Tài liệu Khóa luận Những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay: TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA MÁC – LÊNIN
PHẠM THỊ HIỀN
LỚP DH5CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
NHỮNG MÂU THUẪN CƠ BẢN
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
Giảng viên hướng dẫn
Ts. VÕ VĂN THẮNG
An Giang, tháng 5/2008
Lời cảm ơn
Trong thời gian tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành khóa
luận của mình, tôi đã nhận được sự động viên, quan tâm giúp đỡ
nhiệt tình của các đơn vị, cá nhân, trong đó phải kể đến:
- Tập thể cán bộ, giảng viên Khoa Mác – Lênin, Trường Đại
học An Giang.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang.
- Cục thống kê tỉnh An Giang.
- Cán bộ Thư viện trường Đại học An Giang.
- Gia đình, người thân, bạn bè trong và ngoài tập thể lớp
DH5CT, Khoa Mác – Lênin, Trường Đại học An Giang.
Tôi đặc biệt gởi lời biết ơn sâu sắc đến Thầy Võ Văn Thắng _
người đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Trân trọng cảm ơn!
Sinh viên
Phạm Th...
62 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA MÁC – LÊNIN
PHẠM THỊ HIỀN
LỚP DH5CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
NHỮNG MÂU THUẪN CƠ BẢN
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
Giảng viên hướng dẫn
Ts. VÕ VĂN THẮNG
An Giang, tháng 5/2008
Lời cảm ơn
Trong thời gian tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành khóa
luận của mình, tôi đã nhận được sự động viên, quan tâm giúp đỡ
nhiệt tình của các đơn vị, cá nhân, trong đó phải kể đến:
- Tập thể cán bộ, giảng viên Khoa Mác – Lênin, Trường Đại
học An Giang.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang.
- Cục thống kê tỉnh An Giang.
- Cán bộ Thư viện trường Đại học An Giang.
- Gia đình, người thân, bạn bè trong và ngoài tập thể lớp
DH5CT, Khoa Mác – Lênin, Trường Đại học An Giang.
Tôi đặc biệt gởi lời biết ơn sâu sắc đến Thầy Võ Văn Thắng _
người đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Trân trọng cảm ơn!
Sinh viên
Phạm Thị Hiền
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH......................................... công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH................................................. chủ nghĩa xã hội
GS, TS.................................................giáo sư, tiến sĩ
KH, CN............................................... khoa học, công nghệ
KH, KT, CN........................................khoa học, kỹ thuật, công nghệ
LLSX.................................................. lực lượng sản xuất
QHSX..................................................quan hệ sản xuất
VAC.................................................... vườn, ao, chuồng
MỤC LỤC
--------------------
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................Trang 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 3
5. Đóng góp của khóa luận............................................................................ 3
6. Kết cấu khóa luận...................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT NHỮNG MÂU THUẪN CƠ
BẢN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
1. Lý luận về mâu thuẫn theo quan điểm triết học mác-xít
1.1.1. Khái niệm và phân loại mâu thuẫn.................................................7
1.1.2. Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng...................................................................................10
1.1.3. Biện pháp giải quyết mâu thuẫn...................................................11
1.1.4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn từ việc nghiên cứu quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.......................................... 12
1.2. Lý luận về lực lượng sản xuất theo quan điểm triết học mác-xít
1.2.1. Lực lượng sản xuất, các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất......13
1.2.2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong sự phát triển xã hội............ 14
1.3. Tính tất yếu của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong quá trình
phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang
từ năm 2001 đến nay............................................................................ 16
CHƯƠNG 2
NHỮNG MÂU THUẪN CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
2.1. Vài nét về tỉnh An Giang....................................................................21
2.2. Những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay
2.2.1. Mâu thuẫn giữa thực trạng thấp về trình độ học vấn, hiểu biết với
yêu cầu cao về trình độ hiểu biết, ứng dụng các thành tựu KH, KT, CN
vào sản xuất của nông dân......................................................................25
2.2.2. Mâu thuẫn giữa thực trạng lạc hậu với yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong kỹ thuật canh tác của nông dân................................ 29
2.2.3. Mâu thuẫn giữa thực trạng kết cấu hạ tầng nông thôn với yêu cầu
mở rộng và nâng cao chất lượng hiệu quả sử dụng kết cấu ấy trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp..........................35
2.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu mở rộng thị trường hàng nông sản với hiện
thực chất lượng hàng nông sản còn nhiều bất cập..................................39
2.3. Đề xuất một số giải pháp.................................................................... 43
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................46
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XX đã đi qua, khép lại quá khứ, giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, hướng tới tương lai, nhân dân Việt Nam cùng loài người bước
sang thế kỷ XXI, thế kỷ của toàn cầu hóa kinh tế, trong đó tri thức ngày càng có
vai trò nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất – lực lượng quyết định
mọi sự biến đổi xã hội.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: Mọi sự biến đổi xã hội, suy cho cùng,
đều bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Do đó, để sớm “ra khỏi tình
trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[8; 76], tiến tới xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, trong điều kiện nước ta còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình
độ của lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế thì việc quan tâm thúc đẩy lực lượng
sản xuất ngành nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là một tất yếu khách quan.
Để thực hiện mục tiêu đề ra, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, phát huy tiềm năng, thế mạnh từng vùng, từng địa phương,
đồng thời mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo mọi điều kiện thuận lợi
để giải phóng sức sản xuất.
Là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, với thế mạnh về nông nghiệp,
đặc biệt là thế mạnh về cây lúa, trong nhiều năm liền, An Giang luôn là tỉnh liên
tục có giá trị và sản lượng lúa đứng đầu cả nước nhưng trình độ của lực lượng
sản xuất ngành nông nghiệp của Tỉnh còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển của ngành, dẫn tới chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế của Tỉnh. Do
vậy, việc phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp của tỉnh An Giang theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là khách quan và cần thiết. Đây cũng là mâu
thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp của
tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay đang đòi hỏi phải được quan tâm giải quyết
nhằm thúc đẩy kinh tế nông nghiệp An Giang phát triển, xứng đáng là đầu tàu
nông nghiệp của cả nước, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 1
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
Từ trước đến nay, vấn đề làm thế nào để nền nông nghiệp nước ta phát triển
phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước là vấn đề đã và đang được nhiều tác giả,
nhiều tập thể, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở những góc độ, khía
cạnh khác nhau. Tiêu biểu như “Để nông dân giàu lên” của Gs, Ts Võ Tòng
Xuân, xuất bản năm 2005, “Công nghiệp hóa từ nông nghiệp, lý luận, thực tiễn và
triển vọng áp dụng ở Việt Nam” của Đặng Kim Sơn, xuất bản 2001,… và trong
các văn bản, các Nghị quyết của các tỉnh,… nhưng ở khía cạnh cụ thể là nghiên
cứu những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ngành
nông nghiệp của tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay thì chưa có tác giả nào đi
sâu nghiên cứu.
Với tất cả những lý do trên, là sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị, trên
cơ sở học tập và nghiên cứu những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mâu
thuẫn và biện pháp giải quyết mâu thuẫn, về lực lượng sản xuất và vai trò của lực
lượng sản xuất trong sự phát triển xã hội, về tính thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, tác giả quyết định chọn “Những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến
nay” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
2.1.1. Tìm ra những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang giai đoạn từ năm 2001 đến nay.
2.1.2. Đề xuất những biện pháp giải quyết mâu thuẫn, tìm ra những hướng
đi phù hợp để góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp tỉnh An Giang phát triển.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Chỉ ra những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.2.2. Phân tích thực trạng của sự phát triển lực lượng sản xuất ngành nông
nghiệp tỉnh An Giang giai đoạn từ năm 2001 đến nay và hướng giải quyết của
Đảng bộ tỉnh An Giang trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 2
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
Những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ngành
nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chỉ nghiên cứu lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp, chủ yếu là
vấn đề trồng lúa trồng lúa trên địa bàn tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp so sánh và hệ thống, phương pháp thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn,…
5. Đóng góp của khóa luận
5.1. Về lý luận
Đi sâu nghiên cứu và chỉ ra những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
Là một trong những cơ sở khoa học để Đảng bộ và các cấp quản lý về lực
lượng sản xuất ngành nông nghiệp ở An Giang có thể tham khảo trong quá trình
nghiên cứu, tìm ra con đường giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn trong phát
triển nông nghiệp để đưa nền kinh tế tỉnh nhà phát triển.
5.2. Về thực tiễn
Góp phần giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất ngành nông nghiệp ở An Giang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế,
góp phần cùng cả nước từng bước xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa.
6. Kết cấu khóa luận
Khóa luận bao gồm phần mở đầu, hai chương và kết luận. Ngoài ra, Khóa
luận còn có mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 3
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT NHỮNG MÂU THUẪN
CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
1.1. Lý luận về mâu thuẫn theo quan điểm triết học mác-xít
1.1.1. Khái niệm và phân loại mâu thuẫn
1.1.1.1. Khái niệm mâu thuẫn
1.1.1.2. Phân loại mâu thuẫn
1.1.2. Vai trò của mâu thuẫn đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng
1.1.3. Biện pháp giải quyết mâu thuẫn
1.1.4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn từ việc nghiên cứu quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập
1.2. Lý luận về lực lượng sản xuất theo quan điểm triết học mác-xít
1.2.1. Lực lượng sản xuất, các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
1.2.2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong sự phát triển xã hội
1.3. Tính tất yếu của việc giải quyết những mâu thuẫn cơ bản trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ
năm 2001 đến nay
1.3.1. Về mặt lý luận
1.3.2. Về mặt thực tiễn
CHƯƠNG 2
NHỮNG MÂU THUẪN CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
2.1. Vài nét về tỉnh An Giang
2.1.1. Vị trí địa lý
2.1.2. Dân cư - Văn hoá - Xã hội - Chính trị
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 4
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
2.1.3. Kinh tế
2.2. Những mâu thuẫn cơ bản trong qúa trình phát triển lực lượng sản xuất
ngành nông nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay
2.2.1. Mâu thuẫn giữa thực trạng trình độ học vấn, hiểu biết thấp với yêu cầu
cao về trình độ hiểu biết, ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ
vào sản xuất của nông dân
2.2.1.1. Thực trạng trình độ học vấn, hiểu biết thấp của nông dân
2.2.1.2. Yêu cầu cao về trình độ hiểu biết, ứng dụng các thành tựu khoa
học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất của nông dân
2.2.1.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
2.2.2. Mâu thuẫn giữa thực trạng công cụ lao động thô sơ, trình độ tổ chức lao
động xã hội thấp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kỹ thuật canh
tác của nông dân
2.2.2.1. Thực trạng công cụ lao động thô sơ, trình độ tổ chức lao động xã
hội thấp của nông dân
2.2.2.2. Yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kỹ thuật canh tác của
nông dân
2.2.2.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
2.2.3. Mâu thuẫn giữa thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông thôn
thấp kém với yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng kết cấu
ấy trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp
2.2.3.1. Thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông thôn thấp kém
2.2.3.2. Yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng kết
cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông thôn trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất ngành nông nghiệp
2.2.3.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
2.2.4. Mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu mở rộng thị trường hàng nông sản
với một bên là hiện thực hàng nông sản còn nhiều bất cập
2.2.4.1. Hàng nông sản An Giang – vấn đề còn nhiều bất cập
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 5
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
2.2.4.2. Nhu cầu mở rộng thị trường hàng nông sản
2.2.4.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
2.3. Đề xuất giải pháp
PHẦN KẾT LUẬN
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 6
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT NHỮNG MÂU THUẪN
CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
1.1. Lý luận về mâu thuẫn theo quan điểm triết học mác-xít
1.1.1. Khái niệm và phân loại mâu thuẫn
1.1.1.1. Khái niệm mâu thuẫn
Ngay từ thời cổ đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây đều có những
phỏng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem sự tác
động qua lại đó là cơ sở vận động, phát triển của thế giới. Tiêu biểu ở phương
Đông có học thuyết Âm – Dương (Trung Quốc), quan điểm về “Đạo” của Lão
Tử, tư tưởng về mâu thuẫn của trường phái Sàmkhya (Ấn Độ)…, Ở phương Tây
có các triết gia tiêu biểu bàn về vấn đề này như: Heraclit, Aristote, Platon,
Democrit, I.Kant, Hegels,… Mặc dù vậy, nhìn chung, hầu hết các nhà triết học
trước C.Mác đều chưa có tư tưởng về sự vận động đi lên và chưa nâng chúng
thành quy luật của sự phát triển, ngoại trừ Hegels_người đã phát triển quan điểm
mâu thuẫn đến trình độ cao hơn so với trước đó, ông khẳng định: “Mâu thuẫn là
nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống” [Dẫn theo 10;
319]. Song, do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm và bởi lợi ích giai cấp mà ông
đại diện, Hegels đã không thể phát triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng đến độ
triệt để. Ông cho rằng, mâu thuẫn chỉ xảy ra trong ý niệm tuyệt đối mà thôi, chứ
ông chưa thấy rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập ngay trong bản thân sự vật,
hiện tượng chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Điều đó càng thấy
rõ khi ông nghiên cứu các vấn đề xã hội. Bằng tư duy biện chứng của mình, ông
đã chỉ ra tính mâu thuẫn không thể điều hòa được trong “xã hội công dân”, nhưng
khi giải quyết mâu thuẫn của nó, ông lại đẩy việc giải quyết đó vào lĩnh vực tư
tưởng thuần túy.
Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu có giá trị nhất trong
toàn bộ lịch sử hơn 2.000 năm của triết học, dựa trên những thành quả mới nhất
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 7
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
của khoa học hiện đại (cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội và nhân văn),
khái quát thực tiễn thời đại mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển học thuyết
mâu thuẫn biện chứng lên một tầm cao mới khác về chất so với các quan điểm về
mâu thuẫn trước đó. Các ông đã tìm ra mâu thuẫn ngay trong nội tại sự vật, hiện
tượng và chứng minh được rằng khi mâu thuẫn phát triển đến mức gay gắt không
thể điều hòa, chúng sẽ đấu tranh, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Mâu thuẫn được
giải quyết, chỉnh thể cũ mất đi, chỉnh thể mới ra đời, thay thế. Các ông khẳng
định: “Chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển của sự vật trong chính
sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật” [10; 320]. Quan điểm lý
luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Nội dung cơ bản của quy luật này được làm sáng tỏ thông qua một loạt những
phạm trù cơ bản: mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Mặt đối lập là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc
điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau, tồn tại một cách khách quan cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai
mặt đối lập tuy có thuộc tính bài trừ, phủ định nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt
chẽ với nhau, đồng thời tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có
nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề. Như vậy, cũng có thể xem xét sự thống nhất của hai mặt đối lập là
tính không thể tách rời của hai mặt đó.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, đồng
nhất với nhau. Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm sự
đồng nhất của các mặt đó. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự
triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hóa
sang mặt đối lập kia – khi xét về một vài đặc trưng nào đó. Thí dụ, sự phát triển
kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, nhưng lại tạo ra
tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng CNXH. Sự thống nhất của các mặt
đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song, đó chỉ là trạng
thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng
của các mặt đối lập. Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn tác
động qua lại với nhau, đấu tranh với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự
tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 8
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
Như vậy, không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu
lẫn nhau của các mặt đó. Sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là một trong
những hình thức đấu tranh của các mặt đối lập. Tính đa dạng của hình thức đấu
tranh giữa các mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như
của mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của
các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập. Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa
hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của chúng có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự
ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có mối quan hệ
gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và sự phát triển. Điều đó có nghĩa là, sự
thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là
tuyệt đối. Khi xem xét mối quan hệ như vậy, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất …
của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh
của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận
động là tuyệt đối” [Dẫn theo 10; 324].
Tóm lại, triết học Mác – Lênin quan niệm, mâu thuẫn là một hiện tượng
khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập.
1.1.1.2. Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy hết sức phong phú, đa
dạng. Tính đa dạng của các mâu thuẫn được quy định một cách khách quan bởi
đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa
các mặt đối lập được triển khai, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà
trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Ở góc độ triết học:
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập đối với một sự vật, người ta phân
loại các mâu thuẫn thành những mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập tạo thành mâu thuẫn xã hội, người
ta chia các mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn
không đối kháng.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 9
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
Dựa trên ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các
mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Trong
đó, mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát
triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự
vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối. Do vậy, khi phân tích mâu
thuẫn, chúng ta cần phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, theo dõi quá trình
phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng
giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện làm cho những mặt đó biến đổi; đánh giá
đúng tính chất và vai trò của từng mặt và của cả mâu thuẫn trong từng giai đoạn;
xem những mặt đối lập đó có những yếu tố gì chung, giống với những mâu thuẫn
khác và có những đặc điểm gì riêng, khác với những mâu thuẫn khác.
1.1.2. Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng
Những người theo chủ nghĩa duy tâm, siêu hình tìm nguồn gốc của sự vận
động và sự phát triển không phải ở những mâu thuẫn nội tại của sự vật, mà ở
những lực lượng siêu tự nhiên hay ở lý trí, ở ý muốn của con người, của cá nhân
kiệt xuất. Thí dụ, Aristote cho rằng, thế giới này là do Thượng đế sinh ra. Hay
như I.Newton cho rằng, sở dĩ có sự vận động và phát triển của thế giới là do có
“cú hích đầu tiên” tức là do sự tác động từ bên ngoài thế giới vật chất,…
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng tìm thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh
giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng.
Bằng những lập luận khoa học, các ông đã chứng minh được rằng, “mâu thuẫn
chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển”, “là xung lực của sự sống”
[Dẫn theo 10; 326]. V.I.Lênin viết: Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập [10; 325].
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả
các sự vật và hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện
tượng. Nhưng ở các sự vật khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của
một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có những mâu
thuẫn khác nhau.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 10
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
1.1.3. Biện pháp giải quyết mâu thuẫn
Theo quan điểm của triết học Mác – xít, mâu thuẫn là một hiện tượng khách
quan và phổ biến. Do vậy, mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt,
những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận
động và phát triển. Mâu thuẫn được giải quyết bằng sự đấu tranh theo hướng phủ
định lẫn nhau của các mặt đối lập. Mâu thuẫn được giải quyết, chỉnh thể cũ mất
đi, chỉnh thể mới ra đời, thay thế.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi, cho nên, chúng
ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện;
cũng không để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố
gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết
mâu thuẫn.
Để giải quyết mâu thuẫn, trước hết cần nhận thức được mâu thuẫn. Để nhận
thức mâu thuẫn, phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, khuynh hướng vận
động trái ngược nhau. Phải nghiên cứu từng mặt, từng khuynh hướng ấy với tư
cách như là một cái tồn tại độc lập, không phụ thuộc (tương đối) lẫn nhau, nghĩa
là tách biệt chúng (tách biệt tương đối) để tiến hành nghiên cứu, phân tích từng
mặt đối lập (một cách đối lập tương đối) sau đó phải đặt chúng vào những mối
liên hệ, tương trợ lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Phương pháp này được
V.I.Lênin gọi là phương pháp phân đôi cái thống nhất.
Để giải quyết đúng đắn mâu thuẫn, phải phân tích đúng mâu thuẫn. Khi phân
tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn,
xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Do vậy, để
thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được
điều hòa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình
độ phát triển của mâu thuẫn. Muốn vậy, phải tìm ra phương thức, phương tiện và
lực lượng để giải quyết. Đối với mỗi mâu thuẫn khác nhau, có phương pháp giải
quyết khác nhau, hình thức giải quyết phải linh hoạt, phù hợp với từng mâu
thuẫn, phù hợp với điều kiện cụ thể.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 11
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
1.1.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình nhận thức sự vật, việc nhận thức mâu thuẫn của nó là cực kỳ
quan trọng. Bởi vì, trong tiến trình nhận thức mâu thuẫn, trước hết chúng ta nhận
thức sự vật như một thực thể đồng nhất. Tiếp đó, khi phân tích sâu hơn ta phát
hiện ra sự khác nhau, trong những khác nhau đó lại thấy những đối lập, nghiên
cứu sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập ta biết được mâu thuẫn của nó và biết
được nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá
trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua
từng giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện làm cho những mặt đó biến đổi; đánh
giá đúng tính chất và vai trò của từng mặt đối lập và của cả mâu thuẫn trong từng
giai đoạn; xem những mặt đối lập đó có những yếu tố gì chung, giống với những
mâu thuẫn khác và có những đặc điểm gì riêng, khác với những mâu thuẫn khác.
Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn
của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra
phương thức, phương tiện, lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ
chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách rõ ràng, cụ thể.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng
ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện;
cũng không để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố
gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập
(dưới những hình thức cụ thể rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau
phải có những phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tùy thuộc vào bản chất
của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích
hợp với từng mâu thuẫn. Có như thế mới đem lại hiệu quả tốt đẹp.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 12
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
1.2. Lý luận về LLSX theo quan điểm triết học Mác-xít
1.2.1. LLSX, các yếu tố cấu thành LLSX
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, LLSX và QHSX
là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C.Mác gọi là “quan hệ song trùng” của
bản thân sự sản xuất xã hội: Quan hệ của con người với tự nhiên và quan hệ của
con người với nhau.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là, trong quá
trình thực hiện sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp
các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử
khái quát trong khái niệm “lực lượng sản xuất”. LLSX nói lên năng lực thực tế
của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội.
LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, lao động của con
người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo
thành LLSX, trong đó, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động” [Dẫn theo 10; 435].
Cùng với con người – người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố
cơ bản của LLSX. Công cụ lao động, theo Ph.Ăngghen là “khí quan của bộ óc
con người”, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “nối dài
bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ con người [Dẫn theo 10; 436]. Bởi vậy, khi
công cụ lao động đã đạt tới trình độ được tin học hóa, được tự động hóa…thì vai
trò “khí quan vật chất” của nó trở nên hết sức kỳ diệu. Trong mọi thời đại, công
cụ sản xuất luôn là yếu tố động nhất của LLSX, biểu hiện năng lực thực tiễn của
con người ngày một tăng thêm. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không
ngừng của nó đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét
cho cùng, đó chính là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát
triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con
người. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác đã nêu một tư tưởng
quan trọng về vai trò của LLSX đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội. Ông
viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất.
Do có được những LLSX mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 13
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người
thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình” [Dẫn theo 10; 436-437].
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự tiến triển của sản xuất,
khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển
đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất
và trong đời sống. Ngày nay, cách thức mà khoa học xâm nhập và thể hiện trong
hiện thực khác nhiều so với vài thập kỷ trước đây. C.Mác dự kiến rằng khoa học
trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, trở thành LLSX độc lập. Tư tưởng ấy của
C.Mác có ý nghĩa định hướng tích cực đối với cả hoạt động sản xuất lẫn hoạt
động khoa học.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất và do
vậy, nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho LLSX hiện đại.
1.2.2. Vai trò của LLSX trong sự phát triển xã hội
Sự tác động lẫn nhau giữa LLSX với QHSX biểu hiện mối quan hệ mang tính
chất biện chứng. QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội), bao gồm:
a. Các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
b. Các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất,
c. Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời
sống xã hội – quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX.
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều tiến
bộ. Sự biến đổi đó, xét cho cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển
của LLSX, trước hết là của công cụ lao động. Do vậy, LLSX là yếu tố có tác
dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất (phương thức sản
xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người).
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Trình độ phát triển của
LLSX nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 14
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát
triển của mình. Trình độ của LLSX thể hiện ở:
1. Trình độ của công cụ lao động
2. Trình độ tổ chức lao động xã hội
3. Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
4. Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
5. Trình độ phân công lao động
Các yếu tố này sẽ tạo điều kiện cho LLSX phát triển.
QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát
triển của LLSX. Sự phát triển khách quan của LLSX tất yếu dẫn đến việc xã hội
phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác QHSX cũ và thay thế bằng QHSX mới
phù hợp, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Điều đó cũng có nghĩa là phương
thức sản xuất lỗi thời bị diệt vong và phương thức sản xuất mới, phù hợp ra đời,
thay thế. C.Mác đã khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng,
các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những QHSX hiện có…
trong đó từ trước đến nay, các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những
hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng
xã hội” [Dẫn theo 10; 446].
