảng 25% máy được cải
tạo, còn 40% là máy cũ. Còn khâu hoàn tất, có 35% số thiết bị đã sử dụng trên 30
năm, 30% sử đụng từ 20 - 30 năm, còn 35% là thiết bị mới nhưng cũng sử dụng 10
- 20 năm. (Thời Báo Kinh Tế Việt Nam số 134 - năm 2003).
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 25 -
Năng lực sản xuất của ngành dệt may
Máy móc Sản xuất
Tiêu chí
Đơn vị Tổng máy Đơn vị Năng lực
1. Kéo sợi Cọc sợi OE
1.500.000
15.000 Tấn 150.000
2.Cán bông Chuyền 4 Tấn 10.000
3.Dệt thoi Thoi Không thoi
10.000
5.500 Triệu m 500
4.Dệt kim MáyDK tròn Máy DK phản
1290
250 Tấn 70.000
5.May mặc Máy may 200.000 Triệu sp 500
Nguồn: Thống kê của Vitas, năm 2002
Không chỉ thế, ngành dệt may còn có nhiều hạn chế khác nữa: khâu kéo
sợi thiếu sợi chải kỹ; khâu dệt thiếu máy dệt khổ rộng, các công đoạn chuẩn bị dệt
(như hồ, mắc) rất yếu, không tương ứng với hệ thống máy dệt. Khâu thiết kế mẫu
dệt còn hạn chế. Số lượng mẫu vải nghèo nàn về kết cấu mật độ sợi ngang, sợi dọc
và màu sắc. Khâu nhuộm, hoàn tất còn thiếu các công đoạn chống co, chống
nhàu…Đấy chính là những nguyên nhân làm cho chất lượng sản phẩm dệt còn
thấp, hoặc không ổn định. Theo đánh giá của các chuyên gia, công nghệ thiết bị
của ngành dệt còn lạc hậu so với các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 15 năm,
ngành may công nghệ tuy đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn còn lạc hậu hơn 5 năm
so với các nước. Đặc biệt nguồn lao động của ngành dệt may hiện nay đang trong
tình trạng thiếu lao động có tay nghề và lao động phổ thông một cách trầm trọng.
Lao động dệt may không có tay nghề chiếm 20,4% là một con số khá cao nên năng
suất lao động thấp, chẳng hạn cùng một ca làm việc năng suất lao động bình quân
của một lao động ngành may Việt Nam chỉ đạt 12 áo sơ mi ngắn tay hoặc 10 chiếc
quần thì lao động Hồng Kông năng suất lao động là 30 áo hoặc 15-20 chiếc quần.
Hiện doanh nghiệp dệt may trong cả nước cần khoảng 600 triệu lao động thiết kế,
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 26 -
1200 nhân viên nam marketing, bán hàng và xúc tiến xuất khẩu; 40.000 lao động
điều hành sản xuất ở các chức danh giám đốc, quản đốc nhà máy, kĩ thuật
viên…cùng hàng trăm ngàn lao động phổ thông, nhưng không có nguồn cung
ứng.
Trong khi quy mô đào tạo và chất lượng lao động chưa được nâng cao
nên ngành dệt may còn thiếu lao động do đó làm cho cơ cấu tổ chức sản xuất
không hợp lý dẫn đến năng suất thấp. Hiện tại ngành dệt may Việt Nam đang đầu
tư để tăng tốc.
Nhu cầu vốn đầu tư để tăng tốc toàn ngành
( Đơn vị tính: tỉ VND)
Toàn ngành Nhu cầu vốn đầu tư
Năm 2005 Năm 2010
Tổng vốn đâu tư: 35000 30000
Trong đó
Đầu tư trực tiếp 23200 20000
Đầu tư gián tiếp 11800 10000
Bao gồm
Vốn xây dựng 3000 2550
Vốn thiết bị 20500 18000
Vốn khác 1750 1500
Chi phí bất thường 1750 1500
Vốn lưu động 8000 6450
Nguồn: Số liệu của VinaTex - năm 2002
c. Cơ cấu sản phẩm
Trong những năm gần đây, sản phẩm dệt may đã dần được đa dạng hoá.
Trong khâu sản xuất sợi, tỷ trọng các mặt hàng polyester pha bông với nhiều tỉ lệ
khác nhau 50/50, 65/35, 83/17...tăng nhanh; các loại sợi 100% polyester cũng bắt
đầu được sản xuất; các loại sản phẩm cotton/visco, cotton/aceylic, wool/acrilic đã
bắt đầu được đưa ra thị trường.
Trong khâu dệt vải, nhiều mặt hàng dệt thoi mới, chất lượng cao đã bắt
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 27 -
đầu được sản xuất. Đối với mặt hàng 100% sợi bông, các mặt hàng sợi đơn chải kỹ
chỉ số cao phục vụ cho may xuất khẩu, mặt hàng sợi bông dày được tăng cường
công nghệ làm bóng, phòng co cơ học…đã xuất khẩu được sang EU và Nhật Bản.
Một số mặt hàng sợi pha, các mặt hàng kate đơn màu sợi 76, 76 đơn hay sợi dọc
76/2, các loại vải dày như gabadin, kaki, simili, hàng tissus pha len, pha cotton và
petex, pe/co/petex…tuy sản lượng chưa cao nhưng đã bắt đầu được đưa vào sản
xuất rộng rãi ở nhiều doanh nghiệp. Đối với mặt hàng 100% sợi tổng hợp, nhờ
được trang bị thêm hệ thống xe săn sợi với độ săn cao, thiết bị comfit, thiết bị
giảm trọng lượng đã tạo ra nhiều mặt hàng giả tơ tằm, giả len…thích hợp với khí
hậu nhiệt đới, bước đầu đã giành được uy tín trong và ngoài nước. Ngoài ra mặt
hàng dệt kim, 75 - 80% sản lượng hàng dệt kim từ sợi pe/co được xuất khẩu. Tuy
nhiên, chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm giá thấp và trung bình 2,5 - 3,5
USD/sản phẩm, tỷ trọng các mặt hàng chất lượng cao còn rất thấp, chủ yếu vẫn
phải nhập khẩu.
Thực tế cho thấy, trong những năm trở lại đây quần áo do các cơ sở
trong nước sản xuất ra chất lượng, mẫu mã ngày càng đa dạng, phong phú, được
tiêu thụ nhiều trong nước và tiêu thụ nhiều trên thị trường nước ngoài. Theo các
cuộc thăm dò gần đây, uy tín của hàng may mặc sản xuất trong nước đối với người
tiêu dùng nội địa đã được khẳng định và đang có xu hướng ngày càng cao hơn, đặc
biệt là các sản phẩm của các công ty An Phước, May 10, Việt Tiến, Maxx,
Sanding, Legafastion, PT2000…Bên cạnh đó, các doanh nghiệp may mặc trong
nước đang cố gắng tạo ra sự độc đáo cho mỗi dòng sản phẩm, theo phong cách
Việt Nam. Một số công ty đã nắm bắt tâm lý thích hàng hiệu của giới trẻ, đã sản
xuất nhiều loại sản phẩm mới theo các mẫu mã xuất hiện trên phim ảnh, truyền
hình hoặc đặt mua mẫu mã của các nhà thiết kế nước ngoài để tạo dấu ấn riêng cho
sản phẩm của mình bằng cách đặt in mác quần Jean ở nước ngoài để thu hút giới
trẻ bằng sự độc đáo của dòng sản phẩm mới.
Cơ cấu các sản phẩm may công nghiệp xuất khẩu đã có những thay đổi
đáng kể. Ngành may đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 28 -
những nhà nhập khẩu “khó tính” như quần áo thể thao, quần áo Jean…Sản xuất
phụ liệu may cũng đã có những tiến bộ nhất định cả về chủng loại và chất lượng.
Những sản phẩm như chỉ khâu Tootal Phong Phú, khoá kéo Nha Trang, mex Việt
Phát, bông tấm Việt Tiến, nút nhựa Việt Thuận…đủ tiêu chuẩn chất lượng cao cho
khâu may xuất khẩu tuy nhiên sản lượng còn ít chưa đáp ứng đủ nhu cầu hiện tại
của ngành.
d. Tình hình về cung cấp nguyên liệu, phụ liệu
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn ở cả đầu ra
và đầu vào: đó là vấn đề nguyên phụ liệu, vốn đầu tư. Nguyên phụ liệu để cung
cấp cho ngành may xuất khẩu hầu như chưa sản xuất được đang phải nhập khẩu
với một lượng khá lớn. Nguyên nhân là ở chỗ, việc sản xuất nguyên liệu trong
nước và vùng nguyên liệu trong nước chưa được chú trọng đúng mức. Vụ bông
năm 2000 - 2001, cả nước mới chỉ có hơn 2000 ha bông, sản lượng đạt 8000 tấn.
