Tài liệu Khóa luận Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay: LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cô giáo trong khoa Lý luận chính trị, và toàn thể các thầy cô giáo trong trường Đại học khoa học đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho em trong thời gian học tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Cảnh Chắt - người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài khóa luận.
Xin gửi lời cảm ơn đến các thành viên trong lớp Triết K31 đã chia sẽ và góp ý kiến cho tôi trong suốt thời gian qua.
Huế, tháng 5 năm 2011
Sinh viên : Trần Thị Thùy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 3
5. Đóng góp của đề tài 4
6. Kết cấu của đề tài 4
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM NGŨ THƯỜNG TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO 5
1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Nho giáo 5
1.1.1. Sự r...
69 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cô giáo trong khoa Lý luận chính trị, và toàn thể các thầy cô giáo trong trường Đại học khoa học đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho em trong thời gian học tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Cảnh Chắt - người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài khóa luận.
Xin gửi lời cảm ơn đến các thành viên trong lớp Triết K31 đã chia sẽ và góp ý kiến cho tôi trong suốt thời gian qua.
Huế, tháng 5 năm 2011
Sinh viên : Trần Thị Thùy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 3
5. Đóng góp của đề tài 4
6. Kết cấu của đề tài 4
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM NGŨ THƯỜNG TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO 5
1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Nho giáo 5
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo ở Trung Quốc 5
1.1.2. Qúa trình du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam 7
1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo về Ngũ thường 8
1.2.1. Tư tưởng về đức Nhân 9
1.2.2. Tư tưởng về đức Lễ 15
1.2.3. Tư tưởng về đức Nghĩa 21
1.2.4. Tư tưởng về đức Trí 23
1.2.5. Tư tưởng về đức Tín 25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY 30
2.1. Quan niệm về gia đình văn hóa 30
2.1.1. Quan niệm về văn hóa và gia đình 30
2.1.2. Quan niệm về gia đình văn hóa 33
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 34
2.2.1. Xây dựng đạo đức gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay .37
2.2.2. Xây dựng nếp sống gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay 41
2.2.3. Giáo dục gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay 49
2.3. Các giải pháp nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 54
2.3.1. Thiết lập quan hệ bình đẳng nam - nữ trong gia đình gắn liền với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế 54
2.3.2. Phát triển kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và nâng cao dân trí gắn liền với việc xây dựng gia đình văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình ở Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay. .56
2.3.3. Xác lập tình yêu đúng đắn trong quan hệ vợ chồng để xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ, hạnh phúc. 59
2.3.4. Xây dựng gia đình văn hóa gắn liền với việc tăng cường giáo dục ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm của các thành viên đối với gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay. 60
KẾT LUẬN 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng như tái sản xuất con người, sức lao động, của cải vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình và của toàn thể cộng đồng xã hội. Đặc biệt là gia đình có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế, cũng như giữ gìn, phát huy, truyền thụ những giá trị văn hóa tinh thần từ đời này sang đời khác, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc một cách bền vững.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân con người là một thành viên của gia đình, sinh ra và trưởng thành trong một gia đình. Sự tồn tại và phát triển của gia đình được phản ánh bằng sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy, có thể xem gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội.
Nho giáo cho rằng, gia đình là cái nước nhỏ có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Những hành vi ứng xử, giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình đều được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận của mỗi người. Theo Nho giáo mọi thành viên trong xã hội đều bị trói buộc bởi Ngũ thường gồm Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Ngũ thường quy định hành vi ứng xử của con người nó phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong gia đình, Nho giáo rất coi trọng việc ứng xử đúng theo Ngũ luân tức là năm mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè. Bởi, chỉ có thực hiện đúng Ngũ luân thì con người mới trở thành con người xã hội. Đồng thời, theo tư tưởng Ngũ thường thì nước cũng chỉ là căn nhà to, căn nhà nhỏ - gia đình hòa thuận thì căn nhà to cũng hòa thuận.
Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã làm cho các thành viên trong gia đình ứng xử với nhau theo trật tự luân thường, đạo lý góp phần làm cho gia đình có văn hóa, phù hợp với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế, một mặt phải phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời phải kế thừa những điểm tích cực trong tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo. Bởi, ở Thừa Thiên Huế, nơi đây đã từng là thủ phủ của vương triều nhà Nguyễn, là nơi tồn tại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Học thuyết chính trị tư tưởng tiến bộ đều được giai cấp thống trị đưa lên vị trí độc tôn trong nền tảng đời sống tinh thần. Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa gia đình con người xứ Huế. Mục tiêu cuối cùng là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, để Thừa Thiên Huế mãi xứng đáng là di sản văn hóa thế giới trong thời kỳ hội nhập.
Vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài: "Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay" để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân triết học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nho giáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học, của nhiều ngành, nhiều giới. Từ trước đến nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo ở nước ta. Trong đó có: Nho giáo của Trần Trọng Kim, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, Viện KHXHNV, Hà Nội, 1994; Đạo Nho và văn hóa phương Đông của Hà Thúc Minh, Nxb Giáo dục, 2001; Mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong học thuyết Khổng Tử của Nguyễn Thị Thanh Hải, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKH Huế, 2004; Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính danh trong tác phẩm Luận ngữ của Khổng Tử và vận dụng giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thanh Bình, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKH Huế, 2005...
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết trên các tạp chí, các báo đã đề cập đến vấn đề này. Nhưng nhìn chung, các đề tài nghiên cứu ấy đã nghiên cứu một cách tổng quát nhất sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với các lĩnh vực của xã hội Việt Nam. Việc nghiên cứu tư tưởng Ngũ thường trong triết học Nho với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay đang nằm trong hệ thống chung chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể. Trên cơ sở tiếp thu và hệ thống hóa kiến thức, những quan điểm khoa học của những người đi trước dưới góc độ triết học Mác - Lênin tôi sẽ nghiên cứu rõ hơn về Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Chỉ ra những dấu ấn mà tư tưởng Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay, đồng thời cũng làm rõ nét khác biệt nổi bật trong văn hóa gia đình ở Thừa Thiên Huế khác với các vùng trong cả nước. Từ đó, nghiên cứu thực trạng và có những giải pháp cụ thể nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Tư tưởng Ngũ thường trong lịch sử tư tưởng triết học Nho giáo ở Trung Quốc và trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Những biểu hiện của tư tưởng Ngũ thường và thực trạng của việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài
Đứng trên quan điểm của phép biện chứng duy vật trong quá trình nghiên cứu đề tài như: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgíc và lịch sử...
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã nêu lên một cách có hệ thống, khoa học về tư tưởng Ngũ thường trong triết học Nho giáo. Đồng thời, làm rõ quan niệm về gia đình văn hóa trong cả nước. Mặt khác, đề tài còn làm rõ thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay. Tuy vậy, phạm vi nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp này, do khả năng còn hạn chế, tác giả lại sống ở Huế chưa lâu nên việc nghiên cứu còn chưa thực sự đầy đủ và hoàn chỉnh. Do vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu về sau.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, bố cục của đề tài gồm có hai chương, chương 1 có 2 tiết, chương 2 có 3 tiết và Danh mục tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM NGŨ THƯỜNG TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO
1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Nho giáo
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo ở Trung Quốc
Nho giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm ở Trung Hoa cổ đại, gắn liền với tên tuổi người sáng lập là Khổng Tử. Ông sinh năm 551TCN, ở nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi còn nhỏ, tuy gia cảnh nghèo khó nhưng ông vẫn có điều kiện học sớm và rất ham học. Ở thời đại Khổng Tử thì chế độ tông pháp nhà Chu đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Khổng Tử muốn đem tài sức mình ra giúp vua, với hy vọng lập lại trật tự lễ, nghĩa của nhà Chu và cải thiện cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Nhưng không được vua nước Lỗ trọng dụng, ông chu du đến các nước chư hầu với mong muốn được mang lý tưởng cải tạo xã hội ra giúp nước, trị dân, cứu đời nhưng không thành. Cuối đời Ông san định Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và biên soạn cuốn Xuân Thu. Đến năm 479 TCN Khổng Tử qua đời.
Trong cuộc đời dạy học của mình, những lời dạy của thầy đã được các học trò ghi lại và tập hợp lại thành bộ "Luận Ngữ". Về sau Tăng Sâm đã viết nên cuốn Đại học, học trò của Tăng Sâm là Khổng Cấp đã viết nên cuốn Trung dung.
Sang thời Chiến quốc, Mạnh Tử đã ra sức bảo vệ Nho giáo, thường xuyên tỏ thái độ tôn sùng vương đạo, khinh bỉ bá đạo, tôn sùng nhân, nghĩa, khinh bỉ thói mưu lợi. Từ những đòi hỏi của thực trạng xã hội lúc bấy giờ, Mạnh Tử đã đề cập đến nhiều vấn đề cụ thể của đời sống chính trị và kinh tế nhiều hơn thầy Khổng Tử. Mạnh Tử đã tập hợp và ghi lại những cuộc biện luận của mình thành tập gọi là "bảy thiên" Mạnh Tử. Mạnh Tử cùng với Luận ngữ, Đại học và Trung dung tập hợp thành bộ Tứ thư và cùng với Ngũ kinh đã trở thành tài liệu chính thức của Nho giáo.
Thời Đông Chu kéo dài trong cảnh rối ren, loạn lạc, trước tình hình này đẩy toàn bộ triều đại nhà Chu và hình thái kinh tế xã hội của nó đến chỗ kết thúc. Thực trạng này đòi hỏi Nho giáo muốn tồn tại và phát triển được thì phải vượt qua khủng hoảng.
Thực tế đạo lý Nho giáo không thể chấm dứt được tình trạng loạn lạc. Từ quyền lợi của giới kinh doanh, Tần Doanh Chính đã thống nhất Trung Hoa và xưng hoàng đế. Nho giáo, đạo lý làm vũ khí tinh thần bảo vệ nề nếp thể chế nhà Chu cũng phải chịu sự phán quyết của thế lực đang lên. Tần Doanh Chính đã ra chủ trương đốt sách, chôn nho sĩ "phần thư khanh nho" đã làm cho Nho giáo phải lao đao khốn đốn. Với những chính sách tàn bạo của nhà Tần đã gặp phải sự lên án và buộc tội của nhiều người, nhất là những thế lực đại biểu cho xu thế mới của xã hội. Lưu Bang đã giành thắng lợi, triều đại nhà Hán bắt đầu. Từ đây Nho giáo bắt đầu dần dần lấy lại ưu thế của mình và trở thành vũ khí tinh thần của nhà Hán.
Triều đại nhà Hán nổi lên một nhân vật quan trọng đó là Đổng Trọng Thư. Ông đã bổ sung vào học thuyết Khổng - Mạnh phần nói về trời đất, quỷ thần, âm dương, ngũ hành mà Khổng Tử, Mạnh Tử cố né tránh hoặc nói sơ qua. Đồng thời hệ thống hóa học thuyết này một cách tương đối hoàn chỉnh, vừa làm cho quân quyền và thần quyền quyện chặt vào nhau.
