Khóa luận Những giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phù Cát tỉnh Bình Định

Tài liệu Khóa luận Những giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phù Cát tỉnh Bình Định: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNo&PTNT HUYỆN PHÙ CÁT TỈNH BÌNH ĐỊNH Ngành: KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Giảng viên hướng dẫn : TS. PHAN MỸ HẠNH Sinh viên thực hiện : TRẦN THỊ BÍCH TUYỀN MSSV: 107403254 Lớp: 07DQK3 TP. Hồ Chí Minh, 2011 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi. Những kết quả và các số liệu trong luận văn tốt nghiệp được thực hiện tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát, không sao chép dưới bất kỳ hình thức nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này. TP.Hồ Chí Minh, ngày…..tháng……năm 2011 Tác giả (ký tên) LỜI CẢM ƠN Là một sinh viên chuyên khoa kế toán - tài chính – ngân hàng, sau một thời gian nghiên cứu và học tập tại trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.Hồ Chí Minh. Với những kiến thức đã được tiếp thu từ sự hướng dẫn và c...

doc118 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1012 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Những giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phù Cát tỉnh Bình Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNo&PTNT HUYỆN PHÙ CÁT TỈNH BÌNH ĐỊNH Ngành: KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Giảng viên hướng dẫn : TS. PHAN MỸ HẠNH Sinh viên thực hiện : TRẦN THỊ BÍCH TUYỀN MSSV: 107403254 Lớp: 07DQK3 TP. Hồ Chí Minh, 2011 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi. Những kết quả và các số liệu trong luận văn tốt nghiệp được thực hiện tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát, không sao chép dưới bất kỳ hình thức nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này. TP.Hồ Chí Minh, ngày…..tháng……năm 2011 Tác giả (ký tên) LỜI CẢM ƠN Là một sinh viên chuyên khoa kế toán - tài chính – ngân hàng, sau một thời gian nghiên cứu và học tập tại trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.Hồ Chí Minh. Với những kiến thức đã được tiếp thu từ sự hướng dẫn và chỉ dạy của các thầy (cô) giáo tại ngôi trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.Hồ Chí Minh với mong muốn đem kiến thức đã được học áp dụng vào thực tiễn công việc với mục đích cống hiến một phần nhỏ bé cho đất nước, cho gia đình và cho bản thân. Tuy nhiên, trước lúc tốt nghiệp tại trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.Hồ Chí Minh sinh viên phải trải qua một thời gian thực tập tại một doanh nghiệp thực tế để nghiên cứu và áp dụng các kiến thức đã học vào môi trường thực hành. Đây cũng là bước khó khăn đầu tiên của sinh viên khi hoà nhập vào môi trường công việc thực tế. Sau khi được sự quan tâm cấp lãnh đạo và đồng ý tiếp nhận sinh viên thực tập của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh huyện Phù Cát . Được bố trí vào phòng Kế hoạch kinh doanh với tinh thần phấn khởi và mong muốn áp dụng các kiến thức lý thuyết vào thực hành, tuy nhiên với kiến thức có hạn nên bước đầu thực tập cũng còn bỡ ngỡ và thiếu tự tin. Nhưng qua quá trình thực tập được sự quan tâm và giúp đỡ của toàn bộ các cán bộ phòng Kế hoạch kinh doanh đã phần nào hoà nhập vào môi trường làm việc chung. Qua khoá luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn tập thể các cán bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh huyện Phù Cát lời cảm ơn chân thành nhất. Đặt biệt xin giành lời cảm ơn đối với bác Phạm Hồng Sơn giám đốc NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát, bác Nguyễn Văn Bảo trưởng phòng Kế hoạch kinh doanh, các chú, cô phòng kế hoạch kinh doanh đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn trong thời gian thực tập tại đơn vị. Chân thành cảm ơn cô Phan Mỹ Hạnh đã tận tình chỉ bảo, góp ý hướng dẫn em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. Cảm ơn các thầy (cô) giáo đã truyền đạt nền tảng tri thức cho em, với kiến thức được truyền đạt em đã áp dụng vào khoá luận tốt nghiệp và hoàn tốt khoá luận với kiến thức đã học hỏi mặc dù kiến thức còn hạn chế. Cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân đã luôn bên cạnh, động viên và tạo mọi điều kiện để em có kiến thức và hoàn thành khoá luận tốt nghiệp tốt nhất có thể. Đạt được thành quả hôm nay, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn đến tất cả mọi người đã góp ý, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Chân thành cảm ơn MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Chi tiết NHNN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC NHTM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHNo & PTNN NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CIC TRUNG TÂM THÔNG TIN TÍN DỤNG AGRIBANK NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM ATM AUTOMATIC TELLER MACHINE IPCAS INTERBANK PAYMENT AND CUSTOMER ACCOUNTING SYSTEM (HỆ THỐNG THANH TOÁN VÀ KẾ TOÁN KHÁCH HÀNG) UBND UỶ BAN NHÂN DÂN NN NHÀ NƯỚC CSXL CHÍNH SÁCH XỬ LÝ BPPL BIỆN PHÁP PHÁP LÝ TD TÍN DỤNG TCTD TỔ CHỨC TÍN DỤNG TG TIỀN GỬI HMTD HẠN MỨC TÍN DỤNG TSĐB TÀI SẢN ĐẢM BẢO TS TÀI SẢN BĐ BẢO ĐẢM BĐTV BẢO ĐẢM TIỀN VAY NV NGUỒN VỐN VTC VỐN TỰ CÓ HĐKD HOẠT ĐỘNG KINH DOANH SX SẢN XUẤT KH KHÁCH HÀNG DNNN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC DNTN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TNHH TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HTX HỢP TÁC XÃ CNVC CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC CNV CÔNG NHÂN VIÊN BQ BÌNH QUÂN DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG SỐ LIỆU Sơ đồ 2.1.3: Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT huyện Phù Cát 45 Bảng 2.2.1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh qua 3 năm 2008-2009-2010 57 Biểu đồ 2.2.1: so sánh kết quả huy động nội tệ, ngoại tệ với tổng NV huy động trong 3 năm 2008-2009-2010 58 Biểu đồ 2.2.2: so sánh TG không kỳ hạn, TG có kỳ hạn với tổng TG bằng nội tệ trong 3 năm: 2008-2009-2010 62 Bảng 2.2.2: Dư nợ cho vay của NHNo&PTNT chi nhánh Phù Cát năm 2008-2009-2010 63 Biểu đồ 2.2.3: so sánh dư nợ ngắn hạn, trung, dài hạn với tổng dư nợ của chi nhánh trong 3 năm 2008-2009-2010 65 Biểu đồ 2.2.4: So sánh dư nợ phân theo thành phần kinh tế qua 3 năm 2008-2009-2010 66 Bảng 2.2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT chi nhánh Phù Cát năm 2008-2009-2010 68 Biểu đồ 2.2.5: Kết quả tài chính của NHNo&PTNT huyện Phù Cát 69 Bảng 3.1: Tình hình nợ xấu của NHNo&PTNT huyện Phù Cát 72 LỜI NÓI ĐẦU Bước sang thế kỷ 21, nền kinh tế nước ta nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đang đứng trước những vận hội và thách thức lớn. Sau hơn 10 năm đổi mới hoạt động theo cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng đã không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần tích cực vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới, nổi bật là đẩy lùi lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, làm nòng cốt trong huy động vốn, phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.... Tuy nhiên, do mới chuyển đổi mô hình và cơ chế hoạt động, còn nhiều hạn chế về cơ chế thị trường nên các ngân hàng thương mại Việt nam đã không tránh khỏi những thiếu sót và bất cập cả về xây dựng khuôn khổ pháp lý, kiện toàn tổ chức, đào tạo cán bộ, chất lượng hiệu quả trong quản lý cũng như trong kinh doanh... chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Vì vậy, để hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển ổn định, vững chắc, an toàn và hiệu quả thì một trong những mối quan tâm hàng đầu là ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Thực tế cho thấy các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro đang áp dụng trong các ngân hàng thương mại hiện nay tuy đã được nhà nước, ngành ngân hàng, từng ngân hàng thương mại và nhiều tập thể, cá nhân quan tâm, dày công nghiên cứu, áp dụng nhưng vẫn chưa thực sự hữu hiệu, cần được nghiên cứu bổ sung thêm. Nghiên cứu về các giải pháp để hạn chế rủi ro của các ngân hàng thương mại là nhằm bảo vệ nền tảng của hoạt động ngân hàng, bảo vệ những thành tựu của ngân hàng Việt Nam trong gần 50 năm qua, bảo vệ niềm tin với khách hàng, nhằm góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển ổn định, vững chắc, nâng cao vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì vậy, đề tài về các giải pháp để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại đã và đang rất được nhiều người quan tâm. Với các kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập ở trường, đặc biệt là trong thời gian thực tập thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng NHNo&PTNT huyện Phù Cát tỉnh Bình Định, em nhận thấy rằng việc nghiên cứu đề ra các giải pháp để hạn chế rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết. Vì vậy, em đã chọn đề tài nghiên cứu là: “Những giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Phù Cát tỉnh Bình Định”. Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, được chia làm bốn chương: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại. Chương II: Tổng quan về hoạt động của NHNo & PTNT chi nhánh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định. Chương III: Thực trạng về rủi ro tín dụng và những nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định. Chương IV: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn, và các cô, chú, anh, chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát đặc biệt là các cán bộ, nhân viên phòng kế hoạch kinh doanh đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng Tín dụng đã ra đời từ rất sớm so với sự xuất hiện của các môn kinh tế học và được lưu truyền qua nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử. Tuy nhiên tín dụng xuất phát từ chữ Credit trong tiếng Anh có nghĩa là lòng tin, sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ Việt Nam là sự vay mượn. Trên thực tế tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú, nhưng có thể hiểu tín dụng là việc mà một người sở hữu tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định và đến thời gian nhất định theo thoả thuận giữa hai bên thì người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu giá trị lớn hơn. Phần chênh lệch được gọi là phần lời hay theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất. 1.1.1. Sự ra đời và phát triển tín dụng 1.1.1.1. Cơ sở ra đời của tín dụng Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở ra đời của tín dụng. Xét về mặt xã hội, sự xuất hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành sự phân hoá xã hội; của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi gặp những biến cố rủi ro bất thường xảy ra. Trong điều kiện như vậy đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện việc điều hoà nhu cầu vốn tạm thời của cuộc sống. 1.1.1.2. Nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của tín dụng Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải có một số vốn nhất định, và do tính chất thời vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có lúc thì thiếu vốn có lúc thì thừa vốn. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp có tính thời vụ thấp thì việc thừa vốn tiền tệ với thời gian ngắn hơn và qui mô nhỏ hơn so với xí nghiệp có tính thời vụ cao. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế thì tại một thời điểm nhất định sẽ có hiện tượng một nhóm các doanh nghiệp cũng như cá nhân có vốn tạm thời chưa sử dụng trong khi những doanh nghiệp, cá nhân khác lại có nhu cầu bổ sung vốn tạm thời, nguyên nhân là do chu kỳ sản xuất và tính thời vụ ở mỗi thành phần cũng như ngành nghề kinh tế không giống nhau. Quá trình tái sản xuất là một quá trình liên tục trên cơ sở phân công và hợp tác trong toàn bộ hệ thống kinh tế, vì vậy khi mà doanh nghiệp này thừa vốn thì tất cả các doanh nghiệp khác thiếu vốn. Đây là hiện tượng khách quan, đòi hỏi phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu. Trong cơ chế thị trường, tồn tại và phát triển luôn gắn bó với nhau, vì vậy nhu cầu cho sản xuất không chỉ để duy trì mức sản xuất như cũ mà còn có nhu cầu đầu tư phát triển. Nhu cầu vốn trong trường hợp này dùng để sắm tài sản cố định, tăng dự trữ vật tư hàng hoá cho tái sản xuất mở rộng. Đối với các doanh nghiệp, lợi nhuận tích luỹ để đầu tư có giới hạn, vì vậy muốn thực hiện được nhu cầu mở rộng sản xuất cần phải nhờ đến nguồn vốn trong xã hội. Nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu này là vốn tiết kiệm xã hội, bao gồm vốn tiết kiệm của các nhà kinh doanh, vốn tiết kiệm cá nhân và ngân sách Nhà nước. Mỗi khoản tiết kiệm có một mục đích nhất định: nhà kinh doanh tiết kiệm để mở rộng sản xuất; cá nhân tiết kiệm để xây dựng nhà cửa, mua sắm xe cộ… Mục đích của tiết kiệm có thể được thực hiện ngay hoặc chỉ được thực hiện trong tương lai. Do đó trong thời gian chưa thực hiện được mục đích đã định, những người chủ của vốn tiết kiệm có thể cho vay dưới hình thức trực tiếp mua trái phiếu hay gián tiếp gởi vào các tổ chức tiết kiệm. Như vậy sự phát triển của tín dụng xuất phát từ nhu cầu tiết kiệm và nhu cầu đầu tư. Tình hình kinh tế ngày càng phát triển thì các chủ thể tham gia các quan hệ tín dụng rất phong phú. Quan hệ tín dụng được mở rộng về đối tượng và quy mô chẳng hạn: Các tổ chức ngân hàng và các tổ chức tín dụng phát triển mạnh và rộng rãi khắp nơi, phần lớn các doanh nghiệp đều sử dụng vốn tín dụng với khối lượng ngày càng lớn, thu nhập cá nhân ngày càng tăng, nên ngày càng có nhiều người tham gia vào các quan hệ tín dụng. Ngoài việc mở rộng các quan hệ tín dụng, hình thức tín dụng ngày càng phát triển đa dạng như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng Nhà nước và các loại khác. 1.1.2. Bản chất của tín dụng Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, nhưng ở bất cứ phương thức nào tín dụng cũng thể hiện ra là sự vay mượn tạm thời một vật, hàng hoá hay một số vốn nhất định, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hoá hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi. Tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay là người đi vay, giữa họ có mối quan hệ thông qua vận động giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình vận động đó được thể hiện qua các giai đoạn sau: Thứ nhất là việc phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hoá được chuyển từ người cho vay sang người đi vay. Như vậy khi cho vay, giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, đây là một đặc điểm cơ bản khác với việc mua bán hàng hoá thông thường. Thứ hai là việc sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Sau khi nhận được vốn tín dụng, người đi vay được quyền sử dụng giá trị đó để thoả mãn một mục đích nhất định. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, mà chỉ tạm thời sử dụng trong một thời gian nhất định. Thứ ba là việc hoàn trả tín dụng. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ, thì người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay. Như vậy sự hoàn trả của tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác. Tóm lại: tín dụng là phương thức huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường. Chính vì thế mà sử dụng hiệu quả phương thức này sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn đang là vấn đề cấp thiết cho sản xuất và đầu tư phát triển. 1.1.3. Chức năng của tín dụng Tín dụng không chỉ là chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại mà còn là chức năng của hầu hết các định chế tài chính, là khoản mục sử dụng vốn lớn nhất và cũng là hoạt động chiếm tỷ trọng lợi nhuận cao nhất ở các Ngân hàng. Vì vậy, tín dụng có các chức năng sau: 1.1.3.1. Tập trung và phân phối lại vốn cho nền kinh tế Đây là chức năng cơ bản của tín dụng, nhờ chức năng này mà các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều tiết từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu” để sử dụng nhằm phát triển kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tín dụng là hai quá trình thống nhất trong sự vận động của hệ thống tín dụng. Thông qua hoạt động tín dụng ở khâu tập trung thì nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được tập hợp lại thành nguồn vốn lớn có thể đáp ứng các nhu cầu vốn lớn cho nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng ở khâu phân phối thì nguồn vốn được phân bổ đến mọi nhu cầu cần vốn của các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân. Phân phối trực tiếp là sự chuyển giao vốn của chủ thể tạm thời nhàn rỗi vốn sang chủ thể thiếu vốn tạm thời mà không phải thông qua các tổ chức tài chính trung gian. Phân phối gián tiếp: là sự chuyển giao vốn giữa các chủ thể thừa vốn tạm thời sang chủ thể thiếu vốn tạm thời thông qua các tổ chức tài chính trung gian. Như vậy thông qua chức năng tập trung và phân phối lại vốn thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả trong nền kinh tế, tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, được xem là sợi dây kết nối giữa cung – cầu vốn tiền tệ, tạo dễ dàng cho chủ thể thừa tiền, chủ thể thiếu tiền trong nền kinh tế gặp gỡ nhau, đạt được mục đích của mỗi bên, nhờ đó mà tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết vốn giúp cho tiền tệ luôn lưu thông đạt hiệu quả kinh tế cao, tránh tình trạng thiếu hụt cũng như thừa tiền trong nền kinh tế và thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả. 1.1.3.2. Tiết kiệm tiền mặt trong nền kinh tế và chi phí lưu thông tiền tệ Nhờ hoạt động của tín dụng mà nó có thể phát huy chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội, điều này thể hiện qua các mặt sau: Hoạt động tín dụng, trước hết nó tạo điều kiện cho sự ra đời của công cụ lưu thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương tiện thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,… cho phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành (kể cả tiền đúc bằng kim loại quý như trước đây và tiền giấy hiện nay) nhờ đó làm giảm bớt các chi phí, lượng tiền lưu thông thực tế có liên quan như in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền…. Với hoạt động của tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã mở ra một khả năng lớn hơn trong việc mở tài khoản và giao dịch thanh toán thông qua ngân hàng dưới các hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ cho nhau và lượng tiền lưu thông sẽ giảm nhỏ lại, mặt khác khi công tác không dùng tiền mặt phát triển thì việc tập trung tiền vào tài khoản sẽ giảm chi phí cất trữ và bảo quản tiền. Như vậy, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tín dụng thì hệ thống thanh toán qua ngân hàng ngày càng mở rộng, vừa thúc đẩy quá trình ấy, vừa tạo điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển. Nhờ hoạt động của tín dụng, mà các nguồn vốn đang nằm trong xã hội được huy động để sử dụng cho các nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa sẽ có tác dụng tăng tốc độ chu chuyển vốn trong phạm vi toàn xã hội, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa diễn ra nhanh chóng. 1.1.3.3. Phản ánh và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên, kiểm sóat dưới hình thái giá trị tiền tệ, dựa trên cơ sở vận động của các luồng giá trị tiền tệ. Sự vận động của vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hóa, chi phí trong các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường tín dụng càng mở rộng cho tất cả các thành phần kinh tế, tham gia vào sản xuất hàng hóa, góp phần hoàn thiện thị trường tài chính. Đảm bảo lợi ích thiết thực cho các chủ thể kinh tế tham gia. Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng phản ánh được nguồn vốn huy động với tốc độ huy động, khối lượng huy động, đồng thời biết được khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế cũng như nhu cầu vốn của nền kinh tế, từ đó, có thể mang lại hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Ngoài ra thông qua đó thấy được như đầu tư, tích lũy tiêu dùng… trong nền kinh tế và cũng từ đó nhà nước sẽ có chính sách hợp lý. Trong hoạt động cho vay, để bảo đảm an toàn nguồn vốn, các tổ chức tín dụng phải luôn theo dõi, kiểm tra phân tích đánh giá hoạt động kinh doanh của khách hàng mình để từ đó có những đối sách thích hợp về cho vay cũng như thu hồi vốn đã vay. Do vậy, tín dụng cũng phản ánh được tình hình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi mà hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt phát triển, được sử dụng rộng rãi thì Ngân hàng sẽ kiểm soát bằng tài khoản vì mọi hoạt động cũng như quá trình hình thành và sử dụng vốn liên quan đến tài khoản tiền gửi để từ đó nhà nước đề ra những giải pháp điều tiết kịp thời nhằm khắc phục những khuyết điểm, mất cân đối, cũng như phát huy hơn nữa tính hợp lý và tiềm năng. Với chức năng này thì Ngân hàng trở thành người giữ tiền của nền kinh tế, giao dịch với hầu hết các thành phần kinh tế, vốn của tín dụng ngân hàng tham gia vào mọi ngành nghề, nên Ngân hàng có thể nắm bắt phản ánh mọi hoạt động trong nền kinh tế một cách tương đối chính xác. Cùng với chức năng tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông, chức năng phản ánh quá trình hoạt động của nền kinh tế thì tín dụng có thể phản ánh quá trình phân phối sản phẩm cho nền kinh tế. Vì vậy, qua đó tín dụng không những là tấm gương phản ánh hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực lãng phí, vi phạm luật pháp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Số liệu Các điều khoản BĐTV Thanh toán Đánh giá tín dụng QUẢN LÝ TD Trả nợ đúng hạn THANH TOÁN Trả đủ gốc Trả đủ lãi Dấu hiệu bất thường XỬ LÝ Nhận biết sớm CSXL Quản lý Dấu hiệu cảnh báo BPPL Cố gắng thu nợ TỔN THẤT Không trả nợ lãi Không trả nợ gốc THỦ TỤC HỒ SƠ Dự thảo hợp đồng Xem xét hồ sơ Kiểm tra tài sản đảm bảo Miễn bỏ giấy tờ pháp lý Các vấn đề khác GIẢI NGÂN Thủ tục hồ sơ hoàn tất Chuyển tiền QUẢN LÝ DANH MỤC NHU CẦU KH Tiếp nhận yêu cầu KH Tìm hiểu triển vọng Tham khảo ý kiến bên ngoài THẨM ĐỊNH Mục đích vay HĐKD Quản lý Số liệu THƯƠNG LƯỢNG Kỳ hạn Thanh toán Các khoản vay Bảo đảm tiền vay Các vấn đề khác PHÊ DUYỆT Cán bộ quản trị rủi ro Giám đốc Tổng giám đốc Xác định thị trường và các thị trường mục tiêu ĐỀ XUẤT TÍN DỤNG THỦ TỤC HỒ SƠ VÀ GIẢI NGÂN 1.1.4. Sơ đồ quy trình tín dụng căn bản : sơ đồ 1.1 1.2. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng 1.2.1. Rủi ro tín dụng là gì? Từ xa xưa, những người cho vay đã luôn đòi hỏi những bảo đảm chắc chắc cho khoản vay và sự hoàn trả nợ vay, họ có quyền đáng kể trong quá trình thương lượng trước khi ký kết cho khoản vay tuy nhiên khi khoản vay được giải ngân thì khả năng kiểm soát của người cho vay giảm khi đó sẽ phát sinh những khó khăn đối với người cho vay. Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tìm tàng vốn có được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng có những mất mát, thiệt hại do người vay vốn không trả đúng hạn, không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng tín dụng vì bất cứ lý do gì. Theo quyết định số 493.2005.QĐ – NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 thì rủi ro tín dụng được hiểu là: "Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng" (sau đây gọi tắt là "rủi ro") là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. 1.2.2. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng và người đi vay. Nhưng khi người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. 1.2.2.1. Rủi ro tín dụng do khách quan Thứ nhất rủi ro do biến động của môi trường kinh tế. Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường. Nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp như nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu, may gia công, các sản phẩm này vốn rất nhạy cảm với thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Chẳng hạn ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế về hạn ngạch là ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng nói chung. Ngành thuỷ sản cũng gặp khó khăn vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua, ngành cà phê cũng bị ảnh hưởng bởi biến động giá cả thế giới. Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Ngoài ra xăng dầu cũng là một mặt hàng được nhập khẩu do nhu cầu cao và là đầu vào nguyên, nhiên liệu của nhiều ngành nghề, sự biến động của giá xăng dầu thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất hàng hoá và giá thành đầu ra của sản phẩm, chính vì vậy các doanh nghiệp sẽ phải ngưng hoạt động nếu giá xăng dầu biến động tăng mạnh làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm cho giá thành cao gây khó khăn cho ngân hàng có quan hệ với doanh nghiệp. Việc điều hành nền kinh tế của chính phủ trong đó có NHNN và hệ thống NHTM quốc doanh. Trong đó việc điều hành tỷ giá góp phần gia tăng rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu cũng như làm gia tăng rủi ro cho ngân hàng. Lạm phát cũng ảnh hưởng rất lớn đối với các khoản vay của các ngân hàng. Một khi lạm phát tăng cao nguồn vốn sẽ được ngân hàng thu vào với lãi suất rất cao, đồng nghĩa với việc các khoản cho vay cũng tăng cao để cân đối, tuy nhiên lạm phát càng tăng nguy cơ vỡ nợ, nợ xấu của ngân hang cũng tăng cao do các doanh nghiệp, cá nhân đi vay khó có thể hoặc không thể trả nợ vay. Thứ hai rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế. Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. Thứ ba sự tấn công, xâm nhập của hàng nhập lậu. Việt Nam với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình, địa lý phức tạp và tình hình đời sống nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm… là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta. Thứ tư là do thiếu quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành. Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia. Thứ năm là do môi trường pháp lý chưa thuận lợi. kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có xong việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN. Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn. Thứ sáu hệ thống thông tin quản lý còn nhiều bất cập. Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng tuy nhiên chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa nhận được sự hỗ trợ thông tin từ phía các ngân hàng. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng. 1.2.2.2. Rủi ro do nguyên nhân chủ quan Thứ nhất rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng Trong đó quan trọng là việc sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Đa số khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, hình ảnh của ngân hàng và làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác.  Việc khách hàng thiếu khả năng quản lý kinh doanh dẫn đến việc sử dụng nguồn vốn vay thiếu hiệu quả gây ảnh hưởng đến việc trả nợ vay cho ngân hàng. Khi các khách hàng vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít khách hàng nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. Ngoài ra tình hình tài chính của khách hàng yếu kém, có dấu hiệu thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các khách hàng của NHTM tại Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các khách hàng doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các khách hàng doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của khách hàng doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản đảm bảo như là chỗ dựa cuối cùng để giảm thiểu rủi ro tín dụng.  Thứ hai rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng Sự lơ là và thiếu trách nhiệm trong công tác kiểm tra nội bộ của các ngân hàng. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian, hiệu quả vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.  Sử dụng các cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ tại các ngân hàng. Hiện tượng các nhân viên ngân hàng làm sai lệch lớn các khoản chi trả cho khách hàng lên đến hàng tỷ đồng, sự thiếu và yếu kém trong nghiệp vụ sẽ dẫn đến việc tổn thất làm tăng thiệt hại cho ngân hàng. Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến lĩnh vực NH đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.  Việc thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay của các bộ tín dụng cũng như phía lãnh đạo các ngân hàng. Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin mà NHTM yêu cầu.  Sự hợp tác giữa các NHTM với nhau thiếu chặt chẽ, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả. Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro sẽ chia đều cho tất cả chứ không bỏ qua bất kỳ ngân hàng nào.  Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Tuy nhiên là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.  Chính vì vậy rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở VN. Trong phạm vi tầm tay của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.  1.2.2.3. Rủi ro phát sinh từ tài sản đảm bảo. Việc cấp tín dụng tại các tổ chức tín dụng được dựa trên cơ sở sự tin cậy (uy tín). Khi cho vay, các tổ chức tín dụng luôn kỳ vọng khách hàng sẽ lựa chọn phương án đầu tư tốt và thực hiện tốt phương án đó để có đủ nguồn vốn hoàn trả đầy đủ gốc và lãi vay.Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như vậy mà là do thông tin bất cân xứng (asymmetric information) đã tạo ra lựa chọn bất lợi (adverse selection) và tâm lý ỷ lại (moral hazard). Đây là vấn đề rất lớn đối với các hoạt động "trả chậm" trong nền kinh tế nói chung và đặc biệt hơn trong thị trường tài chính, nơi mà hầu hết các giao dịch đều có tính chất trả chậm. Để giải quyết những hành vi do thông tin bất cân xứng gây ra, người ta đã thực hiện nhiều cơ chế có tính khả thi cao. Nhưng giải quyết nó một cách triệt để là một việc làm rất khó. Khi không thể nhìn vào những cái vô hình và khó phân tích như giá trị vô hình của doanh nghiệp, giá trị của vốn chủ sở hữu, giá trị thực của các khoản phải thu, các khoản tồn kho... Nhất là lần đầu tiên thiết lập quan hệ tín dụng thì việc này càng khó khăn hơn. Các tổ chức tín dụng Việt Nam chọn việc làm đơn giản nhất là xem xét những cái gì hiện hữu nhất. Đó chính là các tài sản hữu hình mà chủ yếu là tài sản cố định dùng để đảm bảo cho các khoản vay. Các tài sản hữu hình là thứ dễ xác định giá trị nhất. Việc cấp tín dụng sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều nếu nó được đảm bảo bằng tài sản, nhất là các loại tài sản có tính thanh khoản và giá trị cao. Việc quản lý các loại tài sản cũng sẽ dễ dàng hơn khi các tổ chức tín dụng nắm giữ tài sản hoặc giữ những giấy tờ sở hữu chúng và được nhà nước xác nhận. Đây chính là nguyên giải thích tại sao các tổ chức tín dụng coi tài sản đảm bảo là yếu tố quan trọng rất quan trọng trong quyết định cấp tín dụng của mình. Trong khi về mặt nguyên lý, tài sản đảm bảo chỉ là một yếu có giá trị tham chiếu trong các quyết định cấp tín dụng. Tài sản đảm bảo có vai trò rất lớn trong quyết định cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay không đơn giản vì nó là chỗ dựa tin cậy trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng mà hơn thế nữa, tài sản đảm bảo có tác dụng rất tốt trong việc ngăn ngừa sự xuất hiện của tâm lý ỷ lại sau khi cho vay. Tuy nhiên, với việc lấy tài sản đảm bảo để bảo đảm cho các khoản tín dụng thì những rủi ro từ tài sản đảm bảo là rất lớn. Đối với các khoản vay có mức dư nợ lớn thì việc mang nhiều tài sản thế để thế chấp là điều tất yếu và việc quản lý các tài sản thế chấp này mang lại gánh nặng lớn cho ngân hàng. Các tài sản đảm bảo là tài sản cố định như nhà cửa, máy móc, đất đai sẽ mất dần giá trị theo thời gian qua đó nếu khách hàng mất khả năng thanh toán các khoản nợ vay thì việc phát mãi tài sản đảm bảo sẽ diễn ra để ngân hàng thu hồi vốn, nhưng khó khăn là các tài sản dù đem phát mãi, thanh lý cũng không đủ để bù đắp các khoản thiếu hụt của ngân hàng. Việc thế chấp tài sản để vay ngân hàng để đảm bảo cho sự chắc chắn trả nợ vay là điều thường thấy nhưng các tài sản mà khách hàng mang đến để cầm cố, thế chấp như bất động sản, hàng hoá, thành phẩm, sản phẩm thì các ngân hàng khó có thể định được giá trị của các tài sản cầm cố, thế chấp. Các tài sản thế chấp theo quy đinh của của Bộ luật dân sự (Luật số: 33.2005.QH11) quy định rõ: “Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Chính vì vậy việc tranh chấp về mặt pháp lý có thể diễn ra nếu một tài sản đảm bảo được, đảm bảo cho nhiều khoản vay. Nếu thiếu sự thông tin liên lạc giữa các tổ chức tín dụng thì tranh chấp là điều tất yếu nếu khách hàng mất khả năng thanh toán nợ vay. Tóm lại, nếu ngân hàng xem tài sản đảm bảo là sự an toàn cho các khoản vay thế