So với nhu cầu sản xuất, nguyên liệu bông trong nước mới đáp ứng được 12 - 15%
tổng số khoảng 70.000 tấn bông nguyên liệu. (Nguồn: Báo Thương Mại số 4 -năm
2002).
Đến năm 2002, do giá bông của thế giới giảm xuống thấp và lượng sợi
nhập khẩu trong nước cao nên chỉ trong vòng 5 tháng năm 2002 sản lượng nhập
khẩu sợi trong nước đã tăng 33% so với cùng kỳ năm 2001. Trong khi đó, sợi sản
xuất trong nước bán chậm, làm nhiều doanh nghiệp sợi không hoạt động hết công
suất. Sản phẩm tiêu thụ khó khăn do thị trường Nhật Bản là thị trường tiêu thụ
chính không có tín hiệu khả quan. Tỷ trọng doanh thu xuất khẩu của một số doanh
nghiệp là rất thấp. Tình hình thị trường nội địa khó khăn nên các chỉ tiêu sản xuất
và tiêu thụ cũng bị giảm mạnh. Vụ bông năm 2001 - 2002 đạt sản lượng khá lớn
nhưng do giá bông thế giới giảm thấp, nhu cầu và giá sợi giảm nên mức tiêu thụ
trong nước chững lại.
Tuy nhiên, trong năm 2002 Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ thị trường
thế giới 97.133 tấn bông và 262.844 tấn sợi bông. Thời gian tới dự kiến nhập khẩu
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 29 -
120.000 tấn bông năm 2005 và 160.000 tấn bông năm 2010 để đạt mục tiêu của
ngành đề ra.
Tình hình nhập khẩu bông & sơ sợi dệt
Năm 1995 1998 1999 2000 2001 2002
Bông (1000 tấn) 62,2 67,6 113,1 97,113
Sơ và sợi dệt
(nghìn tấn) 938 183 160 237 210
Nguồn: theo niên giám thống kê TP HCM năm 2002
Không chỉ khó khăn trong việc cung cấp bông mà ngay cả các loại phụ
liệu cung cấp cho ngành may xuất khẩu mới chỉ đáp ứng được 10 - 15% nhu cầu,
nên dẫn tới tình trạnh khó kết nối giữa 2 khâu dệt và may. Việc thông tin tiếp thị
của các doanh nghiệp dệt cho doanh nghiệp may vẫn còn hạn chế, chính sách hậu
mãi chưa chu đáo, không có trách nhiệm cao đối với lô hàng mình sản xuất ra đến
cùng. Chính vì lý do này khiến cho doanh nghiệp may chưa hào hứng đối với các
sản phẩm sẩm của doanh nghiệp dệt ở trong nước.
Ngược lại, doanh nghiệp may phần lớn là gia công xuất khẩu nên
thường khách hàng nước ngoài chỉ định nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài vì thế
ít quan tâm khai thác vải của các doanh nghiệp dệt trong nước cho dù vải của các
doanh nghiệp dệt trong nước có cùng chủng loại không thua kém gì về mặt chất
lượng. Hơn nữa, mua vải của nước ngoài, ngoài yếu tố chất lượng đảm bảo, thì
dịch vụ hậu mãi của họ lại rất tốt. Nếu như lô vải mua về không đảm bảo về yêu
cầu chất lượng cũng như mẫu thì đối tác cung cấp sẽ sẵn sàng đổi lại, thậm chí bỏ
cả lô hàng vải xấu đó, cung cấp lô vải mới khác cho doanh nghiệp Việt Nam. Điều
này đối với doanh nghiệp Việt Nam hiếm có doanh nghiệp nào làm được. Mặt
khác chất lượng hàng hoá, phụ liệu sản xuất trong nước cũng lại không đảm bảo.
Một số chủng loại sản phẩm trong nước chưa sản xuất được như vải làm áo Jacket,
sơ mi, quần tây, vải may comple, phụ kiện như cúc áo, xơ sợi tổng hợp, sợi phi
lamăng, tạo mốt cho vải, quần áo…
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 30 -
Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam
Mặt hàng 1995 1996 2000 2001 2002
Sợi (tấn) 24.776 28.879 42.286 26.549 262.844
Vải (1000 m2) 5.649 6.816 853 272
Nguồn: Niên giám thống kê TP HCM năm 2002
Một đặc điểm nữa mà doanh nghiệp nước ta cần chú trọng là giảm chi
phí đầu vào, tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm ngành dệt may để tăng lợi nhuận
cho ngành. Trong thời gian tới, Nhà nước ta sẽ đưa bông vào cơ cấu cây trồng để
đảm bảo cho đến năm 2010 phải có 90.000 tấn bông xơ, trong đó chủ động 70%
nguyên liệu và tiến tới làm chủ hoàn toàn nguyên liệu trong nước là mục tiêu của
ngành dệt may. Thủ tướng Chính Phủ đã đồng ý đầu tư 1.500 tỷ đồng cho việc
phát triển vùng nguyên liệu. Đồng thời công ty bông Việt Nam đang tích cực đầu
tư phát triển vùng nguyên liệu. Hình thức đầu tư trọn gói từ đầu vào đến bao tiêu
sản phẩm đang được thực hiện ở một số vùng: ĐakLac, Ninh Thuận, Đồng
Nai…Dự báo tới năm 2010, diện tích trồng bông trên cả nước có khả năng sẽ đạt
150.000 ha, năng suất bông bình quân đạt 18 tấn/ha có thể đáp ứng 70% nhu cầu
nguyên liệu cho dệt may. Nước ta đủ điều kiện để sản xuất, phát triển bông cho
năng suất cao, giống bông sợi màu, các giống bông lai Việt Nam 20, C118, VN
15…tương đương bông nhập khẩu. Ngoài ra, Nhà nước còn đầu tư các cụm công
nghiệp sản xuất sản phẩm may mặc phụ liệu cho ngành may với tổng số vốn đầu
tư là 600 triệu VND tương đương 40 triệu USD để sản xuất: mác áo, nút kim loại,
nút nhựa, chỉ, các loại dây thun…Hiện nay, nhà máy kéo sợi polyester công suất
30.000 tấn/năm đang hoạt động từ nay cho đến năm 2005 để đáp ứng sợi cho
ngành dệt may.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 31 -
e. Hình thức tổ chức sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
Trên toàn quốc hiện nay nếu tính theo khu vực miền Bắc, miền Nam,
miền Trung thì có tất cả 1.031 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may.
Trong 26 tỉnh thành phía Nam thì số lượng doanh nghiệp nhiều nhất có 688 doanh
nghiệp các loại, 28 tỉnh thành phố phía Bắc có 285 doanh nghiệp dệt may, 7 tỉnh
thành phố miền trung có 58 doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có
231 doanh nghiệp chiếm 22,34%, doanh nghiệp tư nhân có 449 doanh nghiệp
chiếm 43,42% còn lại 34,24% là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Số doanh nghiệp dệt may trong toàn quốc
Khu vực Tổng Quốc doanh Tư nhân
Đầu tư nớc
ngoài
Hội viên
Vitas
1 Phía Bắc (28 tỉnh thành) 285 140 106 39 112
2 Miền Trung ( 7 tỉnh thành) 58 30 19 9 27
3 Miền Nam (26 tỉnh thành) 688 61 324 303 312
4 Tổng 1.031 231 449 351 451
Nguồn: Thống kê của VITAS năm 2002
Về thu hút đầu tư nước ngoài tính đến nay có khoảng 180 dự án dệt - sợi
- nhuộm - đan len - may mặc có hiệu lực với số vốn vào khoảng gần 1,85 tỷ trong
đó có 130 dự án đã đưa vào hoạt động, tạo việc làm cho trên 50.000 lao động trực
tiếp và hàng nghìn lao động gián tiếp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm trên 25% giá trị sản lượng hàng may mặc cả nước.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 32 -
Doanh nghiệp dệt may toàn quốc(theo loại hình sở hữu)
Loại hình sở hữu Tổng Dệt May Thương mại &dịch vụ
Quốc doanh 231 32 139 60
Tư nhân 449 229 65
FDI & Liên doanh 345 114 215 25
Tổng cộng 1.034 273 596 162
Nguồn: Theo số liệu của Hiệp hội VITAS năm 2002
Nếu phân chia doanh nghiệp dệt may theo ngành sản xuất thì hiện nay
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may mặc chiếm số lượng lớn nhất có
659, doanh nghiệp quốc doanh 139 doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân 229,
doanh nghiệp doanh nghiệp FDI có 221. Số doanh nghiệp hoạt động trong ngành
kéo sợi có 99 doanh nghiệp, dệt thoi có 124 doanh nghiệp trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất có 57 doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động
trong ngành dệt kim số lượng là ít nhất 54 doanh nghiệp trong đó đa phần là doanh
nghiệp nhà nước 26 doanh nghiệp, 19 doanh nghiệp FDI, có 9 doanh nghiệp tư
nhân. Hoạt động dệt kim của nước ta hiện nay còn đang trong tình trạng khó khăn,
máy móc không được đổi mới, mặt hàng không tiêu thụ được như hàng may mặc
nên số lượng doanh nghiệp đầu tư vào ngành này còn ít.