Từ thế kỷ XVI trở đi triều đại nhà Minh, triều đại nhà Thanh gắn với sự tiếp xúc văn hóa phương Tây đã đặt ra những vấn đề không thể giải quyết được dưới ánh sáng của đạo Nho. Cùng với sự trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa Đông Tây, các triết lý của các nhà tư tưởng dân chủ ..., thực tế cuộc sống đã làm nảy sinh trong đầu óc nhà Nho những nỗi băn khoăn khó quyết định. Đến cuối triều đại nhà Thanh một số nhân vật tiêu biểu đã hấp thụ được nhiều tư tưởng mới ở Tây Âu về "tự do", "bình đẳng", "dân chủ". Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu cũng muốn xây dựng và phát triển Trung Quốc theo hướng công nghiệp và chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật, nhưng cuối cùng họ đi đến "cải lương" và "duy tâm" dưới ngọn cờ của Hoàng đế triều Thanh. Mãi cho đến 1911 cách mạng Tân Hợi đã giành thắng lợi, Trung Quốc mới bắt đầu từ vũng bùn phong kiến dần dần bức lên. Đến đây lịch sử Nho giáo gắn liền với các triều đại phong kiến Trung Quốc cơ bản đã kết thúc, song những ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
1.1.2. Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam
Lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc kéo dài hơn 2500 năm thì ở Việt Nam, Nho giáo cũng đã có lịch sử hàng ngàn năm. Trong suốt một ngàn năm đô hộ nước ta, các thế lực phương Bắc đã dùng Nho giáo làm công cụ đồng hóa dân tộc ta. Không chịu sự đồng hóa, dân tộc ta đứng lên chống lại ách đô hộ và tư tưởng Nho giáo để xây dựng xã hội phong kiến bảo vệ lợi ích của các triều đại. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo đã không thể bám rễ được vào mảnh đất Việt Nam. Nhưng nó lại được tiếp thu sau khi dân tộc ta giành được độc lập từ thế kỷ thứ X.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX, Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Việt Nam và góp phần không nhỏ trong việc tạo thành diện mạo của dân tộc. Trong việc xây dựng xã hội phong kiến, các triều đại phong kiến Việt Nam đã giành cho Nho giáo địa vị ngày một quan trọng hơn trong hệ tư tưởng. Từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, Nho giáo được giữ địa vị độc tôn. Nho giáo thời kỳ đầu có những yếu tố tích cực như tư tưởng đại đồng, hiếu với cha mẹ..., bên cạnh đó, nó cũng có những yếu tố tiêu cực như tư tưởng trọng nam khinh nữ, tính gia trưởng. Một mặt, Nho giáo đã phát huy được những yếu tố tích cực góp phần tạo nên những thời kỳ thịnh trị của xã hội phong kiến và tạo ra những nhà giáo dục, nhà chính trị, nhân hóa tài năng, đức độ như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn..., mặt khác Nho giáo cũng bị các thế lực phản động lợi dụng mặt hạn chế làm vũ khí tư tưởng chống lại dân tộc, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Ngọn cờ của anh em nhà Tây Sơn đã tạo nên một xu thế tập hợp mới. Tuy vậy vẫn chưa vượt ra khỏi hình thái kinh tế xã hội phong kiến. Sau khi đánh tan quân Mãn Thanh và bè lũ tay sai của nó. Nguyễn Huệ đã tỏ rõ quyết tâm nhất quán đi tới những sự đổi mới về tổ chức, chính trị, quân sự và một số chính sách về ruộng đất, chủ trương dùng chữ Nôm chính thức. Nhưng sự thay đổi mới chưa hoàn thành thì Nguyễn Huệ qua đời.
Nguyễn Ánh đã đi theo vết xe đổ của Lê Chiêu Thống "rước voi" về giày xéo đất nước. Triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng giặc, đổi đất nước để lấy ngai vàng. Triều Nguyễn cần đến lễ giáo Nho giáo với mục đích giữ lấy địa vị của mình. Các vua triều Nguyễn đã triệt để lợi dụng và khai thác Nho giáo về các giá trị đạo đức như Tam cương, Ngũ thường..., nhằm tăng cường sự ràng buộc của vua đối với bề tôi, của cha anh đối với con em, của bề trên đối với bề dưới.
Sự pha trộn của các nền văn hóa, các tôn giáo và các dòng tư tưởng ở phương Đông và phương Tây trong xã hội Việt Nam đang đẩy sự suy tàn của xã hội phong kiến thêm nhanh chóng. Nếu như trước đây, Nho giao chỉ chấp nhận đạo lý của Phật giáo và Lão giáo thì giờ đây Nho giáo phải thừa nhận với cả đạo Thiên chúa giáo nữa. Trải qua các triều đại phong kiến, chưa bao giờ Nho giáo lại thể hiện sự phản động như triều đại nhà Nguyễn.
Trên đất nước ta, Nho giáo đã có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều giai đoạn với những bước thăng trầm khác nhau và không có một trường phái nào nổi bật cả. Các danh Nho Việt Nam không có sự sáng tạo gì đóng góp vào học thuyết mà chỉ thể hiện rõ khí chí, bản lĩnh, tiết tháo của mình trước những sự việc bất bình của xã hội. Ngày nay chúng ta phê phán Nho giáo dựa trên lập trường triết học Mác - Lênin. Từ đó kế thừa và phát huy những nhân tố tích cực của nó để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước.
1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo về Ngũ thường
Trong học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, con người bị ràng buộc, chi phối bởi vô vàn những mối quan hệ chồng chéo, đan xen hết sức phức tạp. Ứng với các mối quan hệ ấy, Nho giáo đã đưa ra những quy phạm, những chuẩn mực đạo đức ràng buộc, cột chặt con người vào trong những mối quan hệ, định rõ trách nhiệm của các thành viên trong gia đình và ngoài xã hội. Những quy phạm, những chuẩn mực đạo đức đó gộp thành "đạo làm người". Theo Nho giáo thì đạo làm người thông thường có năm bậc, nó phản ánh năm mối quan hệ cơ bản của xã hội loài người. Đó là các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Để có thể xử lý tốt năm mối quan hệ đó Khổng Tử đề ra ba đức lớn: Nhân, Trí, Dũng. Mạnh Tử bỏ Dũng bổ sung thêm Nghĩa và Lễ thành Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, gọi là tứ đoan (Bốn đầu mối) biểu hiện bản tính thiện của con người. Về sau Đổng Trọng Thư lại bổ sung thêm chữ Tín, thành: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí ,Tín được gọi là Ngũ thường. Kết hợp Ngũ luân với Ngũ thường tạo thành đạo luân thường, còn nếu kết hợp Tam cương với Ngũ thường thì trở thành đạo cương thường.
Với phạm vi nghiên cứu của đề tài khóa luận này, tác giả chỉ trình bày những tư tưởng cơ bản của Nho giáo về Ngũ thường có ảnh hưởng đến quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
1.2.1. Tư tưởng về đức Nhân
Nhân là phạm trù "hạt nhân” trong học thuyết của Nho giáo, được xem là tư tưởng xuyên suốt của trường phái này. Mặc dù vậy, khi Nho giáo quan niệm về Nhân thì có nhiều cách quan niệm khác nhau, song chúng ta cũng có thể hiểu Nhân với nghĩa như sau.
Trong triết học Trung quốc có hai chữ Nhân, nhân nghĩa là người, con người và nhân nghĩa là nhân ái, nhân đức là bản tính của con người. Cũng trong triết học Trung quốc nhân bao gồm chữ nhân đứng kết hợp với chữ nhị có nghĩa là đạo làm người. Như vậy, nhân theo nghĩa hẹp là một phẩm chất đạo đức cụ thể, cơ bản và nền tảng của con người. Theo nghĩa rộng, Nhân bao gồm mọi đức của con người như lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu, trung..., đây là những phẩm chất có ý nghĩa bao trùm lên mọi đức tính. Nhân là đạo làm người, là cách cư xử của mình đối với người, là yêu người, là bác ái. Nhân là quy phạm nguyên tắc đạo đức chủ yếu nhất có tính phổ biến nhằm chi phối ràng buộc con người trong việc tu dưỡng hoàn thiện đạo đức của mình và ràng buộc mọi hành vi ứng xử trong các quan hệ xã hội giữa người với người, giữa người với mọi giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Nhân còn là phạm trù đạo đức mang tính chất chính trị là công cụ chính trị và nhằm mục đích chính trị.
Nhân được biểu hiện qua những việc làm cụ thể của con người như cung kính với bề trên, nhân nhượng với người dưới, trung thực với người, quan trọng hơn cả là lòng yêu thương con người. Nếu làm trái với những điều đó thì đều là làm trái với đức Nhân. Qua đó để khẳng định Nhân là đạo đức của con người, là hành vi ứng xử, là cách đối nhân xử thế giữa người với người. Nhân vừa bao la vô cùng nhưng Nhân cũng rất gần gũi với mọi người, Nhân gắn liền với bản chất tự nhiên của con người. Nếu hiểu theo tinh thần của Nho giáo thì nó là tinh thần chính trị, của đạo đức con người, là tinh thần của "Lễ", "Nhạc". Cho nên sách Nho định nghĩa: "Nhân là người và yêu người. Yêu người bắt đầu từ mình đến người gắn với mình cho đến quốc gia, xã hội, đây là tình, là hiếu, là trung, là nhân ái" [15, 22 ]. Nếu Nhân chỉ là yêu người thôi thì hoàn toàn chưa đủ, mà Nhân còn là yêu người một cách vô tư không gượng ép, đó là bản tính vốn có của con người. Từ Nhân mới nảy sinh ra các đức khác, Nhân là gốc để sinh ra Hiếu, Lễ, Trí, Tín... Ngược lại các đức ấy lại hội tụ ở Nhân. Như vậy Nhân là phạm trù bao quát và toàn diện nhất.
Trong lịch sử Nho học, phạm trù Nhân không phải đến đời Khổng Tử mới có mà quan niệm này đã có từ rất lâu. Sách Kinh Dịch cho rằng: "lập đạo của trời nói rằng âm và dương, lập đạo của đất nói về nhu và cương, lập đạo của người nói về Nhân và Nghĩa” [15, 23 ]. Đến thời Khổng Tử quan niệm về Nhân mang tính chất mới mẻ hơn và sâu sắc hơn. Trong suốt cuộc đời của mình, Khổng Tử luôn mang hoài bão đưa tư tưởng của mình, học thuyết của mình để hướng con người đạt đến điều Nhân, thực hiện đường lối trị nước bằng đạo đức (đức trị) để xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị. Phạm trù Nhân được Khổng Tử đề cao là tư tưởng chủ đạo, trong tác phẩm Luận ngữ, Ông đã nói đến khoảng 105 lần về Nhân. Song, Nhân là gì ? thì Khổng Tử không có một định nghĩa cụ thể nào, đối với mỗi học trò, từng hoàn cảnh, mà Khổng Tử có một cách giải thích khác nhau về Nhân.
Người đầu tiên hỏi Khổng Tử về đức Nhân trong tác phẩm luận ngữ là Phan Trì, có lẽ Khổng Tử đánh giá đây là một học trò kém nhất nên trả lời câu hỏi thế nào là Nhân của Phan Trì, Khổng tử đáp: "Người Nhân làm những việc khó khăn trước, còn hiệu quả lượm được thì về sau, như vậy mới có thể là Nhân được" [20, 199 ]. Rõ ràng theo quan niệm của Khổng Tử Nhân không phải là một cái khuôn định sẵn và chỉ có đến được với cái khuôn đó thì mới là Nhân. Và ở đây Ông cho rằng, với người bình thường thì yêu cầu của Nhân cũng rất bình thường, chỉ là chịu khó làm lụng để đạt kết quả tốt mà thôi. Lần thứ hai, Khổng Tử có cách giải thích về Nhân với Phan Trì, Ông chỉ nói ngắn gọn đó là "ái nhân" có nghĩa là yêu người.
