Khóa luận Quan hệ thương mại và đầu tư Pháp - Việt: Thực trạng và triển vọng

Tài liệu Khóa luận Quan hệ thương mại và đầu tư Pháp - Việt: Thực trạng và triển vọng: TRƯờng đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương =========== khóa luận tốt nghiệp Đề tài: quan hệ thương mại và đầu tư pháp – việt thực trạng và triển vọng Giáo viên hướng dẫn : Vũ Thị Hiền Sinh viên thực hiện : Hoàng Cẩm Vân Lớp : Pháp 1 – K38E Hà Nội - 2003 Mục lục LờI NóI ĐầU 1 CHƯƠNG 1: KHáI QUáT Về QUAN Hệ PHáP - VIệT 3 I. Khái quát về nước Pháp 3 1. Về vị trí địa lý và dân số 3 2. Về chế độ chính trị 3 3. Về tiềm lực kinh tế 7 II. Sự cần thiết của việc phát triển quan hệ hợp tác Pháp - Việt 11 1. Về phía Pháp 11 2. Về phía Việt Nam 12 III. Quá trình phát triển quan hệ hợp tác Pháp - Việt 13 1. Giai đoạn trước năm 1973 13 2. Giai đoạn từ năm 1973 tới nay 15 IV. Năm lĩnh vực hợp tác cần được chú trọng trong việc phát triển quan hệ hợp tác Pháp - Việt 21 chơng 2: quan hệ thương mại và đầu tư 25 pháp - việt I. Thuận lợi và khó khăn của quan hệ thương mại và đầu tư 25 Pháp - Việt 1. Thuận lợi 25 2. Khó khăn 30 II. ...

doc86 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Quan hệ thương mại và đầu tư Pháp - Việt: Thực trạng và triển vọng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯờng đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương =========== khóa luận tốt nghiệp Đề tài: quan hệ thương mại và đầu tư pháp – việt thực trạng và triển vọng Giáo viên hướng dẫn : Vũ Thị Hiền Sinh viên thực hiện : Hoàng Cẩm Vân Lớp : Pháp 1 – K38E Hà Nội - 2003 Mục lục LờI NóI ĐầU 1 CHƯƠNG 1: KHáI QUáT Về QUAN Hệ PHáP - VIệT 3 I. Khái quát về nước Pháp 3 1. Về vị trí địa lý và dân số 3 2. Về chế độ chính trị 3 3. Về tiềm lực kinh tế 7 II. Sự cần thiết của việc phát triển quan hệ hợp tác Pháp - Việt 11 1. Về phía Pháp 11 2. Về phía Việt Nam 12 III. Quá trình phát triển quan hệ hợp tác Pháp - Việt 13 1. Giai đoạn trước năm 1973 13 2. Giai đoạn từ năm 1973 tới nay 15 IV. Năm lĩnh vực hợp tác cần được chú trọng trong việc phát triển quan hệ hợp tác Pháp - Việt 21 chơng 2: quan hệ thương mại và đầu tư 25 pháp - việt I. Thuận lợi và khó khăn của quan hệ thương mại và đầu tư 25 Pháp - Việt 1. Thuận lợi 25 2. Khó khăn 30 II. Thực trạng của quan hệ thương mại Pháp - Việt 32 1. Kim ngạch buôn bán hai chiều 32 2. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang 34 Pháp 3. Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Pháp 40 III. Quan hệ đầu tư trực tiếp Pháp - Việt 44 1. Hình thức đầu tư 45 2. Lĩnh vực đầu tư 46 3. Quy mô đầu tư 49 4. Phân bổ các dự án đầu tư theo địa bàn 50 IV. Viện trợ phát triển chính thức của Pháp cho Việt Nam 53 1. Các hình thức viện trợ phát triển chính thức 55 2. Tình hình viện trợ phát triển chính thức của Pháp cho Việt Nam 55 V. Đánh giá chung về quan hệ thương mại và đầu tư Pháp - Việt 58 1. Thành tựu đạt được 58 1.1 Về thương mại 58 1.2 Về đầu tư 60 2. Hạn chế và nguyên nhân 61 chơng 3: các giảI pháp nhằm thúc đẩy quan 63 hệ thương mại và đầu tư pháp - việt I. Triển vọng quan hệ thương mại và đầu tư Pháp - Việt 63 1. Định hướng phát triển quan hệ thương mại và đầu tư Pháp - 63 Việt 2. Dự báo triển vọng phát triển quan hệ thương mại và đầu tư 64 Pháp - Việt II. Những giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại và 66 đầu tư Pháp - Việt 1. Những giải pháp mang tính vĩ mô 66 1.1 Thúc đẩy quan hệ chính trị 66 1.2 Có chính sách hỗ trợ hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp 67 1.3 Có chính sách thu hút mạnh mẽ hơn nữa và nâng cao hiệu quả 68 sử dụng vốn FDI 1.4 Có chính sách thu hút mạnh mẽ hơn nữa và nâng cao hiệu quả 71 sử dụng nguồn vốn ODA 2. Những giải pháp mang tính vi mô 72 2.1 Các doanh nghiệp nên đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sang thị 72 trường Pháp 2.2 Nâng cao hiệu quả hàng nhập khẩu từ Pháp 73 2.3 Đào tạo bồi dưỡng cán bộ 74 2.4 Quan hệ hợp tác chặt chẽ với Phòng thương mại và công 75 nghiệp Pháp tại Việt Nam kết luận 77 Lời nói đầu Kể từ khi tiến hành đổi mới đến nay, Đảng ta luôn khẳng định chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá về mọi mặt chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội trên tinh thần hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi với tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Trong đó chúng ta luôn coi trọng các quốc gia có mối quan hệ truyền thống lâu đời. Trong những nước có mối quan hệ hữu hảo với Việt Nam, phải kể đến Cộng hoà Pháp. Là một nước lớn trong liên minh Châu Âu với số dân hơn 60 triệu người, Pháp là một thị trường lớn, có sức hấp dẫn cao đối với không chỉ nền kinh tế Việt Nam. Ngược lại Việt Nam là một trong số những nước đang phát triển có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất nhì thế giới, dân số lại khá đông nên nhu cầu về hàng hoá của Pháp về tiêu dùng và phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất cao. Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta đến nay (1973), kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai quốc gia ngày càng gia tăng. Cụ thể là kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Pháp là 677 triệu FRF (năm 1990) đến nay kim ngạch ngoại thương hai chiều giữa Việt Nam và Cộng hoà Pháp là 737,8 triệu USD (năm 2002). Trải qua 30 năm quan hệ ngoại giao, hiện nay có thể nói quan hệ về chính trị, văn hoá và nhiều mặt khác với Pháp là một trong những mối quan hệ tốt đẹp nhất của Việt Nam. Tuy nhiên quan hệ về kinh tế giữa hai quốc gia vẫn chưa thật tương xứng với tiềm năng của cả hai nước. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng tìm nhiều biện pháp để có thể thúc đẩy mối quan hệ thương mại - đầu tư giữa hai nước lên tầm cao mới. Chính vì lí do đó mà em đã lựa chọn đề tài: “Quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt: thực trạng và triển vọng” để viết Khoá luận tốt nghiệp trường Đại học Ngoại thương của mình. Nội dung Khoá luận bao gồm các chương sau: Chương 1: Khái quát về quan hệ Pháp – Việt Chương 2: Quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt Chương 3: Các giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư Pháp – Việt Với một thời gian không dài và việc thu thập tài liệu còn gặp nhiều hạn chế nên Khoá Luận Tốt Nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để Khoá Luận được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Vũ Thị Hiền, Giáo viên khoa Kinh tế ngoại thương, người đã trực tiếp và nhiệt tình hướng dẫn em viết Khoá luận tốt nghiệp này. Hà Nội, tháng 11 năm 2003 Sinh viên Hoàng Cẩm Vân Chương 1: Khái quát về quan hệ Pháp-Việt I. Khái quát về nước Cộng Hoà Pháp 1. Vị trí địa lý, dân số Nước Pháp nằm ở phía Tây Châu Âu với diện tích là 551.965 km², thủ đô là Paris. Pháp là đất nước rộng lớn nhất Tây Âu (chiếm gần 20% diện tích của liên minh Châu Âu) có vùng biển rộng lớn (vùng đặc quyền kinh tế trải rộng trên 11 triệu km²). Diện tích đồng bằng chiếm hai phần ba tổng diện tích. Dân số nước Pháp là 60 triệu người, trong đó có khoảng gần 30 triệu người ở độ tuổi lao động. Mật độ dân số là 105 người/km², mức thấp nhất liên minh Châu Âu (EU). 2. Về Chế độ Chính trị Nhà nước Pháp theo chế độ cộng hoà tư sản. Hiến pháp ngày 4 tháng 10 năm 1958 điều chỉnh sự vận hành của các thể chế của nền Cộng Hoà thứ năm. Hiến pháp đã được sửa đổi nhiều lần: bầu cử Tổng Thống Cộng Hoà theo phương thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp (1962), đưa thêm một mục mới liên quan đến trách nhiệm hình sự của các thành viên Chính Phủ (1993), thiết lập kỳ họp duy nhất ở Nghị Viện và mở rộng quy mô trưng cầu dân ý (1995), rút ngắn nhiệm kỳ Tổng Thống từ 7 năm xuống 5 năm (2000). Theo Hiến pháp năm 1958, người đứng đầu Nhà nước là trụ cột cho các thể chế. Đó là người đảm bảo để các thể chế vận hành tốt. Là người đứng đầu quân đội, chịu trách nhiệm cho độc lập dân tộc, Tổng Thống có một số quyền đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng. Tổng Thống có thể đưa ra trưng cầu dân ý một số dự thảo luật và giải tán Quốc Hội. Trên thực tế, Tổng Thống có một vai trò hàng đầu trong việc xác định các phương hướng của chính sách đối ngoại. Tổng Thống bổ nhiệm Thủ Tướng, cũng như các thành viên của Chính Phủ theo đề nghị của Thủ Tưóng, và chủ trì Hội Đồng Bộ Trưởng. Thủ Tướng Chính Phủ, người chịu trách nhiệm về quốc phòng và có nhiệm vụ thực thi các đạo luật, lãnh đạo hoạt động của Chính Phủ. Chính Phủ xác định và thi hành chính sách quốc gia. Chính Phủ có bộ máy hành chính và lực lượng vũ trang. Chính Phủ chịu trách nhiệm trước Nghị Viện. Người đứng đầu Nhà nước được nhân dân Pháp bầu trực tiếp. Người đứng đầu Chính Phủ được bầu theo hình thức đa số tại Nghị Viện. Trong trường hợp cùng chung sống, Tổng Thống và Thủ Tướng được bầu theo các hình thức đa số khác nhau. Với một Nghị Viện có hai Viện, Pháp có một hệ thống lưỡng viện đóng một vai trò chính trong sự vận hành dân chủ. Thật vậy, thông qua hai viện, những khác biệt về chính trị và tranh luận ý kiến được diễn ra một cách rộng rãi. Quốc hội được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp, đơn danh quá bán hai vòng, cho nhiệm kỳ 5 năm. Thượng Viện được bầu cho nhiệm kỳ 9 năm, theo hình thức phổ thông đầu phiếu gián tiếp và không thể bị giải tán như Quốc Hội. Cứ ba năm thì có một phần ba các Thượng Nghị Sĩ được bầu lại. Kỳ bầu cử gần đây nhất là vào tháng 9 năm 2001. Hội Đồng Hiến Pháp: cơ quan này là một trong những phát kiến lớn của nền Cộng Hoà thứ V. Hội đồng hiến pháp gồm chín thành viên, được bổ nhiệm cho nhiệm kỳ chín năm và không thể được tái bổ nhiệm. Ba thành viên, trong đó có Chủ Tịch Hội đồng do Tổng Thống bổ nhiệm, trong đó sáu thành viên còn lại, ba thành viên do Chủ Tịch Quốc Hội bổ nhiệm và ba thành viên do Chủ Tịch Thượng Viện bổ nhiệm. Khởi đầu với chức năng đảm trách theo dõi việc phân chia quyền lực giữa Nghị Viện và Chính Phủ, vai trò của Hội đồng hiến pháp ngày càng tăng lên. Hội đồng hiến pháp ngày càng tăng cường kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật, trở thành cơ quan bảo vệ các quyền tự do cơ bản. Mặt khác, Hiến pháp nhiều lần được sửa đổi để phù hợp hơn với những đòi hỏi mới của Nhà nước pháp quyền và những vấn đề bức thiết của Châu Âu. Được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của nền Cộng Hoà, chính sách đối ngoại của Pháp nhằm hai mục đích là gìn giữ độc lập quốc gia đồng thời phấn đấu vì sự phát triển của tình đoàn kết khu vực và quốc tế. Pháp, một cường quốc thứ tư trên thế giới luôn muốn xây dựng và cải cách Châu Âu. Châu Âu luôn là trung tâm trong chính sách đối ngoại của Pháp. Tướng De Gaulle, các Tổng Thống Pompidou, Giscard d’Estaing, F.Mitterrand và J.Chirac đã không ngừng phấn đấu cho việc xây dựng và phát triển liên minh Châu Âu để biến tổ chức này thành một cường quốc kinh tế và một cơ cấu chính trị được tôn trọng. Mười lăm nước thành viên Liên minh Châu Âu tập hợp 380 triệu dân. Khối này sánh ngang với lục địa Bắc Mỹ về kinh tế và nhân lực và là một trong những khu vực kinh tế quan trọng nhất của thế giới. Liên minh Châu Âu có đồng tiền của riêng mình là đồng Euro, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 ở mười hai nước (Đức, áo, Bỉ, Tây Ban Nha, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Ai len, ý, Luxembourg, Hà Lan và Bồ Đào Nha): là sự cụ thể hoá của Liên minh tiền tệ, đồng tiền quốc tế mới này đang phải đương đầu với những thử thách của quá trình toàn cầu hoá. Liên minh 15 nước Châu Âu cũng cần phải tăng cường bản sắc chính trị và chuẩn bị cho sự mở rộng của liên minh đối với nhiều Nhà nước ứng cử viên. Nghiên cứu về tương lai của Châu Âu và về những cải cách về mặt thể chế được trao cho một uỷ ban do cựu Tổng Thống Cộng Hoà Pháp Valery Giscard d’Estaing làm Chủ Tịch. Về đảm bảo an ninh quốc tế và đấu tranh chống khủng bố: những năm chiến tranh lạnh cũng như thời kỳ bất ổn kế tiếp sau đó đã đặt lên vai nước Pháp và các quốc gia dân chủ khác những trọng trách lớn. Tham gia vào khối liên minh Bắc Đại Tây Dương (OTAN), Pháp cũng là thành viên của tổ chức Hợp tác và An ninh Châu Âu (OSCE) và Quân đội Châu Âu. Ngoài ra, là một trong năm cường quốc hạt nhân, Pháp đảm bảo việc duy trì và đưa đường lối răn đe của mình phù hợp với những thực tế chiến lược mới, đồng thời nỗ lực phấn đấu cho việc cấm hoàn toàn các vụ thử hạt nhân. Mặt khác, sau thảm họa ngày 11 tháng 9 tại Mỹ, nước Pháp đã khẳng định tình đoàn kết của mình trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế. Pháp đã tham gia vào các chiến dịch gìn giữ hoà bình chống lại tổ chức Al Qaeda do lực lượng quốc tế trợ giúp an ninh (ISAF) tiến hành tại Afghanistan. Trên trường quốc tế, chính sách đối ngoại của Pháp là tôn trọng các nguyên tắc và mục tiêu của tổ chức Liên Hiệp Quốc, vốn như hình thức phản ánh các lý tưởng Cộng Hoà. Chính vì vậy từ năm 1945, nước Pháp không ngừng bảo vệ tổ chức này với khoản đóng góp tài chính đứng hàng thứ 4. Pháp là một trong số năm thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, cơ quan quyền lực cao nhất của Liên Hiệp Quốc. Ngày