Doanh nghiệp dệt may toàn quốc(theo ngành sản xuất)
Ngành sản xuất Tổng Quốc doanh Tư nhân FDI
1 Kéo sợi 99 42 17 40*
2 Dệt thoi 124 43 24 57*
3 Dêt kim 54 26 9 19
4 May mặc 659 139 299 221
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 33 -
5 Phụ liệu và các loại khác 150 60 65 25
Nguồn: Theo số liệu của Hiệp hội VITAS năm 2002
Ngành dệt may xuất khẩu hiện tại sản xuất hàng hoá theo 3 phương
thức:
- Hình thức gia công xuất khẩu: Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay
đối với ngành dệt may xuất khẩu, 80% hàng may mặc xuất khẩu là gia công cho
các nước Nhật, EU…Thực chất đây là hình thức nhập nguyên phụ liệu, thậm chí
cả kỹ thuật của nước ngoài, thực hiện sản xuất trong nước và sau đó tái xuất khẩu
thành phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp dệt may thường gia công hàng may mặc
cho các đại lý may mặc của Hồng Kông và Đài Loan nên giá gia công mà họ nhận
được rất thấp. Thông thường các doanh nghiệp này rất ít kinh nghiệm về xuất
khẩu cũng như nhiều doanh nghiệp tư nhân còn không đăng kí hoạt động xuất
khẩu. Vì họ hoạt động trên cơ sở CM (cắt may) nên họ không có khả năng mua vải
cũng như phụ kiện và cũng không có khả năng tài chính để mua nguyên vật liệu.
Ưu điểm gia công xuất khẩu là huy động được đội ngũ lao động nhàn
rỗi, sử dụng được ngành nghề truyền thống, không cần huy động vốn lớn, không
đọng vốn, tiết kiệm được các chi phí đào tạo, thiết kế mẫu, quảng cáo, tiêu thụ và
tìm kiếm thị trường, không phải chịu rủi ro về tiêu thụ sản phẩm. Trong khi đó lại
có thể trang bị được máy móc hiện đại, tiếp thu được công nghệ tiên tiến của nước
ngoài đồng thời nâng cao được trình độ quản lý cũng như kỹ thuật cho các cán bộ
lãnh đạo.
Tuy nhiên, gia công xuất khẩu cũng có nhược điểm lớn: Giá gia công rẻ
mạt do vậy lợi nhuận thu được từ gia công hàng cho nước ngoài là rất ít (giá gia
công + chi phí quản lý) so với sức lực bỏ ra. Chúng ta không có điều kiện phát
triển ngành sản xuất trong nước, đặc biệt ngành trồng dâu nuôi tằm, bông, tạo sản
phẩm khác cung cấp cho việc sản xuất ra vải sợi.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 34 -
- Hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm: Hình thức này càng được
áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp
nhập khẩu nguyên liệu như vải, sợi, phụ liệu cho hàng may mặc từ nước ngoài,
sau đó tự tổ chức sản xuất trên cơ sở nguyên liệu nhập khẩu về. Khi hoàn thành
sản phẩm sẽ tìm thị trường tiêu thụ. Hàng sản xuất ra sẽ được mang nhãn hiệu sản
xuất tại Việt Nam.
Hình thức này khắc phục được một số nhược điểm chủ yếu của gia công
sản xuất như: sản phẩm đưa ra thị trường, nếu gặp thuận lợi, giá cả hàng hoá cao
sẽ thu được lợi nhuận lớn, phát huy được năng lực sáng tạo của cán bộ, tạo được
tên tuổi uy tín trên thị trường thế giới, góp phần phát triển mạnh mẽ ngành may
mặc Việt Nam. Việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài đảm bảo đáp ứng
được các yêu cầu về chất lượng của một số thị trường khó tính như EU, Nhật, Mỹ.
Nhược điểm là việc nhập khẩu nguyên, phụ liệu từ nước ngoài chi phí
rất tốn kém vì nhà nước không khuyến khích nhập khẩu mặt hàng này nên phải
chịu thuế nhập khẩu không phải là mức thuế thấp. Đồng thời giá cả của các loại
nguyên phụ liệu này thường xuyên biến động không ổn định và so với những mặt
hàng cùng loại mà chúng ta có thể sản xuất được ở trong nước thì tương đối đắt
hơn (tuy nhiên trong nước chỉ sản xuất được một lượng không nhiều nên không
đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp dệt may). Hơn nữa, nếu kinh doanh
theo hình thức này sẽ rất dễ gặp rủi ro đối với lô hàng bởi các doanh nghiệp của ta
chưa thật sự nắm vững được các thông tin từ phía các thị trường nước ngoài.
- Hình thức sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước dành cho sản xuất
hàng xuất khẩu: Đây là hình thức không mới đối với các nước có ngành công
nghiệp dệt may phát triển từ lâu đời như Anh, Pháp, Ý…Tuy nhiên, đối với Việt
Nam để thực hiện vấn đề này trong thời gian này quả là một điều rất khó. Hiện tại,
tỉ lệ nội địa hoá của sản phẩm may mặc ở nước ta chỉ chiểm 15 - 20% là một con
số rất thấp, do đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chiến lược cùng với các doanh
nghiệp thực hiện sao cho đến năm 2010 ngành dệt may sẽ đảm bảo tỉ lệ nội địa hoá
đạt 70% sản phẩm sản xuất ra. So với 2 hình thức trên, hình thức tự cung này có
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 35 -
ưu điểm nhiều hơn vì tiết kiệm ngoại tệ, sử dụng nguồn nguyên phụ liệu trong
nước sẽ kéo theo rất nhiều ngành nghề khác phát triển tạo đà phát triển ngành
công nghiệp đất nước và thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Tuy nhiên để đạt được kết quả thì đòi hỏi có sự kết hợp của các bộ ngành và
sự đoàn kết của các doanh nghiệp trong nước.
Ba hình thức trên đều có ý nghĩa nhất định đối với ngành dệt may Việt
Nam. Gia công xuất khẩu qua nhiều giai đoạn vẫn trở thành hoạt động chủ yếu của
ngành may mặc. Hiện tại khi đất nước còn đang nghèo, các ngành sản xuất nói
chung và ngành dệt may nói riêng vẫn còn lạc hậu thì phương thức gia công vẫn
còn có ý nghĩa rất to lớn, là bàn đạp để chúng ta thực hiện mục tiêu đến năm 2010.
Nếu biết kết hợp một cách nhịp nhàng khéo léo và có hiệu quả cả 3 phương thức
trên thì chắc chắn trong thời gian gần ngành dệt may Việt Nam chúng ta sẽ đạt
được mục tiêu đề ra.
Với thực trạng của ngành các chuyên gia đánh giá: ngành dệt may vẫn
còn chậm phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành may mặc đặc biệt là
ngành may xuất khẩu. Một vấn đề lớn là làm thế nào để tăng cường năng lực của
các doanh nghiệp dệt may đang là vấn đề lớn cần được giải quyết của các cấp các
ngành, các doanh nghiệp dệt may.
2. Phân tích thực trạng về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
a. Kim ngạch xuất khẩu
Trong thời gian hơn 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là
một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước phát triển
vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành là
24,8%/năm, vượt lên thứ 2 về kim ngạch xuất khẩu sau ngành dầu khí năm 2001.
Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,8 lần so với
năm 1990 chiếm tỷ trọng 13,25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả
nước. (Nguồn: Bộ Thương Mại, năm 2002)
Kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2001 tăng không đáng kể so với
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 36 -
năm 2000, chỉ tăng 108.000 triệu VND, đó là do trong năm này hàng của Việt
Nam phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc. Nguyên nhân cũng là do nền kinh
tế của một số thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam bị suy thoái nên số lượng
đơn hàng cũng giảm đi so với năm 2000. Thị trường Mỹ, EU có nhiều biến động
khiến việc xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào EU và Mỹ gặp nhiều khó
khăn.