Cũng nói về Nhân, song khi trả lời Nhan Uyên, một trong những học trò được Khổng Tử đánh giá là xuất sắc nhất. Khổng Tử lại giải thích theo cách khác: "Dẹp bỏ tư dục làm theo điều lễ là làm điều Nhân. Một ngày dẹp bỏ được tư dục của mình và làm theo điều Lễ thì trong thiên hạ cũng theo về điều Nhân. Làm điều Nhân là do nơi mình há tại người khác sao” [20, 398]. Qua đó để ta thấy với Khổng Tử đức Nhân chẳng ở đâu xa mà ngay chính trong lòng, trong tâm của mỗi người. Con người muốn đạt được điều Nhân thì dẹp bỏ tất cả tư dục mà làm theo điều Lễ. Bởi theo quan niệm của Nho giáo Khổng Mạnh thì Nhân là ở "đức tâm" người mà không có lòng nhân đức thì làm sao mà thi hành lễ tiết? người mà không có lòng nhân đức làm sao mà dùng âm nhạc? kẻ bất nhân chẳng thể bền chịu với cảnh nghèo túng, chẳng có thể an nhiên lâu dài trong cảnh khoái lạc. Người Nhân thì an vui với lòng của mình, ở cảnh nào cũng ung dung, thảnh thơi, yên ổn. Bậc trí thì biết lợi dụng lòng nhân, tùy thời mà làm cho đức nhân hậu của mình ngày càng gia tăng. Duy có bậc nhân mới biết thương người và ghét người chính đáng mà thôi . Khổng Tử nói: "Mỗi người tùy theo đảng của mình mà phạm lỗi. Cho nên khi quan sát cái lỗi của mỗi người, mình có thể biết người ấy có nhân hay không". "Ta chưa thấy người nào thật tình yêu điều nhân và thật tình ghét điều bất nhân. Người thật yêu điều nhân thì không cho điều gì hơn điều nhân được. Người thật ghét điều bất nhân trong khi làm điều nhân thì không cho điều bất nhân vướng vào mình. Có ai trọn ngày dùng hết sức mình làm điều nhân chăng? Ta chẳng thấy ai đủ sức mà làm điều nhân hoặc cũng có nhưng mắt ta chưa thấy" [5, 4]. "Trò Hồi ba tháng lòng chẳng lìa điều Nhân. Còn các đệ tử khác người thì giữ được một ngày kẻ thì giữ được một tháng là cùng. "Nên tâm trí ở đạo lý, nên giữ gìn đức hạnh, nên làm theo điều Nhân, chơi theo lục nghệ. Đức Nhân có phải ở xa ta chăng? Nếu ta muốn đức Nhân thì đức Nhân ấy đến liền nơi ta vậy". "Người có chí và có Nhân chẳng lẽ vì bảo tồn sinh mạng mà hãm hại đức Nhân, hạng người ấy có khi phải tự mình quyên sinh để giữ tròn đức Nhân vậy". "Kẻ nào miệng nói lời hoa mỹ còn mặt mày thì trau chuốt, hình dáng thì kiểu cách, quần áo thì lòe loẹt thì kẻ ấy hẳn kém lòng Nhân" [5, 4].
Còn Mạnh Tử nói," Có Nhân thì vinh hiển, không Nhân thì nhục nhã. Hiện nay, các bậc vua chúa đều ghét sự nhục nhã nhưng vẫn ăn ở, sống bất Nhân. Như vậy có khác nào mình ghét chỗ ẩm ướt mà cứ ở chỗ thấp". "Người quân tử sở dĩ khác với người thường là biết giữ gìn tâm của mình. Người quân tử dùng đức Nhân để giữ gìn tâm của mình, lấy Lễ để giữ gìn tâm của mình. Có Nhân thì yêu thương người, có Lễ thì kính người. Mình thương người ta thì người ta luôn thương mình, mình kính người ta thì người ta luôn kính mình". "Nhân là nhân tâm nghĩa là con đường chính đại của con người". Mạnh Tử viết," chưa hề có người quý đức Nhân mà lại bỏ bê cha mẹ, bà con mình, chưa hề có người trọng đức Nghĩa mà coi việc vua việc nước nhẹ hơn việc riêng tư của mình. Vậy thì vua nên nói đến Nhân, Nghĩa mà thôi, cần gì phải nói đến lợi". "Học không biết chán đó là Trí, dạy không biết mệt là Nhân vậy". "Mình yêu thương người mà người chẳng thấu đến mình, vậy nên mình tự xét xem mình đã đủ lòng Nhân hay chăng". "Lòng trắc ẩn chính là Nhân vậy".
Lần khác Khổng Tử trả lời Tử Cống về Nhân ông nói: "Người Nhân mình muốn thành lập mà làm cho người được thành lập; mình muốn thông đạt mà làm cho người khác thông đạt. Hay đem lòng của mình làm thí dụ để hiểu biết lòng muốn của con người. Có thể coi đó là phương pháp thực hành Nhân vậy" [20, 212]. Đây cũng có thể xem là một trong những quan niệm mới của Khổng Tử về Nhân. Người Nhân là ta muốn thì cũng cho người muốn, cái gì ta không muốn thì cũng không muốn cho người. Cho nên, Nhân muốn đạt được thì phải thắng được tư dục mà làm theo công lý, theo lẽ phải. Nhưng khi Tử Trương hỏi về đức Nhân, Khổng Tử lại trả lời, phải làm được năm đức trong thiên hạ thì được gọi là Nhân. Tử Trương không biết năm đức tốt mà Khổng Tử đề cập đến là đức gì, nên hỏi tiếp: "Xin hỏi về năm đức ấy?", Khổng Tử nói đó là Cung, Khoan,Tín, Mẫn, Huệ. Cung - kính thì không bị khinh nhờn. Khoan - hòa thì được lòng mọi người. Tín - trực thì người ta tính nhiệm. Cần - mẫn có công làm ân huệ thì sử dụng được người" [22, 87]. Hoặc như: "Cương trực, nghiêm nghị, chất phác ấy là gần đức Nhân, (Luận ngữ, Tử lộ, 8). Nếu đã làm được năm đức tốt ấy thì đã được tấm lòng tốt, hợp với Lễ thì đó là toàn diện, không kiêu ngạo, làm việc đến nơi đến chốn, sống lại biết lượng thứ khoan dung với người khác.
Khổng Tử còn ví người đức Nhân như nước vậy. "Nước chảy xuống trủng, chảy quanh co như Nghĩa vậy. Nước từ trên cao trăm trượng đổ xuống mà không ngần ngại giống như Dũng vậy. Nước ở lại chỗ cạn thì lưu hành, chỗ sâu thì không lường được giống như Trí vậy. Yếu mờ nhỏ mà ở đâu cũng thấm được giống như sát vậy. Cái gì không sạch vào nước thì cũng sạch, tinh khiết giống như thiên hóa. Nước đứng động, bằng phẳng giống như Chính vậy, nước đầy thì không phải giữ giống như Độ vậy...Nước khi khúc chiết chảy về biển Đông, giống như ý vậy" (Luận ngữ, Tử lộ, 10). Như thế nhân cách theo Khổng Tử là mỗi người phải tự trau dồi cho mình những đức tính tốt đẹp đủ để tỏa ra cho mọi người xung quanh giống như nước vậy.
Nghiên cứu về đức Nhân của Khổng Tử, có thể nhận thấy rằng ông luôn coi Nhân là đức căn bản của con người cả về xử thế lẫn tu thân, là trung tâm để chi phối các chuẩn mực đạo đức khác của con người. Khổng Tử nói: "Nhân vừa là tu thân vừa là Nhân ái. Nhân là trung tâm của đạo đức từ đó mà phát ra các đức khác và các đức khác quy tụ về nó" [25, 193]. Vậy, Khổng Tử cho rằng:" Nhân là lòng thương yêu người. Nhân là tinh thần của Lễ nhạc và chính trị. Khi đánh giá vai trò của Nhân Nho giáo cho rằng đó là đỉnh cao nhất của đạo đức con người. Họ cho rằng," Nhân" với "Thánh" coi như là một, đã có "Thánh" là có "Nhân", đã có "Nhân" là có "Thánh". Trở nên "Thánh" khó bao nhiêu thì thực sự trở thành"Nhân" khó bấy nhiêu.
Trong "Nhân an", là lòng yêu thương người phải tự nhiên không khiên cưỡng. "Nhân" và " an" quan hệ mật thiết với nhau, "an" là ung dung, trúng đạo, đứng ra làm việc gì cũng phù hợp với tính thiện. Bất nhân, tà dâm chỉ nghĩ đến tính cách làm điều ác trái đạo, nên trong lòng không lúc nào yên được. Người mà nói khéo, nịnh hót, sửa nét mặt theo bề ngoài là ít Nhân. Như vậy "Nhân an" là "Thánh nhân chi mĩ"; là niềm vui lớn của người có đức nhân.
Như vậy ta thấy Nhân là yếu tố quan trọng, là cái gốc mở đầu của việc xây dựng đạo đức của một con người. Ai đạt được bậc nhân thì làm gì cũng được lòng người, ích cho đời. Bởi thế, "Người quân tử trong bữa cơm cũng không nên trái điều nhân, vội vàng cũng phải theo nhân, loạn lạc cũng phải giữ Nhân", (Luận ngữ, Lễ nhân, 4). Qua đó chúng ta thấy được quan niệm về Nhân của Nho giáo mang đậm tính nhân văn và có ý nghĩa thiết thực mà con người luôn hướng đến.
Ngoài ra, đức Nhân trong Ngũ thường của Nho giáo cũng là xuất phát điểm của học thuyết đạo đức, chính trị - xã hội. Vì vậy, Nhân có mối quan hệ chặt chẽ mật thiết với các đức khác. Chẳng hạn Nhân với Nghĩa trong đó Nhân thể hiện lòng thương người thì Nghĩa là trách nhiệm thực hiện tình cảm đó. Muốn thực hiện điều Nhân phải có ý chí sắt đá vì vậy đức Nhân có quan hệ biện chứng với Trí, Tín, Dũng... Tuy nhiên đối với người cầm quyền, đức Nhân như một thành trì vững chắc để giữ gìn và bảo vệ những gì họ đạt được.
Tuy nhiên, học thuyết Nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng, chỉ có người quân tử mới có được đức Nhân. Nghĩa là, đạo nhân là đạo của người quân tử, của giai cấp thống trị chứ không có nghĩa bao hàm con người nói chung, bao hàm cả nhân dân lao động (dân). Tư tưởng thương yêu người dân lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, mỗi cá nhân phải toàn tâm, toàn ý vì quyền lợi của tông tộc. Diệp Công nói với Khổng Tử rằng, phe tôi có người thật thà, ngay thẳng cha bắt trộm dê mà con đi báo. Khổng Tử đáp lại với Diệp Công, người thật thà, ngay thẳng phe tôi có khác cha dấu cho con, con dấu cho cha. Sự thật thà ngay thẳng đã bao gồm trong đó rồi. Tư tưởng tôn trọng người hiền tài, quốc gia sử dụng người hiền tài không kể người thân hay người không thân. Nếu thấy người tài giỏi hơn mình thì phải nhường, nếu không nhường tức là ăn cắp địa vị. Theo Khổng Tử, học tập lễ nhạc trước rồi mới làm quan tức là kẻ dã Nhân. Làm quan rồi mới học lễ nhạc mới là người quân tử (con cháu quý tộc). Nếu dùng người thì ta chọn những người học tập lễ nhạc trước.
Tóm lại, trong học thuyết Khổng Tử nói riêng, học thuyết Nho giáo nói chung, Nhân là một phạm trù trung tâm, là đạo đức sáng ngời kết tinh những tinh hoa, chuẩn mực đạo đức của nhân loại. Chính từ mục đích vươn tới đức Nhân nên con người phải tự giác thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức khác trong Ngũ thường nói riêng và trong học thuyết về đạo đức luân lý của Nho giáo nói chung như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng, Hiếu...qua đó thấy được đức Nhân trong tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo.
1.2.2. Tư tưởng về đức Lễ
Lễ là một phạm trù đạo đức, một chuẩn mực đạo đức dùng để chỉ tôn ti trật tự kỷ cương của xã hội mà mọi người, mọi giai cấp trong xã hội phải học, phải làm theo. Lễ cũng là chuẩn mực đạo đức. Nếu nhân là nội dung thì Lễ là hình thức của Nhân.