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của LLSX đối với
QHSX, song cũng chỉ rõ rằng, QHSX bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương
đối với LLSX. QHSX tác động trở lại LLSX, quy định mục đích xã hội của sản
xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ, từ đó hình thành một
hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, LLSX chỉ có thể phát triển khi có một
QHSX phù hợp với nó. QHSX lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn cũng sẽ kìm hãm
sự phát triển của LLSX. Khi mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX đã bộc lộ gay gắt,
đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được, cũng như khi mâu
thuẫn đã được phát hiện mà không được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai
lầm, chủ quan,... thì nó sẽ kìm hãm và sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với
LLSX.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 15
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
1.3. Tính tất yếu của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát
triển LLSX ngành nông nghiệp ở tỉnh An Giang, giai đoạn từ năm 2001 đến
nay
1.3.1. Về mặt lý luận
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự phát triển đều là
quá trình đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; là quá trình giải quyết
những mâu thuẫn làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời, thay thế.
Ở mỗi sự vật, hiện tượng lại có những mâu thuẫn khác nhau, trong đó có mâu
thuẫn cơ bản, mâu thuẫn không cơ bản. Việc xác định và giải quyết mâu thuẫn cơ
bản một cách đúng đắn, khoa học sẽ làm cho sự vật biến đổi căn bản về chất, thúc
đẩy sự vật phát triển đi lên.
Chiến tranh qua đi, hòa bình lập lại, cả nước ta ra sức bắt tay vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta xác định, nước ta tiến thẳng lên CNXH bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đạt được cơm no áo ấm cho nhân dân, xây dựng
xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, nâng cao đời sống
của nhân dân. Mà “Muốn nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải
quyết vấn đề ăn (rồi mới đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt
vấn đề ăn thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương thực. Mà lương thực là do
nông nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan
trọng” [9; 544].
Nói về tầm quan trọng của nông nghiệp, C.Mác cũng đã khẳng định: Con
người trước hết phải có ăn rồi sau đó mới nói tới các hoạt động khác. Ông chỉ rõ,
nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người…và việc sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên cho sự sống của họ và của mọi lĩnh vực
sản xuất nói chung. Điều này khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của nông
nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia cũng như sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Đặc biệt, đối với nước ta - nước quá độ đi lên CNXH từ xuất phát điểm là một
nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ của LLSX còn nhiều hạn chế.
Ý thức được vai trò quan trọng của nông nghiệp trong điều kiện cụ thể của đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã xem CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm
vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH nhằm đưa nước ta đến năm 2010
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 16
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
thoát khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “Chúng ta chủ
trương đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng
bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân…thực hiện cơ khí hóa, điện
khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ sinh
học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với
đặc điểm từng vùng, từng địa phương” [8; 29].
Cũng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, trong “Định hướng
phát triển ngành, lĩnh vực và vùng”, Đảng ta nhấn mạnh:
Về kinh tế, “Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh
tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Hiện nay và trong nhiều năm tới,
vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh
và bền vững” [8; 190-191].
Mặc dù cho đến nay, trên con đường phát triển đất nước, chúng ta đã đạt nhiều
thành tựu to lớn cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngày càng nâng cao thế
và lực của nước ta trên trường quốc tế, song, nhìn chung, nước ta vẫn là một nước
nông nghiệp lạc hậu. Thực tế này mâu thuẫn với yêu cầu phát triển đất nước trong
giai đoạn hiện nay. Đây là mâu thuẫn cơ bản tồn tại suốt trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Giải quyết mâu thuẫn này sẽ giúp nước ta thoát khỏi tình trạng
lạc hậu, kém phát triển, trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Muốn làm được
điều đó thì cần phải có biện pháp thích hợp để giải quyết mâu thuẫn nói trên.
Chừng nào mâu thuẫn này còn tồn tại, chừng đó nước ta còn là một nước nông
nghiệp lạc hậu. Do vậy, việc xác định và giải quyết những mâu thuẫn cơ bản của
nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay là vô
cùng quan trọng và cần thiết.
Mâu thuẫn cơ bản trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì có
nhiều. Song, như chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định, suy cho cùng, mọi
sự biến đổi xã hội đều bắt nguồn từ sự biến đổi của LLSX. Do vậy, trong giai
đoạn hiện nay, để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thành công thì
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 17
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
cần phải bắt đầu từ sự phát triển của LLSX ngành nông nghiệp. Cụ thể trong bài
này, tác giả đề cập LLSX ngành nông nghiệp của tỉnh An Giang giai đoạn từ năm
2001 đến nay.
1.3.2. Về mặt thực tiễn
Là một tỉnh nông nghiệp nằm ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với
560.637 ha tổng diện tích đất nông nghiệp, trong đó 503.464 ha là diện tích trồng
lúa với năng suất bình quân gần 6 tấn/ha (sản lượng lúa năm 2005 của tỉnh đạt
3.141.5 nghìn tấn với năng suất bình quân là 5.806 tấn/1ha) [11; 267], hằng năm
có đóng góp lớn vào việc xuất khẩu gạo và việc đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia, An Giang được coi là vựa lúa lớn nhất của cả nước.
Mặc dù có những đóng góp quan trọng như thế, song nhìn chung, trình độ của
LLSX ngành nông nghiệp ở An Giang còn nhiều hạn chế, năng suất và chất lượng
sản phẩm làm ra còn thấp và chưa tương xứng với tiềm năng [4; 5]. “Xét về tổng
thể, An Giang là một tỉnh nông nghiệp, tốc độ phát triển chưa cao và chưa ổn
định, thiếu tính bền vững; thu chưa đủ chi; thu nhập bình quân đầu người thấp”
[4; 27]. Chẳng hạn như: Nhóm có thu nhập cao nhất (20% tổng số nhân khẩu toàn
tỉnh) là 1.188.400 đồng/1 người/1 tháng; Nhóm có thu nhập thấp nhất là 182.300
đồng/1 người/1 tháng (số liệu tính cho năm 2004) [11; 251]. Trong khi đó, tổng
chi tiêu bình quân 1 người/1 tháng là 376.100 đồng. Riêng tính về chi tiêu cho đời
sống bình quân 1 người/1 tháng của nhóm có thu nhập thấp nhất là 181.300 đồng.
Để khắc phục những hạn chế này, điều cần chú ý trước hết đối với Đảng bộ và
các cấp quản lý, lãnh đạo tỉnh An Giang là phải quan tâm hơn nữa trong việc phát
triển LLSX, bởi vì trong “sự biến đổi…xét cho cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự
biến đổi và phát triển của LLSX” [8; 443-444]. Mà An Giang là một tỉnh nông
nghiệp, hầu hết dân cư sống ở các vùng nông thôn (71,7%) và sống chủ yếu bằng
nghề nông, trình độ của LLSX ngành nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Do vậy,
vấn đề quan tâm hơn nữa trong việc phát triển LLSX ngành nông nghiệp của tỉnh
nhà là một tất yếu.
Nhận thức được tầm quan trọng của LLSX, từ lâu, Đảng bộ và nhân dân An
Giang đã ra sức đầu tư phát triển LLSX ngành nông nghiệp, bước đầu đem lại
hiệu quả khả quan. LLSX ngành nông nghiệp đang từng bước được đổi mới và
phát triển. Song, để không xa vào dàn trải, không rơi vào giải quyết cục bộ thì
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 18
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
việc xác định và giải quyết những mâu thuẫn cơ bản trong qúa trình phát triển
LLSX ngành nông nghiệp của tỉnh, đặc biệt là từ năm 2001 đến nay là khách
quan và cần thiết.
Tóm lại, trong lịch sử Triết học phương Đông và phương Tây từng tồn tại khá
nhiều quan điểm khác nhau về mâu thuẫn, về nguồn gốc của sự vận động và phát
triển.
Từ giữa thế kỷ XIX, dựa trên những thành tựu khoa học hiện đại, thông qua
sự kiểm nghiệm của thực tiễn, Triết học Mác – Lênin ra đời đã đem lại cho con
người thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học. Triết học
Mác – Lênin khẳng định mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến; là
nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển. Đứng trên mỗi góc độ
nghiên cứu khác nhau, mâu thuẫn được chia ra thành các loại khác nhau, trong đó
có mâu thuẫn cơ bản_mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát
triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự
vật. Giải quyết mâu thuẫn này một cách đúng đắn, khoa học sẽ làm thay đổi sự
vật về chất, thúc đẩy sự vật phát triển đi lên.
Vận dụng quan điểm mâu thuẫn đó vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã
hội, chúng ta thấy rằng, muốn thay đổi một phương thức sản suất lỗi thời, lạc hậu
cần phải xác định đúng xem mâu thuẫn cơ bản của nó là gì, nguyên nhân sâu xa là
từ đâu, từ đó mới đề ra những biện pháp giải quyết phù hợp. Lấy thí dụ như ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế đồng
thời tiến hành CNH, HĐH đất nước nhằm đưa nước ta về cơ bản đến năm 2020
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Song, nhìn chung hiện nay,
nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh
mún; trình độ của người lao động trong nông nghiệp còn nhiều hạn chế; canh tác
chủ yếu theo thói quen, kinh nhiệm lâu năm, ít ứng dụng công nghệ hiện đại. Như
vậy, ta thấy mâu thuẫn cơ bản ở đây chính là mâu thuẫn giữa thực trạng lạc hậu
của LLSX của nước ta với yêu cầu phát triển đất nước. Nguyên nhân sâu xa của
mâu thuẫn chính là do trình độ của LLSX của ta còn nhiều hạn chế.
Theo xu thế phát triển chung, nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống là nhu
cầu ngày càng cao.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 19
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
Trên thế giới hiện nay, xu thế hợp tác toàn cầu là xu thế chủ đạo. Vì vậy, để
tồn tại và phát triển buộc các nước phải mở cửa, hội nhập, phải tự vươn lên. Đóng
cửa, không giao lưu, không hội nhập là tự giết mình. Đặc biệt, trong thời đại ngày
nay, khoa học ngày càng trở thành LLSX trực tiếp, quan trọng của xã hội. Do
vậy, nước nào làm chủ được khoa học, nước đó sẽ nhanh chóng giàu mạnh và làm
chủ được chính mình. Nước nào càng không nắm bắt được KH, CN bao nhiêu,
càng tụt hậu xa về kinh tế, xã hội bấy nhiêu, càng nghèo nàn bấy nhiêu. Mà nghèo
thì sớm muộn gì cũng phải phụ thuộc vào nước giàu. Lệ thuộc về kinh tế sẽ lệ
thuộc về chính trị. Lúc ấy, tự do khó được đảm bảo. Theo quy luật phát triển tự
nhiên, khi sự vật, hiện tượng không thích nghi được với điều kiện xung quanh thì
tất yếu nó sẽ tự diệt vong.
Hòa nhập với sự phát triển chung đó, Việt Nam cũng đang ra sức tìm mọi biện
pháp để có thể tiếp cận và nắm bắt những thành tựu khoa học – công nghệ của
thời đại. Ngoài việc tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta luôn ra sức phát huy cao độ sức mạnh nội lực, quyết tâm phấn đấu đưa
nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra biện pháp đổi mới
toàn diện có trọng điểm phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Trong đó, Đảng ta xác định CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước (Nghị quyết
Trung ương 5 khóa IX).