Trong khi đó hàng dệt may của các nước Đông Âu, Campuchia,
Bangladesh, Srilanka, Bắc Phi, xuất khẩu vào EU được miễn thuế, không có hạn
ngạch, hàng Việt Nam bị đánh thuế nhập khẩu bình 14% và bị khống chế hạn
ngạch nên rất bất lợi đối với mặt hàng dệt may xuất khẩu của ta.
Vào năm 2002, Nhà nước đã đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam, cần phải điều chỉnh tăng hạn
ngạch đối với hàng Việt Nam mà khách hàng có nhu cầu, bãi bỏ các loại phí liên
quan đến hạn ngạch, đơn giản hoá thủ tục hành chính, điều chỉnh cơ chế hạn
ngạch, chuyển sang giấy phép tự động đối với hạn ngạch các mặt hàng nhóm II
thực hiện tiến độ chậm. Năm 2002, cùng với việc thực thi Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ, và thị trường EU tăng thêm 25% hạn ngạch xuất khẩu đã tác động không
nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
Đến cuối năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam đã đạt được 2,7 tỷ USD tăng 37,2% so với năm 2001, riêng xuất khẩu sang
thị trường Mỹ đạt gần 900 triệu, tăng 20 lần so với năm 2001, chiếm 33,2% tổng
kim ngạch hàng dệt may. Hiện nay trong 8 tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất
khẩu đã tăng gần 60% so với cùng kỳ năm 2002. Chưa có năm nào xuất khẩu dệt
may lại tăng trưởng cao như thế, đặc biệt đã vượt xa giá trị xuất khẩu dầu thô (giá
trị xuất khẩu dầu thô đạt 2,51 tỷ USD), đứng vị trí thứ nhất về tổng kim ngạch xuất
khẩu. Dự tính trong năm nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ đạt 3,5 tỷ USD,
trong khi mục tiêu mà ngành dệt may đã đề ra là đạt kim ngạch 3,2 - 3,3 tỷ USD.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 37 -
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong thời gian qua
(Triệu USD)
Năm Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Tổng kim ngach
xuất khẩu Tỉ trọng /tổng số
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
(ướctính)
211
350
550
750
1.150
1.349
1.351
1.682
1.892
2.000
2.700
3.500
2.581
2.985
4.054
5.200
7.255
8.759
9.361
11.532
14.455
15.100
16.710
19.300
8,1%
11,7%
13,6%
14,4%
15,2%
15,4%
14,4%
14,6%
13,08%
13,25%
16,16%
18,13%
Nguồn: Bộ thương Mại và TCT VINATEX
Ta thấy tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước ngày càng cao, năm 2002 là 16,16%, dự tính năm
2003 này tỷ trọng sẽ là 18,13%. Hiện trong năm nay các doanh nghiệp Việt Nam
đang phải đối mặt với một khó khăn đó là Mỹ áp dụng chế độ hạn ngạch dệt may
đối với Việt Nam từ ngày 1.5.2003. Các doanh nghiệp trong nước rất lúng túng
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 38 -
trước tình trạng “khê” quota, hàng sản xuất ra không xuất khẩu sang Hoa Kỳ
được hoặc sau khi đã nhập khẩu nguyên liệu về để sản xuất hàng xuất khẩu sang
thị trường này nhưng vì hết hạn ngạch nên lại bán rẻ nguyên liệu đi các nước khác.
Các doanh nghiệp đang lo lắng về vấn đề giải quyết việc phân bổ hạn ngạch đi Mỹ
sao cho ổn thoả vào năm 2004 sắp tới.
b. Chủng loại hàng dệt may xuất khẩu
Các mặt hàng xuất khẩu chính của ngành dệt may Việt Nam: hàng may
mặc, tơ sợi, vải lụa, các loại sản phẩm khác. Trong đó hàng may mặc chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu. Nguyên nhân cũng rất dễ hiểu, bởi vì
ngành may mặc được đầu tư khá nhiều về máy móc, trang thiết bị cũng như các
yếu tố khác trong khi đó ngành dệt thì hiện nay tình hình sản xuất vẫn chưa tốt cả
về máy móc, trang thiết bị, đội ngũ công nhân.
Năm 1997 và năm 1998 giá trị xuất khẩu của toàn ngành là gần như
bằng nhau không có nhiều biến động. Kim ngạch xuất khẩu năm 1998 của ngành
chỉ đạt 1370 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á làm sức tiêu thụ của thị trường này giảm, hàng hoá của
Việt Nam xuất khẩu cũng giảm xuống rõ rệt, nền kinh tế các nước Châu Á bị ảnh
hưởng mạnh mẽ, kéo theo một số thị trường các nước ngoài Châu Á cũng bị ảnh
hưởng.
Năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 1892 triệu USD
nhưng hàng may mặc lại giảm đột ngột xuống với kim ngạch xuất khẩu đạt giá trị
rất thấp chỉ khoảng 50 triệu USD, mặt hàng khác thì kim ngạch xuất khẩu vẫn như
năm 1999 không thay đổi nhiều, hàng dệt sợi, vải thì cũng vẫn như các năm trước.
Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may tăng lên đạt 2000 triệu USD,
giá trị xuất khẩu của mặt hàng may mặc lại tăng trở lại với kim ngạch khá lớn xấp
xỉ 1500 triệu USD, chiếm 75% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, tăng 7,9% so
với năm 1999 đồng thời kim ngạch xuất khẩu của hàng vải, sợi cũng tăng tổng
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 39 -
kim ngạch là 170 triệu USD. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng lên
mạnh đạt 2700 triệu USD, trong đó mặt hàng vải đạt 1950 triệu USD. (Nguồn:
Thống kê của Vinatex, năm 2002).
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngành dệt may Việt Nam có
nhiều khởi sắc. Từ năm 1990 trở về trước, sản phẩm may mặc chủ yếu là sơ mi
nam, nữ, quần áo bảo hộ và một số sản phẩm đơn giản xuất khẩu sang thị trường
Liên Xô và Đông Âu với sản lượng năm cao nhất là hàng trăm triệu sản phẩm. Khi
thị trường này tan vỡ, sự khủng hoảng đã là động lực cho sự chuyển hướng thị
trường, tạo vốn đầu tư máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất trong ngành
dệt may xuất khẩu Việt Nam. Sản phẩm dệt may đã dần dần được xuất khẩu sang
thị trường các nước phát triển như Canada, Thụy Điển, Australia, Hà Lan, Ba
Lan…Đặc biệt là EU, Nhật Bản và mới đây là thị trường tiềm năng Mỹ và Bắc
Mỹ.
Danh mục mặt hàng xuất khẩu cũng ngày càng được cải tiến và phong
phú hơn trước đây. Thời gian vào những năm 1990 thì hàng xuất khẩu chủ yếu là
sơ mi, quần nam, nữ và bảo hộ lao động. Sau đó đến năm 1992 - 1993 thì mặt hàng
xuất khẩu đã được bổ xung thêm các loại áo Jacket, sơ mi cao cấp, sản phẩm dệt
kim và coi đó là sản phẩm chủ đạo trong xuất khẩu. Cho tới năm 1995, số loại
hàng dệt may xuất khẩu đã lên tới 38 chủng loại trong đó 24 chủng loại đã phân bổ
hết hạn ngạch cụ thể là các chủng loại (cat - viết tắt của category) sau: 1,2,4,5 6,7,
8, 12, 14, 15, 19, 21, 24, 26, 29, 34, 68, 73, 78, 39, 83, 97, 118, 161.
Các loại hàng đã xuất khẩu sang thị trường Nhật, Canada, EU,
Mỹ…bao gồm:
Vải tổng hợp bằng xơ.
Khăn bông
Bộ complet
Veston nam
Pyjama bằng vải dệt thoi
Chỉ, sợi nhân tạo
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 40 -
Sơ mi nam, nữ
Jacket 2,3 lớp, Blouson
T.shirt, dệt kim, cotton
Polo shirt
Quần tây
Quần áo thể thao
Vải dệt kim, tơ tằm
Quần áo thể thao, đồ phụ quần áo
Rèm, thảm các loại
Túi xách các loại
Khăn trải giường
Vải tổng hợp
Quần lót
Khăn trải bàn bằng lanh gai…
Và các sản phẩm từ sợi P.E, sợi tổng hợp khác.