Trong lịch sử Trung Quốc đã nói khá nhiều về Lễ, nhưng ở đó chỉ mới đề cập đến Lễ theo nghĩa là cúng tế: “Thoạt kỳ thủy lễ, chỉ có một nghĩa là cúng tế. Từ Thượng Cổ, người Trung Hoa cũng giống như những người khác – đã cúng tế thần linh, đã làm cái việc gọi là Lễ”, [25, 151]. Đến thời Tây Chu, đức Lễ còn mang nghĩa thứ hai: Đó là Pháp điển Phong kiến có tính chất chính trị do Chu Công chế định ra nhằm mục đích duy trì, ổn định xã hội. Về sau, ý nghĩa của lễ dùng để nói cả những quy củ mà phong tục, tập quán của xã hội đã thừa nhận như: Quan, Triều, Sính, Tang, Tế…
Trong tác phẩm Luận ngữ, Lễ được Khổng tử đề cập đến hơn 70 lần. Mặc dù, Lễ được nhắc lại nhiều lần. Song mỗi lần nói đến Lễ đều mang một nội dung và hàm ý khác nhau. Khổng Tử đã kế thừa và phát triển phạm trù Lễ của các bậc Nho sĩ thời trước và có nội dung phong phú rộng rãi hơn. Lễ trong tư tưởng Khổng Tử không chỉ là lễ giáo, nghi thức kỷ cương định ra có danh có khí dứt khoát. Mà quan trọng hơn, Lễ là đức của con người, nhất là người cai trị. Lễ còn là đạo đức của bậc quân tử cũng như kẻ thứ dân. Trong tác phẩm “Nho giáo” của Trần Trọng Kim có đoạn viết: “Chữ Lễ, hiểu theo nghĩa rộng mới đúng tông chỉ của Khổng giáo. Tông chỉ ấy cốt nhất là hàm dưỡng những tình cảm cho thật hậu để gây thành tập quán đạo đức cho đến bậc nhân” [25, 154].
Phạm trù Lễ với nội dung là những nghi thức, quy định trong tế lễ. Khổng Tử cho rằng tế lễ là để tỏ lòng thành kính, khi tế lễ phải tuân thủ theo những quy định đã định sẵn. Song không vì thế mà việc “Tế lễ” chỉ nhằm làm đúng một điều đó là nghi thức đúng đắn, lễ vật đầy đủ. Ngoài ra, khi tế lễ quan trọng nhất là phải thành tâm để thực hiện tấm lòng, lễ không phải chỉ là: “Người đời nay đem ngọc lụa làm lễ” [20, 634]. Như vậy, lễ có nội dung là tế lễ cũng có quan hệ mật thiết với đạo đức, tế là phải xuất phát từ sự thành thực, cung kính với trời đất, qủy thần, tổ tiên, ông bà, cha mẹ. “Tế tự không phải từ hình thức bên ngoài đến mà phải từ trong bụng sinh ra ở tâm sinh ra vậy” [26, 201]. Khổng Tử cho rằng, các nghi thức được sử dụng trong việc cúng giỗ tổ tiên, ma chay, để tang, cưới hỏi… chính là mục đích để phát huy tình cảm của con người. Ông nói: “Trong tang chế cha mẹ, tụng niệm, tế tự tổ tiên có sự thận trọng thì đức của dân sẽ được thuận hậu” [15, 36]. Khổng Tử cũng quan niệm rằng: “Lễ là gốc ở kính, ngưởi bất nhân chẳng có niềm cung kính thì đâu có thể hành lễ cho nghiêm trang được”
[15, 36].
Lễ với nội dung là “Tế lễ” còn quy định thời gian tang chế, trang phục khi tế lễ, hội hè. Chẳng hạn, lễ quy định con người phải để tang cha mẹ là ba năm. Tại sao lại có quy định thời gian để tang đó, đó là thể hiện tình cảm nhiều hay ít cho xứng với nghi lễ và để phân biệt quan hệ đó là thân hay sơ. Khổng Tử quan niệm khi chúng ta sinh ra ba năm cha mẹ phải trông nom bế ẩm nên để tang ba năm mới hợp Lễ. “Trẻ con sau ba năm mới được rời vòng tay bế ẩm của cha mẹ cho nên khi cha mẹ mất đi, con cái phải báo đáp ân huệ vất vả nhất của cha mẹ trong ba năm, để tang cha mẹ ba năm đó là lễ tang thông thường của mọi người trong thiên hạ” [18, 206] và quy định trong ba năm đó, người quân tử không được tập lễ, không được tấu nhạc…
Trong quan niệm của Tuân Tử thì chữ Lễ cũng có nghĩa rất rộng, đối với người nào cũng phải có Lễ : “Lễ là đối với kẻ quý thì kính, đối với kẻ già thì hiếu thảo, đối với người lớn thì thuận, đối với người trẻ thì từ thiện” [22, 322]. Theo Tuân Tử: “Người sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể tìm, tìm mà không có chừng mực, giới hạn thì không thể tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên vương ghét cái loạn, cho nên chế lễ nghĩa để phân ra trật tự để nuôi cái muốn của người ta, cấp cái tìm của người ta, khiến ai muốn không đến cùng kiệt các vật, các vật không làm cùng kiệt cái muốn, các vật với cái muốn phù tri lẫn nhau mà sinh trưởng, ấy là cái sở khởi nguyên của lễ” [22, 32] cho nên ông yêu cầu phải cần có lễ, đó mới là hợp Đạo.
Nho giáo quan niệm về Lễ với nội dung là những chuẩn mực những quy định, nguyên tắc, những yêu cầu trong các hoạt động của con người và trong các quan hệ xã hội: vua phải yêu thương bề tôi, bề tôi phải tận trung với vua, cha mẹ phải yêu thương con cái, con cái phải hiếu kính cha mẹ. Từ khi chào đời đến khi nhắm mắt và cả khi ngồi một mình cũng phải thực hành lễ. Thi hành lễ là để rèn luyện tu tâm dưỡng tính tạo cho con người có điều kiện thực hiện đúng đức Nhân và có hành vi đúng mức và tốt đẹp. “Gọi là đạo đức nhân nghĩa mà thiếu lễ ắt không thành, giáo huấn để đính chính phong tục mà thiếu lễ ắt không đầy đủ, ngay cả đến việc phân tranh, cãi cọ, không Lễ cũng giải quyết được. Đó là chế dùng lễ để làm rõ phải trái, phân định đúng sai. Vua tôi, trên dưới, cha con, anh em không có lễ không xác định được thân phận, vị trí. Học để làm quan phải kính thờ thầy dạy, nếu không có lễ thì lấy gì mà thân ái với nhau” [30, 27]. Lễ phân ra trật tự khác nhau để cho vạn vật có thứ tự phân minh. Thánh nhân mới định ra lễ để phân định tôn ti trật tự khiến dân giữ lòng hiếu ố cho vừa phải và sửa lại cái đạo làm người cho chính vậy. “Ở trong xã hội có vua tôi, cha con, chồng vợ, có người thân kẻ sơ, có việc trái việc phải, có lễ để phân biệt cho rõ mọi lẽ, khiến người ta biết đường ăn ở cho phải đạo” [22, 150]. Lễ là những chuẩn mực, những quy tắc, những yêu cầu có tính bắt buộc, ràng buộc đối với mọi hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội cũng như trong các hoạt động khác của con người. Nhà vua phải thương yêu bề tôi, bề tôi phải tận trung với vua. “Vua khiến bầy tôi bằng lễ, bầy tôi thờ vua bằng trung” [20, 86]. Theo Khổng Tử bề trên biết sai khiến bằng lễ càng có lợi cho họ vì “Bề trên chuộng lễ thì dân dưới dễ sai” [20, 536]. Đối với bề tôi cũng phải mình theo lễ phải hết sức trung thành cương trực và trong việc thì phải chịu khó, cố gắng. “Thờ vua phải kính cẩn nơi công việc rồi mới tính đến chuyện hưởng bổng lộc” [20, 583]. Lễ trong mối quan hệ với cha mẹ, cha mẹ phải thương yêu con cái, con cái phải kính hiếu cha mẹ, tức là người có đức Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu. Yêu cầu đầu tiên của lễ đó là con cái phải tuyệt đối kính, hiếu thảo, thực hiện đầy đủ đạo làm con với cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống thì phải nuôi dưỡng, phụng sự cho hợp lễ. “Cha mẹ còn sống thì phụng sự cho hợp lễ, mất thì tống táng cho hợp lễ, cúng tế cho hợp lễ” [20, 37]. Khi thấy cha mẹ có lỗi thì làm con phải dùng Lễ để khuyên can cha mẹ, không được xúc phạm đến cha mẹ, tuy có khó nhọc lo buồn cũng không được oán hận.
Trong mối quan hệ giữa huynh đệ, bằng hữu: Khổng Tử yêu cầu anh với em, bạn bè cũng phải dùng lễ để quan hệ giao tiếp. Ông nói: “Bầu bạn thì thành khẩn khuyên nhủ lẫn nhau, anh em thì hòa vui” [20, 461]. Trong khi kết giao với bạn bè cũng phải lựa chọn, bởi bạn bè có những hạng khác nhau: “Ba hạng có ích, ba hạng tổn hại. Bạn ngay thẳng, bạn thành thật, bạn nghe biết nhiều là ích vậy! Bạn giả bởi uy nghi, bạn hay chiều chuộng, bạn khéo siểm nịnh là tổn hại vậy” [20, 599]. Người có nhân là người phải tự chế mình đi theo lễ, không được thái quá, không được bất cập trong việc thi hành lễ. Mọi người, mọi giai cấp phải tôn trọng, giữ gìn học tập và hành động đúng lễ. Lễ cải hóa được cái ác, quyết định sự tồn tại xã hội và con người: “Sự giáo hóa của lễ rất cơ bản, ngăn cấm điều bậy ngay lúc chưa hình ra, khiến người ta ngày càng đến gần điều thiện tránh xa điều tội mà tự mình không biết” [22, 161). Cho nên người xưa rất chuộng lễ: “Lễ là cấm sự loạn sinh ra, như đường đê giữ cho nước không đến vậy" [22, 161]. Người mà không có Lễ thì không sinh, việc mà không có Lễ thì không nên, quốc gia mà không có lễ thì không yên. Thiên hạ theo lễ thì trị, không theo lễ thì loạn, theo lễ thì yên, không theo lễ thì nguy, theo lễ thì còn, không theo lễ thì mất. Trái lễ thì xấu xa cần phải tránh, trái đạo cần phải ngăn chặn. Trái lễ thì đừng xem, trái lễ thì đừng nghe, trái lễ thì đừng nói, trái lễ thì đừng làm. Lễ được cụ thể hóa thành những nguyên tắc đạo đức để đánh giá đạo đức của con người. Lễ vừa có tính chất khuyên răn, vừa có tính chất ràng buộc con người để hàng giờ, hàng ngày, mọi lúc, mọi nơi trở thành thói quen đạo đức của cá nhân và xã hội. Bởi, theo Khổng Tử: “Cung kính mà không lễ thì lúng túng, lóng ngóng; cẩn thận mà không có lễ thì thành ra sợ sệt; dũng cảm mà không có lễ thì thành ra loạn; cương trực mà không có lễ thì thành ra ngang ngạnh” (Luận ngữ, Thái ba). Hay là “Không có Lễ lấy gì mà trông, không có lễ lấy gì mà nghe, không có lễ lấy gì mà nói, không có lễ theo đâu mà làm" (Luận ngữ, Nhan uyên). Lễ là bộ phận lớn của pháp luật, trái Lễ là không có pháp luật. Lễ là một trong những biện pháp chính trị cơ bản nhất để thi hành đường lối đức trị. Để đánh giá tác dụng của Lễ, trong sách “Trung Quốc triết học sử” Hồ Thích Chi viết rằng: “Trong cái nghĩa rộng chữ lễ có hàm cái tính chất pháp luật, nhưng lễ thì trọng về cái quy cũ tích cực, mà pháp luật thì thiên về cái cấm chế tiêu cực. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì và không nên làm điều gì; pháp luật thì cấm không cho làm việc gì, hễ làm thì phải tội. Người làm điều trái lễ thì chỉ bị người quân tử dị nghị chê cười, chứ người mà làm trái pháp luật thì có hình pháp xét xử” [22, 162]. Như vậy, lễ có lợi hơn là có thể ngăn cấm được những việc chưa xẩy ra mà dùng pháp luật thì chỉ để trị cái việc đã rồi. Nho giáo dùng để giáo hóa đạo làm người, lễ đối với pháp luật là không mâu thuẫn mà mỗi phương pháp có một cách giải quyết các chuẩn mực của những mối quan hệ khác nhau trong xã hội, mỗi thứ đều có giá trị của nó.