Là một tỉnh nông nghiệp có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
song, LLSX ngành nông nghiệp của tỉnh An Giang còn có nhiều hạn chế mà nếu
được quan tâm giải quyết hợp lý sẽ tạo ra thế và lực vững chắc cho sự phát triển
của tỉnh An Giang nói riêng, của cả nước nói chung. Vì vậy, việc tìm ra và giải
quyết những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển LLSX ngành nông
nghiệp ở tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay là vấn đề quan trọng và cần thiết.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 20
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
CHƯƠNG 2
NHỮNG MÂU THUẪN CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT NGÀNH NÔNG NGHIỆP
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
2.1. Vài nét về tỉnh An Giang
2.1.1. Vị trí địa lý
An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam bộ, thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, một
phần nằm trong Tứ giác Long Xuyên (Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Đồng
Tháp Mười). Toàn tỉnh có 1 thành phố trực thuộc, 1 thị xã và 9 huyện (thành phố
Long Xuyên - trung tâm kinh tế - văn hóa của tỉnh, thị xã Châu Đốc, huyện An
Phú, huyện Châu Thành, huyện Chợ Mới, huyện Thoại Sơn, huyện Tân Châu,
huyện Tri Tôn, huyện Tịnh Biên, huyện Phú Tân và huyện Châu Phú).
An Giang có diện tích đất tự nhiên là 3.536,76 km2, dân số năm 2006 là
2.210.271 người, mật độ dân số là 625 người/km2. Dân số trong độ tuổi lao động
năm 2006 là 1.387.275 người, chiếm gần 62,8%. Lao động trong nông nghiệp giai
đoạn 2001 – 2005 là 63.6%.
Phía Tây Bắc giáp Campuchia, dài 104 km (theo “Hiệp ước hoạch định biên
giới Việt Nam – Campuchia ký ngày 27/12/1985); phía Tây Nam giáp tỉnh Kiên
Giang, dài 69,789 km; phía Nam giáp tỉnh Cần Thơ, dài 44,734 km; phía Đông
giáp tỉnh Đồng Tháp, dài 107,628 km.
Điểm cực Bắc trên vĩ độ 10o 57 (xã Khánh An, huyện An Phú); Điểm cực
Nam trên vĩ độ 10o 12 (xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn); Điểm cực Tây trên
kinh độ 104o 46 (xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn); Điểm cực Đông trên kinh độ 105o
35 (xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới).
Về khí hậu:
An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm
là 27oC, cao nhất là 35oC đến 36oC vào tháng 4 – 5, thấp nhất từ 20oC đến 21oC
vào tháng 12 và tháng 1. Lượng mưa trung bình là 1.400mm – 1.500mm. Khí hậu
chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11), mùa khô (từ tháng
12 đến tháng 4 năm sau).
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 21
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
Nhiệt độ trung bình của An Giang không cao lắm và tương đối ổn định. Khí
hậu của An Giang là khí hậu nhiệt đới gió mùa nên rất thuận lợi cho việc sản xuất
nông – lâm nghiệp. Tuy nhiên, do mùa khô tương đối dài nên hạn chế khả năng
tăng vụ. Do đó, muốn phát triển sản xuất cần đẩy mạnh công tác thủy lợi và trồng
màu.
Về địa hình:
Toàn tỉnh có hai dạng địa hình lớn là đồng bằng và đồi núi thấp.
Địa hình đồi núi thấp chủ yếu tập trung ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên.
Địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng, chủ yếu do phù sa sông Tiền và
sông Hậu tạo nên. Do vậy, phần lớn đất đai của An Giang là màu mỡ vì 72% diện
tích là đất phù sa hoặc có phù sa. Thêm vào đó, An Giang có hệ thống sông ngòi,
kênh rạch dày đặc và rải đều khắp tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giao
thông vận tải thủy, bộ và giao lưu buôn bán với các nước và các khu vực khác
trong nước, đồng thời là điều kiện thuận lợi cho phát triển nông – lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là ngành nông nghiệp trồng lúa.
2.1.2. Dân cư - Văn hóa - Xã hội - Chính trị
2.1.2.1. Về dân cư
An Giang là tỉnh có dân số khá đông, cung cấp nguồn nhân lực dồi dào.
Năm 2006 dân số của Tỉnh là 2.210.271 người, mật độ dân số là 625 người/km2,
với mật độ này, dân số An Giang đứng hàng thứ 4 trong khu vực, hàng thứ 16
trong cả nước, trong đó tập trung phần lớn ở nông thôn (1.585.818 người, chiếm
71,7% dân số của Tỉnh), số dân trong độ tuổi lao động là 1.387.275 người (chiếm
gần 62,8%). Giai đoạn năm 2001 – 2005, bình quân tỷ lệ lao động trong nông
nghiệp chiếm 63,6%.
2.1.2.2. Về văn hóa - xã hội - chính trị
Lĩnh vực văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Quy mô, chất
lượng giáo dục được nâng lên. Công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức
khỏe nhân dân được tăng cường. Các hoạt động văn hóa, thể dục – thể thao được
đẩy mạnh, công tác xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa bước đầu có
kết quả tốt. Các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ, giúp đỡ, chăm sóc người
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 22
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
có công, các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm, đạt
kết quả tốt.
Các chính sách trong dân tộc, tôn giáo và nông thôn, nông dân được các
cấp ủy Đảng quan tâm giải quyết; an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội, an
ninh biên giới được bảo đảm vững chắc; công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm hình sự, tội phạm kinh tế, buôn lậu…đã đạt được hiệu quả tốt, bước đầu
kìm chế sự gia tăng tội phạm. Bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi, đời sống nhân
dân được cải thiện.
Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, nhất là tổ chức Đảng ở cơ
sở được nâng cao,… Hệ thống chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố, kiện
toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có
nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động đi vào chiều sâu, đạt nhiều
kết quả thiết thực.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, lĩnh vực văn hóa - xã hội -
chính trị ở An Giang vẫn còn một số hạn chế sau:
Nguồn lao động nhiều, nhưng tỷ lệ qua đào tạo ít, chất lượng còn thấp, tình
trạng thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp còn cao, cơ cấu lao động chuyển dịch
chậm, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội.
Văn hóa – xã hội phát triển chưa tương xứng với phát triển kinh tế. Cơ sở
vật chất, đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ tăng dân số
giảm chậm, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, nhưng nguy cơ tái nghèo cao, nhất là
trong vùng đồng bào Khmer.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng đôi lúc chưa thật sự chủ động, thiếu
tính thuyết phục và sức chiến đấu, vì vậy chưa giải quyết kịp thời các tâm trạng
bức xúc và dư luận bất lợi trong xã hội. Việc cập nhật kiến thức, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên trước tình hình mới chưa được thường xuyên, chưa
gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức. Tỷ lệ cán bộ trẻ, nữ, dân
tộc còn thấp. Công tác triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng
đôi lúc còn chậm, chưa sâu, chưa đến nơi, đến chốn; việc kiểm tra, phát hiện, xử
lý những tồn đọng, yếu kém trong tổ chức thực hiện chưa thường xuyên, sâu sát,
kịp thời.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 23
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
2.1.3. Kinh tế
Theo báo cáo “Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VII” tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2005-2010 của tỉnh An
Giang, tháng 3 năm 2006, kinh tế An Giang đạt những thành tựu sau: nền kinh tế
An Giang so với những năm trước có nhiều tiến bộ, năng lực sản xuất, kinh doanh
và sức cạnh tranh của hàng hóa được nâng lên, đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII đề ra, đó là:
Tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 9,1%, vượt kế hoạch 0,6%, trong
đó khu vực thương mại – dịch vụ tăng 11,5%, khu vực công nghiệp – xây dựng
tăng 12,2%, khu vực nông nghiệp tăng 5,2%. Thu nhập bình quân đầu người năm
2005 đạt 8,53 triệu đồng, tăng 0,83 lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: Năm 2002, giá trị thương mại
– dịch vụ chiếm tỷ trọng 44,72%, công nghiệp – xây dựng chiếm 12,32%, nông
nghiệp còn 39,6 %. Sơ bộ đến năm 2006, giá trị tương ứng các ngành kinh tế đó
là: 53,5%; 12,6%; 33,9%.
Lĩnh vực nông nghiệp phát triển theo chiều sâu. Cây lúa, con cá nước ngọt trở
thành mặt hàng chủ lực của tỉnh, có giá trị và sản lượng đứng đầu cả nước; nhiều
mô hình sản xuất hiệu quả được nhân rộng, nhất là mô hình “ba giảm ba tăng”,…
Việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ngày
càng mạnh mẽ; giá trị trên đơn vị diện tích tăng liên tục, trình độ sản xuất của
nông dân ngày càng tiến bộ, cơ sở hạ tầng ở nông thôn được đầu tư nâng cấp, bộ
mặt nông thôn không ngừng đổi mới tiến bộ.
Tuy nhiên, “so với toàn vùng và cả nước thì kinh tế An Giang còn nhiều mặt
hạn chế. Xét về tổng thể, An Giang là tỉnh nông nghiệp, tốc độ phát triển chưa
cao và chưa ổn định, thiếu tính bền vững; thu chưa đủ chi; thu nhập bình quân
đầu người thấp” [4; 27]. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, thương mại, dịch vụ
và nhất là du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; sản xuất
nông nghiệp còn chi phối lớn, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 24
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
2.2. Những mâu thuẫn cơ bản trong qúa trình phát triển LLSX ngành nông
nghiệp tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay
2.2.1. Mâu thuẫn giữa thực trạng thấp về trình độ học vấn, hiểu biết với
yêu cầu cao về trình độ hiểu biết, ứng dụng các thành tựu KH, KT, CN vào
sản xuất của nông dân
2.2.1.1. Thực trạng trạng thấp về trình độ học vấn, hiểu biết
Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, loài người đã đạt những thành
tựu KH, CN tiên tiến, hiện đại vô cùng to lớn; khoa học ngày càng trở thành
LLSX trực tiếp, thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thì
việc sản xuất nông nghiệp theo tập quán, thói quen với những nông cụ thô sơ, lạc
hậu làm cho nền kinh tế ì ạch phát triển là ngày càng không còn phù hợp. Thực tế
hiện nay, hầu hết nông dân Việt Nam nói chung, nông dân tỉnh An Giang nói
riêng, mặc dù đã có nhiều tiến bộ hơn so với những năm trước đây, nhưng nhìn
chung, nhận thức của đa số nông dân còn nhiều hạn chế, thể hiện ở một số mặt cơ
bản sau:
Thứ nhất, trình độ học vấn, hiểu biết KH, KT, CN của nông dân còn nhiều
hạn chế.
Tính đến hết năm 2006, toàn tỉnh có 10/11 huyện, thị với 142/154 số xã
phường hoàn thành chương trình phổ cập phổ thông cơ sở. Nghĩa là còn 12/154
số xã, phường vẫn có những người dân chưa học hết chương trình phổ thông cơ
sở dù là phổ cập. Và cũng có nghĩa là những người đó mới chỉ đạt trình độ tiểu
học, kể cả phổ cập tiểu học [11; 229]. Năm 2000, nông dân đạt học vấn cấp III là
11,4%, đây là con số còn ở mức hạn chế, toàn tỉnh phấn đấu đến năm 2010, tổng
số nông dân đạt học vấn cấp III là 20% [21;36].
Bên cạnh trình độ học vấn còn hạn chế, phần đông nông dân ít chịu học
hỏi những kinh nghiệm đặc biệt là những thành tựu về KH, KT, CN từ bên ngoài
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như: đài phát thanh, truyền
hình, báo chí, internet,…. Đối với họ, ngoài thời gian đi làm đồng về, hầu hết
người lớn thường giành thời gian để nghe ca cổ, cải lương hoặc đến nhà nhau
chơi cho hết ngày; còn thanh niên thì ngoài thời gian đi làm đồng về, hầu hết họ
giành thời gian cho giải trí, đi chơi với bạn bè, xem phim, nghe ca nhạc,… Hầu
như rất ít người giành thời gian cho việc đọc báo, nghe thời sự để bổ sung thêm
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 25
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
tri thức, kinh nghiệm của mình, để có thể phục vụ cho việc phát triển kinh tế gia
đình tốt hơn, ổn định hơn.
Thứ hai, nông dân còn chú trọng nhiều về số lượng, chưa quan tâm nhiều
đến chất lượng sản phẩm.
Từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển, rất nhiều loại thuốc
bảo vệ thực vật liên tiếp ra đời, cho phép nông dân canh tác với năng suất rất cao,
đáp ứng nhu cầu về số lượng nông sản ngày càng tăng của con người, nhưng, chất
lượng vẫn chưa cao, thậm chí còn để lại trong sản phẩm một hàm lượng độc tố
lớn, là một trong những nguyên nhân gây nhiều loại bệnh nguy hiểm cho sức
khỏe của con người. Do thiếu hiểu biết, hoặc hiểu biết chưa đầy đủ về cơ chế ủ
bệnh từ những loại thuốc này mà nhiều bà con nông dân đã không kiên quyết loại
trừ một số loại thuốc cấm ra khỏi quá trình sản suất.