(Nguồn: Báo thương mại - tháng 7 năm 2002)
Theo đánh giá của các tổ chức nước ngoài, hàng dệt may của Việt Nam
khá phong phú về chủng loại song chính sự phong phú này làm cho chất lượng của
các loại hàng đó chưa được đồng đều. Hàng cao cấp, chất lượng cao của ta còn ít,
chủ yếu là sơ mi nam, T.shirt thì hầu hết lại gia công cho nước ngoài, kiểu dáng
mẫu mã không có gì là mới lạ trên thị trường quốc tế. Một số mặt hàng khác như
vải dệt kim, tơ tằm hay sợi chưa dệt thì hạn chế về màu sắc, chất lượng chưa thật
tốt do chúng ta còn nhiều khó khăn về thiết bị và công nghệ tiên tiến để xử lý sản
phẩm. Mặt khác, do hạn chế về vốn và hoạt động marketing, các loại hàng dệt may
Việt Nam chưa thích ứng được với sự đổi thay liên tục của thời trang thế giới nên
các mặt hàng Việt Nam thường bị lỗi mốt, dù chất lượng cao giá hạ nhưng vẫn
không bán được. Đội ngũ thiết kế tạo mẫu của nước ta còn non yếu chưa có nhiều
kinh nghiệm, chuyên môn còn kém nên hàng hoá của nước ta không bắt kịp với
nhịp độ phát triển trên thế giới. Do đó, đây cũng là một vấn đề cần được chú ý,
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 41 -
khắc phục để sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam ngày càng đa dạng, phong
phú về mẫu mã và có uy tín trên trường quốc tế.
c. Một số thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta
- Thị trường Mỹ là một thị trường lớn về tiêu thụ hàng hoá cũng như
hàng dệt may, Mỹ là một thị trường lớn đối với các doanh nghiệp dệt may xuất
khẩu của Việt Nam. Thị trường này cũng thể hiện rõ tính ưu việt cũng như tiềm
năng đầy hứa hẹn đối với xuất khẩu hàng dệt may hiện tại và trong tương lai. Các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam mới bắt đầu thâm nhập thị trường đầy tiềm năng
này chỉ trong vài năm gần đây. Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này
chỉ đạt ở mức rất thấp 9,1 triệu USD. Đây là một con số không đáng kể so với kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam vào các thị trường
khác như thị trường Nhật kim ngạch là 248 triệu USD, thị trường EU kim ngạch
xuất khẩu là 225 triệu USD. Trong thời gian này nếu như nói rằng xuất khẩu sang
thị trường Mỹ đầy triển vọng thì không ai có thể khẳng định được điều này kể cả
các chuyên gia kinh tế. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này chỉ
tăng lên 2,8 triệu USD so với năm 1996. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu là 49,5
triệu USD, nhưng đến năm 2001 kim ngạch xuất khẩu giảm xuống chỉ đạt 44,6
triệu USD. Với kim ngạch này năm 2001 Việt Nam xếp thứ 64 trong số các quốc
gia có xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ. Tuy nhiên, so với 70 tỷ USD mà Hoa Kỳ
bỏ ra hàng năm để nhập khẩu sản phẩm dệt may từ khắp nơi trên thế giới thì quả
thật con số gần 50 triệu USD xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này quả là bé
nhỏ.
Giải thích tại sao thị trường Mỹ là một thị trường tiêu thụ lớn hàng giầy
da và hàng may mặc mà lượng hàng dệt may xuất khẩu của nước ta vào thị trường
này lại quá ít ỏi như vậy. Câu trả lời thật đơn giản và mọi người ai cũng biết rõ:
trong thời gian từ năm 1995 đến năm 2000, nước ta và Mỹ vừa mới bước vào thời
kì bình thường hóa quan hệ do đó các doanh nghiệp Việt Nam đang dần làm quen
với thị trường, đồng thời chưa có những thông tin và đầu mối quan trọng để tăng
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 42 -
cường hàng xuất khẩu vào thị trường này nên mặt hàng dệt may của ta cũng trong
tình trạng thăm dò thị trường Mỹ là chính. Lúc này, Hiệp đinh dệt may Việt-Mỹ
với ưu đãi tối huệ quốc (quy chế MFN) chưa chính thức được kí kết nên các mặt
hàng dệt may của Việt Nam khi xuất sang thị trường này bị một rào cản thương
mại khá lớn, mức thuế suất quá cao nên doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may
không thể thâm nhập được vào Mỹ một cách ồ ạt được.
Vào năm 2000 nước ta chính thức kí Hiệp định thương mại Việt-Mỹ,
thuế suất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ đã giảm đến 10 lần.
Thế nhưng trong năm 2001 với sự kiện ngày 11 tháng 9 thì lượng nhập khẩu của
Mỹ giảm đáng kể nên mặt hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường
này đương nhiên là cũng bị giảm xuống. Từ năm 2002 chúng ta lại có thêm Hiệp
định dệt may Việt-Mỹ với ưu đãi tối huệ quốc (MFN) cho hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam nên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng mạnh. Theo thống kê
của Bộ thương mại, năm 2002 kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt 2,7
tỷ USD, tăng 37,2% so với năm 2001 thì riêng xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt
gần 900 triệu USD, tăng gấp 20 lần so với năm 2001, chiếm 33,2% tổng kim
ngạch hàng dệt may. Mức gia tăng xuất khẩu kỷ lục này đã đưa Mỹ trở thành thị
trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, trên cả EU và Nhật vốn
lâu nay là thị trường chính. Các doanh nghiệp Việt Nam đang chủ động chuyển
hướng xuất khẩu sang Mỹ cũng nhằm thiết lập chỗ đứng tại thị trường mới mẻ này.
Năm 2002 là năm thắng lợi lớn đối với ngành dệt may Việt Nam, đặc biệt đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Năm 2002, các
doanh nghiệp Việt Nam tận dụng phía Mỹ chưa áp dụng hạn ngạch đối với mặt
hàng dệt may nên đang tăng cường, nỗ lực xuất khẩu sang Mỹ. Mặc dù kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ từ đầu năm đến tháng 9 năm 2002
tăng lên rất mạnh 234% song chỉ chiếm khoảng 0,7% thị phần và đứng thứ 26
trong tổng số các nước xuất khẩu quần áo vào Mỹ, xếp sau Campuchia (xếp thứ
17, chiếm 2,3%), Thái Lan (xếp thứ 13, chiếm 2,8%), Phillipin (xếp thứ 11, chiếm
3,1%), Indonesia (xếp thứ 8, chiếm 3,7%), và chỉ bằng 1/10 của Trung Quốc
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 43 -
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Trị giá triệu USD 9,1 12 26 34 49,5 44,6 900 1900
(dự tính)
Nguồn: Thống kê của VINATEX năm 2002
Trước tình hình kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng, một
đoàn giới chức Mỹ dự kiến sang Việt Nam để thảo luận về việc đi đến thoả thuận
một Hiệp Định về hàng dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ (là một phần trong Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ), trong đó có việc cả Mỹ sẽ áp dụng quota đối với hàng dệt
may xuất khẩu cuả Việt Nam vào Mỹ bắt đầu từ năm 2003. Do đó kể từ năm 2003
những doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào thị trường này thì phải có hạn ngạch,
nếu không thì không thể xuất khẩu được.Theo Hiệp định dệt may Việt-Mỹ, trị giá
hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch năm 2003 gồm 25 nhóm hàng và 38 mặt
hàng cụ thể như sau: (Bảng trang bên)
Để thực hiện Hiệp định ngày 28 tháng 4 năm 2003, Bộ thương mại có
văn bản số 0962/TM-XNK hướng dẫn thực hiện, theo đó các doanh nghiệp phải
báo cáo chi tiết, chính xác về năng lực và quy mô sản xuất của mình để làm cơ sở
đối chiếu hạn ngạch và cấp hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm
2003. Văn bản quy định các mẫu và nội dung hồ sơ gồm các chứng từ: đơn xin cấp
giấy chứng nhận xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa kỳ, hợp đồng xuất khẩu (hoặc
gia công hàng xuất khẩu), hoá đơn thương mại, bảng kê đóng gói hàng…Văn bản
nghiêm cấm các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sử dụng giấy chứng nhận
xuất khẩu hàng dệt may để xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Việt Nam để xuất khẩu
hàng hoá của nước khác hoặc dùng visa của nước khác xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam.