Theo Khổng Tử, Lễ là những quy phạm đạo đức thời Tây Chu, tức là Lễ của nhà Chu. Do vua không giữ đúng đạo vua, tôi không giữ đúng đạo tôi, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con nên thiên hạ vô đạo và thiên hạ đại loạn. Do vậy, phải lập kỷ cương cho vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con để cho thiên hạ hữu đạo xã hội yên ổn. Ở đây chúng ta cần nhận ra rằng Khổng Tử không nhận ra sự hư hỏng của lễ pháp nhà Chu là tất yếu, là biểu hiện tiến bộ của lịch sử. Giải pháp mà Khổng Tử đưa ra là duy tâm, siêu hình, cải lương nhằm cứu vãn tình hình cực đoan, bảo thủ, giữ lại những hình thức cũ, đưa ra những nội dung mới cho phù hợp với tình hình mới, kịch liệt phản đối sự đấu tranh dù chỉ là của quần chúng nghèo khổ vùng lên hay là giữa các giai cấp thống trị với nhau. Để xoa dịu, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, Khổng Tử tuyên truyền nghèo mà vui, lấy hòa vi quý, người dưới hãy an phận không trách oán, người trên phải tôn trọng người dưới. Bước ra cửa lúc nào cũng phải chỉnh tề như gặp người khách quý. Sai khiến dân một việc gì cũng phải thận trọng, phải thành kính trọng khi thực hiện Lễ. Nuôi nấng chăm sóc cha mẹ là thờ cha mẹ, nhưng đối với chó và ngựa, người ta vẫn nuôi nấng chăm sóc. Nếu như đối với cha mẹ mà không thành kính thì nuôi nấng cha mẹ khác gì nuôi nấng chăm sóc chó, ngựa. Như vậy, Lễ có tác dụng bao trùm hết tất cả các hành vi của con người và xã hội, là khâu chủ yếu của đạo làm người và được cụ thể hóa thành những nguyên tắc đạo đức để đánh giá đạo đức của con người. Lễ vừa có tính chất khuyên răn, vừa có tính chất ràng buộc con người để hàng ngày, hàng giờ, mọi nơi, mọi lúc trở thành thói quen của đạo đức cá nhân và xã hội. Bậc thánh nhân phải dùng Lễ trong trị nước thì mới yên bình thịnh trị được. Lễ giống như một cái lưới bủa ra rất rộng và xiết lại rất chặt của Nho giáo. Theo “Kinh lễ”, thì phải có đức Nhân, Nghĩa mới thành mối quan hệ giữa người với người và giữa người với trời đất, quỷ thần mới thông suốt. Người ta nói đến Lễ là nói đến đức, một đức bên trong Ngũ thường, một đức bên trong bốn đúc có sẵn đầu mối ở cái tâm của con người. Đã là người thì phải học Lễ, biết Lễ, có Lễ và tiêu chuẩn của Lễ là sự đúng y tăm tắp với những giáo huấn, những kỷ cương, những nghi thức do đạo Nho đề ra cho những quan hệ Tam cương, Ngũ luân…, cho cả những việc thờ cúng thần linh. Bởi vậy, con người phải học Lễ từ tuổi trẻ thơ và sau này muốn làm nên như thế nào thì cứ phải “Tiên học lễ” đã. Nếu đức Nhân được coi là đức cao nhất, là đức thể hiện bản chất người của người ta một cách rõ ràng nhất và đúng đắn nhất; trong mối quan hệ con người trong xã hội thì lại phải thấy nó “khắc kỷ” và “phục lễ” được mới là Nhân. Như vậy, trong Ngũ thường bên cạnh đức Nhân và các đức khác thì đức Lễ cũng có vai trò quan trọng và là nội dung cơ bản của lễ giáo đạo Nho.
1.2.3. Tư tưởng về đức Nghĩa
Nghĩa là sự đối nhau với Nhân. Nếu Nhân thể hiện trong các mối quan hệ với người khác thì Nghĩa thể hiện trong sự tự vấn lương tâm mình. Lòng hổ thẹn là đầu mối của Nghĩa. Nghĩa, có nghĩa đen, là điều nên nói, việc nên làm. Nói điều gì đó, làm việc gì đó, thấy thảnh thơi thoải mái hứng thú trong lương tâm thì điều nói đó, việc làm đó là điều nghĩa, việc nghĩa. Không nói điều ấy, không làm việc ấy thì thấy bứt rứt trong lương tâm thì như thế là có điều nghĩa không nói, có việc nghĩa không làm. Ngược lại, nếu có điều gì đó không nói, có việc gì đó không làm mà thấy yên lòng thì như thế là điều đó, việc đó, vốn bản thân nó là bất nghĩa, phi nghĩa.
Tuy nhiên, đức Nghĩa trong tư tưởng Nho giáo được thể hiện một cách khác nhau qua quan niệm của mỗi nhà tư tưởng khác nhau. Khổng tử khi nói về đạo làm người đã đúc kết ba đạo lý quan trọng nhất, tạo thành nền tảng cho hệ thống luân lý của ông là nhân, lễ, nghĩa. Nghĩa của Khổng Tử chính là để chỉ cái thích đáng hay là cái đạo lý. Đồng thời, Khổng Tử coi nghĩa là phẩm chất của người quân tử còn lợi là cái thuộc về kẻ tiểu nhân: "Bậc quân tử tin tưởng về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rè về viêc lợi", (Luận ngữ, Lý nhân). Do vậy, theo Ông người quân tử phải hành động vì Nghĩa: "Người quân tử dùng nghĩa lý làm căn bản, dùng lễ tiết để thực hành, dùng khiêm tốn để tỏ lộ ra ngoài, dùng thành tín để làm nên công việc. Người nào được như thế thật là người quân tử" (Luận ngữ, Linh công). Mặt khác, Khổng Tử còn trọng dũng, gắn liền dũng với nghĩa, trong đó, nghĩa chỉ đạo dũng và dũng phải phù hợp với nghĩa: "Tử Lộ hỏi rằng: Người quân tử có chuộng dũng không?. Khổng Tử đáp: “Người quân tử lấy nghĩa là trên hết. Người quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn, kẻ tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì là trộm cướp", (Luận ngữ, Dương hóa). Với quan niệm đó Khổng Tử khuyên mọi người "việc gì hợp nghĩa thì làm", đừng vì cái lợi riêng mà làm phương hại đến cái lợi chung của cộng đồng hoặc của người khác. Khổng Tử viết: "Dựa theo lợi mà làm thì nhiều người oán", (Luận ngữ, Lý nhân). Như vậy, có thể nói trong quan niệm của Khổng Tử, Nghĩa là cái hợp với lẽ phải, là đạo lý mà chỉ có người quân tử mới nhận thức được. Bản thân Khổng Tử cũng là tấm gương vì Nghĩa. Suốt đời Ông luôn luôn tuyên truyền và phấn đấu cho một xã hội thái bình, thịnh trị và trật tự kỷ cương.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Khổng Tử về Nghĩa thì với Mạnh Tử, Ông cũng cho rằng, nghĩa là việc nên làm thì làm, không nên làm thì không làm: "Người ta ai cũng có lòng thương xót chẳng nỡ đối với việc này hoặc việc khác, nhưng nếu mình biết đem tấm lòng ấy mà phổ cập đến những việc mà mình chưa thương xót, chẳng nỡ, thì mình mới thật là người nhân vậy. Người ta ai cũng có việc mà mình chẳng thèm làm, nếu như mình biết nới rộng khí tiết ấy mà chẳng thèm làm những việc mình đương làm thì mình mới thật là người nghĩa vậy", (Mạnh Tử, Tận tâm). Tuy nhiên, cái gì nên làm thì làm, cái gì không nên làm thì Mạnh Tử không bàn kỹ, Ông thường cho rằng lòng u ố (xấu hổ) là đầu mối của nghĩa, cái gì làm ta xấu hổ, làm cho ta ghét thì đó là cái phi nghĩa và chỉ có "lương tâm", "lương năng" mới giúp ta phân biệt được đâu là nghĩa, đâu là phi nghĩa. Điều đó cho thấy Mạnh Tử luôn gắn liền nghĩa với hành vi đạo đức cá nhân, đã hiểu được động cơ bên trong của những hành vi vì Nghĩa. Mạnh Tử kêu gọi con người sẵn sàng chết vì Nghĩa đều đã cho thấy Nghĩa được đề cao đến mức đem so sánh với mạng sống của con người. Mạnh Tử viết: "Sống thì ta vẫn ham, nghĩa thì ta cũng mộ. Nếu chẳng được luôn hai việc ấy một lượt, ta đành bõ lấy mạng sống mà giữ lấy tiết nghĩa vậy" (Mạnh tử, Cáo thượng).
Mạnh Tử là người đã đề cao Nghĩa, chính vì vậy, Ông đã đối lập nó với quan niệm về Lợi. Mạnh Tử nói: "kẻ trên người dưới đều làm việc lợi trước, việc nghĩa sau thì người này tước đoạt hết của cải của người kia mới vừa lòng. Trái lại, chưa hề có người quý điều nhân mà lại bỏ bê cha mẹ, bà con mình; chưa hề có người trọng điều nghĩa mà bỏ coi việc vua, việc nước nhẹ hơn việc riêng của mình. Vậy vua chỉ nên nói đến việc Nhân mà thôi", (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương). Điều đó cho thấy Mạnh Tử khuyên người ta chỉ nên nói điều Nhân nghĩa, coi Nhân Nghĩa là mục đích của cuộc sống cá nhân, là mục tiêu mà xã hội cần vươn tới: "Tôi vì Nhân Nghĩa mà thờ vua, con vì Nhân Nghĩa mà thờ cha, em vì Nhân Nghĩa mà thờ anh. Vua tôi, cha con, anh em đều bỏ Lợi, đối với nhau chỉ bằng lòng hâm mộ Nhân Nghĩa. Quốc gia như thế mà không hưng thịnh là chưa từng có", (Mạnh Tử, Cáo tử hạ).
Trái với Mạnh Tử thì Tuân Tử lại cho rằng Nghĩa là điều không thể thiếu trong bản thân của mỗi con người và trong xã hội. Từ đó, Ông khuyên người quân tử phải "nắm vững cái nghĩa", chỉ theo cái Nghĩa, hướng về quyền, trong sự chất mà vẫn nắm vững Nghĩa, không loạn đó là cái của bậc sĩ, quân tử. Tuân Tử còn cho rằng thánh nhân như Nghiêu, Thuấn cũng chỉ thích Nghĩa mà thôi. Nghĩa thắng được thì nước trị, trái lại là loạn. Như vậy, ta thấy Ông không đề cao Nghĩa quá mức mà chỉ cho rằng Nghĩa là cái có trước, là tiền đề xuất phát cho mọi thứ sau đó.
Còn đến Đổng Trọng Thư là người đã cho rằng Nghĩa là phạm trù riêng biệt, nó khác với các phạm trù khác như Lợi, Nhân, Lễ, Trí, Tín...Theo Ông thì Nghĩa là để "nuôi cái tâm" - tinh thần, cao cả, lẽ phải.
Như vậy, ta thấy có nhiều quan niệm khác nhau về đức Nghĩa, nhưng trong Ngũ thường Nghĩa cũng là một trong năm đức cơ bản và quan trọng cùng với Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Đức Nghĩa cũng như đức Nhân cũng có thể trau dồi, tu luyện, thử thách trong mọi quan hệ giữa người với người, trong thử thách đạo làm người. Ở đời lòng hổ thẹn và tinh thần vì nghĩa thường bị những thứ khác làm lung lay, yếu ớt, mất tính trong sạch như uy vũ của kẻ quyền thế, địa vị, công danh, tiền tài, lợi lộc.
1.2.4. Tư tưởng về đức Trí
Trong tiếng Việt người ta thường định nghĩa Trí là "khôn" nhưng trong tư tưởng của Nho giáo Khổng Mạnh thì Trí chỉ có ở người quân tử còn kẻ tiểu nhân thì không có Trí. Nếu người quân tử không cần học cũng biết thì kẻ tiểu nhân có học cũng không biết được. Trí là biết người, là dùng người trực, bỏ kẻ gian, như vậy, có thể giáo hóa kẻ gian thành người trực. Trí là hiểu biết được Đạo nên mọi mối quan hệ rộng, hẹp, cao, thấp của con người với trời đất vạn vật với người khác trong thiên hạ. Trí là biết được một cách rõ ràng phải, trái trong mọi vấn đề xẩy ra về mặt đạo đức.