Thứ ba, ý thức bảo vệ môi trường chưa thật sự được bà con quan tâm đúng
mức.
Chúng ta biết rằng, hoạt động nông nghiệp có tác động không nhỏ đến môi
trường. Vì vậy, bảo vệ môi trường là công việc không của riêng ai nhưng cũng
không phải là công việc của chung theo kiểu “cha chung không ai khóc”, mà nó là
trách nhiệm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, mỗi ngành nghề, mỗi cá nhân. Bảo vệ
môi trường chung trước hết là bảo vệ sức khỏe của chính bản thân, của gia đình
mình. Ở An Giang, ý thức bảo vệ môi trường mặc dù đã được nhiều người quan
tâm thực hiện, nhưng chưa triệt để, nhất là ở những vùng nông thôn. Trong quá
trình sản xuất nông nghiệp, nông dân thường hay sử dụng phân bón hóa học,
thuốc trừ sâu, để phòng, trị bệnh và chăm sóc cây trồng. Nhưng sau khi sử dụng,
bên cạnh một số nông dân đã có ý thức gom những chai lọ, bao bì đựng thuốc trừ
sâu bỏ vào đúng nơi quy định, thì phần lớn nông dân vẫn chưa có ý thức cao về
vấn đề này. Hàng loạt những chai, lọ đựng thuốc trừ sâu với đủ kiểu, loại, lớn,
nhỏ đều được bà con nông dân sẵn sàng giục bỏ bất cứ chỗ nào: trên bờ ruộng,
mép sông, trên vườn, sát chái nhà,… hình như bất cứ chỗ nào có thể để lọt thứ
chai lọ ấy là bà con có thể “cất giữ” một cách tự nhiên ở đó mà không cần biết nó
sẽ gây tác hại như thế nào đến sức khỏe con người. Lượng thuốc sâu dư thừa còn
sót lại trong lọ một phần bốc hơi vào không khí kết hợp với lượng thuốc phun ra,
với rác thải tràn lan ở các cống rãnh, kênh mương tỏa vào không khí làm ô nhiễm
môi trường không khí; một phần ngấm vào đất, kết hợp với các loại rác thải trong
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 26
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
sinh hoạt, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp làm ô nhiễm môi trường đất; một
phần sau khi ngấm vào đất cùng với lượng thuốc phun ra, ngấm xuống đất, theo
mạch nước ngầm chảy ra các con sông, đổ ra biển làm ô nhiễm nguồn nước. Đất,
nước, không khí lại được con người tiếp tục sử dụng, vì vậy nó gây ảnh hưởng
không tốt đến sức khỏe con người, đồng thời có hại trực tiếp đến đời sống của các
sinh vật trong đất, nước gây ảnh hưởng đến môi trường và cân bằng sinh thái, gây
nguy hại trước hết đến những người sống tại đó, sau là đến những vùng xung
quanh, rộng hơn nữa là đe dọa cuộc sống của cả loài người.
Nhìn chung, trình độ học vấn, hiểu biết của nông dân An Giang hiện nay
còn nhiều hạn chế. Thực tế này gây cản trở lớn trong tiến trình thực hiện mục tiêu
phát triển nông nghiệp đi vào chiều sâu, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của hàng nông sản, tiến tới “xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa
lớn, hiệu quả và bền vững” mà Đảng bộ tỉnh An Giang đã đề ra trong Nghị quyết
về đẩy nhanh CNH, HĐH nông thôn thời kỳ 2001 – 2010 của Tỉnh.
2.2.1.2. Yêu cầu cao về trình độ hiểu biết, ứng dụng các thành tựu KH,
KT, CN vào sản xuất của nông dân
Do hiểu biết về KH, CN còn hạn chế nên nhận thức của nông dân về
những biện pháp canh tác sao cho có hiệu quả nhất cũng chưa cao. Phần lớn họ
canh tác theo tập quán, thói quen, kinh nghiệm cá nhân hoặc của một nhóm cá
nhân nào đó. Đồng thời, nhận thức của họ về mối quan hệ giữa chất lượng sản
phẩm với an toàn sức khỏe của con người, giữa sản xuất nông nghiệp với bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái,… cũng còn nhiều hạn chế. Hầu hết nông dân còn
chú trọng nhiều về số lượng nông phẩm, ít quan tâm đến chất lượng của nó nên
mặc dù là một tỉnh đồng bằng rộng lớn, có nhiều tiềm năng cho phát triển nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa qui mô lớn nhưng thu nhập bình quân của người
dân An Giang còn thấp, bằng 85% mức bình quân chung cả nước. Thu chưa đủ
chi, nhiều hộ nông dân còn phải sống cảnh nhà lá, nhà tạm bợ, số hộ nghèo của
Tỉnh tính đến năm 2006 là 58.543 hộ, chiếm 13,15% tổng số hộ trong toàn Tỉnh.
Để tồn tại, phát triển mà không bị tụt hậu xa về kinh tế so với các nước
phát triển trên thế giới, những nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta cần phải
làm thế nào để nâng cao trình độ của nông dân, làm cho họ có đủ điều kiện và khả
năng tiếp cận, nắm bắt kịp thời những tri thức về KH, CN hiện đại (ở đây nói đến
những thành tựu KH, KT, CN phục vụ cho sản xuất nông nghiệp) để từ đó họ có
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 27
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
thể ứng dụng vào quá trình sản xuất, làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời bảo vệ bền vững môi trường
sinh thái, đảm bảo sức khỏe cho con người, đem lại lợi nhuận cao nhất cho nông
dân là một đòi hỏi tất yếu, khách quan, phù hợp với sự phát triển nói chung là đi
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, cái tiến bộ bao giờ cũng dần thay thế
cái cũ đã lỗi thời, lạc hậu, đồng thời phù hợp với quá trình phát triển LLSX ngành
nông nghiệp của Việt Nam nói chung, của tỉnh An Giang nói riêng trong quá trình
phát triển đất nước hiện nay. Yêu cầu này đã được Đảng và Nhà nước ta cụ thể
hóa trong các Nghị quyết, các văn bản hành chính và đặc biệt được nhấn mạnh
ngay từ Đại hội IX - Đại hội đại biểu toàn quốc lần đầu tiên của Đảng ta trong thế
kỷ XXI. Đại hội IX khẳng định để “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển…tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”[7;24], trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, đặc biệt coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đạt mức
tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện
tích. Phải ứng dụng những thành tựu KH, CN hiện đại, nhất là công nghệ sinh học
vào trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất
lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Ví dụ như đưa các
loại máy phục vụ cho việc làm đất (máy cày, máy bừa,..), các loại máy phục vụ
cho gieo trồng (máy cấy, máy gieo hạt,..), các loại máy chăm sóc (máy xới; máy
phun thuốc trừ sâu, diệt cỏ,…), các loại máy phục vụ cho thu hoạch và chế biến,
bảo quản (máy gặt, máy tuốt lúa, máy thu hoạch ngô, máy rê lúa, máy sấy,…),…
Để làm được những công việc ấy, đối với người nông dân không phải ai cũng có
thể làm một cách thành thạo, điêu luyện mà không cần phải có tri thức về chúng,
tức là không cần phải có sự am hiểu về cấu trúc, chức năng, về cách thức, biện
pháp và điều kiện sử dụng cũng như về điều kiện bảo quản những phương tiện ấy.
Muốn làm được, yêu cầu trước hết đối với người lao động là phải có trình độ
nhận thức ở mức độ nhất định và ngày càng được nâng cao về trình độ KH, KT,
CN, đặc biệt là công nghệ sinh học để từ đó có thể sử dụng đúng, có hiệu quả các
thành tựu ấy vào trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 28
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
2.2.1.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, đồng thời để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa
phương, Đảng bộ tỉnh An Giang đề ra mục tiêu phát triển nguồn nhân lực của tỉnh
thời kỳ 2006 – 2010: “Nâng cao trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và
các chỉ số về chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường”
[4; 36], “tri thức hóa nông dân” [4; 49].
Để đạt được mục tiêu đó, Đảng bộ tỉnh An Giang chủ trương đầu tư cho
phát triển giáo dục bằng cách:
Khắc phục nhanh những hạn chế yếu kém trong lĩnh vực giáo dục – đào
tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý; đẩy mạnh công tác
xã hội hóa giáo dục; phấn đấu tất cả các xã đều có trung tâm học tập cộng đồng;
KH, CN gắn chặt với giáo dục – đào tạo; kịp thời nhân rộng các sáng kiến, phát
minh trong nhân dân; xây dựng chương trình hành động cụ thể để bảo vệ môi
trường [4; 49-51].
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các thành tựu khoa học công
nghệ mới; khai thác tốt thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng,…[21;
192].
2.2.2. Mâu thuẫn giữa thực trạng công cụ lao động thô sơ, trình độ tổ
chức lao động xã hội lạc hậu với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
kỹ thuật canh tác của nông dân
2.2.2.1. Thực trạng công cụ lao động thô sơ, trình độ tổ chức lao động xã
hội lạc hậu của nông dân
Cùng với nhịp phát triển của xã hội, trình độ phát triển của LLSX ngành
nông nghiệp ở tỉnh An Giang cũng đang từng bước phát triển. Việc nhận thức về
vấn đề làm sao để sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm hơn, chất lượng sản phẩm
ngày càng cao hơn nhưng vốn đầu tư và công sức bỏ ra ngày càng ít hơn đã được
bà con nông dân trong tỉnh ý thức tìm hiểu, học hỏi và ứng dụng vào thực tế sản
xuất, bước đầu đem lại hiệu quả khả quan. Ví dụ như nông dân trong tỉnh đã biết
áp dụng chương trình “ba giảm, ba tăng”, quan tâm đầu tư mua sắm các nông cụ
hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: máy gặt, máy cấy, máy sạ theo
hàng, máy bơm nước,… Tính đến năm 2005, toàn tỉnh đã có trên 10.000 máy sạ
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 29
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
theo hàng, ứng dụng với diện tích trên 35.000ha, chiếm 16% so với tổng diện tích
canh tác. (Nguồn internet: “An Giang: kết quả sau 5 năm đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn”, Thanh Tuyến).
Tuy nhiên, trên thực tế, phần lớn lao động nông nghiệp của tỉnh vẫn còn
sản xuất theo phương thức cổ điển, lạc hậu, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển
ngành nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Biểu hiện của phương thức canh tác
này rất đa dạng trong quá trình sản xuất nông nghiệp của người nông dân, có thể
liệt kê ra đây một số biểu hiện cụ thể sau:
Thứ nhất, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu kết hợp với nông cụ sản xuất thô
sơ.
Trong lĩnh vực trồng lúa, tuy đã có nhiều loại máy phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp ra đời, nhưng hầu hết nông dân An Giang đều thực hiện biện pháp
thủ công, với các nông cụ lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
ngành nông nghiệp, chẳng hạn như: đến ngày sạ lúa, thay vì sử dụng máy gieo
hạt, máy sạ lúa theo hàng, thì phần lớn bà con nông dân ôm thúng lúa giống trước
ngực, đi trực tiếp vào từng thửa ruộng, tay ôm thúng, tay vung hạt; thay vì gặt lúa
bằng máy gặt, thì người nông dân gặt bằng tay, vận chuyển bằng xe bò, xe kéo,
có nhà không có phương tiện vận chuyển, phải đội bằng đầu,..; thay vì sử dụng
máy phun thuốc trừ sâu để diệt trừ sâu bệnh hại lúa và cây trồng thì người nông
dân sử dụng những chiếc bình xịt, đeo trực tiếp lên hai vai, đi trực tiếp vào trong
những hàng lúa vừa mới xịt thuốc để phun những hàng lúa tiếp theo, cả ngày phải
hít thở trực tiếp bụi thuốc sâu bay vào trong không khí, rất độc hại cho sức
khỏe;….