chấp, cầm cố sẽ làm gia tăng nợ xấu và gây rủi ro cao cho ngân hàng nếu khách hàng mất khả năng chi trả và thiếu sự cam kết chắc chắn của một bên thứ ba. 1.2.3. Các loại rủi ro tín dụng và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế Ngân hàng thương mại là những định chế trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi tiết kiệm và hoàn trả, đầu tư cho vay; cung cấp các dịch vụ ngân hàng, kinh doanh chứng khoán... Hoạt động của NHTM với những đặc trưng cơ bản như thế nên chịu tác động của nhiều yếu tố như: Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ chế chính sách quản lý điều hành vĩ mô và vi mô. Mà các yếu tố này có thể thay đổi để phù hợp với diễn biến thực tế của nền kinh tế. Đặc biệt trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá như hiện nay, ngày càng làm gia tăng các nguy cơ rủi ro cho hoạt động ngân hàng thương mại và khi rủi ro xảy ra thì hậu quả của nó sẽ rất nặng nề. Tuy nhiên hoạt động tín dụng mang lại cho ngân hàng thương mại khá nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng được phân loại như sau và những rủi ro này có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động của ngân hàng. 1.2.3.1. Rủi ro đọng vốn và ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng Rủi ro đọng vốn đó là rủi ro khi khách hàng sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao gồm vốn gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do trễ hạn. Đây là rủi ro mà không một ngân hàng nào mong muốn. NHTM hoạt động cho vay dựa trên nguồn vốn huy động từ nhiều hình thức như tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu…Chính vì vậy việc tính toán để nguồn vốn huy động trở thành nguồn vốn cho vay đã được các ngân hàng dự trù trước. Nhưng khi khách hàng vay vốn có thể xảy ra khả năng là khách hàng không thể trả nợ theo đúng như thời hạn trong hợp đồng đã giao kết. Chính yếu tố này làm ảnh hưởng đến việc trả vốn và lãi cho khách hàng gửi tiền, khi đến hạn các ngân hàng không thể trì hoãn việc trả nợ cho khách hàng gửi tiền. Điều này làm cho các ngân hàng phải cân đối, tính toán lại nguồn vốn để trả nợ khách hàng, đến một giới hạn nào đó ngân hàng không đủ nguồn vốn để chi trả dẫn đến mất khả năng chi trả, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động và uy tín của ngân hàng. 1.2.3.2. Rủi ro mất vốn và ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng Rủi ro mất vốn là rủi ro khi khách hàng sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao gồm vốn gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do không thanh toán. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng, khi khách hàng cố tình không thanh toán hay mất khả năng thanh toán đều mang đến khó khăn cho ngân hàng, việc khách hàng không thanh toán cho các khoản đã vay làm tăng thêm các chi phí phát sinh như chi phí giám sát nhằm mục đích giám sát chặt chẽ khoản vay, giám sát khách hàng nhằm thu hồi vốn vay khi khách hàng có điều kiện. Nếu khách hàng sử dụng tài sản để đảm bảo cho khoản vay thì việc ngân hàng bỏ thêm chi phí pháp lý nhằm tăng cường việc thu hồi nợ một cách nhanh chóng từ việc phát mãi tài sản đảm bảo. Việc khách hàng không trả nợ vay cho ngân hàng việc này làm giảm sút lợi nhuận mong muốn của ngân hàng. Việc huy động nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn làm ảnh hưởng đến việc tính toán vòng quay tín dụng nhằm sử dụng tối đa lợi nhuận từ nguồn vốn huy động, tuy nhiên khách hàng không trả nợ làm vòng vốn quay của tín dụng bị giảm hoặc không sinh lợi nữa điều này làm giảm sút doanh thu và có nguy cơ không thu được doanh thu. Điều này làm gia tăng nợ quá hạn và nợ khó đòi. Ngoài ra khách hàng vay không thực hiện nghĩa vụ theo đúng hợp đồng tín dụng đối với ngân hàng thì việc ngân hàng phải gia tăng nguồn dự trữ nhằm phòng ngừa với nguy cơ mất vốn là rất cao làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng. Tóm lại nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đấy, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. 1.2.3.3. Rủi ro tín dụng ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Có khả năng làm sụp đổ cả một hệ thống tài chính quốc gia. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay, nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ (2008) đã làm rung chuyển toàn cầu. Việc phá sản của một số ngân hàng lớn ở Mỹ đã làm cho nền kinh tế thế giới suy sụp, những ảnh hưởng to lớn của nó gắn liền với thế giới làm hàng loạt các ngân hàng cũng như tổ chức tài chính trên thế giới đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nến kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. 1.2.4. Nhận biết rủi ro tín dụng Trong hoạt động ngân hàng hoạt động tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro nhưng cũng có những dấu hiệu cho thấy nguy cơ phát sinh rủi ro và từ đó có thể phòng ngừa nhằm hạn chế tối đa tổn thất cho ngân hàng. Thứ nhất là dấu hiệu tài chính: các dấu hiệu về các chỉ số của khách hàng có dấu hiệu giảm sút mặc dù vẫn trong giới hạn kiểm soát như chỉ số thanh khoản, chỉ số khả năng sinh lời, cơ cấu nguồn vốn biến động mạnh, không hợp lý, vòng quay hàng tồn kho, tiền mặt có dấu hiệu ngừng hoặc giảm mạnh. Thứ hai là các dấu hiệu phi tài chính như giảm sút mạnh số dư tiền gửi tại ngân hàng, công nợ gia tăng, mức độ vay thường xuyên, yêu cầu khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến và chấp nhận sử dụng nguồn tài trợ lãi suất cao, chậm thanh toán nợ gốc và lãi cho ngân hàng Ngoài ra khách hàng có sự thay đổi về cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị, kế toán. Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành. Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên, tranh chấp trong quá trình quản lý. Chi phí quản lý bất hợp pháp. Quản lý có tính gia đình. Thứ ba là các dấu hiệu về vấn đề kỹ thuật thương mại như khách hàng gặp khó khăn trong phát triển sản phẩm mới, hoặc không có sản phẩm thay thế. Sản phẩm của khách hàng có tính thời vụ cao, có biểu hiện cắt giảm chi phí, mất khách hàng, đối tác chiến lược. Những thay đổi chính sách của nhà nước gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh như tỷ giá, lãi suất… 1.2.5. Sự cần thiết trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nhu cầu vốn cho nền kinh tế ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Sự tăng trưởng tín dụng của các NHTM phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế cả nước nói chung và của kinh tế thành phố nói riêng. Tuy nhiên sự tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các NHTM. Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng. Vì vậy các giải pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng nhằm tạo ra sự tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững. 1.2.6. Quản trị rủi ro tín dụng 1.2.6.1. Mô hình chất lượng 6 C Tư cách người vay (Character). Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích xin vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng hay không, đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như từ: trung tâm phòng ngừa rủi ro, từ ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin đại chúng,… Năng lực của người vay (Capacity) Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia. Đòi hỏi người đi vay phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Thu nhập của người đi vay (Cash). Trước hết, phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán,… Bảo đảm tiền vay (Collateral). Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng. Các điều kiện (Conditions). Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thu ngân phải qua ngân hàng, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương theo từng thời kỳ. Kiểm soát (Control). Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi của luật pháp có liên quan và quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay không? 1.2.6.2. Đánh giá rủi ro tín dụng. Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là: Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn Dư nợ cho vay x 100% - Tỷ lệ nợ quá hạn Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng. Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc hoặc lãi đã quá hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn thành các nhóm sau: Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn. Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ. Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn. - Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi…) là khoản nợ mang các đặc trưng sau: Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã hết hạn. Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi. Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi. Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày. Theo Quyết định số 493.2005.QĐ-NHNN ngày 22.4.2005, nợ xấu của tổ chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau: Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b điều khoản này; các khoản nợ được miễn và giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; các khoản nợ phảu thực hiện theo nghĩa vụ cam kết quá hạn dưới 30 ngày; các khoản nợ đã được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn từ 30 ngày đến 90 ngày; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu kại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá han; các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn từ 91 ngày trở lên; các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.. Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này đối với NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định không được vượt quá 3%. Hệ số rủi ro tín dụng = Tổng dư nợ cho vay Tổng tài sản có x 100% Hệ số rủi ro tín dụng: Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 3 nhóm: Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mạng lạicho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ xóa nợ xấu = Các khoản xóa nợ ròng Tổng tài sản có x 100% - Tỷ lệ xóa nợ: 1.2.6.3. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng. Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tàichính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay. Xem xét và quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt, chú trọng thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng. Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản; sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín dụng. Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín dụng. Thực hiện các quy định bảo đảm kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín dụng: Xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống các quy chế, quy trình nội bộ về quản lý rủi ro; trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng chính sách khách hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay, đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu. 1.2.6.4. Các biện pháp quản trị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của các NHTM 1.2.6.4.1. Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro Đây là điều kiện tiên quyết trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường biến động phức tạp, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có chiến lược rõ ràng trong việc quản trị rủi ro tín dụng, bời vì đó là “kim chỉ nang” cho hoạt động tín dụng. Một chiến lược rõ ràng, chính xác trong dự báo đảm bảo cho bản thân các ngân hàng có thể linh hoạt trong phòng ngừa và xử lý những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Nó góp phần định hướng cho các hoạt động tín dụng trong tương lai nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cao. Nhất là trong điệu kiện hội nhập của nền kinh tế với khu vực và thế giới. Chiến lược này có thời hạn trong thời gian dài, nó quyết định đến sự tồn tại của cả ngân hàng, bởi vì hoạt động tín dụng chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động ngân hàng. 1.2.6.4.2. Xây dựng chính sách tín dụng Chính sách tín dụng của ngân hàng phải thực hiện ba mục tiêu cơ bản: Lợi nhuận, an toàn và lành mạnh. Một chính sách tín dụng hợp lý phải được xây dựng trên những căn cứ sau: Nguồn vốn của ngân hàng, bao gồm cả vốn huy động, và vốn chủ sở hữu. Dựa vào quy mô nguồn vốn, ngân hàng có thể lựa chọn kỳ hạn đầu tư, loại hình cho vay phù hợp. Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, điều này ảnh hưởng đến nhu cầu tín dụng của thị trường. Do đó ngân hàng cần phải có sự phù hợp thống nhẩt đối với các điểu chỉnh vĩ mô của Chính phủ. Thị trường mục tiêu của ngân hàng, nguồn lực vật chất và trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên là nhân tố tác động đến khả năng hoạt động của ngân hàng trên những khu vực thị trường nhất định. Chính những nhân tố này sẽ phát huy lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Căn cứ vào những phân tích, dự báo rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đây là những phân tích mang tính chất kỹ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ngoài nước, điển hình là những phân tích dự báo về tình hình tài chính tiền tệ như lãi suất, lạm phát, ngoại tệ… 1.2.6.4.3. Thực hiện tốt công tác phân tích tín dụng và xác định mức độ rủi ro tín dụng. Thực hiên phân tích tín dụng một cách đầy đủ và toàn diện nhằm đánh giá khách hàng và tính hiệu quả của dự án trước khi cho khách hàng vay. Việc phân tích, thẩm định tín dụng được thực hiện trong và sau khi cho vay. Đó là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi khoản vay nhằm đảm bảo tính chính xác, tính kinh tế của đồng vốn tín dụng đến được đúng đối tượng sử dụng vốn hiệu quả. Quá trình này chỉ chấm dứt khi khoản vay được hoàn trả đúng thời han và đầy đủ. Công tác này có vai trò quyết định trong việc khoản vay có sinh lời hay không, qua đó đảm bảo chu kỳ đồng vốn của ngân hàng từ huy động đến cho vay đến thu nợ, hoặc có đảm bảo được mục đích kinh doanh của ngân hàng hay không. Không chỉ có tác dụng trong công tác cấp vốn của ngân hàng mà còn góp phần vào công tác quảng bá thương hiệu của bản thân ngân hàng, được thể hiện qua thủ tục cho vay không rườm rà, thái độ phục vụ tận tình, trách nhiệm cho dù có vay được vốn hay không. 1.2.6.4.4. Thực hiện đầy đủ khâu đảm bảo tín dụng Các yêu cầu TSĐB của ngân hàng với mục đích nhằm hạn chế rủi ro trong trường hợp khách hàng không thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng vay vốn về việc thanh toán gốc và lãi khi đến hạn. Tuy nhiên, việc thực hiên hình thức bảo đảm tiền vay nào là phụ thuộc vào tình hình của khách hàng, và của bản thân ngân hàng cho vay. Để hạn chế rủi ro tín dụng thì khâu đảm bảo tín dụng cần phải lưu ý những vấn đề sau: Đối với cho vay có bảo đảm tiền vay bằng tài sản + Cần đánh giá chính xác tính sở hữu tài sản, có trong tình trạng tranh chấp hay không? + Đánh giá tính thị trường của tài sản hiện tại và tương lai, xác định rõ mức độ hao mòn của tài sản trong thời hạn đảm bảo. + Trình tự thủ tục tiến hành phải phù hợp với quy định của pháp luật và của ngành. Đối với cho vay có bảo lãnh + Đánh giá năng lực pháp lý, năng lực tài chính và ý thức sẵn sàng thanh toán của người bảo lãnh. + Đảm bảo quy đinh về thủ tục bảo lãnh. 1.2.6.4.5. Thực hiện tốt quy trình giám sát tín dụng Cán bộ tín dụng phải theo sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích không và để kiểm tra việc bảo quản vật tư hàng hóa hình thành từ vốn vay, tình hình TSĐB, tiến độ thực hiện dự án… có thực hiện đúng theo hợp đồng hay không… Hơn nữa, mục đích của việc giám sát tín dụng là để phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn, giúp cho ngân hàng phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ có vấn đề, qua đó có thể hạn chế được những rủi ro không cần thiết. 1.2.6.4.6. Xử lý hiệu quả nợ quá hạn. Để có thể xử lý được nợ quá hạn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng, bản thân các ngân hàng cần phải ý thức được rằng những khoản nợ quá hạn là những khoản nợ vay có vấn đề, cho nên phải có quyết định kịp thời, hoặc là tiếp tục gia hạn nợ nếu đánh giá người vay vẫn còn khả năng trả nợ nhưng như thế này khả năng rủi ro tín dụng vẫn còn rất cao, hoặc là thanh lý, thu hồi khoản nợ trước hạn. Đây là những quyết định rất quan trọng, nó cho thấy ngân hàng có thể bị rủi ro hay không. Việc tiến hành xử lý hay không thì phải tiến hành qua những khâu sau: + Phải có hành động ngăn ngừa các khoản vay có khả năng quá hạn như lập kế hoạch gặp khách hàng, gặp gỡ khách hàng, lập phương án ngăn ngừa rủi ro và kiểm tra các phương án khắc phục. + Nếu ngăn ngừa không thành công ngân hàng thực hiện các biện pháp thông qua bộ phận truy hồi tài sản với phương án cụ thể hoặc là khai thác, hoặc là thanh lý. 1.2.6.4.7. Phân tán rủi ro tín dụng. Đây là động tác mà mỗi ngân hàng bắt buộc phải duy trì trong suốt cả quá trình quản lý tín dụng. Yêu cầu các ngân hàng phải tôn trọng các giới hạn trong cho vay (£ 15% VTC), dựa trên những đánh giá về TSĐB (£ 70% giá trị TSĐB), thực hiện đồng bộ với chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu trong hoạt động kinh doanh và yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm cho các tài sản hình thành từ vốn vay và TSĐB. Không nên tập trung cho vay quá nhiều vào một loại đối tượng, một ngành, một địa bàn, cần phải đa dạng hoá danh mục cho vay nhằm mục đích phân tán rủi ro, tăng cường khả năng xử lý linh hoạt các tình huống có thể xảy ra. Đồng thời cũng cần phải sử dụng nghiệp vụ cho vay hợp vốn nhằm mục đích san sẻ rủi ro cho các đơn vị khác. 1.2.6.4.8. Sử dụng các công cụ ngoại bảng Đây là biện pháp hạn chế rủi ro rất hữu hiệu của ngân hàng, nó không những có thể hạn chế được rủi ro mà còn có thể mang lại được lợi nhuận cho ngân hàng. Đòi hỏi sử dụng công cụ thị trường phái sinh phải có hệ thống, bao gồm các công cụ quyền chọn, kỳ hạn, tương lai, hoán đổi. Trên cơ sở các hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh, mỗi ngân hàng cần phải đưa ra các chính sách sử dụng các công cụ phái sinh dựa trên những phân tích đánh giá về tình hình biến động của thị trường tiền tệ. Đây là biện pháp quản lý cấp cao trong hoạt động ngân hàng. Hiện nay xu hướng giải quyết rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng bằng các công cụ phái sinh đang ngày càng phổ biến, và rất hiệu quả. Nhưng nó cũng có tính hai mặt, nếu dự đoán phân tích sai về thị trường sẽ dẫn tới rủi ro cao hơn vừa cả rủi ro về tín dụng mà còn rủi ro trong khả năng thanh toán các khoản lỗ do kinh doanh các công cụ này gây ra. Tóm lại, trên đây là những khái quát về rủi ro tín dụng. Có thể nói rằng tín dụng là một hoạt động rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhưng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, nó không chi gây thiệt hại, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội. Xuất phát từ những phân tích, đánh giá về bản chất, dấu hiệu, nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, các ngân hàng sẽ lựa chọn các giải pháp thích hợp để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục thành công rủi ro. Để có thể nhận biết được những mặt còn thiếu soát và hạn chế của NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phù Cát thì chúng ta phải am hiểu hơn về tình hình hoạt động tại chi nhánh. CHƯƠNG II TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHNo&PTNT CHI NHÁNH HUYỆN PHÙ CÁT TỈNH BÌNH ĐỊNH 2.1. Giới thiệu chung về NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Nghị định 53.HĐBT ngày 26.03.1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra đời đánh dấu bước phát triển mới của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, từ đây hệ thống Ngân hàng Việt Nam được chia thành 2 cấp. Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh (ngân hàng thương mại quốc doanh) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Bình Định nói riêng là một trong các ngân hàng chuyên doanh ra đời và đi vào hoạt động từ tháng 07.1988. Gần 20 năm qua là một chặng đường phấn đấu đầy khó khăn, gian khổ. Quá trình đó đã ghi nhận sự phát triển và trưởng thành của Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tỉnh Bình Định.  Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Phù Cát được thành lập theo Quyết định số 1103.NH- QĐ ngày 24 tháng 12 năm 1990 do Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam ký. Tiền thân của NH Phù Cát trong thời kỳ bao cấp là NHNN Việt Nam- Chi nhánh huyện Phù Cát và đến tháng 5 năm 1988 là Ngân hàng phát triển nông nghiệp- Chi nhánh huyện Phù Cát. Hiện nay có tên gọi là NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát. Được tách ra từ hệ thống NHNN, NHNo&PTNT huyện Phù Cát hoạt động với bao khó khăn: địa bàn hẹp, tài sản và cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, một bộ máy với biên chế cồng kềnh, trình độ nghiệp vụ non kém, ... nhưng đến nay sau gần 25 năm đổi mới NHNo&PTNT huyện Phù Cát không những đã khẳng định được mình, mà còn vươn lên phát triển trong cơ chế thị trường. Thật sự là một chi nhánh của một NHTM quốc doanh lớn, kinh doanh tổng hợp, có xu hướng mở rộng tới tất cả dịch vụ Tài chính - Ngân hàng. Hiện nay, NHNo&PTNT huyện Phù Cát có 01 trụ sở NHNo huyện và 01 phòng giao dịch trực thuộc. Là một chi nhánh NH duy nhất trên địa bàn huyện có sự phân bố đồng đều rộng khắp tới các xã trong toàn huyện. Khách hàng của NH chủ yếu là các hộ nông dân, HSX kinh doanh, các doanh nghiệp, Cty TNHH thuộc các thành phần kinh tế . Nhờ hoạt động ngày càng có hiệu quả, uy tín của NHNo&PTNT huyện Phù Cát ngày càng được nâng cao và trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu được của bà con nông dân. Với trách nhiệm của một ngành cung ứng vốn cho phát triển kinh tế địa phương. Ngành NH nói chung, NHNo&PTNT huyện Phù Cát nói riêng đã có những đóng góp tích cực phục vụ cho chương trình phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh nói chung và huyện nhà nói riêng, nhất là những năm gần đây, trên lĩnh vực huy động vốn và cho vay các chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện, thể hiện thông qua tăng trưởng khối lượng tín dụng và thay đổi cơ cấu dần qua các năm. 2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ Nhiệm vụ của NHNo&PTNT huyện Phù cát Tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức, tổ chức kinh tế thông qua các thể thức tiết kiệm, huy động kỳ phiếu, mở tài khoản tiền gửi tư nhân, tiền gửi các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức kinh tế. Nhằm tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi để khơi tăng nguồn vốn của NH nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh nhiệm vụ trên NHNo&PTNT huyện Phù Cát còn nhận tiếp vốn từ NH cấp trên và các nguồn vốn uỷ thác nước ngoài, từ các tổ chức tín dụng nước ngoài. Đặc biệt, chú trọng đến việc cho vay để đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chức năng của chi nhánh NHNo & PTNT Phù Cát cụ thể gồm Huy động vốn: Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. Nhận và thanh toán ngoại tệ, quy đổi, mua bán ngoại tệ khi khách hàng có nhu cầu. Phát hành kỳ phiếu ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi, và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức và cá nhân. Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN. Hoạt động tín dụng: Cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, và các hình thức khác theo quy định của NHNN, cụ thể: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Cho vay ưu đãi theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Cho vay tiêu dùng, phục vụ đời sống. Cho vay vốn nhận uỷ thác đầu tư của các tổ chức khác. Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân trong nước. Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức, cá nhân; tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Cung ứng các phương tiện thanh toán qua NH. Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho KH. Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ. Thực hiện dịch vụ thu và chi tiền mặt, máy rút tiền tự động ATM. Ngoài ra NHNo&PTNT Phù Cát còn thực hiện một số hoạt động khác như: Kinh doanh ngoại hối; chi trả kiều hối; Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; mở thẻ ATM, Thẻ ghi nợ quốc tế, Thẻ tín dụng quốc tế, và các dịch vụ khác theo yêu cầu của khách hàng đúng quy định của pháp luật. Với phương châm “ Trung thực- Kỷ cương – Chất lượng – Sáng tạo - Hiệu qủa” Cùng với một đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực, kinh nghiệm và tận tâm, NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát luôn phục vụ khách hàng của mình với tinh thần trách nhiệm cao, có hiệu quả. Ngân hàng đã thực hiện chính sách tín dụng không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, đồng thời thực hiện cho vay hỗ trợ lãi suất theo các Quyết định của chính phủ. Thực hiện đa dạng hoá các loại sản phẩm, dịch vụ NH. Chính vì thế, qua các năm hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Phù Cát đã từng khẳng định được vị thế trên địa bàn huyện, ngày càng tạo được uy tín với khách hàng thể hiện qua việc tăng trưởng nguồn vốn, tăng trưởng tín dụng và chất lượng phục vụ các dịch vụ NH. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy 2.1.3.1. Số cấp quản lý Tổng số cán bộ viên chức đến ngày 31.12.2010 là 27 người, trong đó có: 17 nam và 10 nữ được phân công cụ thể vào các phòng, ban như sau: Ban Giám đốc gồm có 1 Giám đốc và 1 phó Giám đốc. Phòng kế hoạch kinh doanh (có tất cả 09 người) gồm 1 trưởng phòng và cùng 8 nhân viên giao dịch. Phòng kế toán & ngân quỹ (có tất cả 08 người) gồm 1 trưởng phòng 1 phó phòng và 06 nhân viên giao dịch. Phòng giao dịch Đề Gi: 06 người, là đơn vị trực thuộc NHNo&PTNT huyện Phù Cát, thực hiện cung cấp đầy đủ tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ NH trên địa bàn 05 xã: Cát Minh, Cát Tài, Cát Khánh, Cát Thành, Cát Hải. Bộ phận khác: 02 người. Sơ đồ 2.1.3: Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT huyện Phù Cát PHÒNG KẾ HOẠCH KINH DOANH PHÒNG KẾ TOÁN NGÂN QUỸ PHÒNG GIAO DỊCH ĐỀ GI BAN GIÁM ĐỐC 2.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận v Giám đốc Là người đại diện cao nhất của đơn vị theo chế độ một thủ trưởng, là người quyết định điều hành mọi hoạt động của NH theo đúng kế hoạch, chính sách, chế độ pháp luật của NH cấp trên và của Nhà nước. v Phó Giám đốc Là người hỗ trợ cho Giám đốc, được Giám đốc uỷ quyền quyết định và điều hành giải quyết một phần công việc hoặc toàn bộ hoạt động của NH trong thời gian giám đốc đi vắng. Phó Giám đốc cũng chịu trách nhiệm cao nhất trong phạm vi quyết định của mình. v Phòng kế hoạch kinh doanh Chức năng: Tham mưu cho Ban Giám đốc trong triển khai thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ nhà nước, của ngành, của địa phương vào thực tiễn kinh doanh của chi nhánh liên quan đến các nhiệm vụ của phòng. Nhiệm vụ: Lãnh đạo công tác nghiệp vụ của phòng kế hoạch kinh doanh. Lập các kế hoạch kinh doanh của đơn vị và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh đó. Tổ chức, chỉ đạo giao khoán các chỉ tiêu, kế hoạch đến từng cán bộ tín dụng, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện. Thực hiện công tác quản lý vốn theo qui chế của NHNo&PTNT Việt Nam. Lập các báo cáo về công tác tín dụng, báo cáo sơ kết, tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh. Kinh doanh tín dụng: Khai thác nguồn vốn và sử dụng vốn an toàn, hiệu quả, cho vay đối với mọi thành phần kinh tế bảo đảm theo nguyên tắc chế độ ngành qui định, xây dựng và cài đặt kịp thời các loại lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay của chi nhánh. Thực hiện công tác tín dụng và thông tin tín dụng. Ngoài ra, phòng kế hoạch kinh doanh còn thực hiện một số nhiệm vụ khác do ban giám đốc giao. Phòng Kế toán & ngân quỹ Bộ phận kế toán: Chức năng: Hạch toán kế toán, lưu giữ, bảo quản và quản lý tài sản nhà nước theo pháp lệnh kế toán thống kê và các chế độ tài chính kế toán hiện hành của Bộ Tài chính và NHNo&PTNT Việt Nam. Tham mưu cho Ban giám đốc trong xử lý các nhiệm vụ của phòng bảo đảm tính chính xác, kịp thời và hiệu quả. Nhiệm vụ: Thực hiện nhiệm vụ kế toán thanh toán trong nước. Kinh doanh ngoại tệ, theo dõi diễn biến tỷ giá, xây dựng và cài đặt kịp thời tỷ giá các loại ngoại tệ. Bộ phận ngân quỹ: Làm nhiệm vụ thu, chi, quản lý trực tiếp và lưu trữ bảo quản tiền mặt Việt Nam đồng, ngân phiếu thanh toán, các loại ngoại tệ, các hồ sơ thế chấp và các loại ấn chỉ quan trọng, ấn phẩm như: Sổ tiết kiệm, các chứng từ có giá mà KH vay vốn, cầm cố tại NH, bảo đảm chế độ ra vào kho, quản lý an toàn kho quỹ. Kế toán trưởng chịu trách nhiệm hướng dẫn chế độ thể lệ liên quan đến nghiệp vụ kế toán cho nhân viên trong phòng, báo cáo kế toán và một số chứng từ khác có liên quan và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban lãnh đạo và chịu trách nhiệm trước ban giám đốc. Nhân viên kế toán chịu sự chỉ đạo trực tiếp của kế toán trưởng. Thực hiện đúng chế độ, nghiệp vụ kế toán như: kế toán cho vay, kế toán tiết kiệm, kế toán thanh toán, chi tiêu và các dịch vụ khác như: chuyển tiền, thu đổi tiền mặt, ngoại tệ… 2.1.4. Chính sách tín dụng chung của NHNo & PTNT chi nhánh huyện Phù Cát Để thực hiện và rút ngắn thời gian thủ tục cho vay với mục đích phục vụ khách hàng và đảm bảo an toàn vốn, NHNo & PTNT chi nhánh huyện Phù Cát đã áp dụng các nguyên tắc cho vay dựa trên Quyết định số 666.QĐ-HĐQT-TDHo ngày 15 tháng 6 năm 2010 về việc ban hành Quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. 2.1.4.1. Hướng dẫn thủ tục vay vốn và tiếp nhận hồ sơ Từ khi khách hàng liên hệ NHNo & PTNT chi nhánh huyện Phù Cát để vay vốn, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn các thủ tục cần thiết như hồ sơ, giấy tờ, thủ tục pháp lý cần thiết việc này sẽ được cán bộ tín dụng tư vấn cho khách hàng với thời gian ngắn nhất. 2.1.4.2. Quy trình xét duyệt cho vay Trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ và báo cáo thẩm định do cán bộ tín dụng lập, tiến hành xem xét, tái thẩm định (nếu cần thiết) hoặc trực tiếp thẩm định trong trường hợp kiêm làm cán bộ tín dụng, ghi ý kiến vào báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) và trình giám đốc quyết định. Giám đốc NHNo nơi cho vay căn cứ báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) do phòng tín dụng trình, quyết định cho vay hoặc không cho vay: Nếu cho vay thì NHNo nơi cho vay cùng khách hàng lập hợp đồng tín dụng, hợp đồng đảm bảo tiền vay (trường hợp cho vay có đảm bảo bằng tài sản). Khoản vay vượt quyền phán quyết thì thực hiện theo quy định hiện hành của NHNo Việt Nam. (Trình NHNo&PTNT cấp trên) Nếu không cho vay thì thông báo cho khách hàng biết. Hồ sơ khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay được chuyển cho giao dịch viên tín dụng thực hiện nghiệp vụ hoạch toán giải ngân, chuyển thủ quỹ để giải ngân cho khách hàng (nếu cho vay bằng tiền mặt). Thời gian thẩm định cho vay: Các dự án trong quyền phán quyết: Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 15 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi NHNo nơi cho vay nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của NHNo Việt Nam, NHNo nơi cho vay phải quyết định và thông báo việc cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng. Các dự án, phương án vượt quyền phán quyết: Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 15 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi NHNo nơi cho vay nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của NHNo Việt Nam, NHNo nơi cho vay phải làm đầy đủ thủ tục trình lên NHNo cấp trên. Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và 15 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ ngày nhận đủ hồ sơ trình, NHNo cấp trên phải thông báo chấp thuận hoặc không chấp thuận. NHNo nơi cho vay có trách nhiệm niêm yết công khai thời hạn tối đa thẩm định cho vay. Quy trình nghiệp vụ cho vay đối với pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thực hiện theo hướng dẫn của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam, phù hợp với Quyết định 1627.2001.QĐ-NHNN. 2.1.4.3. Kiểm tra, giám sát và xử lý vốn vay 2.1.4.3.1. Nội dung kiểm tra, giám sát vốn vay NHNo nơi cho vay có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng, nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện đúng và đầy đủ những cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, nội dung kiểm tra như sau: a. Kiểm tra trước khi cho vay: là việc thẩm định, tái thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định. b. Kiểm tra trong khi cho vay: là việc kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn, hồ sơ tài sản bảo đảm tiền vay và các yếu tố chứng từ; Sự khớp đúng giữa chứng minh thư và người vay, giữa người nhận tiền và người có tên trên giấy đề nghị vay vốn,… c. Kiểm tra sau khi cho vay: Kiểm tra sử dụng vốn vay theo mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, phương án. Kiểm tra hiện trạng tài sản bảo đảm tiền vay. 2.1.4.3.2. Xử lý vốn vay Giám đốc NHNo nơi cho vay căn cứ vào kết quả kiểm tra tùy theo mức độ vi phạm của khách hàng quyết định xử lý như sau: a) Tạm ngừng cho vay (nếu món vay được giải ngân nhiều lần) hoặc thu hồi nợ trước hạn trong các trường hợp: Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, cung cấp thông tin sai sự thật. b) Chấm dứt cho vay: Trong các trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng đã cam kết nhưng không khắc phục, sửa chữa; khách hàng ngừng sản xuất có thể dẫn đến phá sản; quá trình tổ chức lại sản xuất không xác định được người chịu trách nhiệm chính trước pháp luật về quan hệ vay vốn và trả nợ ngân hàng. c) Khởi kiện trước pháp luật: NHNo nơi cho vay có quyền khởi kiện (dân sự, hình sự) trong các trường hợp sau: Khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng, hợp đồng đảm bảo tiền vay, đã được NHNo thông báo bằng văn bản nhưng không khắc phục. Khách hàng có nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan nhưng không có biện pháp khả thi để trả nợ ngân hang. Khách hàng có năng lực tài chính để trả nợ nhưng cố tình trốn tránh trả nợ ngân hàng theo thỏa thuận. Khách hàng có hành vi lừa đảo, gian lận. Các vi phạm khác theo quy định của pháp luật. 2.1.4.4. Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ - gia hạn nợ - chuyển nợ quá hạn 2.1.4.4.1. Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc, gia hạn trả nợ gốc Trường hợp khách hàng không trả nợ gốc đúng kỳ hạn hoặc không trả nợ hết nợ gốc trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và có văn bản đề nghị, NHNo nơi cho vay xem xét cho điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc cho gia hạn nợ. Thời hạn gia hạn nợ đối với cho vay ngắn hạn tối đa bằng 12 tháng, đối với cho vay trung hạn và dài hạn tối đa bằng 1/2 thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp khách hàng có nhu cầu gia hạn nợ vượt thời gian gia hạn nợ tối đa kể trên do nguyên nhân khách quan thì giám đốc Sở giao dịch, chi nhánh cấp 1 phải báo cáo Tổng giám đốc để xem xét quyết định và báo cáo NHNN Việt Nam. 2.1.4.4.2.Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lãi, gia hạn trả nợ lãi Trường hợp khách hàng không trả nợ lãi đúng kỳ hạn hoặc không trả hết nợ lãi trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và có văn bản đề nghị, NHNo nơi cho vay xem xét quyết định điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lãi hoặc gia hạn nợ lãi. Thời hạn gia hạn nợ lãi tối đa áp dụng theo thời hạn gia hạn nợ gốc quy định như trên. Trường hợp khách hàng có nhu cầu gia hạn nợ lãi vượt thời gian gia hạn nợ lãi tối đa kể trên, Tổng Giám đốc NHNo Việt Nam uỷ quyền cho giám đốc Sở giao dịch, chi nhánh cấp 1 quyết định, chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước pháp luật về quyết định của mình. Sau khi quyết định phải báo cáo NHNo Việt Nam để báo cáo NHNN Việt Nam. Thủ tục cho gia hạn nợ gốc, nợ lãi và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc, nợ lãi: a) Khách hàng lập giấy đề nghị gia hạn nợ gốc, nợ lãi; điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc nợ lãi gửi ngân hàng nơi cho vay trước ngày đến hạn trả nợ. b) Cán bộ tín dụng thẩm định, trình trưởng phòng tín dụng và Giám đốc. c) Giám đốc NHNo nơi cho vay xem xét quyết định hoặc trình chi nhánh cấp trên trực tiếp (trong trường hợp vượt thời gian tối đa) cho gia hạn nợ gốc, nợ lãi, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc, nợ lãi. d) Các trường hợp cho gia hạn nợ gốc, lãi, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc, lãi, NHNo nơi cho vay cùng với khách hàng thỏa thuận bổ sung vào hợp đồng tín dụng (mục theo dõi cho vay và thu nợ). Chuyển nợ quá hạn: a) Đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, nếu khách hàng không trả đựơc đúng hạn số nợ gốc hoặc lãi phải trả của kỳ hạn đó và không đuợc NHNo nơi cho vay chấp thuận chuyển số nợ gốc hoặc lãi chưa trả được sang kỳ hạn tiếp theo, thì NHNo nơi cho vay chuyển toàn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó sang nợ quá hạn. b) Đến thời điểm cuối cùng của thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, nếu khách hàng không trả hết số nợ gốc hoặc lãi đúng hạn và không được NHNo nơi cho vay chấp thuận gia hạn nợ gốc hoặc lãi, NHNo nơi cho vay chuyển toàn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó sang nợ quá hạn. c) Các trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, bị chấm dứt cho vay như NHNo nơi cho vay phải thực hiện thu hồi nợ trước hạn đã cam kết hoặc chuyển ngay sang nợ quá hạn toàn bộ số dư nợ gốc. d) Tổng giám đốc hướng dẫn cụ thể nghiệp vụ chuyển nợ quá hạn phù hợp giữa nghiệp vụ tín dụng và việc ứng dụng công nghệ tin học. 2.1.4.5. Giới hạn cho vay Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của NHNo Việt Nam, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của NHNo Việt Nam hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì NHNo nơi cho vay thực hiện cho vay hợp vốn. Trong trường hợp đặc biệt khách hàng có nhu cầu vay vượt 15% vốn tự có của NHNo Việt Nam, giám đốc Sở giao dịch, chi nhánh cấp 1 phải trình Tổng giám đốc để báo cáo NHNN Việt Nam và Thủ tướng Chính phủ cho phép mới được thực hiện. 2.1.4.6. Lưu giữ hồ sơ cho vay Đối với ngân hàng nơi cho vay, bộ hồ sơ cho vay phải được lưu giữ cẩn thận, chu đáo, dễ tìm, có danh mục theo dõi đối với mỗi khách hàng vay vốn và được lưu giữ tại phòng kế toán, phòng tín dụng, đảm bảo an toàn tuyệt đối. Người được giao bảo quản hồ sơ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu để mất, thất lạc hoặc sửa chữa nội dung của hồ sơ. Phòng tín dụng lưu giữ các hồ sơ sau: Hồ sơ kinh tế của khách hàng. Phòng kế toán & ngân quỹ lưu giữ các hồ sơ sau: Ngoài bộ hồ sơ kinh tế của khách hàng do phòng tín dụng lưu giữ, tất cả hồ sơ pháp lý, hồ sơ vay vốn và các loại giấy tờ khác do phòng kế toán lưu giữ. Việc lưu giữ theo danh mục hồ sơ được thực hiện trên máy vi tính. Các giấy tờ đảm bảo tiền vay của khách hàng được lưu giữ tại kho theo chế độ quy định như đối với các giấy tờ có giá. Đối với hồ sơ do phòng kế toán & ngân quỹ lưu giữ, khi cần, cán bộ tín dụng sử dụng bản sao; việc xuất hồ sơ gốc phải được sự đồng ý bằng văn bản của giám đốc NHNo nơi cho vay. 2.1.4.7. Thực hiện các hợp đồng đảm bảo tiền vay NHNo & PTNT chi nhánh huyện Phù Cát thực hiện các quy định, thủ tục, trình tự theo hướng dẫn của quyết định 1300.QĐ – HĐQT – TDHo ngày 03 tháng 12 năm2007 của NHNo & PTNT Việt Nam. 2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Phù Cát trong 3 năm 2008 – 2009 -2010 2.2.1. Công tác huy động vốn Nhìn chung tình hình phát triển kinh tế và xã hội trên địa bàn huyện Phù Cát đã có nhiều tác động tích cực đến hoạt động NH. Trong quá trình phát triển đó, hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, hệ thống NH đã có sự đóng góp vô cùng quan trọng trong việc huy động và cho vay vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Nhận thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NH cho nên NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát đã không ngừng đẩy mạnh công tác huy động vốn với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Hiện nay trên địa bàn huyện có nhiều các NHTM và các TCTD khác hoạt động như: chi nhánh NH đầu tư và phát triển, chi nhánh NH công thương, NH ngoại thương, các quỹ tín dụng nhân dân…, do đó NH đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh để huy động vốn. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo đúng đắn và các giải pháp kịp thời, hợp lý của Ban lãnh đạo NH nên chi nhánh đã đạt được kết quả ấn tượng: Tình hình huy động vốn của chi nhánh luôn tăng qua các năm, năm 2009 tăng 3.042 triệu đồng, tương ứng tăng 2,07% so với năm 2008, và năm 2010 tăng 85.027 triệu đồng, tương ứng tăng 56,8% so với năm 2009, đạt mức BQ tăng trưởng hàng năm là 29,44 % đây là chỉ tiêu tốt vì kết quả huy động càng cao chứng tỏ ngân hàng đã tạo được uy tín tốt trong nền kinh tế, hoạt động có hiệu quả, mang lại nhiều lợi nhuận. Để thấy rõ được điều đó, ta tiến hành xem xét biến động của tổng NV huy động thông qua 2 nguồn nội tệ và ngoại tệ: ( Số liệu ở bảng 2.2.1) Bảng 2.2.1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh qua 3 năm 2008-2009-2010 ĐVT: Triệu đồng Số TT CHỈ TIÊU (cuối năm) 2008 2009 2010 So sánh 2009 so với 2008 2010 so với 2009 A Tổng NV huy động 146.645 149.687 234.714 2,07% 56,8% I Nội tệ 144.938 148.160 232.594 2,22% 56,99% Phân theo loại TG 144.938 148.160 232.594 2,22% 56,99% 1 TG thanh toán 15.345 13.700 22.962 (10.72%) 67.61% 2 TG của kho bạc 20.608 0 0 (100%) 3 TG của các TCTD 1.350 1.500 520 11.11% (65.33%) 4 Tiết kiệm dân cư 102.430 130.160 206.043 27,07% 58.3% 5 TG khác 5.205 2.800 3.069 (46,21%) 9,61% Phân theo kỳ hạn 144.938 148.160 232.594 2,22% 56,99% 1 TG không kỳ hạn 44.957 18.894 31.396 (57,97%) 66,17% 2 TG có kỳ hạn < 12 tháng 67.402 88.653 156.283 31,53% 76,29% 3 TG có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên 32.579 40.613 44.915 24,66% 10,59% II Ngoại tệ quy đổi VNĐ 1.707 1.527 2.120 (10,54%) 38,83% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008-2009-2010) Nguồn nội tệ: Hầu hết khách hàng đều thích gửi tiền bằng nội tệ để tránh sự biến động sức mua, vì sức mua đồng nội tệ thường ổn định hơn đồng ngoại tệ. Do đó, nguồn huy động bằng nội tệ luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh. Biểu đồ 2.2.1: so sánh kết quả huy động nội tệ, ngoại tệ với tổng NV huy động trong 3 năm 2008-2009-2010 Năm 2008, NV huy động bằng nội tệ đạt 144.938 triệu đồng, chiếm 98,84% so với tổng NV huy động. Năm 2009, mức huy động đạt 148.160 triệu đồng, chiếm 98.98% so với tổng NV huy động, năm 2009 huy động tăng hơn so với năm 2008 là 3.222 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng trưởng là 2,22%. Năm 2010, mức huy động đạt 232.594 triệu đồng, chiếm 99,1% so với tổng NV huy động, năm 2010 huy động tăng hơn so với năm 2009 là 84.434 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng trưởng là 56,99%. Vốn huy động qua các năm có xu hướng tăng có nguyên nhân chủ yếu là do NH thực hiện tốt các công tác tuyên truyền, marketing, hướng dẫn cụ thể cho KH, cho họ thấy được lợi ích của họ đạt được khi tham gia các giao dịch, sản phẩm tiền gửi tại NH như: tạo sự an tâm khi gửi tiền, rút gốc, lãi linh hoạt, tiết kiệm dự thưởng. Hơn nữa với sự quan tâm của ban lãnh đạo về chuyên môn năng lực, chất lượng của đội ngũ CNV nên thường xuyên cho nhân viên đi học