Tuy nhiên, với mỗi nhà Nho thì ngoài những đặc điểm chung về Trí như trên thì trong đạo lý của họ cũng có những quan niệm khác nhau về Trí. Theo Khổng Tử, con người phải có Trí mới vươn tới được đức Nhân. Trí là hiểu biết được đạo trên mọi mối quan hệ của con người với trời đất, muôn vật và với mọi người. Nói một cách khác, đức Trí thể hiện ở chỗ hiểu biết được một cách đúng đắn, rõ ràng điều phải, trái trong những vấn đề nảy sinh ra từ mặt đạo đức. Đầu mối của Trí ở bên trong con người là lòng "thị phi" làm cho người ta phân rõ phải trái, đúng sai trong các mối quan hệ có được đầu mối ấy đi vào học tập đạo đức và hành đạo, con người tự khắc có "sở đắc" và đức Trí.
Bàn đến đức Trí, Khổng Tử một mặt tin vào mệnh trời, Ông cho rằng: "Trí thức bẩm sinh là trí thức thượng hạng, là thượng trí trời sinh ra đã có và không biến đổi. Mặt khác, là thầy của hơn ba nghìn học trò, Khổng Tử lại cho rằng: "Trí không phải ngẫu nhiên mà có, mà nó là kết quả của quá trình học hỏi trong đời sống. Học tức là đến gần với Trí" (Trung dung, 20). Theo Khổng Tử, Nhân có thể đạt đến mức độ cao để có thể giúp người khác thì cần phải có trí, chỉ có trí mới phân biệt đúng sai, mới biết nhìn mọi việc để suy xét từ đó lựa chọn cách giải quyết đúng và phân biệt được chính, tà. Có Trí thì người mới vươn tới được nhân nên không thể là người nhân mà thiếu trí được. Chính Khổng Tử đã lí giải điều đó cho Tử Lộ: "Ưa làm điều nhân mà không ưa học là che lấp cái ngu muội; ưa trí xảo mà không ưa học thì cái hại che lấp sự phóng đảng, lầm lạc; ưa dũng cảm mà không ưa học thì cái hại che lấp sự cường bạo" [20, 681]. Theo Khổng Tử để có Nhân thì phải có Trí, ngược lại có Trí, có Dũng mới thành Nhân.
Đến Đổng Trong Thư cũng là người đề cao đức Trí, Ông cho rằng: "không gì gần hơn là Nhân ái, không gì thiết yếu bằng trí tuệ. Nhân ái mà không trí tuệ thì là yêu mà không phân biệt. Trí tuệ mà không nhân ái thì biết mà không làm. Cho nên Nhân là để yêu nhân loại, Trí là để trừ điều hại...Trí là gì?. Là trước nói mà sau làm cho xứng đáng. Phàm người ta trước hết lấy trí tuệ cho hành vi mình, thấy muốn hay không muốn trước khi làm
( Sách Xuân Thu, phần lộ nhân nghĩa).
Như vậy, đức Trí cùng với đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Tín là những đầu mối có sẵn trong tâm của con người. Lòng trắc ẩn là đầu mối của Nhân, lòng tự nhượng là đầu mối của Lễ, lòng biết phải trái là đầu mối của Nghĩa, ham học hỏi là đầu mối của Trí và tạo được niềm tin ở mọi người là đầu mối của Tín. Các đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín không phải từ bên ngoài hun đúc vào mà vốn sẵn có trong ta. Có được Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín mà không biết khuếch trương ra thì dẫu việc thường như thờ cha mẹ cũng không làm được. Do vậy, không có lòng trắc ẩn (lòng thương xót) không phải là người; không có lòng tu ố (lòng thẹn ghét) không phải là người; không có lòng thị phi (phân biệt phải trái) không phải là người. Khổng Tử đã đưa ra chuẩn mực cho mọi người có đức như sau. Một là, hiểu biết mọi sự vật. Hai là, hiểu biết về vấn đề cần phải hiểu biết đến nơi đến chốn. Ba là, ý thức chân thành, khiêm tốn, trọng sự hiểu biết. Bốn là, hiểu biết trong sự ngay thẳng, chính trực khiêm tốn.
Có thể nói Trí có một vai trò quan trọng trong đạo làm người. Do vậy, phải luôn học tập để bồi dưỡng đức Trí cho mình, để đối nhân xử thế cho phải đạo, để vươn tới đức Nhân. Đức Trí được bộc lộ rõ nét qua quan điểm lý luận nhận thức và về giáo dục. Đặc biệt với câu nói: “Hãy để bị lừa gạt bởi những điều có lý chứ đừng để mê hoặc bởi những điều đần độn".
1.2.5. Tư tưởng về đức Tín
Trong tư tưởng về Ngũ thường của Nho giáo thì đức Tín là đức rất được quan tâm đến. Cùng với Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí thì Tín là hệ quả của bốn đức ở trên mà tạo thành. Có Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí mới gây được lòng Tín. Tín là một từ Hán - Việt nghĩa là tin, niềm tin và nói lên đức tin giữ lời hứa hẹn, giữ đúng điều, làm đúng điều đã nói. Đối với bằng hữu làm cho người ta tin, đặc biệt là những người trị nước trị dân thì đức tín của họ càng quan trọng hết sức. Theo Nho giáo người không có Tín thì mất hết đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí là người bỏ đi.
Đối với người trị nước, trị dân, thì đức Tín càng có vai trò quan trọng. Chính Khổng Tử đã từng nêu ba yếu tố bảo đảm vững chắc và thế mạng của một nước là: lương thực đủ, quân đội đủ, nhân dân tín. Trong hoàn cảnh cần bớt đi một thì đành bớt đi yếu tố quân đội, nếu bớt đi nữa thì đành bớt đi lương thực vậy, còn niềm tin của dân thì không thể thiếu được vì: "Dân không tín thì không đứng vững", (Luận ngữ, Thiên nhan uyên). Lòng tin là sức mạnh văn hóa, lòng tin bắt nguồn từ tín đạo, chiến lược sách lược giữ nước hợp khả năng thực tế, hợp lòng dân sẽ chuyển hóa tạo nên sức mạnh chiến thắng. Cũng phải nói thêm rằng quan niệm Tín của Khổng Tử là giữ đúng lời hứa không phải là một quan niệm cứng nhắc trong tư tưởng Khổng Mạnh, ngược lại nó khá linh hoạt. Khổng Tử cho rằng: "Cứ nói là phải tín, cứ làm là phải nhất quyết làm bằng được thật là tiểu nhân cứng đờ đờ", (Luận ngữ, Thiên tử lộ).
Tín không thể tách riêng để đứng độc lập mà Tín phải phụ thuộc vào Nghĩa. Như vậy, đức Tín là một trong năm đức cần có của người quân tử theo quan niệm của tư tưởng Ngũ thường gồm: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Cơ sở để xây dựng đức Tín đó chính là lời nói phải thống nhất với việc làm, đã hứa giúp ai việc gì phải làm cho xong, người luôn như vậy không chỉ khiến mọi người tin tưởng ở mình mà còn giúp cho quá trình tu dưỡng đạo đức hoàn thiện. Người mà không có đức tín chẳng khác nào cây gỗ mục chẳng dùng được vào việc gì chỉ khiến cho mọi người xa lánh, chẳng có bạn bè, người thân. Vì vậy người xưa có câu: "Không có chữ tín tất dễ phản", (Luận ngữ, Nhân hóa, 14) hoặc "Con người không có tín nhiệm thì đừng có đề cử", (Luận ngữ, Vi chính).
Theo Nho giáo muốn thực hiện đúng chữ Tín thì phải giữ đúng Lễ, Chính danh, Ư lợi. Đúng Lễ là đủ hiểu biết để thực hiện điều nhân nghĩa. Chính danh là quan hệ đối xử đúng phận vị. Dù lợi, là lợi phải hợp Nhân Nghĩa, lợi phải sẵn sàng chia sẻ cùng hưởng. Đúng như Bác Hồ của chúng ta đã dạy: "Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng" chính là để củng cố chữ Tín vậy. Như vậy, chữ Tín là một đức tín rất quan trọng đối với con người nói chung và con người trong triết học Nho giáo nói riêng phải đặt chữ Tín lên hàng đầu.
Tuy nhiên, là đề cao con người nhưng xét về thực chất quan niệm của triết học Nho giáo là duy tâm, siêu hình và cũng chỉ nhằm mục đích là duy trì bảo vệ trật tự, cơ cấu giai cấp xã hội phong kiến thống trị lúc bấy giờ. Nhưng đối với xã hội chúng ta ngày nay cũng vậy, đức Tín cũng rất được mọi người quan tâm. Đối với thế hệ thanh niên đức Tín rèn luyện cho bản thân mỗi người có tác phong công nghiệp, là người có trách nhiệm với xã hội mới. Dù rằng, tư tưởng Ngũ thường trong Nho giáo nó cách đây mấy ngàn năm nhưng nó vẫn ít nhiều còn giá trị và có ảnh hưởng không nhỏ trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, nội dung về luân lý đạo đức là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo, luân lý và đạo đức bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của con người, từ chính trị đến các vấn đề về văn hóa xã hội. Cũng giống như học thuyết chính trị, thì học thuyết về luân lý và đạo đức của Nho giáo đã lấy đức Nhân làm gốc. Bởi lẽ, nói đến cùng, Nhân tức là đạo làm người; chỉ có thực hiện được đức Nhân mới khắc phục được tình trạng rối ren trong xã hội.
Nho giáo xem đức Nhân là đỉnh cao nhất trong chuẩn mực đạo đức căn bản của con người, Nhân là lòng yêu thương, lòng thương xót người khác như yêu chính bản thân mình. Nhân là cái gốc mở đầu cho việc xây dựng đạo đức, là đức trung tâm để chi phối các chuẩn mực đạo đức khác. Người có Nhân là người không kiêu ngạo, làm việc tận tâm đến nơi đến chốn, song lại biết khoan dung lượng thứ đối với mọi người. Qua đức Nhân chúng ta thấy được tính nhân văn sâu sắc và có ý nghĩa thiết thực mà con người luôn hướng đến.
Nếu Nho giáo xem đức Nhân là cái gốc của đạo làm người trong việc xử thế lẫn tu thân thì nội dung và cách thức thực hiện đức Nhân đó là phải có Lễ, Nghĩa, Trí, Tín... Nho giáo quan niệm về đức Lễ cũng là tiêu chuẩn đạo đức của con người trong xã hội cùng với đức Nhân, Lễ tạo ra môi trường đạo đức nhằm tu dưỡng tính tình đạt được nhiều đức tính tốt khiến cho con người ngày càng tiến về điều thiện, tránh được mọi lỗi lầm một cách tự nhiên. Trong mối quan hệ với pháp luật thì Lễ có lợi hơn là có thể ngăn cấm được việc chưa xẩy ra, mà dùng pháp luật thì để trị cái việc đã rồi. Vì thế, Nho giáo yêu cầu mọi người phải "Tiên học lễ, hậu học văn". Tư tưởng này về Lễ cho đến nay xã hội ta vẫn đang tiếp thu và vận dụng trong việc giáo dục đạo đức cho con người từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội.
Ở góc độ đạo đức, Nhân, Lễ là yêu cầu tối cao của hành vi con người nhưng đây mới chỉ là những yêu cầu mang tính phổ biến đối với hành vi cụ thể phải có yêu cầu riêng để thực hiện được nó. Cái riêng ấy chính là Nghĩa, đó là điều nên nói, việc nên làm. Nói điều gì đó, làm việc gì đó cảm thấy thảnh thơi, thoải mái, hứng thú trong lương tâm thì điều nói đó, việc làm đó đều là việc Nghĩa.