Đây là những hình thức canh tác lạc hậu cần phải được thay đổi. Những
biện pháp này vừa tốn nhiều công sức, vừa không mang lại hiệu quả sản xuất cao.
Lấy thí dụ như ở Mỹ, nhờ ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất, với chỉ 1% dân
số làm nông nghiệp đã sản xuất ra khối lượng nông sản xuất khẩu đứng hàng nhất
nhì trên thế giới. Ở Đan Mạch, mặc dù tổng diện tích cả nước chỉ tương đương
với diện tích của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long của nước ta, dân số Đan
Mạch chỉ bằng 30% dân số của Đồng bằng sông Cửu Long nhưng lại là một nước
giàu mạnh của châu Âu về sản xuất nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp. Ngày
nay, sản lượng nông nghiệp của họ mặc dù chỉ do 3% lao động làm ra nhưng
không những nuôi đủ cho dân trong nước mà còn xuất khẩu cho một số nước
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 30
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
khác của châu Âu và cho khối SNG. Nguyên do là nông dân Đan Mạch đều là
những người “có học thức và luôn luôn được coi trọng trong xã hội”. Tất cả nông
dân đều được học chương trình giáo dục bắt buộc, thường bắt đầu từ tuổi 16 vì tại
Đan Mạch, con một nông dân muốn đăng ký kế nghiệp cha ông trên đất của gia
đình mình bắt buộc phải có bằng cấp nông nghiệp. Vì thế nông dân Đan Mạch
nắm bắt KH, CN rất nhanh, áp dụng rất có hiệu quả và vì thế mà tăng hiệu quả và
tính cạnh tranh về chất lượng và khối lượng nông sản.
Thứ hai, phần lớn nông dân chỉ sử dụng các thành tựu hóa học như: các
loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ; đạm, lân, kali,… ít và gần như không sử dụng các biện
pháp canh tác sinh học trong sản xuất nông nghiệp.
Kinh tế - xã hội phát triển, suy cho cùng là để phục vụ cho cuộc sống của
con người. Vì thế, xã hội càng phát triển, nhu cầu được sống đầy đủ, an toàn và
lành mạnh của con người ngày càng được nâng cao và thu hút sự quan tâm của cả
cộng đồng xã hội, cả nhân loại. Những thành tựu khoa học hóa chất trong nông
nghiệp như phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng và phát
triển,… đã đem lại năng suất cao. Song, nếu lạm dụng những sản phẩm ấy trong
quá trình sử dụng sẽ gây nguy hại lớn đến sức khỏe của con người. Chẳng hạn,
đối với thuốc trừ sâu, khi sử dụng loại sản phẩm này trong sản xuất, nếu lạm
dụng, lượng hóa chất dư thừa sẽ tồn đọng lại trong sản phẩm, khi đi vào cơ thể
con người làm phát sinh dịch bệnh và gây nguy hại đến sức khỏe con người. Đó
là chưa kể đến hậu quả gây mất cân bằng sinh thái. Do đó, ngày nay, khi các
thành tựu của công nghệ sinh học đã chứng minh được tính ưu việt của nó so với
các thành tựu của khoa học hóa học, nó phát triển vì sức khỏe cộng đồng, vì sức
khỏe nhân loại, vì một nền nông nghiệp bền vững hơn nên nó được các nước quan
tâm sử dụng nhiều hơn.
Trong sản xuất nông nghiệp, các biện pháp canh tác theo công nghệ sinh
học có thể sử dụng để thay thế cho các biện pháp canh tác theo công nghệ hóa
học, bởi vì canh tác theo biện pháp sinh học, vừa tận dụng được những gì có sẵn
trong tự nhiên, vừa bớt gây ô nhiễm môi trường, ít hoặc hầu như không ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe của con người và loài người, vừa đảm bảo an toàn vệ
sinh môi trường sinh thái. Ví dụ: Thay vì việc chỉ sử dụng phân lân, phân đạm,…
để chăm bón cây trồng, mà sau một thời gian liên tục sử dụng, các loại phân này
sẽ làm chai đất, giảm độ phì của đất, người nông dân có thể nuôi bèo Ong, bèo
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 31
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
Đá, bèo Tấm trên những ruộng lúa, vừa hạn chế việc cỏ dại mọc chen lẫn với lúa,
vừa là nguồn dinh dưỡng rất tốt cho lúa khi bèo chết đi. Hoặc người ta có thể đào
hố để ủ phân xanh, sau đó sử dụng để bón ruộng vừa tốt cho cây trồng, không làm
chai hóa đất, lại vừa tốn ít chi phí, phù hợp với khả năng kinh tế của nông dân.
Mặc dù vậy, cho đến ngày nay, nông dân An Giang cũng như nông dân cả nước,
phần nhiều không có thói quen này. Họ chỉ quen với việc sử dụng thuốc trừ cỏ để
diệt cỏ dại; sử dụng thuốc trừ sâu để trừ sâu bệnh hại cây trồng, sử dụng phân
đạm, lân, kali,… để bón cho lúa.
Thứ ba, lao động nông nghiệp ở An Giang hầu như chưa hình thành nên
những vùng chuyên canh, chưa xóa bỏ được độc canh, đặc biệt là độc canh cây
lúa. Tính chuyên môn hóa trong lao động sản xuất nông nghiệp ở An Giang nói
riêng cũng như của cả nước ta nói chung còn chưa cao. Việc canh tác một hoặc
chỉ một số rất ít loài cây trồng, vật nuôi trên một khu đất trong nhiều năm gần như
đã trở thành thói quen khó thay đổi của người nông dân, nhất là của người nông
dân miền Tây Nam bộ. Đây là một thói quen không tốt cho sản xuất nông nghiệp,
bởi vì việc độc canh đối với một số loại cây trồng khiến chúng trở nên kém sức
chống đỡ với sâu bệnh. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Trung tâm nghiên
cứu phát triển VAC và nông nghiệp bền vững, Hội Làm vườn Việt Nam đã
nghiên cứu về các vấn đề độc canh và canh tác liên tục một số loại cây nhất định
trên cùng một miếng đất hằng năm hoặc theo mùa liên tục cho thấy việc độc canh
và việc canh tác liên tục một số loại cây nhất định trên cùng một miếng đất hằng
năm hoặc theo mùa liên tục gây nên những vấn đề về dịch bệnh, giảm sút tài
nguyên di truyền (giống địa phương), gây thiếu chất dinh dưỡng đặc biệt (nguyên
tố vi lượng) và các bệnh đặc biệt dẫn tới gây rủi ro kinh tế lớn. Đồng thời nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng, để khắc phục những tình trạng đó cần phải thực hiện tốt vấn
đề luân canh, xen canh hợp lý và nên thay việc bón phân hóa học bằng việc bón
phân hữu cơ.
Thứ tư, là tỉnh có nhiều tiềm năng cho phát triển nền nông nghiệp sản xuất
hàng hóa qui mô lớn, nhưng An Giang lại thiếu nhiều những kỹ sư nông nghiệp
có chuyên môn, trình độ tay nghề cao, tâm huyết với nghề, gắn bó với quê hương.
Theo kết qủa của cuộc tổng điều tra nông thôn – nông nghiệp – thủy sản năm
2008 của Cục thống kê An Giang, trình độ chuyên môn, hoạt động chính của
những người đang làm việc trong các ngành kinh tế ở nông thôn tính bình quân
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 32
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
trong toàn tỉnh hiện nay là rất thấp so với yêu cầu: 96,78 % lao động chưa có
bằng cấp; riêng trong lao động nông nghiệp, tỷ lệ này là 99,08% và chỉ có 0,09%
là lao động có trình độ từ đại học trở lên.
Thực tế này mâu thuẫn với mục tiêu của Tỉnh đặt ra là trong những năm
tới, nông nghiệp phải được chuyển sang giai đoạn mới toàn diện hơn với chất
lượng cao, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, hướng tới xây dựng
nền nông nghiệp bền vững. Để đạt được mục tiêu, mâu thuẫn này cần phải được
giải quyết kịp thời. Mà muốn giải quyết được mâu thuẫn này, cần phải nâng cao
trình độ của người nông dân lên một mức độ cao hơn, sao cho họ có thể tự sản
xuất nông nghiệp một cách linh hoạt.
2.2.2.2. Yêu cầu yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kỹ thuật canh
tác của nông dân
Khắc phục tình trạng kỹ thuật sản xuất lạc hậu, nông cụ sản xuất thô sơ
của nông dân bằng cách đẩy nhanh ứng dụng các thành tựu KH, CN, nhất là công
nghệ sinh học vào trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp.
Trước đây, khi KH, CN còn chưa phát triển mạnh và chưa được ứng dụng
rộng rãi, lao động trong nông nghiệp gần như chỉ đơn thuần sử dụng sức cơ bắp,
ít và gần như không chú ý đến kỹ thuật – công nghệ trong sản xuất, nhưng vẫn
được mọi người chấp nhận.
Ngày nay, khi KH, CN đã phát triển mạnh và thâm nhập đến mọi ngõ
ngách của cuộc sống; khi mà đất canh tác nông nghiệp trên thế giới ngày càng bị
thu hẹp do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các nước trên thế
giới, đặc biệt là ở những nước nông nghiệp, dẫn tới sản lượng lương thực, thực
phẩm trên thế giới ngày càng trở nên khan hiếm, thì yêu cầu đưa KH, KT, CN
vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp nhằm rút ngắn thời gian
lao động, giảm chi phí và tổn thất trong quá trình sản xuất, tăng năng suất lao
động; đồng thời để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, Đảng ta chủ trương:
“đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn” [8; 88], tiến
hành “thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất,… phát triển các khu nông
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 33
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công
nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã,
trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao” [8; 88-
89]; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các quy trình sản
xuất đồng bộ và tiên tiến,…
Ví dụ như: thay cho việc khơi nước một cách thủ công từ các sông ngòi
vào đồng ruộng, người ta xây dựng những trạm bơm nước, hệ thống kênh mương
vào tận ruộng đồng, sử dụng máy bơm nước thay cho gàu tát nước; thay cho việc
kéo cày bằng trâu là yêu cầu sử dụng máy cày cho phép cày khoảng 3000m2 đất
trên một giờ lao động và máy bừa là 5000m2 đất trên một giờ lao động; thay cho
việc cả ngày bà con nông dân phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, sử dụng
biện pháp gieo trồng thủ công là việc đưa các máy cấy vào ruộng, cho phép cấy
2000m2 đất trên một ngày lao động (nếu cấy bằng tay, trung bình một người cấy
được khoảng 300m2 đất trên một ngày lao động, một ngày lao động ở đây được
tính bằng 8 tiếng); thay cho việc bà con nông dân phải sử dụng liềm (lưỡi hái) để
cắt từng gốc lúa là yêu cầu sử dụng máy gặt; thay cho việc ngồi đập bằng tay
hoặc trải lúa ra sân với 4, 5 người kéo, đẩy một hòn đá lăn đều trên thảm lúa để
tách hạt thóc ra khỏi bông là yêu cầu sử dụng máy tuốt lúa với công suất 5000m2
lúa trên một giờ; thay cho việc bà con phải cực nhọc bưng từng thúng lúa lên rê,
cả ngày được khoảng vài trăm kg lúa là việc sử dụng máy sàng hạt (máy rê lúa),
cho phép rê khoảng 800kg lúa trên một tiếng đồng hồ; thay cho việc đợi khi nào
trời nắng, bà con mới dám đem lúa ướt ra sân phơi là việc sử dụng máy sấy với
khả năng sấy trung bình khoảng 2.5 tấn lúa/1 giờ cho phép sấy với bất kỳ điều
kiện thời tiết nào, giúp ngăn chặn khả năng lên mộng khi lúa chưa khô làm giảm
chất lượng lúa gạo khi thành sản phẩm,….