Những công việc bước đầu của thực hiện Hiệp định như vậy tạo thuận
lợi về quản lý trong thực hiện Hiệp định. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại lo lắng
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 44 -
rằng hạn ngạch như vậy có đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu không? Và làm thế
nào để sử dụng có hiệu quả hạn ngạch. Sự lo lắng của các doanh nghiệp là hoàn
toàn có cơ sở, bởi qua thực tiễn thực hiện Hiệp định dệt may EU cũng luôn nổi lên
hai vấn đề này. Tuy nhiên, so với mức độ thực hiện của năm 2002 và những tháng
đầu năm 2003, thì hạn ngạch xuất khẩu vào Mỹ hàng dệt may năm 2003 là 1,7 tỷ
USD sẽ không hạn chế nhiều việc xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ, bởi theo dự
kiến của các quan chức và của nhiều nhà kinh doanh khả năng năm 2003 chỉ thực
hiện được khoảng 1,5 tỷ USD.
Các mặt hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch
Cat nhóm
hàng
Mặt hàng Đơn
vi
Hạn ngạch
2003
200 Chỉ may, sợi để bán lẻ Kg 300.000
301 Sợi, bông đã chải Kg 680.000
332 Tất chất liệu bông Tá 1.000.000
333 Áo khoác nam dạng comple Tá 36.000
334/335 Áo khoác nam nữ chất liệubông Tá 675.000
338/339 Sơ mi dệt kim nam, nữ chất liệu bông Tá 14.000.000
340/640 Sơ mi nam dệt thoi chất liệu bông và sọi
tơ nhân tạo
Tá 2.000.000
341/641 Sơ mi dệt thoi chất liệu bông và sợi nhân
tạo
Tá 762.698
342/642 Váy ngắn chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 554.654
345 Sweater chất liệu bông Tá 300.000
347/348 Quần nam nữ chất liệu bông Tá 7.000.000
351/651 Quần áo ngủ chất liệu bông và sợi nhân
tạo
Tá 582.000
352/652 Đồ lót chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 1.850.000
359/659-c Quần yếm Kg 325.000
359/659-s Quần áo bơi Kg 525.00
434 Áo khoác nam chất liệu len Tá 16.200
435 Áo khoác nữ chất liệu len Tá 40.000
440 Sơ mi nam, nữ chất liệu len Tá 2.500
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 45 -
447 Quần nam chất liệu len Tá 52.500
448 Quần nữ chất len Tá 32.000
620 Vải bằng sợi filamăng tổng hợp khác m2 6.364.000
632 Chất liệu sợi nhân tạo Tá 500.000
638/639 Áo sơ mi nam nữ dệt kim chất liệu sợi tơ
nhân tạo
Tá 1.271.000
645/646 Sweater chất liệu sợi tơ nhân tạo Tá 200.000
647/648 Quần nam nữ chất liệu sợi nhân tạo Tá 1.973.318
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 46 -
Vấn đề đặt ra đó là làm thế nào để phân bổ hạn ngạch cho hợp lý, cần rút
kinh nghiệm từ việc quản lý hạn ngạch dệt may EU trước đây. Từ đầu năm 2003
đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ vẫn tiếp tục tăng
nhanh, hiện đã xuất khẩu gần 1,3 tỉ USD hàng dệt may vào Mỹ. Dự tính năm 2004
nếu chúng ta vẫn triển khai tốt Hiệp định thương mại Việt-Mỹ thì có khả năng kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may vào thị trường này đạt tới 4,1 tỷ USD, tăng
17,1% so với năm 2003, chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu .
Ngày 5 tháng 6 năm 2003 liên Bộ: Thương mại, Công nghiệp và Kế
hoạch- Đầu tư đã tổ chức họp báo công bố cơ chế phân bổ hạn ngạch dệt may sang
thị trường Hoa Kì năm 2003. Việc phân giao theo nguyên tắc: bình đẳng giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, dựa trên kết quả xuất khẩu của các
doanh nghiệp trong năm 2002 và 3 tháng đầu năm 2003, đối với các doanh nghiệp
mới thì dựa vào năng lực sản xuất, năng lực xuất khẩu, dành một tỉ lệ nhất định
cho những doanh nghiệp sử dụng vải sản xuất trong nước để làm hàng may mặc
xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ và các vùng kinh tế khó khăn. Việc phân giao
hạn ngạch năm nay sẽ chia làm 2 đợt: 80% hạn ngạch được giao trước, 20% hạn
ngạch được giao sau khi kiểm tra. Thế nhưng từ khi áp dụng hạn ngạch hàng dệt
may xuất khẩu vào thị trường Mỹ (từ ngày 1 tháng 5 năm 2003) cho đến nay đã
xảy ra một vấn đề gây ra nhiều lo lắng cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may vào thị trường Mỹ. Vấn đề đó là do hạn ngạch có hạn mà tốc độ xuất khẩu
hàng dệt may của các doanh nghiệp trong 5 tháng đầu năm quá lớn nên giá trị hạn
ngạch còn lại để giao cho các doanh nghiệp trong tháng 7 cuối năm chỉ còn
khoảng 600 triệu USD, trong đó có một số cat còn lại rất ít hoặc không còn, buộc
các doanh nghiệp phải có phương án xử lý phù hợp trước tình hình này.
Một trong những khó khăn cơ bản đối với các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam là các hợp đồng sản xuất và xuất khẩu đã ký từ đầu năm, nguyên phụ
liệu đã được nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu trong cả năm nhưng nay không
có đủ hạn ngạch để sản xuất và xuất khẩu. Đến nay, tuy đã phân bổ theo Thông tư,
ngay cả hạn ngạch phát triển khoảng 15% cũng phân với một lượng rất nhỏ. Như
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 47 -
vậy, lượng hạn ngạch chưa phân bổ còn rất nhiều, thậm chí có cat tỷ lệ tồn trong
các doanh nghiệp khá lớn mà chưa có hạn ngạch, như cat 338/339 (áo dệt kim),
tồn gần 4 triệu tá, hoặc 347/348 (quần) tồn trên 2,3 triệu tá; tương đương 50% hạn
ngạch cho 8 tháng của cả nước.
Như chuyện về một khách hàng đã nhập khẩu phụ liệu để làm hàng
trong tháng 9, tháng 10 năm nay nhưng do thông tin từ Mỹ là cat 338 mà khách
hàng định làm đã sắp đầy nên phải tái xuất lô nguyên phụ liệu này đi nước khác
như Philipines và Kenya. Các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may của Việt Nam
đang lo lắng việc phân bổ hạn ngạch năm 2004 không biết cơ chế phân bổ quota sẽ
được thực hiện như thế nào cho phù hợp với thực lực của các doanh nghiệp để
không xảy ra những tình trạng đáng buồn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
khi kí kết hợp đồng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kì như năm
2003.
Hiện nay, những sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ
đều phải được một công ty kiểm toán đánh giá thực hiện theo tiêu chuẩn SA 8.000.
Đây là một yêu cầu hoàn toàn mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tổng công
ty Dệt May Việt Nam hiện có 28 doanh nghiệp thực hiện theo hệ thống quản lý
chất lượng ISO 9.000, 2 doanh nghiệp thực hiện ISO 14.000 và 4 doanh nghiệp
thực hiện SA 8.000. Trước mắt, phía Mỹ yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam làm
theo SA 8.000 khi chưa có chứng chỉ, nhằm đáp ứng được những điều kiện, môi
trường làm việc của người lao động. Mặt khác, hàng dệt may của Việt Nam hiện
nay có tới 81,2% mặt hàng vải và hàng may mặc không có tên cơ sở sản xuất,
thành phần nguyên liệu, nhãn hiệu hàng hoá nên khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ
đã bị từ chối và bị trả lại hàng gây nên thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Các nhà nhập khẩu và bán lẻ Mỹ nêu rõ quan điểm xem Việt Nam là
một thị trường thiết yếu trong việc cung cấp hàng dệt may và họ quyết tâm tập
trung vào thị trường này trong thời gian tới, trong bối cảnh các hạn ngạch của các
thị trường nhập khẩu truyền thống đã đóng băng. Họ đánh giá Việt Nam như một
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 48 -
thị trường “mở” vì khả năng cung cấp mặt hàng dệt may ít nhất là đến năm 2004 -
năm mà họ đánh giá Mỹ sẽ thiếu nguồn nhập khẩu hàng dệt may trầm trọng. Các
nhà bán lẻ Mỹ khẳng định thị trường nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là sự
lựa chọn quan trọng tương đương với Trung Quốc và yêu cầu chính phủ không áp
dụng hạn ngạch đối với Việt Nam về mặt hàng này.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường mục tiêu không những của
doanh nghiệp Việt Nam mà còn của doanh nghiệp của các nước. Biện pháp nhanh
nhất để thâm nhập mạnh mẽ vào thị trường mục tiêu này là nước ta nhanh chóng
được gia nhập WTO để hưởng lợi từ việc bãi bỏ quota nhập khẩu dệt may và giảm
thuế suất nhập khẩu trong khối. Đó là thời kì mà các doanh nghiệp của Việt Nam
đang trông đợi và cũng phải đối đầu với rất nhiều thách thức mới ở thị trường khu
vực và thị trường quốc tế.