Trong tư tưởng Ngũ thường thì đức Trí và đức Tín cũng có một vị trí quan trọng. Nếu không có đức Trí và đức Tín thì cũng không xuất hiện đức Nhân và đức Nghĩa được. Đức Trí thể hiện ở việc hiểu biết được một cách đúng đắn, rõ ràng điều phải, điều trái trong những vấn đề nảy sinh trong mặt đạo đức. Cũng như mọi đức khác, đức Trí nhắc nhở con người phải luôn luôn học, phải nâng cao hiểu biết của mình. Nếu không học thì dù có thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, phản loạn làm biến chất. Do vậy, phải luôn học tập để bồi dưỡng đức Trí cho mình để đối nhân xử thế cho phải đạo, để vươn tới đức Nhân.
Ngoài ra, Nho giáo cũng rất quan tâm đến đức Tín. Cơ sở để xây dựng đức Tín đó chính là lời nói phải thống nhất với việc làm, đã hứa giúp ai việc gì thì làm cho xong, con người luôn tin tưởng vào bản thân và còn giúp cho quá trình tu dưỡng đạo đức bản thân được hoàn thiện.
Tư tưởng Nho giáo về Ngũ thường là sự phản ánh năm đầu mối cơ bản của đạo đức con người trong quan hệ gia đình cũng như xã hội. Tư tưởng Nho giáo nói chung và tư tưởng về Ngũ thường nói riêng đề cập đến một xã hội hòa thuận trước hết cần có một gia đình hòa thuận, hay nói cách khác nhà yên thì nước sẽ yên. Một gia đình hòa thuận là một gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận, thương yêu nhau; con cháu luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, không làm việc gì khiến ông bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm, láng giềng; anh em biết yêu thương đùm bọc, bảo ban nhau cùng tiến bộ. Đó là những giá trị đạo đức phù hợp với nền văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Một gia đình như thế cũng chính là gia đình mà xã hội Việt Nam nói chung, ở Thừa Thiên Huế nói riêng đang cùng nhau xây dựng. Bởi lẽ, một xã hội muốn ổn định và phát triển, trước hết mỗi một gia đình phải được phát triển. Chính gia đình là nơi nuôi dưỡng và cung cấp cho xã hội những con người có đức có tài để xây dựng đất nước giàu mạnh. Cũng chính gia đình là thành trì bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam qua mấy nghìn năm lịch sử.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY.
2.1. Quan niệm về gia đình văn hóa
2.1.1. Quan niệm về văn hóa và gia đình
Văn hóa: Ngày nay chúng ta thường bắt gặp danh từ văn hóa được sử dụng rộng rãi, trong nhiều lĩnh vực, nhưng để hiểu và sử dụng khái niệm "văn hóa" cho đúng thì đây là điều mà tất cả chúng ta đang quan tâm.
Trong tiếng Hán, văn hóa là hai từ ghép do từ văn và từ hóa ghép lại mà thành. Văn dùng để chỉ vẻ thanh cao, đẹp đẽ. Hóa dùng để chỉ sự thay đổi, biến đổi. Văn hóa có nghĩa là biến đổi để trở thành đẹp, trở thành có giá trị.
(Từ điển Hán - Việt).
Trong tiếng Việt, văn hóa là danh từ có nội hàm và ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp. Người ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa là lối sống, thái độ ứng xử, lại có thể hiểu văn hóa như trình độ học vấn mà mỗi công nhân viên chức vẫn ghi trong lý lịch công chức của mình.
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm định nghĩa: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội" [34, 10].
Trong cuốn Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội - kinh tế của Phạm Minh Hạc đã định nghĩa: "Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và giá trị tinh thần, do con người, do cộng đồng, dân tộc, loài người sáng tạo. Có văn hóa của nhân loại, văn hóa của dân tộc, văn hóa cộng đồng, văn hóa gia đình và văn hóa từng con người" [14, 79].
Nhìn chung, các khái niệm trên xác định văn hóa theo nghĩa rộng hoặc thiên về trạng thái vận động của văn hóa, nơi sinh hoạt, hoạt động hoặc thiên về trạng thái tĩnh, trạng thái kết quả của văn hóa như tổng thể các giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Với cách tiếp cận biện chứng để nắm bắt trạng thái vận động và trạng thái tĩnh của văn hóa, Hồ Chí Minh đã có nhiều phát biểu về văn hóa, trong đó có một phát biểu đáng chú ý như sau: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa" (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5). Người xem xét văn hóa trong sự thống nhất với kinh tế, chính trị, xã hội và việc xây dựng nó thực sự là một "mặt trận".
Kế thừa tư tưởng Chủ Tịch Hồ Chí Minh, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: "Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà nó liên quan tới con người trong một quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử...,cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: Tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh các cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh" [12, 16].
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng đã đưa ra nội hàm của khái niệm văn hóa, đã đề cập đến tám vấn đề lớn, trong đó "Lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm"[10, 11].
Ở đây, một mặt tiếp cận văn hóa từ đối tượng đạo đức, lối sống và chuẩn mực giá trị xã hội; có nghĩa là chúng ta quan niệm văn hóa theo nghĩa rộng. Mặt khác, việc tiếp cận đạo đức, lối sống phần nào nghiêng về trạng thái động thì việc tiếp cận các chuẩn giá trị xã hội lại nghiêng về trạng thái tĩnh. Hơn thế nữa, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với việc tất yếu diễn ra quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và sâu sắc đạo đức, lối sống. Điều đó cần thiết phải định hình, định tính được chúng để góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững nhằm giữ gìn, phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện biến động thường xuyên của nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước.
Từ cách đặt vấn đề như vậy và trên cơ sở quan điểm toàn diện, chỉnh thể có kế thừa những định nghĩa trước đó thì văn hóa được quan niệm gồm những nội dung như sau: "Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, giao lưu, tích lũy và phát triển thông qua hoạt động cải biến và ứng xử với thiên nhiên, xã hội và được biểu hiện dưới các thể thức ngày càng sâu sắc, đa dạng để tôn vinh và phát triển toàn diện con người" [37, 71; 72].
Như vậy, quan niệm văn hóa là một phức hợp nhiều mặt, do con người sáng tạo nên và văn hóa mang tính xã hội - lịch sử. Không có văn hóa ngoài xã hội loài người, văn hóa không chỉ có ở những dân tộc "thượng đẳng" mà văn hóa đều sinh thành tồn tại và phát triển ở bất cứ dân tộc nào dù trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp kém, lạc hậu hay văn minh đi chăng nữa.
Văn hóa con người bắt đầu từ văn hóa gia đình và mang dấu ấn của văn hóa gia đình.
Gia đình: Nếu như văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình, thì gia đình không chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà điều quan trọng gia đình còn là một giá trị văn hóa xã hội. Tính chất, bản sắc của gia đình lại được duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mỗi thành viên gia đình trong sự tương tác, gắn bó với văn hóa cộng đồng, dân tộc, cộng đồng giai cấp và tầng lớp của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc xác định.
Vậy, "Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục..., giữa các thành viên" [13, 236].
Nhìn chung, gia đình Việt Nam truyền thống là gia đình nhỏ, bình quân số khẩu trong một hộ gia đình từ bốn đến tám người, bao gồm hai thế hệ (cha mẹ, con cái) hoặc ba thế hệ (Có thê ông bà), có chức năng cơ bản là duy trì nòi giống, tái sản xuất ra sức lao động, tổ chức đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình, gia tộc cũng vừa là thành viên của xã hội. Con người không chỉ là gạch nối giữa tự nhiên và xã hội mà còn là gạch nối giữa gia đình và cộng đồng.
2.1.2. Quan niệm về gia đình văn hóa
Gia đình văn hóa theo quan niệm hiện đại là gia đình hội tụ được những gia lễ tốt đẹp trong truyền thống với những yếu tố hợp lý tiến bộ trong nền văn minh đương đại. Trước hết gia đình văn hóa là gia đình bình yên, mọi thành viên trong gia đình sống hòa thuận, giữ được các mối quan hệ tốt đẹp, ăn ở với hàng xóm láng giềng không xảy ra điều tiếng gì, thường xuyên quan tâm tới mọi người, tham gia công tác xã hội nhiệt tình và có hiệu quả, có tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau được mọi người tin yêu, quý mến. Từng thành viên trong gia đình là người công dân tốt, có cuộc sống trong sạch, lành mạnh, nề nếp, kỷ cương. Kết quả đem lại cho gia đình này là "Nuôi con khỏe, dạy con ngoan", con cái được học hành, mọi thành viên gia đình đều tiến bộ, đều thành đạt, không khí gia đình luôn luôn đầm ấm vui tươi. Khi giao tiếp với mọi người ai cũng cảm nhận: Trẻ em thì lễ phép, ngoan; người lớn thì khiêm tốn, thân tình, lịch sự. Cách tổ chức sinh hoạt gia đình hợp lý và có tôn ti trật tự, văn minh.
Từ những nội dung trên, gia đình văn hóa theo quan điểm của Đảng ta bao gồm những tiêu chí cơ bản sau:
Thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành các nghĩa vụ của mỗi công dân.
Thực hiện tốt các quy ước của cộng đồng, có quan hệ tốt với xóm làng, gia tộc, không dung túng tệ nạn xã hội, không mê tín dị đoan, cờ bạc, ăn uống bê tha.
Thực hiện chế độ một vợ, một chồng, mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ một đến hai con. Xây dựng không khí hòa thuận, đầm ấm, hạnh phúc trong gia đình. Giáo dục và phát huy truyền thống con cháu hiếu nghĩa với ông bà, cha mẹ; cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái; vợ chồng thủy chung, bình đẳng; anh em hòa thuận.
Có kế hoạch phát triển kinh tế hộ gia đình chính đáng và có hiệu quả; không ngừng nâng cao chất lượng của các thành viên trong gia đình, thực hiện tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí.
Có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, ăn ở hợp vệ sinh, biết bảo vệ các di sản văn hóa và các di tích lịch sử [33, 109].
Nếp sống văn minh, gia đình văn hóa theo các tiêu chí trên chỉ hình thành trong môi trường in đậm tính nhân văn - môi trường văn hóa.
Tuy nhiên mỗi một địa phương, vùng lãnh thổ, thành phần dân tộc cần vận dụng sáng tạo những định hướng cơ bản trong xây dựng gia đình văn hóa, cụ thể hóa những định hướng ấy thành các tiêu chí cụ thể, thích hợp với hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội phù hợp với từng hình thức gia đình hiện có. Trong mỗi giai đoạn thực hiện nhất định lại đề ra những tiêu chí cụ thể sát hợp trong từng nội dung xây dựng gia đình, tránh trường hợp đề ra tiêu chuẫn chung chung, không cụ thể. Đồng thời chú ý phải rút kinh nghiệm sau mỗi thời kỳ, mỗi phong trào vận động cụ thể.
Từ việc nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời có sự kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc nói chung và văn hóa Huế nói riêng, nên hiện nay tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang phát động phong trào xây dựng gia đình văn hóa trên toàn tỉnh và mang một nét riêng của văn hóa gia đình xứ Huế.
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
Thừa Thiên Huế là một vùng đất mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam. Những thành tựu trong quá trình xây dựng và phát triển ở Thừa Thiên Huế đã vun đắp, hình thành nên những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của một vùng đất có bề dày lịch sử, anh dũng, kiên cường, đoàn kết, gắn bó, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Những giá trị tốt đẹp đó đã được kế thừa và phát huy qua nhiều thế hệ, hun đúc để trở thành những phẩm chất tốt đẹp của con người vùng đất Thừa Thiên Huế, là tiền đề quan trọng để Thừa Thiên Huế xây dựng gia đình văn hóa đạt hiệu quả cao.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có thành phố Huế, 7 huyện và một thị xã, trong đó có hai huyện miền núi là Nam Đông và A Lưới, toàn tỉnh có 152 xã, phường, thị trấn trong đó có 44 xã miền núi và vùng cao, 12 xã đặc biệt khó khăn, diện tích toàn tỉnh là 5.053km2 với dân số là 1.160.000 người, mật độ dân số 225 người/km2, có năm dân tộc cùng chung sống.