2.2.2.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
Thực hiện tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Trung ương Đảng đề ra;
từng bước khắc phục những hạn chế, phát huy những yếu tố tích cực trong kỹ
thuật canh tác của nông dân trong tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
chung của cả nước, phát huy tiềm năng to lớn của tỉnh, xứng đáng là tỉnh dẫn đầu
cả nước về cả số lượng và năng suất, chất lượng lúa bình quân hằng năm, đồng
thời, để góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, An Giang chủ
trương: Phát triển nông nghiệp đi vào chiều sâu theo hướng CNH, HĐH nông
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 34
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
nghiệp, nông thôn, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm
chủ lực; tăng nhanh hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp; xây dựng nông thôn
hiện đại bằng cách “Ứng dụng mạnh mẽ thành tựu khoa học, kỹ thuật và công
nghệ, nhất là công nghệ sinh học, xây dựng nền nông nghiệp sạch, sản xuất hàng
hóa lớn theo hướng công nghiệp hóa, hiệu quả cao và bền vững” [4; 44].
Một số kết quả đạt được:
Theo ước tính sơ bộ, đến nay (năm 2008) trong toàn tỉnh, nông dân An
Giang đã trang bị được hơn 530 máy cắt lúa các loại và hoạt động trên diện tích
hơn 43.000ha/vụ; 2705 máy tuốt lúa có động cơ; 942 lò, máy sấy lúa; 6970 máy
cày, kéo lớn, nhỏ;… có thể sơ lược hiệu quả của việc đầu tư máy gặt lúa của nông
hộ như sau: Mỗi ha lúa cắt bằng máy ngợi được chi phí khoảng 1.300.000 đồng.
Cụ thể: tiết kiệm chi phí nhân công cắt, gom, ôm và suốt khoảng 500.000
đồng/ha, và vì lúa cắt lúc còn tươi nên ít bị rơi vãi đã giúp giảm thất thoát, tỷ lệ
hao hụt chưa tới 2%, thay vì nếu cắt tay thì hao hụt hơn 5%, như vậy tiết kiệm
được 3%, tức là, nếu lúa đạt năng suất 7 tấn/ha, thì giảm thất thoát được hơn 200
kg/ha, với giá lúa 4.000 đồng/kg thì tiết kiệm được khoảng 800.000 đồng. Đồng
thời, chất lượng hạt lúa tốt hơn do ít bị rạn nứt như khi phải phơi mớ ngoài đồng
(theo “An Giang thành công với chương trình đưa máy cắt lúa vào đồng ruộng”,
Ngọc Diệp, www.sonongnghiep.angiang.gov.vn ).
2.2.3. Mâu thuẫn giữa thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông
thôn còn kém với yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng
kết cấu ấy trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp
2.2.3.1. Thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông thôn còn kém
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nông nghiệp, nông
thôn trong tỉnh đã có bước phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn
nhìn chung đã có sự thay đổi, kiên cố hóa hơn so với trước. Song vẫn còn ở mức
thấp, thô sơ, lạc hậu chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
“Kết cấu hạ tầng nông thôn (giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc, cơ sở
hạ tầng phục vụ thương mại…) tuy được tăng cường nhưng chưa đáp ứng cho
nền sản xuất nông nghiệp quy mô lớn; một số trường học, trạm y tế, đường giao
thông còn bị ngập lũ” [21; 31]. “Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn yếu kém,
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 35
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
đặc biệt là các công trình phục vụ cho phát triển công nghiệp và thương mại, dịch
vụ còn thiếu và yếu, làm hạn chế lớn đến việc thu hút đầu tư để phát triển” [4;28].
Về nhà ở, hầu hết các vùng nông thôn ở An Giang ít nhiều vẫn còn tồn tại
nhà sàn, nhà gỗ, nhà lá. Nhà tắm, nhà vệ sinh còn chưa hợp vệ sinh. Tính đến
ngày 31/12/2006, số hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới trong toàn tỉnh là 58.543 hộ,
chiếm 13,15% [11; 282] trong đó tỷ lệ hộ nghèo ở huyện Tri Tôn chiếm 32,15%
tổng số hộ trong huyện, kế đến là Tịnh Biên (27,88%), An Phú (20,03%), 57.67%
tỷ lệ hộ dân chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 63.24% số nhà vệ sinh chưa hợp
vệ sinh.
Hệ thống giao thông đường thủy, bộ còn nghèo nàn. Một số tuyến đường
dẫn đến các kinh, ấp và phần lớn các con đường trong kinh, ấp, còn là đường đất
gồ ghề, lởm chởm, nhỏ hẹp gây khó khăn trong việc đi lại, làm hạn chế việc giao
thương kinh tế. Một số đường tuy đã được rải nhựa nhưng nay chỉ còn lại đá lởm
chởm, xuống cấp về chất lượng, nhưng chưa được sửa chữa kịp thời. Tổng chiều
dài nhựa hóa đường giao thông nông thôn mới chỉ đạt 38%, còn 62% đường giao
thông nông thôn vẫn chưa được đổ nhựa; 4% đường đến các trung tâm xã chưa
được thực hiện.
Diện tích mặt kênh rạch cho tàu thuyền chạy bị hạn chế so với diện tích
mặt nước thực do nhân dân hai bên kênh bắc cầu tre hướng ra giữa kênh để sử
dụng nước.
Đặc điểm của vùng Nam bộ là vùng sông nước, do vậy việc đi lại, sinh
hoạt trên sông được nhân dân sử dụng thường xuyên và xem đó là đường giao
thông quan trọng. Cũng do đặc điểm thời tiết ở vùng này là có mùa khô kéo dài
nên vào mùa khô, rất nhiều con kênh là những tuyến giao thông quan trọng lại
khô cạn đến tận đáy khiến cho các phương tiện đường thủy không thể chạy qua
được. Vấn đề này gây khó khăn cho việc vận chuyển, giao thương của địa
phương.
Như vậy, đường bộ thì nhỏ, hẹp, nhiều chỗ uốn khúc, không thật bằng
phẳng,… đường thủy thì gặp khó khăn trong mùa khô. Nếu không kịp thời tu bổ,
nâng cấp thì sẽ rất khó thu hút đầu tư, tạo điều kiện phát triển kinh tế địa phương,
gây khó khăn cho đời sống của người nông dân. Đó là chưa kể đến những cây cầu
gỗ, cầu khỉ vẫn còn tồn tại, vừa yếu về trọng tải, vừa chậm về thời gian luân
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 36
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
chuyển. Hệ thống các kho bãi, chợ đã được xây dựng và đi vào hoạt động, bước
đầu có hiệu quả, song còn chưa nhiều về số lượng, thô sơ về kết cấu kỹ thuật, hạn
chế về công nghệ.
Về hệ thống thông tin liên lạc: mặc dù đã được trang bị, nhưng số lượng
còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu về lượng thông tin cho nhân dân, nhất là ở
các xã vùng sâu, vùng xa.
Theo “Thông báo tình hình Kinh tế - Xã hội năm 2007” của Cục thống kê
An Giang, tính đến hết năm 2007, toàn tỉnh có 6 đài truyền thanh huyện, thị và đã
được phủ sóng ở tất cả các địa phương trong tỉnh (154 đài trạm truyền thanh/154
tổng số xã, phường). Riêng có 2 huyện: Tịnh Biên và Tri Tôn một số nơi sóng
truyền hình còn yếu do khuất núi. Số lượng máy tính nối internet còn ít: bình
quân toàn tỉnh cứ 100 hộ mới có 0,7 chiếc, trong đó bình quân ở nông thôn, cứ
100 hộ mới có 0,2 chiếc. Con số này còn quá ít so với nhu cầu hiểu biết và so với
khối lượng tri thức mỗi ngày một lớn như hiện nay.
Về trường học, hầu hết các huyện, thị trong Tỉnh đều có các trường từ
mầm non đến trung học phổ thông. Song do điều kiện kinh tế của địa phương,
nhiều trường còn hạn chế về cơ sở vật chất, phương tiện và đồ dùng phục vụ cho
việc dạy và học.
Tất cả những yếu tố đó gây cản trở trong quá trình phát triển LLSX ngành
nông nghiệp ở địa phương.
2.2.3.2. Yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng kết
cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông thôn trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất ngành nông nghiệp
Theo nghị quyết số 03-NQ/TU của Đảng bộ tỉnh An Giang, 27/6/2002 về
đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, cơ sở hạ tầng
nông thôn cần phải được quan tâm đầu tư, nâng cấp để đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng, của cả nước nói chung. Nghị quyết chỉ rõ:
“Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp. Đầu tư thủy lợi, giao thông nội đồng bảo đảm chủ động trong
sản xuất, vận chuyển, phòng chống lũ. Phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống
điện, đáp ứng yêu cầu điện khí hóa nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng mạng lưới
điện thoại, internet cho yêu cầu thông tin kinh tế, thương mại ở nông thôn. Phát
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 37
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
triển hệ thống kho chứa đạt 600-700 ngàn tấn vào năm 2005 và 800-900 ngàn tấn
vào năm 2010, để đáp ứng nhu cầu dự trữ hết lúa nông sản hàng hóa, trong đó,
kho chứa có xy-lô đạt khoảng 10%” [21; 37-38]. Nghị quyết còn nêu rõ: Phát
triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn cần phải phát triển đồng bộ, có hiệu quả. Đến
năm 2010, đảm bảo ổn định, không còn tình trạng nhà ở rải rác, tạm bợ theo các
kinh nội đồng, nhà lấn chiếm mặt nước và hành lang bảo vệ sông rạch, hành lang
lộ giới, hoàn chỉnh hệ thống giao thông thủy, bộ phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, giao lưu hàng hóa và đi lại cho nhân dân. Nâng cấp các tuyến đường nông
thôn, láng nhựa hoặc bê tông hóa tất cả đường đến trung tâm xã, xây dựng cầu
vĩnh cửu, cầu sắt để đến năm 2005 không còn cầu gỗ, cầu tạm, xây dựng hệ thống
xử lý rác, nhà vệ sinh công cộng ở các tụ điểm và chợ nông thôn. Quy hoạch nơi
an táng tập trung từng khu vực. Phấn đấu đến năm 2010, 100% xã có nhà văn
hóa, sân bóng đá, bóng chuyền, tăng cường hơn nữa việc cung cấp điện, nước
sạch cho phần lớn dân cư nông thôn, đặc biệt là các hộ nằm trên cụm, tuyến dân
cư tập trung. Đến năm 2010, đạt tỷ lệ sử dụng điện thoại hơn 5 máy trên 100 dân.
Nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới y tế xã trong việc chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân. Nhưng trên thực tế, cơ sở hạ tầng nông thôn ở tỉnh An Giang
từ 2001 đến nay vẫn còn nhiều bất cập.
2.2.3.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
Đầu tư xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là
giao thông, thủy lợi, đê bao, khu dân cư,… theo từng vùng phù hợp với yêu cầu
phát triển sản xuất.
Một số kết quả đạt được:
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được hoàn chỉnh, hệ thống đô
thị và chợ được xây dựng, nâng cấp, mở rộng. Hệ thống kênh mương, đê bao
chống và thoát lũ ngày càng phát huy hiệu quả tốt.