- Thị trường EU với số dân khoảng hơn 360 triệu người, là một thị
trường có sức mua về hàng dệt may rất lớn, đồng thời cũng là một thị trường có
nhiều yêu cầu khắt khe về chất lượng của hàng hoá. Đây chính là trung tâm thông
tin về mốt của hàng may mặc với nhiều cơ sở tạo mốt thời trang nổi tiếng như:
Feudi(Italia), Agnesh (Pháp), CEU of Girmer Gmbh (Đức)…Đây cũng là khu vực
có kỹ thuật sản xuất những sản phẩm dệt may cao cấp truyền thống. Theo tính
toán, hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường EU phần lớn (85% - 90%) là hàng
phải đạt yêu cầu về mốt thời trang. Mức nhập khẩu hàng năm tại thị trường này là
63 tỷ USD trong đó: Đức 24,8 tỷ USD, Pháp 9,8 tỷ USD, Anh 7,9 tỷ USD…Ngoài
số tự sản xuất tiêu dùng 40 tỷ USD (40%) và trao đổi nội bộ khu vực 44,8 tỷ USD
thì phải nhập khẩu thêm từ các nước Châu Á trên 1 tỷ USD hàng dệt may. (Nguồn:
Tạp chí thương mại số 60 - năm 2003). Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đặc
biệt phát triển mạnh từ sau Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam với
EU được kí kết ngày 15 tháng 12 năm 1992 và được thực hiện từ năm 1993 với tốc
độ tăng trưởng bình quân trên 23%/năm trong 5 năm 1993 - 1997.
Tháng 11 năm 1997, Hiệp định dệt may Việt Nam-EU đã được kí kết tại
Brussel. Hiệp định này thay thế Hiệp định cũ đã hết hạn vào ngày 31 tháng 12 năm
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 49 -
1997 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1998 đến hết năm 2000. Hiệp định mới
này về cơ bản vẫn giữ nguyên những điều khoản cũ, chỉ sửa đổi một số điều. So
với Hiệp định cũ, Hiệp định này đã giải phóng được 25 cat vốn là hàng “nóng” mà
Việt Nam đang có thị trường như cat 27 (váy ngắn nữ). Như vậy, năm 1998 EU chỉ
quản lý 29 mặt hàng bằng quota với tổng khối lượng tăng 31,4% so với năm 1997.
29 chủng loại hàng tiếp tục quản lý bằng hạn ngạch là cat 4 đến 10, 12, đến 15, 18,
20, 21, 26, 28, 29, 31, 35, 39, 41, 68, 73, 76, 78, 83, 97, 118, 161. Ngoài các cat
trên thì có tới 22 chủng loại hàng không bị khống chế số lượng nhưng chịu sự
quản lý qua cấp E/L khi xuất hàng là cat 1 đến 3, 16, 17, 19, 22, đến 24, 27, 32, 33,
36, 37, 90, 115, 117, 136, 156, 157, 159, 160. Các chủng loại hàng khác không
chịu sự quản lý bằng hạn ngạch hoặc E/L được xuất khẩu tự do vào thị trường EU,
thủ tục xuất nhập khẩu như đối với thị trường không hạn ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu sang EU
(Đơn vị : Triệu USD )
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Kim ngạch XK 225 410 521 555 609 559 540
Nguồn: Thống kê năm 2002 của Vinatex
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này
trong năm 2001 giảm đáng kể so với năm 2000. Năm 2001 hàng dệt may xuất
khẩu sang thị trường EU vẫn còn tồn một lượng lớn hạn ngạch chưa thực hiện. Cụ
thể cat 10: mặt hàng găng tay còn tồn 3.230.000 đôi, chiếm 60,7%, cat 13 quần lót
còn 3.909.000 chiếc chiếm 46,5%; cat 12 bít tất còn 2.872.000 đôi chiếm 98,4%;
áo Jacket còn 2.462.000 chiếc chiếm 12,8%, quần dệt kim còn 827.000 chiếc
chiếm 23,3%…Mặc dù năm 2001 xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường có nhiều
thuận lợi nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn do giá giảm liên tục, trong khi đó giá
nguyên liệu lại tăng. Các chuyên gia trong ngành cho rằng thị trường xuất khẩu
hàng dệt may còn nhiều khả năng mở rộng, song cạnh tranh cũng ngày càng gay
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 50 -
gắt, đặc biệt về giá cả, tỉ lệ xuất xứ hàng hóa, chất lượng sản phẩm và tiến độ giao
hàng.
Năm 2002, EU quyết định tăng 25% (trị giá 150 triệu USD) hạn ngạch
cho hàng dệt may của Việt Nam. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì các doanh
nghiệp Việt Nam mặc dù rất có khả năng thâm nhập thị trường EU nhưng luôn bị
hạn chế bởi chế độ hạn ngạch. Từ tháng 4 xuất khẩu vào hầu hết các thị trường
trong EU (trừ Áo và Ai Len) đều tăng, đến hết tháng 5 tăng 28,6% so với cùng kì
năm 2001. Đặc biệt sau 8 tháng thực hiện cơ chế mới về quản lý hạn ngạch hàng
dệt may xuất khẩu đi các thị trường có hạn ngạch, tạo sự bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang EU,
Canada và Thổ Nhĩ Kỳ, hầu hết các chủng loại mặt hàng xuất khẩu đều tăng mạnh.
Đó là cơ chế “cấp giấy phép tự động” cho toàn bộ các mặt hàng dệt may xuất khẩu
vào thị trường EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ.
Việc này sẽ chấm dứt khi đạt tỷ lệ xuất khẩu 50% hạn ngạch cơ sở trong
quý I, 70% trong quý II và 90% trong quý III. Xét trên toàn cục thì đây là cơ chế
mới nhưng có nhiều ưu việt. Năm 2003 là năm thứ 11 chúng ta thực hiện quản lý
và phân bổ hạn ngạch hàng dệt may đi EU (tính từ đầu năm 1993, khi Hiệp định
buôn bán hàng dệt may với EU có hiệu lực). Nhằm ổn định sản xuất và xuất khẩu,
sau khi tiếp thu ý kiến của các bộ ngành có liên quan và các thành phố lớn, ngày
12 tháng 8 năm 2002 liên Bộ Thương mại, Công nghiệp, Kế hoạch và Đầu tư đã
ban hành thông tư liên tịch số 08 hướng dẫn việc giao và thực hiện hạn ngạch xuất
khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ năm 2003. Quy chế
này được cải tiến bổ xung, đáp ứng được các yêu cầu: công khai, minh bạch,
không phân biệt đối xử; ổn định hạn ngạch để doanh nghiệp chủ động ký và thực
hiện hợp đồng năm 2003 ngay trong quý 4 của năm 2002; khuyến khích các công
ty xuất khẩu bằng vải sản xuất trong nước; sử dụng hạn ngạch có hiệu quả và tận
dụng lao động.
Đến nay chính sách cấp giấy phép xuất khẩu tự động vào thị trường EU
của một số mặt hàng đã không còn có hiệu lực: ngưng cấp giấy phép xuất khẩu tự
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 51 -
động đối với mặt hàng bộ quần áo ngủ (cat 18) và mặt hàng quần áo dệt kim (cat
83), quần áo bảo hộ lao động (cat 76), sợi tổng hợp (cat 41).
Tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang
thị trường EU năm 2002 lại giảm đáng kể so với năm 2001 chỉ đạt 540 triệu USD.
Trong năm 2003 Việt Nam lại có thêm một cơ hội tăng lượng hàng dệt may xuất
khẩu vào EU, sau khi Liên minh Châu Âu - EU đã chấp nhận tăng 50 - 70% hạn
ngạch cho các mặt hàng dệt may nhạy cảm của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường
này trong năm nay. Thoả thuận trên đạt được sau cuộc đàm phán bổ xung, sửa đổi
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU, được tiến hành từ 12 đến
15 tháng 2 năm 2003 tại Hà Nội. Trưởng đoàn đàm phán, Thứ trưởng Bộ thương
mại Lương Văn Tự và Trưởng đoàn phía EU, ông Lan Wilkinson, Vụ trưởng Vụ
Thương mại Uỷ ban Châu Âu, đã chính thức ký tắt Hiệp định. Theo đó, một số
mặt hàng dệt may khác của các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được xuất khẩu
sang EU theo nhu cầu. Hai bên cũng đồng ý đây là một Hiệp định mở và có thể
thảo luận để tăng cao hơn hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang
EU, vào bất kể thời điểm nào trong năm tới.