nay các công cụ của chính sách hợp tác của Pháp đã được thay đổi để thích nghi với những mục tiêu mới. Hoạt động chủ yếu của các dự án và chương trình viện trợ cho phát triển được giao cho Cơ quan phát triển Pháp (AFD), cơ quan tài chính đóng vai trò điều phối chủ chốt. Tổng số tiền viện trợ công cộng của Pháp cho phát triển lên tới 4,6 tỉ Euro trong năm 2001, chiếm 0,32% tổng sản phẩm quốc nội (đứng đầu trong số các nước G8 trong lĩnh vực này). Chính sách hợp tác của Pháp cũng nhằm vào việc tăng cường các hoạt động văn hoá và gia tăng các dự án song phương về khoa học kỹ thuật. Sự hiện diện của nước Pháp được thể hiện qua đông đảo các trung tâm và học viện văn hoá, các trường trung học và trường học theo chương trình Pháp (150.000 học sinh) và qua Alliance Franỗaise, có mặt ở trên 140 nước (hơn 1200 văn phòng). Hợp tác khoa học kỹ thuật cũng rất tích cực. Các tổ chức như Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa học Quốc Gia (CNRS), Viện Y tế và Nghiên cứu Y học Quốc Gia (INSERM) hay Viện Nghiên cứu Nông nghiệp thực phẩm Quốc gia (INRA) hoạt động tại nhiều nước. Khi dành một vị trí đặc biệt cho hoạt động nhân đạo trong chính sách đối ngoại, nước Pháp thể hiện mong muốn được tiếp tục ở cấp độ cao nhất những giá trị mà Pháp đã là nước đi tiên phong. Các tổ chức Phi Chính Phủ của Pháp (ONG) hoạt động thường xuyên tại những nơi xảy ra thiên tai và trong các cuộc xung đột vũ trang. Trong số đó, có các tổ chức Bác sỹ không biên giới (MSF), Bác sỹ thế giới (MDM), Dược sỹ không biên giới (PSF), Hoạt động Quốc tế chống lại nạn đói (AICF). Về tiềm lực kinh tế Pháp là nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh nhất châu Âu. Năm 2003, tăng trưởng kinh tế của Pháp đã dần lấy lại được nhịp độ tăng trưởng (khoảng 2%) so với 1,2% của năm 2002. Mặc dù kinh tế có sự giảm sút, chủ yếu do sự suy giảm của môi trường quốc tế (tác động của các cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001) và do nhu cầu giảm đi của các doanh nghiệp, Pháp vẫn là nước có tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cao hơn mức trung bình của khu vực đồng Euro và của liên minh Châu Âu cụ thể là GDP của Pháp năm 2001 là 20.635 USD/người và năm 2002 đã tăng lên đạt 22.690 USD/người. Tuy trong bối cảnh nền kinh tế không được phát triển như trước nhưng tiêu dùng của các hộ gia đình Pháp vẫn thể hiện những khả năng giữ vững mạnh mẽ so với toàn bộ các nước trong khu vực đồng Euro và là động lực chính của tăng trưởng kinh tế Pháp. Nhìn chung, sức tiêu thụ vẫn giữ tốc độ tăng trưởng như năm vào khoảng +2,9%/năm. Cụ thể là các chi tiêu tiêu dùng các sản phẩm chế biến và dịch vụ vẫn năng động với mức gia tăng 3,1% và 3,3%/năm. Ngoài ra, việc giảm và bình ổn giá dầu lửa và các sản phẩm chế biến của nước ngoài đã đóng góp vào việc kiềm chế lạm phát. Việc chuyển sang sử dụng đồng tiền Euro vào tháng một năm 2002 chỉ có tác dụng không đáng kể tới việc gia tăng giá cả (+0,1%). Tóm lại, Pháp là nước có tất nhiều tiềm lực để duy trì sự ổn định và phát triển của nền kinh tế đồng thời còn có khả năng thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn nữa nhờ vào các thành phần kinh tế trong nước vốn đã rất phát triển, cộng thêm một yếu tố căn bản để phát triển kinh tế đó là yếu tố con người. Pháp là nước có nguồn nhân lực có trình độ cao kết hợp với trình độ công nghệ phát triển, nguồn chất xám từ các nước Châu á chảy vào, lại có thêm chính sách các thành phần kinh tế của Nhà nước chúng ta có thể thấy rằng Pháp có rất nhiều điều kiện để phát triển nền kinh tế. Một số ngành chủ đạo trong nền kinh tế Pháp: Nước Pháp sở hữu 13 trong số một trăm doanh nghiệp đa quốc gia lớn nhất. Những năm gần đây, lĩnh vực dịch vụ trở thành hướng đầu tư trực tiếp chủ yếu của Pháp ra nước ngoài. Thống kê cho thấy có khoảng 19.177 chi nhánh doanh nghiệp Pháp ở nước ngoài, trong số đó 52% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và 48% trong các lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Liên minh Châu Âu là đối tác đứng đầu, sau đó là Bắc Mỹ trong số các đối tác chính của doanh nghiệp Pháp. Tổng đầu tư của Pháp ở nước ngoài so với GDP tương đương với số tiền đầu tư Pháp tiếp nhận, vào khoảng 19%. Con số này khiến Pháp vượt lên trên Đức (15%), Nhật Bản (7%), nhưng đứng sau Mỹ (25%) và Anh (36%). Ngành xe hơi và vận tải với số lượng xe hơi bán ra tại thị trường nội địa cũng như xuất khẩu đã tăng lên đáng kể. Xe hơi của Pháp thâm nhập mạnh thị trường Châu Âu. Hiện nay xu thế chung trên thế giới là các hãng sản xuất ô tô sát nhập lại với nhau để tạo thành các tập đoàn khổng lồ và tháng 3 năm 1999, Renault đã nắm quyền kiểm soát Nissan-Nhật chiếm 9,1% thị phần đứng hàng thứ 4 thế giới sau GM-Isuzu-Forel, Volvo-Mazda, Toyota-Daihatsu. Công nghiệp hàng không vũ trụ của Pháp đứng vào hàng thứ ba trên thế giới sau Mỹ và Anh. Hiện nay ba đặc trưng lớn của ngành này là có nhiều triển vọng đối với việc sản xuất máy bay dân dụng, cạnh tranh ngày càng gay gắt trong ngành vũ trụ và khó khăn trong việc sản xuất, tiêu thụ máy bay quân sự. Về lĩnh vực vận tải hàng không và đường bộ, đã có một số công ty của Pháp có mặt tại Việt Nam như: Air France (vận tải hành khách và hàng hoá theo đường hàng không), Cica (vận tải đường bộ), Graveleau (vận tải), SDV Vietnam, Cargoteam. Chúng ta có thể thấy rằng đối với ngành này, Pháp có rất nhiều triển vọng để phát triển như sự phát triển của công nghệ, đội ngũ kỹ thuật viên lành nghề và quan trọng hơn cả là thị trường để phát triển. Ngành công nghiệp điện tử viễn thông: hai động lực chính thúc đẩy ngành này của Pháp là Quốc Phòng và thị trường công cộng về viễn thông. Công nghiệp điện tử và viễn thông Pháp có những tập đoàn lớn như SCS-Thomson, Bull, Alcatel, Alstom. Các công ty điện tử viễn thông của Pháp đã có mặt tại Việt Nam là FCR Vietnam, EDF, Schneider Electric, Thales International Asia Holding. Ngành hoá dược của Pháp có uy tín và sức mạnh truyền thống, đứng hàng thứ tư trên thế giới. Các tập đoàn lớn trong ngành dược của Pháp là Roussel-Uclaf, Sanofi, Rhône-Poulenc. Các tập đoàn này hiện cũng đã có mặt tại Việt Nam : Aventis Pharma, Bio-Rad Laboratoires, Pierre Fabre, Sanofi Synthelabo, Sanpromex, Servier Vietnam. Lĩnh vực thực phẩm của Pháp rất phát triển với các mặt hàng chủ yếu là ngũ cốc, các sản phẩm sữa, thịt gia súc do có được những điều kiện thuận lợi trong nuôi trồng cũng như sản xuất. Bên cạnh đó, rượu vang và sâm banh cũng là thế mạnh của Pháp. Có mặt tại Việt Nam là các công ty như Aqua Service Vietnam, Groupe Bourbon, La Vie Joint Venture Company, Tobaccor. Ngành da giầy và dệt may là ngành gặp nhiều khó khăn do hàng Châu á tràn ngập, doanh số không tăng và các xí nghiệp phải chuyển sản xuất ra nước ngoài. Một nguyên nhân nữa giải thích tại sao ngành da giầy và dệt may ngày càng thu hẹp hoạt động là do khó khăn về đời sống, người Pháp có khuynh hướng mua quần áo và giầy dép rẻ tiền và tận dụng đồ đã có sẵn. Một số tập công ty của Pháp về lĩnh vực này đã thâm nhập thị trường Việt Nam như FLD Vietnam, Phoenix Worldwide, Pierre Cardin Vietnam, S.N.E Weil Besancon. Về ngành nông nghiệp: mặc dù không còn là một nước nông nghiệp, Pháp vẫn đứng thứ hai về xuất khẩu nông sản sau Mỹ. Người làm nông nghiệp ở Pháp chỉ chiếm 5% dân số lao động. Nhờ đẩy mạnh chuyên môn hoá trong nông nghiệp, năng suất lao động nông nghiệp Pháp thuộc loại cao trên thế giới. Hoạt động khuyến nông chủ yếu do các nhóm nông dân đảm nhận. Nhà nước tập trung vào các hoạt động nghiên cứu cơ bản và đào tạo. Lĩnh vực dịch vụ là một trong những thế mạnh của kinh tế Pháp gồm các ngành du lịch, tài chính-ngân hàng, phân phối, bảo hiểm, dịch vụ cho các xí nghiệp. Du lịch : Pháp vẫn là điểm du lịch đứng đầu trên thế giới nhờ vào các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, khí hậu ôn hoà... Các công ty du lịch của Pháp hoạt động tại Việt Nam là Exotissimo, Phoenix Vietnam. Bên cạnh đó còn phải kể đến hệ thống các khách sạn của Pháp tại Việt Nam như Hilton Hanoi Opera, Sofitel Metropole Hanoi, Sofitel Plaza Saigon, Sofitel Plaza Hanoi, Sunway Hotel Hanoi, Victoria Hotel & Ressorts. Tài chính ngân hàng: Pháp đã tiến hành tư hữu hoá các ngân hàng nhà nước như Crédit Lyonnais, BNP. Hiện nay có những ngân hàng làm ăn có lãi như: CCF, Société Générale, Crédit Agricole... Các ngân hàng của Pháp đã có mặt tại Việt Nam là BNP Paris, Crédit Agricole Indosuez, Crédit Lyonnais, Natexis, Société Générale. Về phân phối: Các siêu thị của Pháp phát triển khá mạnh trong thời gian ba thập kỷ lại đây. Ngành phân phối của Pháp hiện nay là một ngành đang trên đường Châu Âu hoá bằng cách hợp nhất thông qua việc ký các hợp đồng hợp tác với các công ty nước ngoài. Các hãng lớn như Carrefour, Auchan, Intermarché, Lelerc. Pháp đã xây dựng hai đại siêu thị Cora tại Việt Nam mà cụ thể là tại thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay đang trong giai đoạn xây dựng một đại siêu thị là Bourbon tại Hà Nội. II. Sự cần thiết của việc phát triển quan hệ hợp tác Pháp-Việt 1. Về phía Pháp Kể từ đầu thập kỷ 90, Pháp thực hiện một chính sách nhất quán đối với Việt Nam, coi Việt Nam là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình ở khu vực. Với chính sách đó, Pháp mong duy trì và đẩy mạnh ảnh hưởng truyền thống của họ ở ba nước thuộc địa cũ ở Đông Dương và hy vọng Việt Nam đóng vai trò cầu nối cho sự hợp tác giữa Pháp và các nước khác trong khu vực. Pháp thấy ở Việt Nam: Một xã hội ổn định lâu dài về chính trị. Sức lao động, trí tuệ, đất đai dồi dào là những lợi thế của Việt Nam mà Pháp có thể khai thác, các doanh nghiệp Pháp có thể yên tâm làm ăn lâu dài. Hệ thống pháp luật kinh tế, các cơ chế chính sách đang được từng bước đồng bộ hoá nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh đã thực sự có sức hấp dẫn các nhà đầu tư Pháp. Quan hệ kinh tế đối ngoại được tăng cường nhằm mở rộng thị trường ngoài nước, thu hút nguồn nhân lực bên ngoài theo phương châm: Việt Nam là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trên thực tế, các nước bạn bè quốc tế luôn coi Việt Nam là một nhân tố của hoà bình, ổn định, là một đối tác giàu tiềm năng và đáng tin cậy. Việt Nam có những bước đi vững chắc nhằm hoà nhập vào sân chơi chung của quan hệ kinh tế quốc tế đương đại. Tại hội nghị cấp cao á-âu, Việt Nam sẽ là một tiếng nói có trọng lượng ủng hộ quan điểm của Pháp. Những kết quả đáng khích lệ thu được trong những năm đổi mới đó là kinh tế tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, lạm phát được kiềm chế, đời sống của nhân dân được cải thiện đã giúp chúng ta giành được niềm tin và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế nói chung và của Pháp nói riêng. Thêm vào đó là Việt Nam được coi là một thị trường tiềm năng với hơn 80 triệu dân với sức mua ngày càng được nâng cao sẽ là điều kiện thuận lợi để Pháp tăng cường xuất khẩu hàng hoá của mình. Ngay từ đầu những năm 90, Pháp đã dành cho Việt Nam một sự hỗ trợ chính trị và tài chính quan trọng, tạo điều kiện cho Việt Nam tái hội nhập về chính trị, thực hiện chuyển đổi và phát triển kinh tế. Để làm được điều này, Pháp đã huy động toàn bộ các công cụ hợp tác của chính phủ: nghị định thư hợp tác về tài chính, hỗ trợ của Cơ quan Phát triển Pháp, tín dụng, hợp tác và phát triển văn hóa của Bộ Ngoại Giao, xoá nợ viện trợ lương thực, viện trợ khẩn cấp. Hiện nay, Pháp là nhà tài trợ đứng hàng thứ tư ở Việt Nam (với 106 triệu Euro cam kết cho năm 2002), chỉ đứng sau Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển Châu á và Ngân hàng Thế Giới. Việt Nam đã trở thành thành viên của Cộng đồng Pháp ngữ từ năm 1995 và đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Pháp ngữ năm 1997. Đặc biệt sau khi cải cách cơ cấu hợp tác phát triển ở Pháp, Việt Nam đã được xếp vào “Khu vực đoàn kết ưu tiên” và vì thế có thể nhận được những khoản tín dụng hợp tác lớn hơn. Xã hội công dân của Pháp cũng đã được huy động tham gia thúc đẩy quan hệ hợp tác Pháp-Việt. Với 300.000 người Pháp gốc Việt, nước Pháp là nước có cộng đồng người Việt lớn thứ hai trên thế giới sau Hoa Kỳ. Gần 40 tỉnh, thành phố, vùng của Pháp và hơn 100 hiệp hội đoàn kết quốc tế đã thiết lập mối quan hệ hợp tác với Việt Nam. 2. Về phía Việt Nam Để đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã gia nhập tổ chức ASEAN và AFTA và các hội nghị cấp cao EU-ASEAN (ASEM). Tháng 11 năm 1998, Việt Nam chính thức là thành viên của Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC) mở ra một không gian mới cho sự hợp tác về kinh tế và thương mại. Như vậy, Việt Nam không còn bị phân biệt đối xử cả trên bình diện đa phương lẫn song phương. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình phấn đấu trở thành thành viên WTO. Pháp sẽ ủng hộ tích cực đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam. Đối với Việt Nam, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế và khu vực vừa là xu thế tất yếu, vừa là một yêu cầu khách quan. Đây là một quá trình đầy khó khăn và thử thách nhưng mang lại những lợi ích to lớn. Việt Nam coi Pháp là một đối tác quan trọng trong các nước phương Tây. Đẩy mạnh quan hệ với Pháp về mọi mặt, Việt Nam có thể hoà nhập vào thị trường EU và tạo ra một sự hài hoà cân bằng trong quan hệ với các nước tư bản lớn khác như Anh, Mỹ, Đức. Pháp sẽ là cầu nối Việt Nam với EU để mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với các nước EU khác. Pháp là một tiếng nói trọng lượng trong đàm phán của Việt Nam với EU. Hơn nữa, vào tháng 6 năm 2000 Pháp giữ vai trò Chủ Tịch EU, vì vậy Việt Nam đã tranh thủ sự ủng hộ của Pháp để mở rộng khả năng xuất khẩu hàng dệt may bằng cách thuyết phục EU tăng thêm hạn ngạch. Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản bằng việc EU đưa thêm vào danh sách những xí nghiệp được phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU. Riêng đối với mặt hàng da giầy không bị EU áp dụng hạn ngạch sẽ là một thuận lợi lớn. Pháp là thị trường với 60 triệu người tiêu dùng, một thị trường có khả năng thanh toán cao, nhu cầu lớn và ổn định đối với nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Qua phân tích trên, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư giữa hai nước Việt Nam và Pháp. III. Quá trình phát triển quan hệ hợp tác Pháp-Việt. Giai đoạn trước năm 1973 Năm 1885, Pháp đã hoàn thành việc xâm lược và biến Việt Nam thành thuộc địa. Trong thời kỳ đô hộ Việt Nam, thực dân Pháp đã tổ chức chế độ quản lý và khai thác thuộc điạ với ba điểm đáng lưu ý sau: Thiết lập một bộ máy quản lý hành chính và ban hành các văn bản pháp luật phục vụ yêu cầu quản lý ba miền Việt Nam. Khai thác một cách có hệ thống tài nguyên của Việt Nam như: gạo, cao su, cà phê, than đá. Xây dựng một số cơ sở hạ tầng: đường xá, thành phố và nhà máy, xí nghiệp. Cho đến năm 1954, sau thất bại ở Điện Biên Phủ và với việc ký kết hiệp định Genève, Pháp buộc phải rút ra khỏi nước ta. Khi rút khỏi Việt Nam, Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với chính quyền tay sai ở Sài Gòn, từ chối bình thường hoá quan hệ với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trên cơ sở bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Tháng 12/1954, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã chấp nhận cho Chính phủ Pháp lập cơ quan Tổng đại diện tại Hà Nội. Ngày 14/10/1954 Hiệp định thương mại đầu tiên được ký kết mở đầu quan hệ chính thức trao đổi hàng hoá giữa hai nước Việt Nam - Pháp. Nhưng cho đến tận tháng 3/1956, Pháp mới thoả thuận về việc lập cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam tại Paris và tháng 8/1966 quan hệ này được nâng lên cấp Tổng đại diện. Trong thời kỳ Mỹ xâm lược Việt Nam, đặc biệt từ khi Pháp chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ đối với Mỹ, chính phủ Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối chính sách can thiệp của Mỹ ở Đông Dương. Ngày 29/8/1963, Tổng Thống De Gaulle tuyên bố mong muốn: “Một Việt Nam độc lập với bên ngoài, hoà bình thống nhất bên trong, hoà hợp với các nước láng giềng” và cho rằng chính sự can thiệp của Mỹ là nguồn gốc gây ra chiến tranh và đòi Mỹ chấm dứt mọi hành động chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam. Sau khi Pháp nâng cấp quan hệ với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, quan hệ giữa Chính quyền Sài Gòn và Pháp xấu đi và thậm chí đã bị gián đoạn cho đến tận năm 1973. Trước việc leo thang chiến tranh của Mỹ, Pháp đồng ý cho Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam lập phòng thông tin tại Paris năm 1968. Năm 1973, Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đàm phán tại Paris giữa Việt Nam và Mỹ về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam. Xét về thực chất, trong suốt giai đoạn từ 1955 đến 1973, mối quan hệ thương mại giữa hai nước chỉ dừng lại ở con số rất khiêm tốn. Tuy trao đổi hàng hoá không bao giờ bị gián đoạn ngay cả trong những năm tháng mà quan hệ chính trị và ngoại giao hai nước căng thẳng, kim ngạch buôn bán rất nhỏ và tăng hết sức chậm chạp. Tổng kim ngạch trao đổi hai chiều hàng năm đạt khoảng từ 1 đến 5 triệu FRF. Giai đoạn từ 1973 tới nay Ngay sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết năm 1973, hai nước Việt Nam và Pháp đã nâng quan hệ ngoại giao lên cấp Đại sứ và năm 1976, sau khi nước ta thống nhất, Pháp đã chính thức công nhận nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Năm 1977, chuyến thăm chính thức Cộng Hoà Pháp của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng mở ra một trang mới trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Pháp. Hiệp định hợp tác kinh tế và công nghiệp và Hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật đã được ký kết. Nhờ vậy, hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, đào tạo, giảng dạy tiếng Pháp bắt đầu được thúc đẩy. Đồng thời, quan hệ kinh tế, thương mại song phương cũng có những chuyển biến. Ngay từ lúc đó, chính phủ Pháp đã dành cho Việt nam một khoản viện trợ ODA khá lớn tài trợ cho việc xây dựng một số công trình và cung cấp thiết bị toàn bộ giúp Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Về đầu tư, các xí nghiệp cũ của Pháp ở lại miền Nam sau giải phóng đã thành lập các liên doanh nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam như Vinaspecia và Roussel - Việt Nam. Tuy nhiên trong những năm 70 đầu thập kỷ 80, những chiến dịch vu cáo xung quanh việc Việt Nam giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng và vấn đề thuyền nhân tỵ nạn đã có ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ giữa hai nước. Ngoại trừ quan hệ văn hoá, giáo dục và đào tạo, các quan hệ khác đều bị đóng băng. Hợp tác giữa hai nước được nối lại vào cuối những năm 80 và ngày càng phát triển đa dạng, đặc biệt là từ năm 1991, khi chính sách đổi mới của Việt Nam thu được những thành tựu bước đầu quan trọng và Việt Nam bắt đầu tái hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Tháng 7 năm 1993, Chính phủ Pháp đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 50 triệu USD để trả nợ cho IMF nhằm giải toả mối quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 1993, Tổng Thống Mitterrand thăm Việt Nam và sau đó Thủ Tướng Võ Văn Kiệt thăm Pháp. Qua hai chuyến viếng thăm ở cấp cao, Pháp đã tỏ rõ thái độ ủng hộ Việt Nam hoà nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Điều đáng lưu ý là cuối năm 1993, Pháp đã giúp Việt Nam giải quyết vấn đề nợ nhà nước tại Câu lạc bộ Paris bằng cách thuyết phục các chủ nợ thông qua phương án trả nợ có lợi cho ta. Bản thân Pháp đã xoá nợ cho Việt Nam 1,215 tỷ FRF trong số 2,2 tỷ FRF và giải toả 34 triệu FRF thuộc tài sản của Việt Nam bị phong toả tại Ngân khố Pháp từ năm 1954. Tháng 10/1994 tại Hội nghị đầu tiên các nhà tài trợ quốc tế, Pháp đã vận động các nước cam kết tài trợ cho Việt Nam 2 tỷ USD. Để hỗ trợ cho các xí nghiệp Pháp làm ăn ở Việt Nam, Pháp đã nối lại bảo hiểm tín dụng xuất khẩu COFACE cho Việt Nam và đưa Việt Nam từ nhóm 4 (nhóm nhiều rủi ro nhất trong đầu tư) lên nhóm 3. Để tỏ rõ mối quan tâm của mình muốn thúc đẩy quan hệ Pháp – Việt và coi Việt Nam là cầu nối giữa Pháp và các nước khác ở khu vực này, tháng 11/1994, Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp lúc đó, Alain Juppé khi đi thăm Việt Nam đã tuyên bố: “Nước Pháp nằm ở giữa lục địa Châu Âu, một châu lục đang ngày càng trở nên thống nhất và nước Việt Nam nằm ở giữa lục địa Châu á, một châu á đã được hoà giải và đang tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Hai nước chúng ta có thể cùng nhau làm nên nhiều việc lớn”. Tháng 12 năm 1996, khi đến thăm Singapore, Tổng Thống Pháp Chirac đã phát biểu: “Tôi đặc biệt chào mừng Việt Nam gia nhập ASEAN. Với việc tìm lại vị trí của mình trong tổ chức khu vực này, Việt Nam có thể sử dụng tài năng tuyệt vời của người dân và sự năng động kỳ diệu của dân tộc mình vào sự phát triển đất nước”. Tháng 12 năm 1999 Pháp giảm danh sách các đối tượng được nhận viện trợ từ 100 nước xuống còn 53 nước nhưng vẫn giữ Việt Nam trong danh sách này. Với Pháp, cho đến nay, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định hợp tác quan trọng như Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật (1989). Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1992). Hiệp định về hợp tác y tế (1992). Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (1993). Hiệp định hợp tác về dược (1994). Hiệp định hợp tác về du lịch (1996). Thoả thuận về quan hệ hai nước trong lĩnh vực kinh tế quốc phòng (1997). Đặc biệt là quan hệ giữa hai nước đã tiến những bước dài sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN tháng 7/1995, Việt Nam là thành viên đầy đủ tham gia tích cực vào hội nghị á - Âu (ASEM). Đồng thời, Việt Nam đã ký hiệp định khung về hợp tác với EU mà theo đó Việt Nam và EU cùng trao cho nhau quy chế đãi ngộ tối huệ quốc. Năm 1996 Việt Nam và EU đã ký kết văn bản “Tiến tới hợp tác trong mọi lĩnh vực” giai đoạn 1996 - 2000 với 6 mục tiêu trong đó có 3 mục tiêu về hợp tác kinh tế đó là : Tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao và trao đổi công nghệ trong những ngành kinh tế chủ chốt, tăng cường trao đổi thương mại và đầu tư. Đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tếvà hành chính đang được tiến hành ở Việt Nam. Giúp Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Như Tổng Thống Pháp Chirac đã nói trong chuyến viếng thăm nước ta vào tháng 11 năm 1997 : “Từ rất lâu người Việt Nam và người Pháp đã gặp nhau. Ngay từ thế kỷ XVII, các nhà thông thái Pháp đã tìm cách hiểu biết cặn kẽ hơn nền văn minh lâu đời và ngôn ngữ Việt Nam. Kể từ đó, hai dân tộc chúng ta đã dệt nên những sợi dây liên kết bền vững nhất giữa hai dân tộc với nhau. Những liên kết ấy đã tồn tại bất chấp những đối đầu và sự xa cách về địa lý giữa hai nước chúng ta. . . Trong tất cả các lĩnh vực, các quan hệ giữa chúng ta đã không ngừng củng cố và mở rộng. . . Đối thoại giữa hai nước phát triển, gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam và Pháp được tăng cường. . . Chúng ta hãy cùng nhau đi xa hơn nữa. hãy tăng cường sự hợp tác về ngôn ngữ, khoa học và y tế. Hãy nhân rộng các chương trình về hỗ trợ sư phạm và đào tạo đại học. Hãy mở thêm các trường trung học và các lớp song ngữ. Chúng ta hãy cùng nhau phát triển các cơ sở giáo dục mới, bao trùm tất cả các khu vực của đời sống kinh tế, hành chính và công nghệ. Các doanh nghiệp Pháp, lớn cũng như nhỏ, có kỹ năng và kinh nghiệm về tăng trưởng và luôn sẵn sàng chia sẻ với Việt Nam những kỹ năng và kinh nghiệm đó, tất nhiên là sẵn sàng hợp tác với các bạn. Tôi kêu gọi các nhà lãnh đạo kinh tế, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư Pháp hãy tiếp tục những cố gắng của họ trên đất nước Việt Nam, hãy tới Việt Nam đông đảo hơn và nắm lấy những thời cơ mà Việt Nam đã trao cho.” Mặc dù có những thăng trầm của lịch sử, sự có mặt của Pháp ở Việt Nam vẫn còn để lại nhiều dấu ấn trong các lĩnh vực như giáo dục, hành chính và thiết kế hạ tầng cơ sở mà ba mươi năm chiến tranh không làm mất đi hoàn toàn. Người Việt Nam luôn có tín nhiệm với những thành tựu kỹ thuật của Pháp và ngược lại, người Pháp tìm thấy ở người Việt Nam những đức tính quý báu: cần kiệm, thông minh, dũng cảm... Mối quan hệ lâu đời giữa hai nước, mặc dù trải qua chiến tranh đã tạo nên những giao lưu kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật. Nhân dân hai nước có những hiểu biết sâu sắc về văn hoá, ngôn ngữ, thói quen và phong tục tập quán của nhau. Phát triển các mối quan hệ song phương về mọi mặt giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế nói riêng mang lại những lợi ích lớn lao cho cả hai phía. Trao đổi giữa Pháp và Việt Nam đã được nhân lên năm lần trong vòng mười năm, điều đó chứng tỏ sức mạnh của mối liên hệ thương mại giữa chúng ta với đất nước này. Năm 2001, Việt Nam là nhà cung cấp thứ 43 của Pháp, đứng trước Australia, Côte d’Ivoire, Hy Lạp nhưng Việt Nam chỉ đứng hàng thứ 71 trong số các khách hàng của Pháp. Trao đổi giữa Việt Nam và các nước có đồng tiền có thể chuyển đổi từ năm 1987 đã dần thay chỗ các trao đổi với các nước Liên Xô cũ và Đông Âu. Ngoại thương Việt Nam chủ yếu hướng tới các nước trong khu vực, nhưng nước Pháp đã sớm biết tận dụng sự biến chuyển này trước các cường quốc thương mại khác, với những trao đổi thương mại tăng nhanh kể từ khi đất nước chúng ta mở cửa trở lại năm 1986. Trong vòng mười năm, trao đổi giữa chúng ta với Pháp đã tăng gấp năm lần, xuất khẩu của chúng ta (tăng gấp mười lần) đã tăng nhanh hơn nhập khẩu (tăng trung bình 8% mỗi năm). Đáng chú ý trong hai năm 1995 và 1996 là việc chúng ta mua mười máy bay Airbus 320 của Pháp. Cán cân thương mại của Pháp từ xuất siêu hơn 100 triệu Euro đầu những năm 90 chuyển sang nhập siêu hơn 500 triệu Euro năm 2001. Theo số liệu thống kê của Việt Nam, năm 2001, nước Pháp là nhà cung cấp đứng thứ 11 của Việt Nam với 2% thị phần, đứng sau các nước Châu á (Xingapo, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc...), những nước chiếm tới hơn 80% hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Tuy nhiên, Pháp vẫn đứng sau Mỹ, nhà cung cấp