Tính trong giai đoạn 2001 – 2006, An Giang đã làm mới hơn 430 km giao
thông nông thôn, xây dựng 1910 km mặt đường. Thực hiện đầu tư xây dựng mới
tổng chiều dài nhựa hóa đường giao thông nông thôn là 1067 km, nhờ đó mà hệ
thống giao thông nông thôn đã nối liền các tỉnh lộ, quốc lộ, đảm bảo xe lưu thông
đến 96% các trung tâm xã,…
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 38
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
2.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu mở rộng thị trường hàng nông sản với hiện
thực chất lượng hàng nông sản còn nhiều bất cập
2.2.4.1. Hàng nông sản An Giang – vấn đề còn nhiều bất cập
Là một tỉnh có thế mạnh về nông nghiệp, đặc biệt là thế mạnh về cây lúa,
trong những năm gần đây, An Giang liên tục là tỉnh dẫn đầu cả nước về giá trị và
sản lượng lúa gạo. Nhờ có ứng dụng các thành tựu KH, KT, CN vào sản xuất
nông nghiệp nên năng suất và chất lượng lúa gạo của An Giang mỗi năm một
tăng lên không chỉ đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của Tỉnh mà còn có
khả năng đáp nhu cầu lương thực, thực phẩm trong nước đồng thời có khả năng
xuất khẩu ra các nước trong khu vực và thế giới. Trên thực tế, hàng năm, An
Giang đã đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ đáng kể từ việc xuất khẩu
hàng nông sản, trong đó có phần quan trọng của mặt hàng lúa gạo. Nhưng, đáng
tiếc là hầu hết các mặt hàng nông sản của An Giang nói riêng, của cả nước nói
chung mới chỉ xuất khẩu ở dạng thô, chưa phải là các mặt hàng tinh chế. Theo sự
tổng hợp của Phương Nguyên _ tác giả bài báo: “Tam nông trong thực hiện cam
kết WTO: Cần đẩy mạnh những chính sách “hộp xanh””đăng trên trang
cho đến nay, 90% sản phẩm nông nghiệp của
ta vẫn bán ra ở dạng thô, 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp, vì vậy mà nguồn
thu chưa tương xứng với công sức của người dân bỏ ra. Tác giả bài báo còn cho
biết, theo kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì cho
đến nay, trong cả nước ta mới có khoảng 25% nông dân được tiếp cận với thông
tin thị trường, 77% số hộ nông nghiệp thuần túy, sản phẩm nông nghiệp của ta
chưa đạt chuẩn do chúng ta chưa có quy trình kỹ thuật chuẩn, chưa kết nối được
sản phẩm và tiêu thụ. Ở An Giang, mặc dù là tỉnh nhiều năm liền dẫn đầu cả nước
về sản lượng lúa gạo, song đời sống của nông dân nhìn chung còn thấp, nhiều hộ
còn chưa thoát khỏi diện đói nghèo, thu chưa đủ chi. Nguyên nhân của tình trạng
đó có thể do những điều kiện khách, chủ quan khác nhau, nhưng chung quy lại là
do sự hạn chế về trình độ KH, KT, CN, do khả năng canh tác của nông dân chưa
theo đúng những quy trình kỹ thuật công nghệ hiện đại và do khả năng nắm bắt
nhu cầu thị trường của nông dân còn yếu dẫn đến việc chất lượng nông phẩm làm
ra chưa cao, các mặt hàng nông sản còn đơn giản, chưa phong phú, chưa đa dạng,
phần lớn nông dân mới chỉ sản xuất những gì thị trường đã có, đang có, chưa sản
xuất được những gì thị trường chưa có, sẽ có. Do vậy, mở rộng thị trường, tạo sự
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 39
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
thông thoáng cho sản xuất nông nghiệp, tăng cường sự nhạy bén của nông dân
trước thời cuộc là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy LLSX ngành nông nghiệp
An Giang phát triển.
2.2.4.2. Nhu cầu mở rộng thị trường hàng nông sản
Cá nhân chỉ tồn tại, phát triển và dần hoàn thiện mình khi sống và lao động
trong tập thể. Suy rộng ra, một quốc gia muốn tồn tại, phát triển, tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì quốc gia đó phải mở rộng thị trường, phải mở rộng các mối quan
hệ, giao lưu với các nước khác trên thế giới là tất yếu, khách quan.
Trong điều kiện hiện nay, việc nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) là điều kiện thuận lợi để hàng nông sản nước ta xâm nhập sâu rộng
vào thị trường thế giới, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tăng thu
hút đầu tư nước ngoài để phát triển nông nghiệp, đồng thời cũng là thách thức lớn
đối với nền kinh tế còn nặng tính tiểu nông như nước ta. Trong điều kiện đó, là
một tỉnh nông nghiệp có số lượng hàng nông sản dư thừa khá lớn như An Giang
hiện nay thì nhu cầu tham gia và mở rộng thị trường các mặt hàng nông sản của
tỉnh ở trong và ngoài nước là một nhu cầu tất yếu, khách quan. Nhưng, như đã
trình bày ở trên, mặc dù là tỉnh có sản lượng hàng hóa lớn nhất nước, có khả năng
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, song do các sản phẩm nông nghiệp của An
Giang còn kém về chất lượng so với nhu cầu an toàn lương thực, thực phẩm, chưa
phong phú các mặt hàng nên việc nâng cao chất lượng, đa dạng hóa và tăng sức
cạnh tranh của các mặt hàng nông sản, đặc biệt là các mặt hàng nông sản chủ lực,
mở rộng thị trường trong và ngoài nước, tạo mọi điều kiện cho nông dân phát huy
tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, kích thích sự nhạy bén của nông dân
trước những thay đổi liên tục của thị trường là một trong những yêu cầu tất yếu,
khách quan trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của LLSX ngành nông nghiệp
An Giang trong giai đoạn hiện nay.
2.2.4.3. Hướng giải quyết của Đảng bộ tỉnh An Giang
Để phát huy lợi thế của tỉnh, mở rộng thị trường, tạo sự thông thoáng cho
sản xuất nông nghiệp, tăng cường sự nhạy bén của nông dân trước thời cuộc
Đảng bộ tỉnh An Giang chủ trương tập trung phát triển nông nghiệp theo chiều
sâu, tiến hành đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất nông
nghiệp, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm chủ lực, mở rộng thị
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 40
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
trường hàng nông sản của tỉnh ở trong và ngoài nước. “Từng bước xây dựng An
Giang trở thành một trong những cửa ngõ giao thương quan trọng của vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, hướng ra thị trường khu vực và quốc tế” [4; 36].
Ngoài những mâu thuẫn cơ bản mà tác giả đã nêu và phân tích ở trên,
trong quá trình phát triển LLSX ngành nông nghiệp của tỉnh An Giang giai đoạn
từ năm 2001 đến nay còn có những mâu thuẫn không cơ bản khác và có thể có
những mâu thuẫn mới nảy sinh. Trong phạm vi nghiên cứu của Khóa luận này,
chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu hết những mâu thuẫn của quá trình phát
triển LLSX ngành nông nghiệp của tỉnh An Giang giai đoạn từ năm 2001 đến nay
mà chỉ tìm hiểu những mâu thuẫn cơ bản của nó. Lần khác, nếu có điều kiện,
chúng tôi hy vọng sẽ tìm hiểu vấn đề này sâu hơn, kỹ hơn.
Tóm lại, sau hơn mười năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nông
nghiệp, nông thôn tỉnh An Giang đã có bước phát triển nhanh và khá toàn diện:
KH, CN được áp dụng vào các khâu của quá trình sản xuất, góp phần đưa
tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp bình quân năm ngày càng cao.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp từng bước được chuyển dịch đúng hướng.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư, nâng cấp.
Trình độ dân trí có bước nâng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được đó, nông nghiệp An Giang
vẫn còn những hạn chế mâu thuẫn với yêu cầu phát triển của LLSX ngành nông
nghiệp ở An Giang giai đoạn từ năm 2001 đến nay tạo thành những mâu thuẫn cơ
bản cần được giải quyết đúng đắn, kịp thời nhằm ngày càng mở đường cho LLSX
nông nghiệp phát triển theo chiều hướng tích cực.
Xét trên toàn diện quy mô sản xuất nông nghiệp ở An Giang giai đoạn từ
năm 2001 đến nay, chúng tôi thấy còn có khá nhiều bất cập cần giải quyết. Chẳng
hạn như:
a. Vấn đề trình độ dân trí, nhất là trình độ am hiểu KH, CN của nông
dân trong Tỉnh còn hạn chế và ở mức thấp, trong khi yêu cầu ngày nay đối với
người nông dân là phải am hiểu và biết vận dụng có hiệu quả những thành tựu
KH, KT, CN vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 41
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
b. Về mức độ phát triển của các nông cụ còn chậm, lạc hậu. Trong khi
yêu cầu ngày nay là phải cải tiến công cụ lao động theo hướng cơ khí hóa, điện
khí hóa và tự động hóa.
c. Về kỹ thuật canh tác, chế biến, bảo quản sản phẩm còn thô sơ.
d. Kết cấu hạ tầng nông thôn còn thấp.
e. Sự chuyển dịch cơ cấu trong nội ngành nông nghiệp còn chậm và
chưa bền vững.
g. Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
h. Thị trường tiêu thụ hàng nông sản còn hạn chế, sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước chưa sâu sát…
Tất cả những vấn đề đó đều mâu thuẫn với yêu cầu phát triển của LLSX
ngành nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Do đó, những mâu thuẫn đó cần
phải được giải quyết để giải phóng LLSX ngành nông nghiệp, tạo tiền đề phát
triển kinh tế - xã hội nhanh, mạnh, bền vững. Có thể tựu trung những mâu thuẫn
đó trong một số mâu thuẫn cơ bản sau:
Một là, mâu thuẫn giữa thực trạng trình độ học vấn, hiểu biết thấp với yêu
cầu cao về trình độ hiểu biết, ứng dụng các thành tựu KH, KT, CN vào sản xuất
của nông dân.
Hai là, mâu thuẫn giữa thực trạng công cụ lao động thô sơ, trình độ tổ chức
lao động xã hội thấp với yêu cầu CNH, HĐH trong kỹ thuật canh tác của nông
dân.
Ba là, mâu thuẫn giữa thực trạng kết cấu hạ tầng – kỹ thuật nông thôn thấp
kém với yêu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng kết cấu ấy
trong quá trình phát triển LLSX ngành nông nghiệp.
Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu mở rộng thị trường hàng nông sản với hiện
thực chất lượng hàng nông sản còn nhiều bất cập.
Những mâu thuẫn này tồn tại trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của
ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung, ngành nông nghiệp tỉnh An Giang nói
riêng trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay. Chừng nào những mâu thuẫn này còn
tồn tại, chừng đó nông nghiệp tỉnh An Giang còn là nền nông nghiệp lạc hậu. Giải
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 42
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP Phạm Thị Hiền
quyết được những mâu thuẫn này sẽ giúp cho ngành nông nghiệp tỉnh An Giang
trở thành nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hiện đại, phù hợp với sự phát
triển của đất nước như mục tiêu Đại hội X của Đảng đã đề ra: Phấn đấu đến 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời,
giải quyết được những mâu thuẫn ấy sẽ tạo điều kiện giải quyết những mâu thuẫn
khác trong quá trình phát triển LLSX ngành nông nghiệp ở tỉnh An Giang giai
đoạn từ năm 2001 đến nay.
2.3. Đề xuất một số giải pháp
Trên cơ sở phân tích thực tế những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát
triển LLSX ngành nông nghiệp của tỉnh An Giang giai đoạn từ năm 2001 đến
nay, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp giải quyết những mâu thuẫn đó như
sau.
Một là, nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, trình độ hiểu biết khoa học – kỹ
thuật – công nghệ cho nông dân bằng cách:
Thực hiện chương trình giáo dục bắt buộc đối với tất cả học sinh trong độ tuổi
đến trường phải đi học đầy đủ, đúng độ tuổi. Riêng đối với con em gia đình
nghèo, có thể xem xét để miễn giảm một phần hoặc miễn, giảm học phí. Huy
động mọi nguồn tài trợ, tạo thêm kinh phí cho quỹ khuyến học; tặng thưởng bằng
hiện vật và giấy khen kịp thời cho học sinh nghèo học giỏi. Tỉnh An Giang cần
tăng cường hơn nữa những chính sách ưu đãi, động viên con em nông dân đi học.
Thực hiện triệt để và có hiệu quả, có chất lượng chương trình phổ cập trung
học cơ sở, tiến tới phổ cập trung học phổ thông. Nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên, đặc biệt là những giáo viên chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp, giáo
viên dạy môn sinh vật học. Phải thực sự coi trọng chất lượng học tập, tuyệt đối
không chạy theo số lượng, thành tích ảo.
Các cơ sở trường đại học, cao đẳng nghề, các trung tâm giáo dục thường
xuyên,…trong tỉnh nên mở rộng chính sách ưu đãi đối với sinh viên theo học
ngành kinh tế nông nghiệp, phát triển nông thôn nhằm thu hút ngày càng nhiều
sinh viên theo học những ngành này.
Tỉnh An Giang nên có chính sách thu hút nhân tài trong lĩnh vực nông nghiệp,
kêu gọi các kỹ sư nông nghiệp sau khi đã tốt nghiệp về địa phương công tác. Làm
NHD: Ts. Võ Văn Thắng 43
Khóa luậ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung mau thuan co ban trong qua trinh phat trien luc luong san xuat nganh nong nghiep tinh an g.PDF