Đáp lại, Việt Nam cũng tạo điều kiện thuận lợi cho EU tăng đầu tư vào
Việt Nam phù hợp với yêu cầu của một nước đang phát triển và theo luật pháp
Việt Nam. Với Hiệp định vừa được kí kết, dự tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang thị trường EU trong năm 2003 có thể đạt tới 800 - 850 triệu
USD, tăng khoảng 300 triệu USD so với năm 2002, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu
giữa hai bên vượt con số 6 tỷ USD.
Việt Nam và EU đã qua 4 lần sửa đổi Hiệp định buôn bán hàng dệt may
ký năm 1992. Vào thời điểm đó, Việt Nam mới xuất khẩu sang EU gần 200 triệu
USD hàng dệt may mỗi năm. Năm 2002 tuy tăng hơn trước nhưng có xu hướng
giảm và chỉ đạt 540 triệu USD. Trong thời gian 10 năm qua, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang EU đạt bình quân 600 triệu USD/năm, lượng xuất
khẩu hàng dệt may luôn chiếm từ 50 - 65% tổng kim ngạch hàng dệt may xuất
khẩu. Chính vì thế các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không nên để mất thị
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 52 -
trường này.
Nguyên nhân của sự giảm sút kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam là: kể từ khi Hiệp định dệt may Việt-Mỹ có hiệu lực thi hành nhiều doanh
nghiệp dệt may trong nước tỏ ra lơ là đối với thị trường EU đổ xô vào thị trường
Mỹ để chiếm thị phần. Đa số doanh nghiệp dệt may trong nước cho rằng xuất
khẩu vào thị trường Hoa Kỳ dễ hơn so với xuất khẩu vào thị trường EU, vốn là thị
trường kỹ tính, có nhiều đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng, mẫu mã…hơn nữa
các đơn hàng từ thị trường Hoa Kỳ thường có số lượng nhiều hơn so với thị trường
EU.
Mặt khác, theo các chuyên gia thị trường, hoạt động xuất khẩu dệt may
từ Việt Nam sang EU mặc dù đã có 10 năm kinh nghiệm, nhưng chủ yếu vẫn là
xuất khẩu qua các doanh nghiệp trung gian của Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan…Và
các công ty này sử dụng Việt Nam như một cơ sở gia công. Họ cung cấp toàn bộ
vải, phụ kiện và mẫu mã, khách hàng cuối cùng chủ yếu là những nước trong EU
và những nước Tây Âu khác. Do các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam chủ
yếu vẫn làm gia công cho khách hàng truyền thống EU gọi là phương thức CTM,
phương thức này phụ thuộc rất nhiều vào người mua hàng và thực tế tạo ra ít giá
trị gia tăng. Các nhà xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến nay vẫn chưa hiểu rõ
thị trường và chưa xác định được mặt hàng truyền thống ở EU.
Các nhà sản xuất Việt Nam đang cố gắng nhập khẩu vải để có thể xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường nước ngoài theo phương thức FOB để tăng
hàm lượng giá trị gia tăng cho mặt hàng dệt may, tuy nhiên điều này đòi hỏi phải
có mối liên hệ với người mua cuối cùng, phải có kiến thức kinh nghiệm trong việc
tìm nguồn cung cấp vải, phụ kiện và nguồn vốn. Phương thức này cũng có nhiều
rủi ro riêng, chất lượng hàng không đồng bộ, không đúng hợp đồng dẫn đến hàng
bị từ chối, giao hàng chậm dẫn đến việc huỷ các đơn đặt hàng hoặc bị phạt, những
hậu quả đó có thể rất tốn kém. Hơn nữa, hàng dệt may Việt Nam đang phải cạnh
tranh khá gay gắt với Trung Quốc vốn một cường quốc về xuất khẩu dệt may lại
đang có lợi thế là thành thành viên chính thức của WTO và được phía EU bãi bỏ
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 53 -
hạn ngạch. Giá cả hàng dệt may Việt Nam cũng chưa có sức cạnh tranh do phải
gánh các chi phí phụ trợ như vận tải, giao nhận, lưu kho trong nước quá cao so với
các nước xuất khẩu hàng dệt may trong khu vực. Việc phân bổ hạn ngạch dệt may
cũng gây nhiều trở ngại đối với các doanh nghiệp dệt may, hạn ngạch thường
không được báo sớm, làm cho doanh nghiệp bị thụ động, luôn phải do dự không
dám ký đơn hàng lớn, mà chỉ dám nhận những đơn hàng nhỏ.
Nhiều chuyên gia cảnh báo rằng, nếu không chặn đứng và đảo ngược xu
hướng giảm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, việc thực thi
các chỉ tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam trong mấy
năm tới sẽ gặp nhiều khó khăn vì EU sắp tăng hạn ngạch cho Việt Nam để tiến tới
xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch vào năm 2005. Đặc biệt từ đầu năm 2004, khi EU sẽ
bao gồm 25 nền kinh tế thành viên, nếu doanh nghiệp dệt may Việt Nam không có
sự chuẩn bị bây giờ, rất có thể sẽ bị tuột mất thị phần và khách hàng. Để đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, các doanh nghiệp cần tìm
hiểu kỹ hơn thị hiếu tập quán tiêu thụ của các thị trường cụ thể ở EU, tăng cường
đầu tư để đảm bảo các tiêu chuẩn về xã hội, cải thiện chất lượng mẫu mã sản
phẩm…Đồng thời muốn thâm nhập vào thị trường EU có hiệu quả, doanh nghiệp
dệt may Việt Nam cần sớm sưu tập đủ các chứng chỉ về quản lý chất lượng như:
ISO 14.000, ISO 9.000, SA 8.000, BS 7750…bởi vì thị trường EU yêu cầu về chất
lượng còn khắt khe hơn cả thị trường Hoa Kỳ.
- Thị trường Nhật Bản vốn là một cường quốc về dệt may. Ngay từ
buổi đầu, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, Nhật Bản đã chọn
ngành dệt may như là một ngành công nghiệp mũi nhọn. Nhà nước Nhật Bản đầu
tư rất nhiều vào ngành này và đã đạt được mức tăng trưởng đáng kể, sản phẩm đã
đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước. Tuy nhiên, những năm gần đây,
do giá nguyên liệu trên thị trường thế giới cao, đồng yên tăng giá kết hợp với chi
phí lao động khá cao nên việc sản xuất các sản phẩm dệt may kém hiệu quả và lợi
nhuận thấp. Tình trạng này đã dẫn đến việc các nhà sản xuất chuyển dịch cơ cấu
sản phẩm ra nước ngoài và tăng cường nhập khẩu hàng dệt may.
Kho¸ LuËn tèt nghiÖp Cao ThÞ H¬ng-Líp NhËt 1-K38F
- 54 -
Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Nhật Bản khá cao, không
ngừng tăng lên trong thời gian gần đây. Năm 2000 tổng nhập khẩu hàng dệt may
của Nhật Bản là 40.938 tỷ yên tăng 16% so với năm 1999. Trong đó sản phẩm dệt
may nhập khẩu có tổng giá trị là 2.624 tỷ yên chiếm 6,5% tổng kim ngạch nhập
khẩu dệt may của Nhật Bản và tăng 11,6% so với năm 1999. Vải và phụ liệu
ngành may mặc giá trị nhập khẩu là 2.115 tỷ yên chiếm 5,2% trong tổng kim
ngạch nhập khẩu dệt may, tăng 14% so với năm 1999. Năm 2001, kim ngạch nhập
khẩu hàng dệt của Nhật Bản là 4,7 tỷ USD giảm 4% so với lượng nhập khẩu năm
2000, kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc vào thị trường này là 19,15 tỷ USD là
một con số khá lớn.
Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Nhật Bản
với kim ngạch khoảng 400 - 500 triệu USD/năm nhưng thị phần của ta tại Nhật
còn rất nhỏ bé. (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001*). Nhật Bản mỗi năm nhập
khẩu khoảng 23 tỷ USD thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm khoảng
2,5%, so với Trung Quốc 65%, Hàn Quốc 6%.
Ghi chú: * Website: /nhatban/
Để xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này các doanh nghiệp Việt
Nam cần chú trọng hơn nữa đến sản xuất dệt kim bởi khoảng 70% lượng nhập
khẩu dệt may của Nhật Bản là hàng dệt kim. Mục tiêu sẽ là thị trường đại chúng,
chưa p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam.pdf