hàng thứ 8 trong số tất cả các nước, nhưng lại là nhà cung cấp phương Tây hàng đầu mới đây ký với Việt Nam một hiệp định thương mại. Chúng ta cũng thấy là lần đầu tiên Đức đứng trước Pháp trong vai trò nước xuất khẩu Châu Âu số một tại Việt Nam. 54% hàng xuất khẩu của nước này là máy móc, thiết bị và linh kiện rời. Tuy nhiên, trong các số liệu này, ảnh hưởng của Pháp có phần bị giảm đi trước việc các cảng Xingapo và Hồng Kông đóng vai trò tái phân phối trong khu vực, nhất là với rượu vang và các loại rượu nặng. Tuy nhiên, sự mở cửa dần dần của Việt Nam ra bên ngoài sẽ làm gia tăng sự cạnh tranh và để duy trì được một vị thế mạnh trên thị trường Việt Nam, các doanh nghiệp của Pháp cần phải có sự nỗ lực thường xuyên. Xuất khẩu của Pháp sang Việt Nam giảm dần. Dược phẩm có vị trí chiếm lĩnh trong cơ cấu ngành của trao đổi thương mại song phương là nhờ vào nỗ lực đào tạo của Pháp trong giới y khoa và sự hiện diện của các phòng thí nghiệm Pháp ở Việt Nam. Xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thực phẩm của Pháp cũng giảm dần. Sự giảm sút này gắn với tình hình giảm nhu cầu nội địa. Xuất khẩu rượu vang và sâmpanh (4 triệu Euro) giảm một triệu Euro đã chứng minh cho điều này, ngoài ra các sản phẩm này cùng với rượu mạnh đều bị làm giả với số lượng lớn. Thâm hụt thương mại xuất hiện lần đầu tiên năm 1999 vẫn tiếp tục diễn tiến xấu. Nhập khẩu của Pháp từ Việt Nam năm 2001 tăng so với năm 2000, nhưng đến năm 2002 thì lại giảm so với năm 2001. Từ năm 1993, nhập khẩu từ Việt Nam của Pháp liên tục tăng. Sự gia tăng này gắn với việc thiết lập một Hiệp Định song phương với Liên minh Châu Âu năm 1995, điều này cho phép Việt Nam phát triển việc bán các sản phẩm chế biến, dệt và nhất là các sản phẩm từ da. Nếu thêm vào đó các sản phẩm nông nghiệp thực phẩm, ba loại sản phẩm trên chiếm tới 90% hàng nhập khẩu của Pháp. Trong lĩnh vực may mặc và các sản phẩm từ da, nhập khẩu của Pháp tiếp tục tăng. Chỉ riêng ba loại hàng hoá này đã chiếm gần 2/3 nhập khẩu của Pháp. Nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm của Pháp tăng chủ yếu nhờ vào hải sản, một ngành đang phát triển mạnh ở Việt Nam. Về đầu tư thì Pháp là nước đầu tư hàng đầu của phương Tây tại Việt Nam. Với giá trị đầu tư cộng dồn từ năm 1988, Pháp giữ vị trí thứ sáu trong số các nhà đầu tư nước ngoài với 115 dự án đầu tư lên tới hơn 1,8 tỷ đô la, chiếm 5, 6% tổng giá trị các giấy phép được cấp trong thời kỳ này. Có khoảng 200 xí nghiệp Pháp hoạt động tại Việt Nam, trong đó một nửa là các văn phòng đại diện. Có 5 chi nhánh ngân hàng Pháp và 4 văn phòng luật sư. Đa số các dự án đầu tư của Pháp được thực hiện dưới hình thức liên doanh. Các công ty liên doanh chiếm 40% tổng số giá trị đầu tư của Pháp đựoc cấp giấy phép, gần 20% thuộc về các công ty 100% vốn của Pháp. Đầu tư của Pháp được phân phối tương đối cân bằng trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu đa số đầu tư của Pháp tập trung tại miền Nam (78%) thì Hà Nội và các tỉnh phía Bắc (20%) chiếm một tỉ trọng không nhỏ. Trái lại, miền Trung tỏ ra ít hấp dẫn (2% đầu tư). Qua đó chúng ta có thể thấy được rằng quan hệ giữa Việt Nam và Pháp ngày càng phát triển và chúng ta cần có những biện pháp để duy trì mối quan hệ tốt này đồng thời cũng phải mở rộng hơn nữa trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai nước. IV. năm lĩnh vực hợp tác cần được chú trọng trong việc phát triển quan hệ hợp tác Pháp-Việt. Quan hệ hợp tác Pháp – Việt được phát triển dựa trên năm lĩnh vực hợp tác ưu tiên. Những ưu tiên này hoàn toàn phù hợp với những mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam cũng như phù hợp với những mục tiêu đề ra trong chính sách của Pháp ở Việt Nam là củng cố tình đoàn kết, mở rộng ảnh hưởng và khẳng định sự có mặt về kinh tế. Hỗ trợ Việt Nam về mặt pháp luật và chính sách trong thời kỳ quá độ Hội nhập khu vực và quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải hiện đại hoá hệ thống pháp luật, xây dựng những chính sách phát triển mới và tăng cường đào tạo các cán bộ quản lý. Các dự án hợp tác của Pháp được triển khai trong lĩnh vực pháp lý từ đầu những năm 90 sẽ mang laị những đóng góp tích cực cho công cuộc cải cách hiện nay: cải cách hệ thống ngân hàng (các khoản tín dụng của Bộ Ngoại Giao thông qua Cơ Quan Phát Triển Pháp), hội nhập của Việt Nam vào quá trình trao đổi kinh tế quốc tế. Trong năm 2002, Pháp đã triển khai các dự án hỗ trợ cho các cơ quan tài chính của Việt Nam (Bộ Tài Chính, Tổng Cục Thống Kê). Thành lập năm 1993, Nhà Pháp Luật Việt-Pháp là cơ quan hợp tác liên chính phủ được sự bảo trợ của Bộ Tư Pháp hai nước. Với một đội ngũ nhân viên Việt Nam, hoạt động của nhà Pháp luật Việt-Pháp đã thu hút sự tham gia của mọi thành viên trong giới luật gia, cán bộ ngành tư pháp, cán bộ nhà nước, giáo viên. Nhà Pháp luật Việt-Pháp tham gia hỗ trợ kỹ thuật cho chính phủ Việt Nam trong chương trình hiện đại hoá hệ thống pháp luật Việt Nam. Sự hỗ trợ kỹ thuật này được thực hiện thông qua các buổi làm việc, trao đổi giữa các chuyên gia Pháp và đại diện các bộ ngành Việt Nam có nhiệm vụ soạn thảo các văn bản pháp quy mới. Mới đây, nhà Pháp luật Việt-Pháp đã hỗ trợ cho Việt Nam trong việc soạn thảo Bộ luật tố tụng dân sự và cải cách Luật Bưu Chính Viễn Thông. Bên cạnh các hoạt động kể trên, hàng năm, nhà Pháp luật Việt-Pháp còn tổ chức một khoá đào tạo 7 tháng về tiếng Pháp pháp lý (với 200 học viên một năm). Đây cũng là cơ quan đầu mối tuyển chọn các sinh viên theo học ngành luật tại Pháp và được cấp học bổng của chính phủ Pháp. Nhà Pháp luật cũng tham gia triển khai các dự án được Quỹ Đoàn kết Ưu tiên tài trợ: đào tạo thẩm phán, hỗ trợ về mặt pháp lý cho Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền thương mại thế giới. Thư viện của Nhà Pháp luật bao gồm các sách nguyên bản và sách dịch sẽ giúp các độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn luật pháp của Pháp và các nước khác trên thế giới, cũng như các độc giả Pháp có thể tiếp cận các văn bản pháp luật cơ bản của Việt Nam. Hỗ trợ cải cách hệ thống giáo dục và nghiên cứu Việt Nam đang phải cải cách hệ thống giáo dục để đáp ứng các yêu cầu về số lượng (mỗi năm hệ thống giáo dục Việt Nam tiếp nhận thêm khoảng một triệu lượt học sinh) và về chất lượng (phát triển công tác giảng dạy ngoại ngữ, cải cách quy trình đào tạo, phát triển nghiên cứu). Để hỗ trợ Việt Nam, nước Pháp đã tham gia tài trợ cho các chương trình giáo dục trong khuôn khổ song phương (đào tạo đại học, nghiên cứu khoa học) hay đa phương (các lớp song ngữ và các lớp đại học Pháp ngữ chuyên ngành). Các chương trình này chủ yếu thuộc các lĩnh vực đào tạo quản lý kinh tế (Trung tâm Đào tạo Quản lý Pháp-Việt, CFVG), đào tạo kỹ sư (Chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao, PFIEV), đào tạo chuyên đề nghiên cứu khoa học (Dự án ESPOIR), hoặc dưới hình thức cấp học bổng (tính đến ngày 31/10/2001 đã có 649 sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam được nhận học bổng của Chính phủ Pháp). Trong số các chương trình và dự án hợp tác bắt đầu vào năm 2002, có thể kể đến: dự án đào tạo các cán bộ và thanh tra của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Trung tâm đào tạo kỹ sư bảo trì công nghiệp tại Hà Nội và một dự án hỗ trợ phát triển các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực khoa học xã hội. Tăng cường hợp tác văn hoá trên cơ sở trao đổi và chuyển giao tri thức Việt Nam có một nhu cầu lớn về phát triển văn hoá và gìn giữ bản sắc. Các dự án hợp tác của Pháp trong lĩnh vực này nhằm hỗ trợ các hoạt động sáng tạo nghệ thuật, phát triển kinh nghiệm tổ chức các hoạt động văn hoá (Festival Huế) và góp phần bảo tồn di sản văn hoá. Để thực hiện điều này, Pháp đã thực hiện chương trình Hỗ trợ xuất bản (PAP). Chương trình hỗ trợ xuất bản được triển khai từ năm 1990 nhằm mục tiêu trợ giúp các nhà xuất bản Việt Nam thực hiện một chính sách dài hạn trong việc xuất bản các ấn phẩm bằng tiếng Pháp, tiếng địa phương hoặc song ngữ của các tác giả Pháp trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt về văn học, khoa học xã hội và nhân văn. Các khoản trợ giúp của Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội nhằm hạ giá bán, tạo điều kiện cho đông đảo độc giả có thể tiếp cận với các tác phẩm của các tác giả Pháp. Hiện nay, hơn một nửa trong tổng số khoảng năm mươi nhà xuất bản tại Việt Nam than gia vào chương trình này. Hỗ trợ quá trình chuyển đổi nền kinh tế đồng thời thúc đẩy quan hệ hai chiều với các doanh nghiệp Pháp Mục tiêu đặt ra là góp phần vào quá trình hiện đại hoá nền kinh tế đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư trong các lĩnh vực ưu tiên. Nhiều chương trình với các công cụ khác nhau đang tham gia vào lĩnh vực này. Hoạt động của Quỹ Dự trữ dành cho các Nước Mới nổi (RPE) là quỹ cung cấp các khoản tài chính ưu đãi cho các dự án phát triển ưu tiên và có tính khả thi. Hoạt động của Quỹ này chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến cơ sở hạ tầng như hệ thống nước, điện, y tế, giao thông đường bộ và đường biển. Ngoài ra, từ năm 1998, hỗ trợ dự án của Bộ Kinh tế, Tài chính và Công nghiệp Pháp tập trung nhiều vào các lĩnh vực đòi hỏi các công nghệ hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu hỗ trợ quá trình hiện đại hoá của Việt Nam. Hoạt động của Cơ quan phát triển Pháp tai Việt Nam thông qua các khoản vay ưu đãi cho Nhà nước Việt Nam phục vụ các dự án và chương trình liên quan đến lĩnh vực sản xuất. Chương 2. Quan hệ Thương Mại và Đầu Tư Pháp-Việt Thuận lợi và khó khăn trong phát triển quan hệ Thương Mại và Đầu Tư Pháp-Việt Thuận lợi a. Quan hệ Việt Nam và Pháp đã có từ lâu đời, là mối quan hệ xuất phát từ những liên hệ lịch sử và hiểu biết giữa hai dân tộc Theo một số sách lịch sử ghi chép lại, người Pháp đã có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 17 với sự có mặt của thầy tu dòng xứ Avignon ở miền Bắc Việt Nam với mục đích truyền bá đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam. Ông cũng chính là người đã La-tinh hoá thành công tiếng Việt. Thành tựu này đã giúp người Việt Nam có điều kiện tiếp thu nhanh nền văn minh thế giới. Cùng với các nhà truyền giáo, các nhà buôn Pháp đã cập bến ở cảng phố Hiến và cảng Hội An để trao đổi vũ khí, thuốc súng và các đồ vật dụng khác để lấy các sản vật của Việt Nam. Hoạt động giao lưu thương mại này đặc biệt phát triển vào đầu thế kỷ 18. Sau khi kết thúc chiến tranh giữa hai nước Việt Nam và Pháp, ngày 20 tháng 12 năm 1954, chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã chấp nhận cho Chính phủ Pháp lập văn phòng Tổng đại diện thương mại tại Hà Nội. Tháng 3 năm 1956, Pháp đồng ý cho Việt Nam lập cơ quan đại diện thương mại tại Paris và ngày 12/4/1973 Việt Nam và Pháp lập quan hệ ngoại giao chính thức. Từ năm 1973-1978 quan hệ giữa hai nước đã được đẩy mạnh. Quan hệ này được chuyển sang một bước phát triển mới sau chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Pháp vào tháng 4/1997, tiếp đến hai bên đã ký kết Hiệp định văn hoá-khoa học kỹ thuật làm cơ sở hợp tác giữa hai nước. Từ năm 1979-1988 quan hệ hai nước bị gián đoạn do có vấn đề Campuchia. Từ năm 1989 đến nay, quan hệ hai nước đã được cải thiện và ngày càng phát triển và mở rộng thể hiện ở nhiều thoả thuận quan trọng như Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế-văn hoá-khoa học kỹ thuật (1989), Hiệp định khuyến khích và bảo đảm đầu tư (1992), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (1993), Hiệp định hợp tác về du lịch (1996). Bước tiến trong quan hệ giữa hai nước được đánh dấu sau chuyến thăm của Tổng thống F.Mitterrand và hầu hết các nhân vật chủ chốt về ngoại giao, tài chính thương mại, tư pháp, y tế và đô thị... của Pháp đều đã sang thăm Việt Nam. Và từ đó cho tới nay, quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước đã không ngừng được cải thiện. b. Pháp coi Việt Nam là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Pháp ở Châu á Pháp rất ưu tiên trong việc nối lại viện trợ phát triển, tăng cường và mở rộng quan hệ với Việt Nam, hỗ trợ giải toả quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài trợ quốc tế, ủng hộ việc Việt Nam thiết lập và tăng cường quan hệ với EU. Chuyến thăm chính thức nước ta của Tổng thống Pháp J.Chirac và Hội nghị cấp cao lần thứ 7 các nước có sử dụng tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11/1997 đã đánh dấu cột mốc mới trong quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Đặc biệt, sau khi cải cách cơ cấu hợp tác phát triển ở Pháp, Việt Nam đã được xếp vào “Khu vực Đoàn kết Ưu tiên” và vì thế có thể nhận được những khoản tín dụng hợp tác lớn. Trong năm 1997, hai bên đã ký nhiều thoả thuận quan trọng như Nghị định thư tài chính, Hiệp định viện trợ không hoàn lại 2900 tấn lương thực, thoả thuận CFD về phát triển cây cà phê chè... Pháp tiếp tục ủng hộ và vận động các nước khác ủng hộ nỗ lực của Việt Nam hội nhập quốc tế, tăng cường quan hệ với EU trên nhiều phương diện và gia nhập WTO. Sự ủng hộ của Pháp đối với Việt Nam còn được thể hiện