nghiệp vụ, nhanh chóng tiếp cận các sản phẩm mới, công nghệ mới để nhân viên có đầy đủ kiến thức phục vụ KH tốt hơn, mang lại hiệu quả cao cho NH. Nguồn ngoại tệ: Hoạt động ngoại tệ tại địa bàn huyện Phù Cát trong những năm gần đây trở nên nhộn nhịp và có nhiều diễn biến. Theo điều tra, ngoại tệ trên thị trường tự do tập trung chủ yếu vào các đối tượng sau: Những người tham gia buôn bán tại các cửa khẩu biên giới Những người có tiềm lực kinh tế mạnh nhưng không đưa vào đầu tư Những người có thân nhân nước ngoài Những người có thu nhập cao dự trữ ngoại tệ thay vì dự trữ vàng như trước Số lượng ngoại tệ lưu thông trên thị trường tự do là chủ yếu, còn qua NH là rất ít chủ yếu là nguồn tiền gửi từ những người lao động xuất khẩu, thân nhân ở nước ngoài gửi về. Trong những năm qua công tác huy động bằng ngoại tệ của chi nhánh đã đạt được một số kết quả nhất định. Thông qua biểu đồ 2.2.1, ta thấy số dư tiền gửi ngoại tệ (quy đổi sang VNĐ) chiếm tỷ trọng rất thấp so với tổng NV huy động của NH, cụ thể: trong năm 2008 số dư tiền gửi ngoại tệ đạt được 1.707 triệu đồng, chiếm 1,16% trong tổng NV huy động. Năm 2009, huy động được 1.527 triệu đồng, chiếm 1,02% so với tổng NV huy động, năm 2009 huy động giảm hơn so với năm 2008 là 180 triệu đồng, tương ứng giảm 10,54%. Năm 2010, huy động được 2.120 triệu đồng, chiếm 0,9% so với tổng NV huy động, năm 2010 huy động tăng hơn so với năm 2009 là 593 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng trưởng là 38,83%. Để thấy rõ hơn nữa sự biến động của NV huy động nội tệ ta tiến hành phân tích cụ thể theo từng loại tiền gửi và theo kỳ hạn của tiền gửi: Theo loại tiền gửi: Hiện tại ở chi nhánh có các loại TG: TG thanh toán, TG của kho bạc NN, TG của các TCTD, tiết kiệm dân cư, TG khác. Sự biến động của mỗi loại TG sẽ tác động trực tiếp đến biến động của NV. Trong tất cả các loại TG tại chi nhánh NHNo&PTNT Phù Cát thì chủ yếu huy động từ nguồn TG tiết kiệm dân cư. Ưu điểm của nó là có nhiều sản phẩm để khách hàng tự do lựa chọn theo sở thích và nhu cầu của mình. Năm 2008, TG tiết kiệm dân cư đạt 102.430 triệu đồng, chiếm tỷ trọng cao nhất đứng đầu về các loại TG, chiếm tới 70,67%. Sang năm 2009 vẫn duy trì ở vị trí này và đạt 130.160 triệu đồng, tăng so với năm 2008 là 27.730 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 27,07%. Năm 2010 huy động được 206.043 triệu đồng, tăng so với năm 2008 là 75.883 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 58,3%. Sau TG tiết kiệm dân cư phải kể đến là TG thanh toán, năm 2008 đạt 15.345 triệu đồng, chiếm 10,59%, sang năm 2009 đạt 13.700 triệu đồng, tuy có sự giảm sút so với năm 2008 nhưng vẫn là nguồn chiếm tỷ trọng cao thứ hai trong tổng NV huy động, qua năm 2010 đạt được 22.962 triệu đồng, tăng 9.262 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng 67,6%. Như vậy, TG tiết kiệm dân cư và TG thanh toán là 2 bộ phận chính cấu thành nên NV huy động của chi nhánh. Tuy nhiên, từ năm 2009, tiền gửi của kho bạc không còn nữa vì kho bạc Phù Cát không còn quan hệ với NH nữa. Năm 2008 tiền gửi kho bạc đạt 20.608 triệu đồng chiếm 14,22% so với tổng NV huy động bằng nội tệ, sang 2009 và 2010 không còn số dư tiền gửi kho bạc. Vì kho bạc đã chuyển sang giao dịch tại NH đầu tư theo chỉ đạo của kho bạc tỉnh Bình Định. Các loại TG khác như: TG vốn chuyên dùng (TG bảo hiểm xã hội), tiền ký quỹ, kỳ phiếu ngắn hạn, chứng chỉ TG, trái phiếu ngân hàng…năm 2008 huy động được 5.205 triệu đồng, chiếm 3,6%. Năm 2009, huy động được 2.800 triệu đồng, giảm 2.405 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ giảm 46,21%. Sang năm 2010, huy động được 3.069 triệu đồng, tăng 269 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 9,61%. Việc xem xét NV huy động của chi nhánh theo loại TG giúp chúng ta thấy được tỷ trọng và vai trò của mỗi loại trong tổng NV huy động, từ đó đưa ra những biện pháp để phát huy khả năng khai thác vốn trong nền kinh tế đối với từng loại cụ thể. Theo kỳ hạn huy động Theo bảng số liệu 2.2.1 thì TG không kỳ hạn có xu hướng giảm, năm 2008 số dư TG không kỳ hạn là 44.957 triệu đồng, chiếm 31,01%, sang năm 2009 giảm xuống còn 18.894 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ giảm 57,97%. Sang năm 2010 đạt 31.396 triệu đồng tuy có tăng hơn năm 2009 là 12.502 triệu đồng nhưng vẫn thấp hơn năm 2008 bởi vì nguồn TG từ kho bạc trong năm 2009 và 2010 không còn nữa. Đây là nguồn có lãi suất thấp, ưu điểm của nó là NH có thể hạ lãi suất đầu vào để bù đắp chi phí kinh doanh nhưng nhược điểm của nó là NH không chủ động được trong cho vay và thường xuyên chi trả theo yêu cầu mọi lúc của khách hàng. Dựa vào bảng số liệu 2.2.1 ta có thể vẽ được biểu đồ sau: Biểu đồ 2.2.2: so sánh TG không kỳ hạn, TG có kỳ hạn với tổng TG bằng nội tệ trong 3 năm: 2008-2009-2010 Từ biểu đồ 2.2.2 này ta có thể thấy được TG có kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất cao. Trong đó, sản phẩm TG có kỳ hạn dưới 12 tháng được ưa chuộng nhất nên nguồn vốn huy động từ sản phẩm này chiếm tỷ trọng cao vì trong những năm qua lãi suất thị trường luôn luôn biến động nên khách hàng thích gửi kỳ hạn ngắn để có thể linh hoạt tính toán khi lãi suất thay đổi sao cho lợi nhuận nhận được là cao nhất. Năm 2008, TG có kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 67.402 triệu đồng, chiếm 64,46% trong tổng số TG có kỳ hạn của chi nhánh. Năm 2009 đạt 88.653 triệu đồng, chiếm 68,58%, tăng 21.251 triệu đồng so với năm 2008, tương ứng với tỷ lệ tăng là 31,53%. Năm 2010 đạt 156.283 triệu đồng, chiếm 77,69%, tăng 67.630 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 76,29%. Tiếp đến là TG có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, nó cũng luôn tăng trưởng qua các năm. 2.2.2. Tình hình sử dụng vốn Do đặc thù của huyện còn nghèo chưa có những công ty xuất nhập khẩu hoạt động với qui mô lớn nên NHNo&PTNT chi nhánh huyện Phù Cát không có hoạt động tín dụng xuất khẩu và đầu tư chứng khoán mà chỉ tập trung vào tín dụng đầu tư sản xuất, tín dụng tiêu dùng. Bảng 2.2.2: Dư nợ cho vay của NHNo&PTNT chi nhánh Phù Cát năm 2008-2009-2010 ĐVT: Triệu đồng STT CHỈ TIÊU Số dư cuối năm So sánh 2008 2009 2010 2009 so với 2008 2010 so với 2009 A Tổng dư nợ cho vay 216.071 258.069 297.211 19,44% 15,17% Theo thời hạn tín dụng 216.071 258.069 297.211 19,44% 15,17% 1 Ngắn hạn 146.098 184.184 218.669 26,07% 18,72% 2 Trung, dài hạn 69.973 73.885 78.542 5,6% 6,3% Theo thành phần kinh tế 216.071 258.069 297.211 19,44% 15,17% 1 DNTN 16.109 27.922 30.069 73,33% 7,69% 2 Cty cổ phần, Cty TNHH 10.528 14.250 27.267 35,35% 91,35% 3 HTX 8.744 5.886 4.480 (32,69%) (23,89%) 4 Hộ sản xuất, cá nhân 180.690 210.011 235.395 16,23% 12,09% Theo hình thức bảo đảm tiền vay 216.071 258.069 297.211 19,44% 15,17% 1 Cho vay không có BĐ bằng TS 71.692 82.206 75.069 14,67% (8,68%) 2 Cho vay có BĐ bằng TS 144.379 175.863 222.142 21,81% 26,32% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008-2009-2010) Nhờ nắm bắt kịp thời và sâu sát tình hình địa bàn nên tổng dư nợ cho vay VNĐ luôn tăng qua các năm. Năm 2008 đạt 216.071 triệu đồng, năm 2009 đạt 258.069 triệu đồng, tăng 41.998 triệu đồng so với năm 2008, và năm 2010 đạt 297.211 triệu đồng, tăng 39.142 triệu đồng so với năm 2009, đạt mức BQ tăng trưởng hàng năm là 17,31% đây là chỉ tiêu tốt vì dư nợ càng nhiều chứng tỏ ngân hàng hoạt động có hiệu quả mang lại nhiều lợi nhuận. Dư nợ tăng do các yếu tố sau: Nhiều khách hàng muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh như các công ty TNHH, DNTN, các hộ sản xuất kinh doanh, vay vốn để mua hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường, bên cạnh đó chi phí sản xuất kinh doanh tăng đáng kể nên đã xin NH nâng HMTD, do đó đã làm cho tổng dư nợ của NH tăng lên. Trình độ ứng dụng tin học trong NH đã được nâng cao, điều kiện làm việc của nhân viên thuận lợi nên đã làm tăng năng suất của nhân viên. Để thấy rõ sự biến động của dư nợ cho vay ta tiến hành phân tích các chỉ tiêu sau: Phân theo thời hạn tín dụng. Biểu đồ 2.2.3: so sánh dư nợ ngắn hạn, trung, dài hạn với tổng dư nợ của chi nhánh trong 3 năm 2008-2009-2010 Từ biểu đồ 2.2.3 ta thấy dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay. Năm 2008, dư nợ ngắn hạn đạt 146.098 triệu đồng, chiếm 67,62%. Năm 2009, dư nợ đạt 184.184 triệu đồng, chiếm 71,37% và năm 2010 đạt 218.669 triệu đồng, chiếm 73,57% so với tổng dư nợ cho vay. Khối lượng tiền cho vay ngắn hạn liên tục tăng qua các năm từ 2008 đến 2010 cho thấy việc sử dụng vốn rất hiệu quả, và theo dự báo của ngân hàng thì lãi suất cho vay có xu hướng tăng, món vay ngắn hạn được điều chỉnh lãi suất ngay trong khi món vay trung hạn được điều chỉnh lãi theo định kỳ 03 tháng 01 lần. Dư nợ trung, dài hạn tăng nhẹ qua ba năm. Năm 2008 đạt 69.973 triệu đồng, chiếm 32,38%, năm 2009 đạt 73.885 triệu đồng, tăng 5,59%. Năm 2010 đạt 78.542 triệu đồng, tăng 6,3% so với năm 2009. Phân theo thành phần kinh tế Hiện tại, trên địa bàn huyện Phù Cát chưa có DNNN nên tín dụng phân chia theo thành phần kinh tế chỉ bao gồm: công ty cổ phần, công ty TNHH, HTX, hộ sản xuất và cá nhân. Biểu đồ 2.2.4: So sánh dư nợ phân theo thành phần kinh tế qua 3 năm 2008-2009-2010 Nhìn vào biểu đồ 2.2.4 ta thấy rất rõ ràng dư nợ đối với hộ sản xuất và cá nhân chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng dư nợ và luôn biến động tăng qua các năm, cụ thể năm 2009 đạt 210.011 triệu đồng, tăng 29.321 triệu đồng so với năm 2008, tương ứng với tỷ lệ tăng 16,23%. Năm 2010 đạt 235.395 triệu đồng, tăng 25.384 triệu đồng so với năm 2009, tương ứng với tỷ lệ tăng 12,09%. Nguyên nhân của việc dư nợ hộ sản xuất chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng là nhờ áp dụng rộng rãi thông tư 05.2005.TTLT-BTP-BTNMT ngày 16.06.2005 “Hướng dẫn thực hiện việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất” của Bộ Tư pháp-Bộ Tài nguyên Môi trường đã tạo điều kiện cho NH mở rộng tín dụng bằng hình thức bảo đảm tiền vay. Hơn nữa đặc thù nền kinh tế nước ta nói chung và địa bàn huyện nói riêng là sản xuất nông nghiệp nên quan hệ với NH đa số là nông dân và các hộ kinh doanh cá thể. Do đó đã làm cho doanh số cho vay đối với thành phần kinh tế này cao nhất. Tiếp đến là dư nợ đối với DNTN, công ty TNHH và hợp tác xã. Phân theo hình thức bảo đảm tiền vay. Theo cách phân chia này thì cho vay không có TS đảm bảo và cho vay có TS đảm bảo. Trong đó, cho vay có TS đảm bảo chiếm tỷ trọng cao nhất. Năm 2008 đạt 144.379 triệu đồng, chiếm 66,82%. Năm 2009 đạt 175.863 triệu đồng, tăng 31.484 triệu đồng so với năm 2008, tương ứng với tỷ lệ tăng 21,81%. Năm 2010 đạt 222.142 triệu đồng, tăng 46.279 triệu đồng so với năm 2010, tương ứng với tỷ lệ tăng 26,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhung giai phap nham gop phan han che rui ro tin dung tai NHNo&PTNT CN huyen Phu Cat - Tinh Binh .doc