thông qua Mạng lưới hỗ trợ xuất khẩu của Pháp bao gồm hai mạng lưới chính đó là mạng lưới hỗ trợ của Nhà nước và mạng lưới các Phòng Thương Mại và Công nghiệp. Mạng lưới hỗ trợ của Nhà nước Tổng vụ kinh tế đối ngoại (gọi tắt là DREE) là một tổng vụ thuộc Bộ Kinh tế, Tài chính và Công nghiệp Pháp có chức năng vừa hoạch định vừa thực thi chính sách quan hệ kinh tế đối ngoại của Pháp. Trong bộ máy hỗ trợ xuất khẩu của Pháp, DREE là cơ quan quản lý các mạng lưới đó là mạng lưới 176 “Bốt khuyếch trương kinh tế Pháp” đặt tại nước ngoài (gọi tắt là PEE) với hai nhiệm vụ chính là ngoại giao kinh tế và hỗ trợ doanh nghiệp Pháp; mạng lưới 24 “Ban ngoại thương vùng” (gọi tắt là DRCE) có chức năng hướng dẫn thông tin và liên kết các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư nước ngoài giúp các cơ quan, tổ chức chính quyền địa phương và doanh nghiệp địa phương mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại; Trung tâm ngoại thương Pháp (gọi tắt là CFCE) hợp tác chặt chẽ với mạng lưới các PEE ở nước ngoài trong việc thu thập thông tin về tình hình kinh tế và thương mại của nước ngoài và sau khi tổng hợp, giám định và phân tích phát hành các thông tin đó qua nhiều con đường phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, Cơ quan khuyếch trương kỹ nghệ và doanh nghiệp Pháp (gọi tắt là CFME-ACTIM) trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các cuộc hội chợ ở nước ngoài hay trực tiếp tổ chức các hội chợ, triển lãm chuyên ngành của Pháp tại nước ngoài, hướng dẫn các doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận doanh nghiệp và kỹ nghệ Pháp. Ngoài ra còn có sự tham gia của công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Pháp (gọi tắt là COFACE) tuy đã đứng ra tư nhân hoá nhưng công ty vẫn mang sứ mạng được giao đó là đứng ra bảo hiểm các hoạt động xúc tiến và xuất khẩu, Hải quan Pháp... Mạng lưới các Phòng Thương mại và Công nghiệp Đó là những tổ chức công cộng, hoạt động theo luật định và dưới sự giám sát của Nhà nước với sứ mệnh phục vụ các doanh nghiệp thành viên. Trên thực tế, Phòng Thương Mại và Công nghiệp Pháp tại Việt Nam đã giúp được rất nhiều cho các doanh nghiệp trong việc đưa ra những lời khuyên, những thông tin cần thiết về mọi phương diện tức là tất cả các dịch vụ liên quan đến các quá trình hoạt động khác nhau của doanh nghiệp; giúp các doanh nghiệp đào tạo thông qua mạng lưới các trường do Phòng Thương Mại quản lý hoặc có sự hỗ trợ; tổ chức các buổi tọa đàm về tình hình phát triển kinh tế tại Việt Nam, quan hệ thương mại giữa Pháp và Việt Nam đồng thời cũng đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. c. Các định hướng cũng như biện pháp đảm bảo đầu tư của Chính phủ Việt Nam Khuyến khích mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu, và phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; khuyến khích mạnh mẽ các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn nguồn lực chưa được khai thác. Tạo thêm các ưu đãi trong các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn và đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở các địa bàn này bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. Thu hút đầu tư trực tiếp từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ vào Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và từ những nước có công nghệ tiên tiến, đồng thời tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu vực. Đồng thời chính phủ Việt Nam cũng đưa ra các biện pháp bảo đảm đầu tư như: bảo đảm đối xử công bằng và bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và dần tiến tới đảm bảo không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài; vốn và tài sản thường xuyên của các nhà đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá bằng các quyết định hành chính; việc chuyển lợi nhuận thu được từ hoạt động thường xuyên, từ thu nhập do chuyển giao công nghệ hoặc dịch vụ và tất cả các khoản tiền và tài sản phù hợp với pháp luật được đảm bảo. d. Pháp là một nước lớn và khá trụ cột trong Liên minh Châu Âu Pháp là một nước lớn trong Liên minh Châu âu với dân số khoảng 60 triệu người. Với số dân đông thứ nhì Châu Âu, Pháp là một thị trường rất lớn của hàng hoá Việt Nam. Do Pháp và Việt Nam có mối quan hệ truyền thống, lâu đời nên người dân Pháp từ lâu đã có thói quen tiêu dùng các sản phẩm của Việt Nam. Hiện nay, thị hiếu của người Pháp rất phù hợp với cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Đó là các sản phẩm thuỷ sản, may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, thêu ren... Trong tiềm thức của người dân Pháp, khi nói tới Việt Nam là họ cảm thấy rất gắn bó, nên việc lựa chọn các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam thường được họ ưu tiên. Các sản phẩm của Việt Nam từ lâu bằng chất lượng của mình đã tạo ra một tâm lí tốt cho người dân Pháp. Mặt khác, số kiều dân Việt Nam ở Pháp cũng khá đông cùng với lượng học sinh có xu hướng sang Pháp du học như hiện nay thì nhu cầu về các sản phẩm nông sản, thực phẩm mang tính chất quê hương ở một bộ phận người này là rất lớn. Chính vì vậy mà trong tương lai, với sự nỗ lực của Chính phủ và các doanh nghiệp, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Pháp sẽ tăng trưởng mạnh. Pháp là một nước được Chính phủ Việt Nam rất coi trọng trong việc củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị hợp tác cùng phát triển. Pháp là nước công nghiệp phát triển nên lĩnh vực công nghệ sản xuất của họ rất phát triển cũng như lực lượng kỹ sư lành nghề. Điều này tạo rất nhiều thuận lợi cho quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Pháp. Quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Pháp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong quan hệ với thị trường EU vì Pháp được coi là cửa ngõ của EU đối với Việt Nam và ngược lại, quan hệ tốt với Việt Nam sẽ tạo thuận lợi cho Pháp khi vào thị trường Châu á. e. Tiềm năng tiêu thụ của thị trường Việt Nam Với dân số hơn 80 triệu người, thu nhập đầu người lại đang gia tăng, Việt Nam là một thị trường rất lớn của Pháp. Theo đáng giá của Ngân Hàng thế giới, sức tiêu thụ của người dân Việt Nam là khoảng 2000 USD/năm, đồng thời, nhu cầu và thị hiếu của người Việt Nam đang dần thích ứng với các sản phẩm chất lượng cao của Pháp như mỹ phẩm, rượu, thực phẩm, thuốc men... Đây là một thuận lợi rất lớn đối với quan hệ thương mại giữa hai nước. Với một thị trường rộng lớn như Việt Nam cùng với nguồn lao động dồi dào, tài nguyên phong phú, môi trường chính trị ổn định thì Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư Pháp Khó khăn Thứ nhất là hai nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau. Sau thất bại của Pháp năm 1954 tại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, Việt Nam trở thành nước tuyến đầu của hệ thống xã hội chủ nghĩa đi ngược lại hệ thống tư bản chủ nghĩa do đó quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Pháp trước năm 1975 hầu như rất hạn chế. Sau năm 1975 quan hệ kinh tế giữa hai nước mới từng bước được phát triển song rất chậm chạp. Kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai nước rất nhỏ so với kim ngạch buôn bán của Pháp với các nước trong khu vực do Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu chỉ trao đổi buôn bán với các nước trong khối SEV theo hiệp định kinh tế ký kết hàng năm giữa các nước trong khối ngoài ra còn do hàng hoá sản xuất không đủ tiêu chuẩn, thanh toán chậm do thiếu ngoại tệ... về phía Pháp chưa chú ý buôn bán thực sự với Việt Nam. Thứ hai là do chủ nghĩa bá quyền công nghệ của Pháp. Cũng như một số nước tư bản công nghiệp hàng đầu khác, các tập đoàn tư bản Pháp thực hiện chính sách bá quyền công nghệ, tức là họ giữ độc quyền các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất để phục vụ lợi ích và duy trì địa vị độc tôn của họ. Pháp chỉ chuyển giao cho các nước đang phát triển những công nghệ thứ yếu-công nghệ loại hai, những công nghệ sử dụng nhiều nhân công, thậm chí là những công nghệ gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Thứ ba là do hai nước có khoảng cách địa lý rất xa nhau nên việc vận chuyển hàng hoá gặp nhiều khó khăn nên chi phí vận chuyển và bảo hiểm cao. Thực tế khi vận chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang Pháp và ngược lại bằng đường biển phải mất 1 tháng. Do đó việc hàng hoá bị hư hao, tổn thất, gặp các sự cố dọc đường là không thể tránh khỏi. Điều này làm cho giá thành hàng hoá tăng cao, khó cạnh tranh. Mặt khác vận chuyển hàng hoá thông thường lại không thể dùng đường hàng không vì chi phí quá đắt trong khi đó các phương thức vận chuyển khác như đường sắt thì lại không có. Đây có thể nói là một trở ngại lớn nhất trong buôn bán của hai nước Việt Pháp. Thứ tư là, đối với phía Việt Nam, một trở ngại cũng rất lớn đó chính là sự cạnh tranh gay gắt của các nước khác trong khu vực Đông Nam á và Trung Quốc. Bởi vì các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Pháp hầu hết đều trùng với các sản phẩm của các nước trên. Do đó việc tranh giành thị trường và khách hàng là không thể tránh khỏi. Chất lượng hàng hoá của Việt Nam những năm qua đã có nhiều cải thiện đáng kể, hàng trăm doanh nghiệp được nhận các chứng chỉ về quản lí chất lượng hàng hoá nhưng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn chưa được nâng lên. Vì vậy các doanh nghiệp của chúng ta cần phải nỗ lực rất nhiều để có thể chiếm lĩnh được thị trường Pháp. Một trở ngại nữa đối với Việt Nam là Việt Nam mới bước vào nền kinh tế thị trường chưa được bao lâu, thị trường Việt Nam còn rất nhỏ bé và hàng hoá có chất lượng chưa cao. Mặt khác thị trường Pháp cũng là một thị trường tương đối khó tính. Yêu cầu về chất lượng hàng hoá của người dân Pháp khá cao so với một số nước khác. Hơn nữa hiện nay EU (trong đó có Pháp) đang có nhiều chính sách bảo hộ chặt chẽ nền nông nghiệp trong nước. Họ đặt ra nhiều hàng rào cản thương mại và phi thương mại như chính sách thuế quan nhập khẩu, chính sách kiểm dịch thực vật, các qui định về nhãn mác hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm, đo lường… để hạn chế nhập khẩu từ các nước có cơ cấu sản xuất giống họ. Đây cũng là một trở ngại khá lớn đối với các nhà xuất khẩu của Việt Nam. Một trở ngại khác nữa cũng cần phải kể đến là cơ cấu xuất khẩu của ta còn khá bất cập. Hiện nay chúng ta vẫn chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thực phẩm, giày dép, dệt may, khoáng sản, than đá…Các sản phẩm này chủ yếu dựa vào lợi thế có sẵn của Việt Nam như tài nguyên thiên nhiên, sức lao động rẻ mạt mà các lợi thế này sẽ có lúc cạn kiệt. Do đó chúng ta cần phải có chiến lược lâu dài cho xuất khẩu. Cần phải đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chất lượng cao, chứa nhiều chất xám hơn nữa. Cuối cùng phải nói đến một trở ngại luôn làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính của Việt Nam mặc dù đã được cải thiện rất nhiều nhưng vẫn bị kêu là rườm rà. Vì vậy cải cách thủ tục hành chính cho thông thoáng hơn là một việc làm cần thiết của Chính phủ. II. Thực trạng của quan hệ thương mại Pháp-Việt Kim ngạch buôn bán hai chiều Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, quan hệ chính trị giữa hai nước được cải thiện, thúc đẩy quan hệ hợp tác nói chung và quan hệ buôn bán nói riêng. Tuy nhiên, trao đổi hàng hoá chỉ dừng ở mức thấp và không ổn định do sức ép của các thế lực thù địch chống đối Việt Nam về vấn đề Campuchia và do chính sách cấm vận của Mỹ. Cuối những năm 80, những năm đầu tiên của công cuộc đổi mới, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp chỉ chiếm 3-5% tổng giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam vì Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế đồng thời vẫn bị gây sức ép chính trị về vấn đề Campuchia. Sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết (năm 1991) trao đổi thương mại giữa hai nước đã được tăng cường. Để hiểu rõ hơn về tình hình trao đổi thương mại giữa hai nước từ năm 1996 đến nay, chúng ta có thể xem xét bảng số liệu sau: Bảng 1: Kim ngạch thương mại Pháp - Việt từ năm 1996 đến nay. Đơn vị: triệu USD Năm Tổng kim ngạch Việt Nam xuất khẩu Việt Nam nhập khẩu Xuất siêu số tuyệt đối tốc độ tăng (%) số tuyệt đối tốc độ tăng (%) số tuyệt đối tốc độ tăng (%) số tuyệt đối tốc độ tăng (%) 1996 416,9 145 271,9 -126,9 1997 454,6 9,04 238,1 64,2 216,5 - 20,4 21,6 117,02 1998 507,9 11,7 307,4 29,1 200,5 - 7,4 106,9 394,9 1999 551,5 8,6 354,9 15,5 196,6 - 1,95 158,3 48,08 2000 708,8 28,5 379,8 7,02 329 67,3 50,8 - 67,9 2001 784,1 10,6 467,5 23,09 316,6 - 3,77 150,9 197,04 2002 737,9 - 5,9 438,5 - 0,62 299,4 - 5,4 139,1 - 7,82 2003 891,2 20,8 504,8 15,1 386,4 29,05 118,4 - 14,9 Nguồn: Báo cáo về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Pháp từ năm 1996 đến nay của Tổng cục Hải quan - Bộ Thương Mại Xem xét bảng trên ta thấy, năm 1996 giá trị nhập khẩu của Việt Nam gần gấp đôi so với giá trị xuất khẩu là do nguyên nhân Việt Nam nhập thuê 8 máy bay Airbus 320 của Pháp trị giá trên 1.800 triệu FRF và do nhu cầu nhập khẩu cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Xu thế chủ đạo trong quan hệ thương mại Pháp-Việt là Việt Nam giảm đàn nhập siêu để đạt được xuất siêu từ năm 1997. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp tăng nhanh hơn nhiều so với giá trị nhập khẩu. Pháp là bạn hàng Châu Âu quan trọng của Việt Nam. Nếu tính cả 10 năm từ 1990 đến 1999, Pháp là bạn hàng Châu Âu lớn thứ hai của Việt Nam sau Đức (Đức nhập khẩu 30% tổng số hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU) nhưng trong hai năm 98 và 99 Pháp lại là bạn hàng Châu Âu lớn nhất của Việt Nam. Có được điều này là do: Thứ nhất, Việt Nam đã thành công trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là đối với mặt hàng da-giầy, tạo nền kinh tế hướng ngoại, tận dụng tối đa hạn ngạch của EU cấp cho hàng dệt may để xuất sang Pháp là chủ yếu. Thứ hai, tuy bị sức ép cạnh tranh ngày càng tăng từ các nước Châu á do khủng hoảng tài chính và tiền tệ, Việt Nam vẫn phát huy được những lợi thế so sánh về giá rẻ của hàng hoá so với hàng hoá các nước Châu á khác. Thứ ba, đối với thị trường Pháp, có thể nói là những nỗ lực trong các hoạt động xung quanh Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp đã phát huy tác dụng một cách tích cực và hiệu quả, từ việc tổ chức Diễn đàn các nhà doanh nghiệp đến việc doanh nghiệp hai nước tích cực tìm hiểu thị trường của nhau. Trong những năm tiếp theo từ 2000 đến nay, Việt Nam đều xuất siêu với giá trị ngày càng lớn. Điều này có được là do những nỗ lực của Chính phủ cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Số lượng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được đa dạng hoá và nâng cao chất lượng, đồng thời chúng ta đã có được một chính sách xuất nhập khẩu thông thoáng hơn rất nhiều so với trước đây. Tuy nhiên chúng ta vẫn cần cố gắng nhiều hơn nữa nhằm nâng cao giá trị trao đổi thương mại giữa hai nước. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Pháp Nhìn vào bảng dưới đây, chúng ta sẽ thấy được nhóm mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp ngày càng được đa dạng hoá, và chúng ta cũng sẽ đi tìm hiểu nguyên nhân của việc này. Bảng 2: Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Pháp từ năm 1996 đến năm 1999 Đơn vị: triệu USD TT Mặt hàng 1996 1997 1998 1999 số tuyệt đối % trong tổng GTXK số tuyệt đối % trong tổng GTXK số tuyệt đối % trong tổng GTXK số tuyệt đối % trong tổng GTXK 1 Da-giầy 70,5 48,6 109,9 46,16 147,8 48,08 177,7 50,07 2 Dệt may 31,5 21,7 51,7 21,7 55,4 18 61,0 17,18 3 Cà phê-chè 9,8 6,76 22,3 9,36 29,6 9,6 37,6 10,6 4 Than đá 2,4 1,66 3,1 1,3 2,5 0,8 1,7 0,48 5 Hải sản đông lạnh 1,9 1,3 2,9 1,2 6,9 2,24 3,2 0,9 6 Các sản phẩm công nghiệp khác 16,1 11,1 27,3 11,5 43,1 14,02 48,9 13,78 7 Nông, lâm sản, thực phẩm khác 5,2 3,5 6,4 2,7 8,5 2,76 9,4 2,64 8 Các sản phẩm khác 7,6 5,38 14,5 6,08 13,6 4,5 15,4 4,35 Tổng giá trị xuất khẩu 145 100 238,1 100 307,4 100 354,9 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết nhóm mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp 1996-1999 Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy rằng trong 4 năm từ 1996 đến 1999, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của chúng ta cũng không có gì thay đổi lớn trong vòng 4 năm. Điều thay đổi là tỉ trọng của các mặt hàng trong tổng giá trị xuất khẩu. Đầu tiên phải kể đến là mặt hàng da giầy, trong năm 1996, giá trị xuất khẩu của mặt hàng này 70,5 triệu USD và chiếm 48,6% tổng giá trị xuất khẩu của cả năm. Chúng ta có thể hiểu là cũng đã có những nỗ lực của ngành da giầy cải tiến chất lượng, đẩy mạnh xuất khẩu nên giá trị xuất khẩu đã tăng lên. Nhưng sang tới năm 1997 thì giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã tăng lên gấp 1,5 lần và đạt 109,9 triệu USD chiếm 46,16% tổng giá trị xuất khẩu. Sở dĩ có được điều này là do trước đây giầy dép Việt Nam xuất khẩu vào EU phải chịu sự giám sát (phải xin phép trước khi nhập khẩu), nhưng sau khi ký hiệp định Hợp tác 17/7/1995 nhóm hàng này được nhập khẩu tự do vào EU. Tuy giá trị xuất khẩu đã tăng lên gấp 1,5 lần so với năm 1996 nhưng tỉ trọng của mặt hàng này trong tổng giá trị xuất khẩu của năm lại giảm đi là do các mặt hàng còn lại tăng lên nhiều, do đó tổng giá trị xuất khẩu cũng tăng lên đáng kể. Từ đó, giá trị xuất khẩu của mặt hàng này liên tục tăng, năm 1998 là 147,8 triệu USD chiếm 48,08% tổng giá trị xuất khẩu và năm 1999 đạt 177,7 triệu USD tương đương 50,07% tổng giá trị xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu tăng lên nhiều như vậy nhưng tỉ trọng vẫn tăng không đáng kể là do các mặt hàng còn lại đều tăng mạnh. Việt Nam là một trong những nước có số lượng giầy dép tiêu thụ nhiều nhất ở Châu Âu do giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được với loại sản phẩm chủ yếu là giầy thể thao. Tuy nhiên dù giá trị xuất khẩu của mặt hàng này tăng lên nhiều như vậy nhưng tỉ trọng trong tổng giá trị xuất khẩu vẫn tăng không đáng kể là do các mặt hàng khác đều tăng. Tiếp đó phải kể đến là mặt hàng dệt may, năm 1996 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này là 31,5 triệu USD chiếm 21,7% tổng giá trị xuất khẩu. Và con số này liên tục tăng năm 1997 là 51,7 triệu USD (21,7%), năm 1998 là 55,4 triệu USD (18%), năm 1999 là 61 triệu USD (17,18%). Sau khi ký hiệp định dệt may, mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh nhưng xuất khẩu của ta còn nhiều khó khăn đó là thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, không ký được hợp đồng trực tiếp với bạn hàng mà phải thông qua trung gian nên hiệu quả kinh tế thấp. Một khó khăn nữa là ngành dệt vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên phụ liệu của ngành may, sự dễ dãi và ít rủi ro của phương thức gia công nên ngành may tuy phát triển rất nhanh nhưng vẫn là một khu vực sản xuất thiếu tác phong công nghiệp và thiếu khả năng cạnh tranh, bên cạnh đó phương thức phân bổ hạn ngạch chưa hợp lý cũng đã kìm hãm tính năng động và sáng tạo của các doanh nghiệp may. Tiếp đến là mặt hàng cà phê và chè có giá trị xuất khẩu tăng đáng kể từ năm 1996 là 9,8 triệu USD nhưng đến năm 1999 đã là 37,6 triệu USD do mặt hàng này rất được ưa chuộng tại nước Pháp. Các mặt hàng khác như than đá và hải sản đông lạnh đều tăng giảm không đáng kể. Các sản phẩm công nghiệp khác thì có giá trị xuất khẩu tăng mạnh từ 7,6 triệu USD năm 1996 lên 15,4 triệu USD năm 1999, có thể kể ra các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, gỗ gia dụng... Giá trị xuất khẩu tăng đáng kể là do trình độ sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đã được nâng cao một cách đáng kể, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu khắt khe nhất của khách hàng về chất lượng và qui cách. Ngoài ra các sản phẩm nông lâm sản thực phẩm cũng tăng gấp đôi năm 1999 so với năm 1996 do các mặt hàng của ta phần nào đã được tập trung sản xuất tại các khu sản xuất và chế biến lớn mang tính công nghiệp. Bước sang năm 2000, tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp đã có những thay đổi đáng kể. Nhìn vào bảng dưới đây chúng ta sẽ thấy, số lượng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp đã tăng lên đáng kể. Bảng 3: Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Pháp từ năm 2000 đến nay Đơn vị: triệu USD TT Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 số tuyệt đối % trong tổng GTXK số tuyệt đối % trong tổng GTXK số tuyệt đối % trong tổng GTXK số tuyệt đối % trong tổng GTXK 1 Cà phê 13,67 3,6 18,23 3,9 14,9 3,4 36,34 7,2 2 Cao su 6,8 1,8 5,75 1,23 6,58 1,5 5,77 1,14 3 Chè 0,05 0,013 0,33 0,07 0 0 0,15 0,03 4 Dầu ăn 0 0 0,33 0,07 0 0 0 0 5 Dây điện và dây cáp điện 0 0 0,28 0,06 0,035 0,008 0 0 6 Đồ chơi trẻ em 0 0 2,8 0,6 2,19 0,5 3,13 0,62 7 Giầy dép các loại 190,27 50,1 204,77 43,8 212,7 48,5 258,5 51,2 8 Hải sản 11,105 2,92 22,44 4,8 19,3 4,4 22,7 4,5 9 Hàng dệt may 111,66 29,4 128,59 27,5 83,21 18,97 73,2 14,5 10 Hàng rau quả 0 0 2,8 0,6 3,5 0,8 3,53 0,7 11 Hàng thủ công mỹ nghệ 39,1 10,3 41,14 8,8 59,6 13,6 52 10,3 12 Hạt điều 0,11 0,03 1,87 0,4 0,087 0,02 0,15 0,03 13 Hạt tiêu 3,03 0,8 2,99 0,64 3,07 0,7 4,69 0,93 14 Máy vi tính và linh kiện 0,49 0,13 0,23 0,05 0,87 0,2 8,58 1,7 15 Mỳ gói 0 0 0,187 0,04 0,22 0,05 0,15 0,03 16 Quế 0 0 0,014 0,003 0 0 0 0 17 Sản phẩm gỗ 0 0 24,9 5,33 21,9 5 24,4 4,84 18 Sản phẩm nhựa 0 0 6,07 1,3 6,18 1,41 6,56 1,3 19 Sản phẩm sữa 0 0 3,74 0,8 0,035 0,008 0 0 20 Xe đạp và phụ tùng xe đạp 0 0 0,037 0,008 0,61 0,14 0,2 0,04 21 Gạo 0,015 0,004 0 0 0,013 0,003 0 0 22 Than đá 0 0 0 0 3,5 0,8 4,75 0,94 23 Hoa quả tươi khô 3,5 0,92 0 0 0 0 0 0 Tổng giá trị xuất khẩu 379,8 100 467,5 100 438,5 100 504,8 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ thương mại về nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Pháp từ năm 2000 đến nay. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, chúng ta đã xuất sang Pháp 23 loại mặt hàng với tổng giá trị xuất khẩu đạt hơn 400 triệu USD mỗi năm và chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2003 đã đạt 252,4 triệu USD. Cơ cấu mặt hàng đã có sự thay đổi đáng kể, bắt đầu thấy có sự xuất hiện của các mặt hàng công nghiệp nhiều hơn. Tuy nhiên các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang Pháp vẫn là giầy dép, hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ, cà phê, các sản phẩm gỗ, hải sản... Đó là những sản phẩm mà Việt Nam chúng ta có thế mạnh. Như các mặt hàng cà phê, chè, đồ chơi trẻ em đó là những mặt hàng mang tính truyền thống của chúng ta, từ lâu đã có được sự tin tưởng của thị trường Pháp. Đối với những mặt hàng này chúng ta cần phát huy hơn nữa, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã chủng loại để ngày càng thu hút được sự quan tâm của thị trường Pháp. Ngoài ra, giá trị xuất khẩu của các mặt hàng rau quả, hạt điều, hạt tiêu cũng tăng lên là do chúng ta có lợi thế là nước nhiệt đới có thể trồng được nhiều các loại rau quả so với nước Pháp nên chúng ta cần phát huy lợi thế này để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Pháp, đồng thời chúng ta còn phải chú ý đến vấn đề giá cả để có thể cạnh tranh với các nước khác trong khu vực cụ thể là Trung Quốc. Chúng ta cũng cần phải chú ý đến việc xuất khẩu gạo sang Pháp vì trong 3 năm gần đây, chúng ta đều không xuất khẩu được gạo sang Pháp có thể là do chất lượng gạo của chúng ta chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của thị trường Pháp, mặt khác có thể là do giá cả chưa cạnh tranh được với các nước khác trong khu vực. Vì vậy, Việt Nam cần xem xét vấn đề này để có thể xúc tiến được việc xuất khẩu gạo sang thị trường Pháp. Tóm lại, chúng ta cần một mặt nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm của mình, mặt khác đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu sang để nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường Pháp, một trong những thị trường khó tính của Châu Âu, để từ đó nâng cao giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp, tạo chỗ đứng vững chắc của chúng ta trên thị trường Pháp. Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Pháp Cơ cấu nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam có sự thay đổi theo từng thời kì. Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 1999, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu từ cộng hoà Pháp như sau: Bảng 4: Nhóm các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Pháp giai đoạn 1996 - 1999 Đơn vị: triệu USD TT Mặt hàng 1996 1997 1998 1999 số tuyệt đối % trong tổng GTNK số tuyệt đối % trong tổng GTNK số tuyệt đối % trong tổng GTNK số tuyệt đối % trong tổng GTNK 1 Nông sản, thực phẩm 12,52 4,6 12,99 6 15,24 7,6 14,74 7,5 2 Hoá chất 3,26 1,2 2,81 1,3 3,73 1,86 3,15 1,6 3 Dược phẩm 35,9 13,2 52,17 24,1 52,9 26,4 59,66 30,35 4 Sản phẩm công nghiệp 11,96 4,4 12,99 6 17,24 8,6 15,33 7,8 5 Máy móc thiết bị 196,3 72,2 113,66 52,5 89,5 44,64 81,6 41,5 6 Sản phẩm khác 11,96 4,4 21,88 10,1 21,81 10,9 22,12 11,25 Tổng cộng 271,9 100 216,5 100 200,5 100 196,6 100 Nguồn: Báo cáo của Bộ Thương Mại về nhóm mặt hàng nhập khẩu từ Pháp giai đoạn 1996-1999 Trong số 5 loại sản phẩm chúng mà chúng ta nhập khẩu từ Pháp, kim ngạch của hai loại sản phẩm là máy móc thiết bị và dược phẩm luôn chiếm tỷ trọng lớn (tổng tỷ trọng hai loại mặt hàng trên chiếm khoảng 70%). Lý do là Việt Nam là một nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên nhu cầu về máy móc thiết bị phục vụ cho việc xây dựng các nhà máy là rất lớn. Trong thời kì này, Việt Nam không chỉ nhập khẩu rất nhiều máy móc thiết bị từ Pháp mà còn từ nhiều quốc gia phát triển khác bởi vì như chúng ta biết, kể từ khi mở của đổi mới đến giai đoạn này, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng rất mạnh (năm tăng kỉ lục là 1996 với số vốn đăng kí là trên 8 tỷ USD) do đó việc các nhà đầu tư trong đó có các doanh nghiệp Pháp nhập khẩu máy móc thiết bị vào nước ta là điều dễ hiểu. Con số đột biến 113,66 triệu USD là một minh chứng. Qua bảng trên chúng ta nhận thấy là trong hai năm 1998 và 1999 kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị từ Pháp giảm. Nguyên nhân là do cuối năm 1997 ở Đông Nam á xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nên các nhà đầu tư rút vốn khỏi các nước này. Việt Nam cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Chính vì vậy mà trong hai năm này nhập khẩu máy móc thiết bị của chúng ta giảm mạnh. Bên cạnh đó như chúng ta đều biết, Pháp là một nước có ngành công nghiệp dược rất phát triển. Việt Nam lại là một nước đang phát triển, ngành công nghiệp dược phẩm cũng như các ngành công nghiệp khác còn non trẻ và chưa phát triển. Trong khi đó nhu cầu về các sản phẩm dược của trên 70 triệu dân là rất lớn do đó mà hàng năm chúng ta phải nhập khẩu rất nhiều thuốc, chủ yếu là các sản phẩm công nghệ cao như vắc xin, thuốc bổ, thuốc điều trị các bệnh hiểm nghèo... mà chúng ta chưa sản xuất ra được. Chính vì vậy mà thời gian này chúng ta nhập khẩu rất nhiều dược phẩm từ Pháp. Còn các mặt hàng khác như nông sản thực phẩm, hoá chất chúng ta vẫn nhập từ Pháp với giá trị tuy có tăng so với trước nhưng không đáng kể. Sở dĩ chúng ta vẫn phải nhập khẩu các mặt hàng này từ Pháp là do về thực phẩm Pháp khá nổi tiếng với một số mặt hàng và do nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam nên chúng ta vẫn nhập khẩu như pho mát, bơ, sữa chua... và cả hoá chất dùng trong các ngành sản xuất, y học mà chúng ta chưa sản xuất được. Bảng 5: Nhóm mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Pháp giai đoạn từ năm 2000 đến nửa đầu năm 2003: Đơn vị: triệu USD TT Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 Số tuyệt đối % trong tổng GTXK Số tuyệt đối % trong tổng GTXK Số tuyệt đối % trong tổng GTXK Số tuyệt đối % trong tổng GTXK 1 Dược phẩm 113,4 34,47 95,4 30,13 79,9 26,7 48,7 25,2 2 Linh kiện điện tử và vi tính 8,16 2,49 6,7 2,1 6,4 2,13 3,9 2,01 3 Máy móc thiết bị phụ tùng 120,6 36,66 118,7 37,5 117,8 39,34 94,4 48,86 4 Nguyên phụ liệu dệt may da 25,7 7,8 31,9 10,07 24,6 8,2 5,9 3,05 5 Nguyên phụ liệu dược phẩm 10,1 3,07 0 0 0 0 0 0 6 Ô tô CKD, SKD 1,6 0,49 0 0 0 0 0 0 7 Ô tô nguyên chiếc các loại 0,5 0,15 1,8 0,57 5,5 1,83 4,9 2,55 8 Phân bón các loại 7,8 2,37 0,95 0,31 1,4 0,47 0,4 0,21 9 Sắt thép các loại 0,7 0,22 0,79 0,25 0,97 0,33 1,3 0,67 10 Xe máy CKD, IKD 0,07 0,02 0 0 0 0 0 0 11 Chất dẻo nguyên liệu 0 0 2,5 0,79 2,2 0,74 1,1 0,57 12 Các mặt hàng khác 40,34 12,26 57,86 18,28 60,63 20,26 32,6 16,88 Tổng cộng 328,97 100 316,6 100 299,4 100 193,2 100 Nguồn: Báo cáo chi tiết của Bộ Thương Mại về nhóm mặt hàng nhập khẩu từ Pháp giai đoạn từ năm 2000 đến nửa đầu năm 2003. Nhìn vào bảng trên, ta có thể thấy rằng cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của chúng ta từ năm 2000 cho đến nay đã thay đổi so với giai đoạn những năm 1996-1999. Trong giai đoạn từ 1996-1999, chúng ta nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, dược phẩm, nông sản thực phẩm và các sản phẩm công nghiệp nhưng là nhập khẩu chưa có chọn lọc và chủ yếu vẫn là nhập khẩu các thiết bị máy móc cũ của Pháp về. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, từ năm 2000 đến nay, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại trở lại Việt Nam. Do đó chúng ta có thể thấy kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị lại có xu hướng tăng lên. Nhập khẩu sắt thép từ Pháp ngày một tăng do nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước ta rất lớn. Việt Nam hiện là một nước có nền kinh tế phát triển mạnh và khá ổn định, thu nhập đầu người tăng mạnh, trong xã hội bắt đầu xuất hiện một bộ phận người giàu lên nhanh chóng. Nhu cầu về hàng hoá xa xỉ, trong đó có ô tô bắt đầu tăng mạnh. Chính vì thế mà chúng ta đã nhập khẩu xe ô tô nguyên chiếc từ Pháp với số lượng ngày một tăng. Nhập khẩu dược phẩm đã có sự thay đổi so với thời kì trước do chúng ta đã từng bước sản xuất thay thế được nhiều loại thuốc chữa bệnh nên kim ngạch nhập khẩu dược phẩm từ Pháp cũng thất thường. Bên cạnh đó chúng ta còn phải nhập khẩu cả nông sản thực phẩm từ Pháp. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đã tự sản xuất và đáp ứng được nhu cầu trong nước và thậm chí đã xuất khẩu khá nhiều loại mặt hàng này. Đây là một thành công lớn của chúng ta. Bên cạnh đó, chúng ta đã có sự chọn lọc trong khi nhập khẩu đối với các nhóm mặt hàng như dược phẩm, linh kiện điện tử phục vụ cho ngành lắp ráp điện tử trong nước. Tóm lại, tuy vẫn phải nhập khẩu nhưng Việt Nam chúng ta từ năm 2000 đến nay luôn xuất siêu sang Pháp 139 triệu USD năm 2002 và trong 6 tháng đầu năm nay là khoảng 60 triệu USD. Vì thế chúng ta cần phát huy hơn nữa những lợi thế của mình so với Pháp để nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu của mình sang Pháp. III. Quan hệ đầu tư trực tiếp Pháp-Việt Trong mối quan hệ hợp tác về kinh tế với Việt Nam, Pháp có một mối quan hệ rất đặc biệt, bởi vì Việt Nam trước đây đã từng là thuộc địa của Pháp và đã đánh thắng Pháp. Pháp đã để lại nơi đây rất nhiều dấu ấn về văn hoá, về cơ sở hạ tầng, kiến trúc... Do vậy, trong số các nước EU đầu tư vào Việt Nam thì Pháp là nước quan tâm đến Việt Nam nhiều nhất. Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Pháp ngày 12/4/1973. Và từ đó cho đến nay, quan hệ giữa hai nước luôn được phát triển và mở rộng. Pháp coi Việt Nam là một quốc gia ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Pháp ở Châu á và đóng vai trò đi đầu trong việc nối lại viện trợ phát triển, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với Việt Nam, hỗ trợ giải toả các quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế, ủng hộ giúp đỡ Việt Nam thiết lập và tăng cường quan hệ với EU. Ngay khi có chủ trương “mở cửa” của Nhà nước đi kèm với Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì các nhà đầu tư Pháp đã có mặt tại Việt Nam ngay sau đó vào đầu năm 1988. Đầu tư trực tiếp của Pháp tăng nhanh từ 1993, sau chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng Thống Pháp F. Mitterrand. Cho đến nay, Pháp là nước đứng thứ sáu trong số các nước đầu tư tại Việt Nam và đứng đầu trong các nước EU đầu tư tại Việt Nam. Hiện có 149 dự án được cấp giấy phép đầu tư, trừ ba dự án hết hạn và 38 dự án giải thể trước thời hạn, hiện còn 108 dự án đang hoạt động với số vốn đầu tư là 1.855.493 triệu USD. Trong khối EU, Pháp là nước có đầu tư trực tiếp nước ngoài dẫn đầu vào Việt Nam chiếm 41,5% số dự án, chiếm 36,2% vốn đầu tư cả Liên minh Châu Âu. Tính từ 1988 đến nay các nhà đầu tư Pháp đã đưa vào Việt Nam 587.041 triệu USD, tạo việc làm cho gần 1 vạn lao động trực tiếp (chưa kể lao động gián tiếp) đây là con số lớn nhất về việc làm được tạo ra trong số các nước EU. Pháp áp dụng một chính sách đặc biệt ưu đãi để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài như trợ giúp về tài chính, miễn giảm thuế và năm 1996 đã bãi bỏ chế độ cấp giấy phép đầu tư. Các tập đoàn lớn nhất thế giới đã có mặt ở Pháp vì thấy đó là một thị trường sẽ không chỉ bó hẹp trong không gian nước Pháp mà là cả một thị trường EU rộng lớn với hơn 370 triệu người tiêu dùng. Cơ sở hạ tầng của Pháp thuộc vào loại hoàn thiện nhất thế giới, nhân công có năng suất lao động cao thứ nhì thế giới chỉ sau Nhật Bản. Chỉ riêng trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hiện có hơn 4000 công ty nước ngoài đang hoạt động ở Pháp chiếm khoảng 24% tổng số công nhân và 33% tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của Pháp. Tuy vậy tại Pháp vẫn còn thiếu vắng các nhà đầu tư Việt Nam. 1. Hình thức đầu tư Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép các doanh nghiệp nước ngoài thành lập tại Việt Nam theo 4 hình thức là : doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài doanh nghiệp liên doanh theo hình thức BOT : xây dựng, kinh doanh và chuyển giao theo hình thức BCC : hợp đồng hợp tác kinh doanh Các nhà đầu tư Pháp thường chọn hình thức 100% vốn nước ngoài (56,8% các nhà đầu tư). Điều này chứng tỏ sự thay đổi nhận thức về thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp Pháp và chứng tỏ một sự tự do lớn trong việc lựa chọn hình thức thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam. Hình thức này đem lại cho doanh nghiệp nước ngoài một sự tự do lớn trong kinh doanh và tránh được việc phải đi tìm một đối tác khác ở nước chủ nhà. Hình thức đầu tư này thích hợp cho các nhà đầu tư nước ngoài dự định xuất khẩu các sản phẩm của mình ra nước ngoài mà không thông qua các nhà phân phối của nước sở tại. Nếu tính theo vốn đầu tư thì đứng đầu là đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC (đặc biệt là của France Telecom), hình thức này phù hợp với các hoạt động cung cấp dịch vụ như dịch vụ viễn thông, hỗ trợ kỹ thuật... Nên đây là hình thức đầu tư thu hút nhiều vốn đầu tư nhất nhờ vào các dự án lớn của các hãng như France Telecom, EADS và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật khác của Pháp. Tiếp đó là đến hình thức BOT, đây là hình thức phù hợp với loại hình kinh doanh dịch vụ như khách sạn, khu nhà nghỉ... với một số dự án lớn tại các thành phố biển nhằm thu hút nhiều khách du lịch. Các doanh nghiệp liên doanh chiếm 22% tổng vốn đầu tư. Với hình thức này, các nhà đầu tư nước ngoài không cần phải lo về vấn đề quyền sử dụng đất vì đây là phần góp vốn của phía Việt Nam. Đồng thời, đối với hình thức này, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế và những điều kiện thuận lợi trong việc xin cấp giấy đăng ký kinh doanh. Một phần ba các doanh nghiệp Pháp được thành lập dưới hình thức văn phòng đại diện. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực tư vấn về đầu tư, kinh doanh..., các văn phòng luật sư, phòng thương mại và công nghiệp ... Số lượng các nhà đầu tư Pháp hoạt động trong lĩnh vực này cũng khá đông nên có một phần ba các doanh nghiệp Pháp được thành lập dưới hình thức này. Lĩnh vực đầu tư Bảng 6 : Lĩnh vực phân bổ nguồn vốn đầu tư của Pháp tại Việt Nam tính đến cuối năm 2002 STT Lĩnh vực Tổng số vốn đầu tư (1000 USD) Số dự án 1 Nông-lâm nghiệp 233 986 17 2 Khách sạn du lịch 207 242 10 3 Công nghiệp nhẹ 141 468 20 4 Xây dựng 125 510 6 5 Văn hoá-Giáo dục-Y tế 114 360 10 6 Công nghiệp nặng 92 203 16 7 Tài chính ngân hàng 70 000 5 8 Dịch vụ 68 539 11 9 Công nghiệp dầu khí 48 353 6 10 Giao thông-Bưu điện 32 758 9 Nguồn : Báo cáo của bộ Thương Mại về lĩnh vực đầu tư của Pháp vào Việt Nam tính đến cuối năm 2002. Trong năm 2002, ngành công nghiệp và xây dựng đã đứng vị trí hàng đầu (chiếm 41% tổng số các dự án được cấp phép), tiếp theo là ngành viễn thông và vận tải (chiếm 31%), ngành khách sạn và dịch vụ (chiếm 15%) và cuối cùng là ngành thực phẩm (chiếm 13%). Ngành công nghiệp nặng chiếm hơn 68% của lĩnh vực công nghiệp và xây dựng tức là tập trung 34 dự án (khoảng 27% tổng số dự án), ngành xây dựng chỉ chiếm có 18%. Ngành khách sạn chiếm 45% trong lĩnh vực dịch vụ. Các dự án đầu tư của các tập đoàn lớn của Pháp tại Việt Nam : Tập đoàn France Telecom đầu tư 467 triệu USD dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh để xây đựng hơn 540.000 đường dây điện thoại ở thành phố Hồ Chí Minh. Tập đoàn EDF đầu tư trong ngành xây dựng dưới hình thức BOT sản xuất xe đạp xe máy hỗn hợp với số vốn đầu tư lên đến hơn 400 triệu USD. Tập đoàn Bourbon với vốn đầu tư lên tới hơn 270 triệu USD và 7 giấy phép đầu tư trong các lĩnh vực : một nhà máy đường ở tỉnh Tây Ninh, nâng cao khả năng sản xuất đường ở tỉnh Gia Lai, hai chiếc thuyền cho vận tải đường sông, ba siêu thị CORA ở thành phố Hồ Chí Minh và vùng ngoại ô thành phố (cùng với một dự án sẽ mở một siêu thị thứ tư tại thủ đô Hà Nội vào tháng 9 năm 2004) và cuối cùng là một nhà máy chế biến nông sản tại Bến Lục. Công ty thương mại Potasses và Azote (thuộc tập đoàn EMC) đã đầu tư, dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh trong lĩnh vực sản xuất phân bón và chế biến thức ăn gia súc (công ty Baconco và Proconco), cũng như trong lĩnh vực xây dựng với nhà máy điện Phú Mỹ ở phía Nam. Cibex International ex Feal (Tổng công ty nước) đã đầu tư cho việc xây dựng khách sạn Thống Nhất – Sofitel Metropole 47,8 triệu USD trên tổng số 128 triệu USD tổng giá trị của dự án. Tổng công ty xây dựng và nhà ở (CBC) đã đầu tư 56 triệu USD cho việc xây dựng khách sạn Hilton-Opera tại Hà Nội. Công ty điện nước của Madagascar đã đầu tư khoảng 30 triệu USD trong các lĩnh vực khách sạn và việc xây dựng 5 khách sạn (hệ thống khách sạn VICTORIA). Một số dự án lớn khác : Công ty Alcatel đã thành lập doanh nghiệp liên doanh từ năm 1994 tại Hà Nội (với tổng số vốn là 7 triệu USD) đã phát triển rất mạnh và đã cung cấp cho Việt Nam hơn 1,2 triệu đường dây điện thoại. Đối với lĩnh vực nông nghiệp và nông sản, chúng ta phải kể đến các công ty như Nutriway & Guyomarc’h (thức ăn gia súc), Virbac (các sản phẩm phục vụ cho ngành thú y), France Hybrides (nuôi heo), Cafe Bolliet (cà phê và nước hoa quả), Aquaservices (thuỷ sản), Le Gourmet (chế biến thịt). Đầu tư của các công ty này chiếm hơn 10% tổng giá trị đầu tư nước ngoài của Pháp tại Việt Nam. Dây chuyền sản xuất hệ thống tự động ngắt điện của công ty Schneider (trị giá 3,2 triệu USD) ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực sức khoẻ, chúng ta phải kể đến phòng phân tích y tế của tập đoàn quốc tế Lab và trung tâm loại bỏ chất độc trong máu Dialaise tại thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời còn có Bệnh viện Pháp tại Hà Nội và Bệnh viện Pháp Việt tại thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia góp vốn của rất nhiều các bác sỹ người Pháp. Các công ty Sanofi-Synthelabo và Aventis Pharma cũng sở hữu các dây chuyền sản xuất dược phẩm. Tập đoàn Campenon Bernard với chi nhánh là công ty Vivendi đã được biết đến tại Việt Nam với nhiều nhà máy như : nhà máy Heineken, nhà máy hộp kim loại Carnaud, nhà máy Christian Bernard, xây dựng trung tâm thuỷ điện Phú Mỹ 2.1, khách sạn Harbour View tại Hải Phòng. Công ty Dumez – GTM (thuộc tập đoàn Suez Lyonnaise des Eaux cũng đã có mặt tại Việt Nam từ nhiều năm nay và đã tham gia góp vốn vào một công ty xây dựng ở Hà Nội và cũng có rất nhiều công trình xây dựng tại đây. Công trình khai thác nguồn nước tại tỉnh Long An và việc đóng chai nước khoáng La Vie (công ty Vittel France – Nestlé) với tổng giá trị lên tới 5,6 triệu USD. Từ tháng 7 năm 1994, nhà máy đã chính thức nâng mức sản xuất của mình lên 45 triệu chai một năm (tương đương với mức thị phần là khoảng 30%) gấp 4 lần so với mức sản xuất ban đầu là 13 triệu chai một năm. Mặt khác, trong lĩnh vực tài chính, chúng ta phải kể đến sự hiện diện của các ngân hàng lớn của Pháp tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đó là ngân hàng Crédit Lyonnais, Natexis Banques Populaires, BNP Paris, Crédit Agricole Indosuez, Société Générale và trong lĩnh vực bảo hiểm là sự góp mặt của các công ty như Groupama, Prévoir và Gras-Savoye. Quy mô đầu tư từng năm Bảng 7 : Số các dự án đầu tư nước ngoài của Pháp được cấp phép từ năm 1988 cho đến nay. Đơn vị tính : triệu USD Năm Số dự án được cấp phép Tổng trị giá 1988 1 3,5 1999 3 50 1991 4 64 1992 4 51,4 1993 9 154,4 1994 10 26 1995 10 140 1996 9 88,4 1997 15 906,3 1998 13 29,3 1999 12 50 2000 8 11,6 2001 11 494,1 2002 15 70 Tổng cộng 124 2.147 Nguồn : Báo cáo của Thương vụ Pháp tại Việt Nam về đầu tư của Pháp tại Việt Nam năm 2002 Quy mô đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam là chưa ổn định qua các năm cụ thể là năm 1997, tổng vốn đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam lên tới 906,3 triệu USD, mức cao nhất trong tất cả các năm, rồi đến năm 2001 với tổng vốn đầu tư là 494,1 triệu USD. Tuy nhiên, năm 2002 lại là một sự sụt giảm đáng kể vì vốn đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam giảm chỉ còn 70 triệu USD. Điều nay chứng tỏ rằng do điều kiện của Pháp gặp khó khăn và cũng một phần là do môt trường đầu tư của Việt Nam chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư Pháp đồng thời hệ thống hành chính vẫn chưa thực sự được đơn giản hoá. Các dự án đầu tư trực tiếp của Pháp vào Việt Nam chủ yếu là các dự án vừa và nhỏ, số các dự án lớn không có nhiều. Điều này có thể được lý giải là vì đầu tư theo các dự án vừa và nhỏ thì thời hạn của dự án sẽ ngắn hơn, nhà đầu tư Pháp sẽ nhanh chóng có được kết quả của dự án đầu tư chứ không phải chờ đợi lâu và lo rằng dự án đầu tư không đạt kết qủa cao như mong muốn. Hơn nữa đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ, các nhà đầu tư có thể nhanh chóng rút vốn ra khi tình hình có điều gì bất lợi đối với việc đầu tư. Điều này cũng chứng tỏ rằng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thật sự chắc chắn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án lớn và dài hạn. Do đó, chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để tạo một môi trường đầu tư thật sự thông thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư Pháp nói chung và quốc tế nói riêng. Phân bổ các dự án đầu tư theo địa bàn Các nhà đầu tư của Pháp có mặt tại 24 tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng tập trung chính vào một số vùng trọng điểm kinh tế, nơi có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương... Nhìn vào bảng sau chúng ta sẽ thấy rõ được tình hình phân bổ các dự án đầu tư của Pháp vào Việt Nam những năm qua. Bảng 8 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Pháp vào Việt Nam phân theo địa bàn tính đến cuối năm 2001. Đơn vị : triệu USD STT Tỉnh thành phố Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định (VPĐ) % VPĐ trong tổng vốn đầu tư Đầu tư thực hiện (ĐTTH) % vốn ĐTTH trong tổng vốn đầu tư 1 TP Hồ Chí Minh 40 923,5 775,47 84% 152,5 16,5 2 Hà Nội 18 277,24 142,67 51,5% 149,8 54,04 3 Bà Rịa Vũng Tàu 5 229,44 72,55 31.6 15,73 6,9 4 Đồng Nai 11 143,72 48,88 34 70,47 49,03 5 Tây Ninh 1 113 112,19 99,3 54 47,8 6 Ninh Bình 1 36,6 36,6 100 17,5 47,8 7 Gia Lai 1 25,55 16,8 65,8 16,8 65,8 8 Hải Phòng 2 17,85 9,85 55,2 8,25 46,2 9 Bình Dơng 6 15,13 7,69 50,8 8,26 54,6 10 Long An 1 15 7,5 50 0 0 11 Cần Thơ 1 12,36 7,13 57,7 7,2 58,3 12 An Giang 1 8,2 2,8 34,1 7,9 96,5 13 Lào Cai 1 7,2 2,1 29,2 7,1 98,6 14 Bến Tre 1 5,5 1,6 29,1 0,8 14,55 15 Quảng Nam 2 5,2 5,17 99,3 4,244 81,5 16 Hà Tây 2 4,76 1,85 38,95 0 0 17 Đà Nẵng 2 3,9 3,9 100 3,07 78,7 18 Bình Thuận 1 3,5 1,05 30 3,5 100 19 Khánh Hoà 2 3,2 1,287 40 1,31 40,9 20 Phú Yên 1 2 1 50 1,7 85 21 Hải Dơng 1 1,2 0,5 41,7 0,08 6,7 22 Ninh Thuận 1 0,85 0,63 73,6 0,85 100 23 Đồng Tháp 1 0,5 0,15 30 0,5 100 24 Thừa Thiên Huế 1 0,05 0,05 100 0,036 71,4 Tổng số 108 1855,45 1259,42 67,9 531,6 28,7 Nguồn: Báo cáo của Bộ kế hoạch đầu tư về việc phân bổ vốn đầu tư của Pháp vào Việt Nam tính đến cuối năm 2001 Nhìn vào bảng trên, ta thấy được ngay sự khác biệt trong việc phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Pháp vào Việt Nam. Cụ thể là phần lớn dự án đầu tư của Pháp đều tập trung ở các thành phố lớn và vùng đồng bằng nơi có điều kiện cơ sở vật chất khá tốt, nơi tập trung đông dân cư và có nguồn nhân lực có trình độ để đáp ứng tốt nhu cầu của các nhà đầu tư, trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm 40 dự án, Hà Nội với 18 dự án, rồi đến Đồng Nai 11 dự án, Bình Dương 6 dự án. Tuy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Pháp vào Việt Nam là khá lớn, nhưng các dự án của Pháp vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại, đó là số dự án giải thể cao so với mức trung bình, đã có 34 dự án giải thể trước thời hạn, chiếm 33% số dự án (trong khi mức trung bình của các nước là 17%). Do vậy, chúng ta cần phải tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến điều đáng lo ngại này để có thể ngày càng thu hút được nhiều và quản lý tốt các dự án đầu tư của Pháp – một cường quốc đứng vào hàng ngũ 7 nước phát triển nhất (G7). Chúng ta có thể đưa ra một số nguyên nhân sau : Các nhà đầu tư Pháp thường có xu hướng dựa vào nhà nước: muốn lấy vốn từ nghị định thư tài chính và hay đòi hỏi được bảo lãnh COFACE. Chỉ có một số tập đoàn lớn hoạt động có hiệu quả do có ưu thế về vốn, tiềm lực và khả năng cạnh tranh đó là các tập đoàn Alcatel, Accor, Total, Rhone-Poulenc. Do thiếu thông tin mà nhiều đề án được chuẩn bị không thích hợp với điều kiện Việt Nam đôi khi các nhà đầu tư Pháp nóng vội, muốn có lợi ngay, muốn làm thật bài bản, chắc chắn và sợ rủi ro. Trong khi đó các nhà đầu tư Châu á thường tìm cách tạo sản phẩm và tiêu dùng tại chỗ, điều này thích hợp với Việt Nam hơn. Pháp vẫn còn dè dặt trong vấn đề rủi ro xuất khẩu đối với vốn trung bình và dài hạn sang Việt Nam, hơn nữa, Việt Nam vẫn ở nhóm 3 trong bảng tỷ suất đóng bảo hiểm của COFACE. Thêm vào đó, thủ tục hành chính của Pháp còn nặng nề và các công ty còn trông chờ quá nhiều vào Nhà nước. Pháp có ít nhà sản xuất thiết bị đồng bộ về chế biến nông sản nên việc tổ chức đấu thầu các dự án còn khó khăn. Giá cả thiết bị và dịch vụ kỹ thuật cao làm cho đơn vị vay vốn phải cân nhắc mất nhiều thời gian. Tóm lại, về FDI, các nhà đầu tư Pháp đã có mặt ở Việt Nam ngay từ những năm đầu tiên của thời kì đổi mới. Số dự án FDI của Pháp ở Việt Nam bắt đầu tăng mạnh từ năm 1993 với 18 dự án được cấp giấy phép, rồi đến năm 1997 có tới 18 dự án được cấp giấy phép với số vốn gần 700 triệu USD. Mặc dù ở xa Việt Nam về mặt địa lý, song có lợi thế là am hiểu tình hình Việt Nam, Pháp luôn luôn là một trong mười nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam đồng thời đứng đầu các nước Châu Âu. Tuy gần đây có sự giảm sút cả về giá trị cũng như số lượng dự án nhưng Pháp vẫn là nhà đầu tư lớn tại Việt Nam. Như vậy chúng ta cần có biện pháp để nhằm thu hút nhiều hơn nữa đầu tư trực tiếp của Pháp để góp phần phát triển nền kinh tế nước ta. IV. Viện trợ phát triển chính thức của Pháp cho Việt Nam. Pháp là một trong những nước dành một tỷ lệ lớn của ngân sách cho viện trợ phát triển chính thức (ODA) và là nước duy nhất đạt mục tiêu của Liên Hiệp Quốc về tỷ lệ GDP dành cho ODA (0,7%). Tại Hội nghị các Đại sứ Pháp lần thứ 7 họp ở Paris ngày 28/9/1999, Tổng Thống Pháp J. Chirac đã phát biểu: “Hiện nay, Pháp vẫn là nước thứ hai trên thế giới cung cấp nguồn viện trợ ODA tính theo giá trị tuyệt đối, sau Nhật Bản. Thật bất thường khi chỉ riêng viện trợ chính thức của Liên Minh Châu Âu đã chiếm tới 60% loại viện trợ này trên thế giới. Thật là bất thường khi một số nước tăng trưởng bền vững và được duy trì ở mức cao vẫn tiếp tục cắt giảm một khoản viện trợ tính trên đầu người vốn đã ít hơn của chúng ta 4 lần”. Không chỉ chú ý đến viện trợ ODA, Pháp còn quan tâm đến cả việc huy động các nước tài trợ tận dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn tài trợ ODA theo đúng mục tiêu dã định. Những mục tiêu của viện trợ ODA của Pháp cho Việt Nam là: Mục tiêu phát triển: Pháp coi phát triển là thước đo hiệu quả của viện trợ ODA. Do vậy, nguồn ODA của Pháp chủ yếu dành cho các dự án hạ tầng cơ sở, y tế, giáo dục, cải cách hành chính quản lý, chuyển đổi kinh tế, cải thiện môi trường pháp lý. Nhưng cũng chính vì mục tiêu này mà nhiều khi Pháp đã đặt điều kiện ràng buộc các nước nhận viện trợ, buộc các nước này phải tuân thủ hoặc can thiệp sâu vào tình hình nội bộ của nước nhận viện trợ. Mục tiêu chiến lược và chính trị: Về mặt chính trị, đối với một nước có tham vọng toàn cầu như Pháp, một trong những mục đích chính mà Pháp theo đuổi là ODA tạo sự thiện cảm và ủng hộ của các nước nhận viện trợ về những vấn đề nhạy cảm như thế giới đa cực, ngoại lệ văn hoá, chính sách nông nghiệp do Pháp chủ trương và được đem ra thảo luận tại các diễn đàn quốc tế. Mục tiêu thương mại: Viện trợ ODA nhằm giúp các xí nghiệp Pháp bán được hàng, máy móc thiết bị, đào tạo kỹ thuật viên sử dụng thiết bị của Pháp. Pháp hiểu rõ các nước đang phát triển tuy nghèo nhưng vẫn là những thị trường quan trọng đối với thiết bị, công nghệ của một nước công nghiệp phát triển như Pháp. Mục tiêu văn hoá: Văn hoá là mục tiêu có từ hàng thế kỷ nay và Pháp luôn muốn gây ảnh hưởng văn hoá qua hợp tác kinh tế. Chính vì vậy, ODA của Pháp thường dành cho các nước Châu Phi, các nước nằm trong khu vực ảnh hưởng của Pháp. Hiện nay, các nước Châu Phi cận Sahara chiếm 60% viện trợ ODA của Pháp. Mục tiêu đoàn kết và nhân đạo: ODA đáp ứng ý tưởng chung đó là mọi dân tộc đều có quyền được hưởng những tiến bộ kỹ thuật của nền văn minh nhân loại, đều phải có cơ may phát triển đồng đều. Tuy nhiên đoàn kết nhân đạo ở đây phục vụ yêu cầu duy trì và mở rộng ảnh hưởng về mọi mặt của Pháp. Viện trợ ODA Pháp dành cho Việt Nam cũng không nằm ngoài các mục tiêu trên. Vấn đề là ta phải sử dụng vốn ODA như thế nào để phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam đồng thời đáp ứng nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Các hình thức viện trợ phát triển chính thức Hợp tác kỹ thuật: Hợp tác kỹ thuật chiếm khoảng 40% ODA của Pháp nhằm vào các lĩnh vực đào tạo, giáo dục con người và trợ giúp kỹ thuật. Trợ giúp cho các chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cải cách hành chính, môi trường pháp lý, các chương trình mang tính phúc lợi xã hội như xây dựng đường sá, cầu cống, hệ thống nước.... Hình thức này chiếm 40% ODA của Pháp. Trợ giúp về kinh tế và tài chính (chiếm khoảng 20%) nhằm làm giảm nhẹ nợ nần, giải quyết khó khăn về cán cân thanh toán bằng việc cho vay để cơ cấu lại nợ và bổ sung ngân sách. Tình hình viện trợ phát triển chính thức của Pháp cho Việt Nam Từ năm 1955 đến 1973, giữa Việt Nam và Pháp chỉ có quan hệ thuần tuý thương mại, Việt Nam không nằm trong danh sách các nước được nhận viện trợ ODA của Pháp. Trong giai đoạn từ 1973 đến 1977 Pháp đã dành cho Việt Nam một khoản viện trợ ODA khá lớn là 1,744 tỷ FRF. Từ sau năm 1978, viện trợ ODA của Pháp dành cho Việt Nam bị ngừng do vấn đề “thuyền nhân” và vấn đề Campuchia. Khi vấn đề Campuchia được giải quyết, Pháp là nước đầu tiên nối lại viện trợ cho Việt Nam với 5 triệu FRF năm 1989. Nếu tính từ năm 1989 cho đến hết năm 2002 thì tổng số viện trợ ODA của Pháp dành cho Việt Nam đã lên đến hơn 700 triệu USD và đã giải ngân được khoảng hơn 400 triệu USD. Cộng hoà Pháp là nhà tài trợ song phương lớn thứ hai cho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan he TM va dau tu Phap-Viet.doc
Tài liệu liên quan