Trước những biến đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội, cấu trúc và chức năng của gia đình có nhiều thay đổi, nhưng về cơ bản mô hình gia đình truyền thống ở Thừa Thiên Huế là gia đình có "ba thế hệ" (ông bà, cha mẹ, con cái) là phổ biến. Truyền thống, nề nếp gia phong vốn có của vùng đất cố đô vẫn tiếp tục được duy trì, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình gắn bó bền chặt.
Cùng với phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh: "Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giới, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ trẻ em. Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ, coi trọng xây dựng gia đình văn hóa” [40, 41; 37]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ "nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt".
Quán triệt tinh thần đó, phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế với các tiêu chí cơ bản là: Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, khỏe mạnh; thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện kế hoạch hóa gia đình; đoàn kết tương trợ, giúp đỡ mọi người trong cộng đồng, giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, xóa đói, giảm nghèo.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế đã góp phần xây dựng, giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nhất là nề nếp gia phong của gia đình vùng đất Thừa Thiên Huế. Nêu cao vai trò gương mẫu trách nhiệm của các bậc cha mẹ, phát huy những phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp của mỗi người, phòng chóng các tệ nạn xã hội, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Trong báo cáo kết quả triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế giai đoạn 2005 – 2010. Từ khi phát động phong trào xây dựng gia đình văn hóa, trên toàn tỉnh đã có 206.372/ 224.911 hộ gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa (đạt tỷ lệ 91,7%) tăng 102.411 hộ, trong đó có 165.179 hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa (đạt 80%) tăng 123.156 hộ so với năm 2009. Nhiều địa phương có tỷ lệ đăng ký gia đình văn hóa khá cao như thành phố Huế: 59.375/ 62.544 hộ gia đình đăng ký (tỷ lệ 84,6%); Huyện Hương Trà: 21.672/ 22.502 hộ đăng ký (đạt 96,3%), trong đó đã có 16.936 hộ được công nhận (tỷ lệ 78,1%); Huyện Phong Điền :21.500/ 21.500 hộ đăng ký (đạt 100%), trong đó có 17.349 hộ được công nhận (tỷ lệ 80,6%), Huyện Quảng Điền: 18.706/ 19.504 hộ đăng ký (đạt 95,9%), trong đó có 16.570 hộ được công nhận (tỷ lệ 88,6%); Huyện Nam Đông: 4.200/ 4.520 hộ đăng ký (đạt 92,9%), trong đó có 3.666 hộ được công nhận (tỷ lệ 87,2%).
Mặc dù, công tác xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế giai đoạn 2005- 2010 đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong không khí hòa chung với quá trình xây dựng gia đình văn hóa của cả nước, thì ở Thừa Thiên Huế xây dựng gia đình vẫn mang đậm bản chất văn hóa Huế. Bởi, Thừa Thiên Huế, đã từng là thủ phủ của vương triều nhà Nguyễn, là nơi tồn tại cuối cùng của chế độ phong kiến ở nước ta. Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo được triều đình nhà Nguyễn đưa lên vị trí độc tôn trong nền tảng tư tưởng của đời sống tinh thần. Do vậy, học thuyết Nho giáo nói chung và tư tưởng Ngũ thường nói riêng vẫn còn ảnh hưởng đến đời sống văn hóa và phong trào xây dựng gia đình văn hóa. Sau đây là thực trạng và các giải pháp xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
2.2.1. Xây dựng đạo đức gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay
Đạo đức gia đình là "toàn bộ những quan niệm về giá trị và quy phạm về hành vi của con người trong vấn đề hôn nhân và quan hệ gia đình. Mọi cử chỉ, hành vi, thái độ của mỗi người về hôn nhân và quan hệ gia đình vừa thể hiện bản chất của cá nhân, vừa cho biết bản chất của đạo đức trong gia đình" [23, 20].
Gia đình được ví như nước nhỏ, Nho giáo cho rằng, địa vị của gia đình có tầm quan trọng đặc biệt trong sự ổn định của xã hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử, giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào thân phận của mỗi người. Nói đến gia đình tức là nói về việc tề gia. Tề, có nghĩa là, sắp đặt, thu xếp cho gọn gàng chu đáo. Muốn làm được việc ấy, trước hết phải tự tu thân. Tu thân ở đây có nghĩa là con người phải hiểu biết rõ những phép tắc cần thiết, được người ta gọi là đạo luân thường. Luân có Ngũ luân gồm: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bầu - bạn. Thường có Ngũ thường gồm: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Đó là những đức tính đòi hỏi con người phải biết trong sự tu thân. Ngũ thường là cơ sở để nguời thực hiện Ngũ luân và trên cơ sở để xây dựng đạo đức gia đình trên phạm vi cả nước nói chung và xây dựng gia đình ở Thừa Thiên Huế nói riêng.
Huế là thành trì cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, nên sự ảnh hưởng đó càng sâu sắc và rõ nét hơn. Đây vốn là vùng đất có bề dày của truyền thống Nho giáo, lịch sử đã để lại cho Thừa Thiên Huế những di sản văn hóa vật chất và cả một hệ thống các giá trị văn hóa phi vật thể, trong đó có các giá trị, chuẩn mực đạo đức gắn với gia đình và đây là cơ sở để Thừa Thiên Huế xây dựng gia đình văn hóa mang đậm bản sắc gia đình Việt Nam, đồng thời thể hiện nét riêng trong văn hóa gia đình xứ Huế.
Với Thừa Thiên Huế việc xây dựng đạo đức gia đình văn hóa chịu sự ảnh hưởng lớn của đức Nhân trong tư tưởng Ngũ thường. Bởi, theo Khổng Tử, "Nhân là yêu người", lúc khác Ông lại cho rằng "Ai làm được năm điều: Cung, khoan, tín, mẫn, huệ người nhân". Khổng Tử lại nói: "Mình nghiêm trang cung kính thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình có lòng rộng lượng thì thu phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thật thì người ta tin cậy mình. Nếu mình thi ân, bố đức gia huệ thì mình sai khiến được người" [17, 273]. Làm được năm đức ấy thì dân vui lòng nghe theo, dân tin và dễ bề sai khiến. Với Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có thể đạt được cuộc sống an vui, lâu dài với lòng nhân của mình và dẫu có ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng có thể yên ổn. Người có nhân là người có tình cảm chân thực, hết lòng vì nghĩa, trung thứ. Với cha mẹ và anh em, biểu hiện cao nhất của đức nhân là hiếu đễ. Một người hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính với anh em thì theo lẽ tự nhiên họ sẽ tôn kính bề trên, thiên hạ sẽ thái bình. Hiếu đễ là biểu hiện cao nhất của việc thực hành đức Nhân, đồng thời "Hiếu đễ được gọi là cái gốc của đức Nhân" từ đó làm nảy sinh ra các đức khác.
Do ảnh hưởng của tư tưởng "Hiếu đễ là gốc của đức Nhân" nên người dân Thừa Thiên Huế rất coi trọng vấn đề hiếu đạo. Chuyện con cháu làm tròn chữ hiếu với ông bà, cha mẹ mình trở thành trách nhiệm mà ai cũng phải biết, phải làm. Làm con hiếu thảo tức là phải luôn nghe lời cha mẹ, phải làm thế nào cho cha mẹ phải luôn hài lòng và có thể tự hào về con của mình. Họ bày tỏ lòng hiếu thảo bằng cách: "làm nở mày nở mặt" cha mẹ, tức là thành công trong xã hội, gánh vác cái trách nhiệm của cha mẹ để lại cũng như phát huy và làm rạng danh cho gia đình mình. Điều mà những người con nơi đây sợ nhất là "làm Mạ buồn" với họ như thế là bất hiếu.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của đức Nhân trong tư tưởng Ngũ thường biểu hiện ở chỗ thực hiện "hiếu đễ". Gia đình là môi trường sống của "hiếu đễ". Gia đình phải hòa thuận, anh em đùm bọc lẫn nhau, xây dựng gia đình có đạo đức hay "gia giáo" nếu không "hiếu đễ" cũng chẳng để làm gì cả. Hiếu là lòng yêu thương, kính trọng cha mẹ, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ đau ốm, kể cả lúc tang ma thờ cúng khi cha mẹ đã chết. Hiếu với cha mẹ khi đã chết cũng rất quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc. Ở xứ Huế, mọi người tổ chức tang tế cho ông bà, cha mẹ rất chu đáo. Vua Tự Đức đã từng để tang cha tám tháng, sang trọng, hết sức tốn kém. Ông nói: "Sửa sang tang nghi là việc lớn, dẫu hợp cả tài lực của bốn bể năm châu cũng chưa dám cho là xa xỉ" [19, 45].
Khổng Tử cho rằng: "Nhân là yêu người", mặt khác, "Ai làm được năm điều: Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ người nhân". Theo Khổng Tử biểu hiện cao nhất của Nhân là Hiếu đễ, và cái gốc của hiếu đễ là nhân. Khổng Tử nói đức nhân là cái gốc của con người, nhưng Ông cũng nói đức hiếu là gốc của đạo đức con người. Khổng Tử viết: “khi người cha còn sống, nên quan sát cử chỉ của cha mình, khi người cha mất đi nên làm theo những việc làm của cha mình; người cha mất trong ba năm mà người con không thay đổi đạo của cha, đó mới có thể gọi là người con có hiếu”. Khổng Tử giảng giải! Làm con khi cha mẹ còn sống phải phụng sự cho có lễ, khi cha mẹ mất đi phải mai táng cho có lễ và khi cúng tế cũng phải giữ cho đúng lễ.
Thừa Thiên Huế chịu ảnh hưởng của Nhân khá nặng nề, điều đó biểu hiện ở chỗ họ thực hiện đạo hiếu với ông bà, cha mẹ mình. Lối giữ gìn đạo hiếu thái quá của người Huế thể hiện qua việc tổ chức tang lễ, cúng tế rườm rà, tốn kém. Nhiều gia đình tổ chức tang lễ trong nhiều ngày, bày biện "mâm cao cỗ đầy" và xây dựng lăng mộ đồ sộ, bởi theo họ như vậy mới làm tròn đạo hiếu.
Thực hiện đạo hiếu của người dân Thừa Thiên Huế như vậy phải xuất phát từ tấm lòng, thương yêu, kính trọng ông bà, cha mẹ của con cháu. Tuy nhiên, nếu thực hiện đạo hiếu một cách thái quá sẽ trở thành hủ tục lạc hậu. Bởi, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu, biết quan tâm, lo lắng đến đời sống tinh thần để lúc về già cha mẹ được an nhàn, thanh thản đó mới là điều đáng làm, còn "khi sống thì chẳng thấy đâu lúc chết làm cỗ giết trâu tế ruồi" sẽ để lại tiếng xấu về sau.
Thực tế, ở Thừa Thiên Huế việc thực hiện đạo hiếu thái quá như vậy có ảnh hưởng lớn đến đời sống của gia đình, của cộng đồng và xã hội. Đồng thời, phong trào xây dựng gia đình văn hóa phải chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về những quy định trong việc tang tế. Đồng thời, phải xây dựng hệ thống đạo đức gia đình lành mạnh, tiến bộ, cần phải chống đối sự xâm nhập của chủ nghĩa sùng bái tiền - vàng, chủ nghĩa cá nhân không chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, người già cả trong gia đình.
Việc xây dựng đạo đức gia đình ở Thừa Thiên Huế có nét tiêu biểu cho văn hóa gia đình của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng về Lễ trong Ngũ thường của Nho giáo. Lễ là những chuẩn mực, những quy tắc, những yêu cầu có tính bắt buộc đối với mọi hành vi ứng xử của mỗi con người trong các quan hệ xã hội. Trong các biểu hiện của Lễ nhà vua phải thương yêu bề tôi, bề tôi phải tận trung với vua; cha mẹ phải yêu thương con cái, con cái phải hiếu kính với cha mẹ. Để xây dựng đạo đức gia đình có nề nếp, Ngũ thường còn đòi hỏi mọi người trong gia đình phải tuân theo Lễ, bởi chỉ có Lễ con người mới phân biệt được thân sơ và trở thành con người của xã hội: "Chim Anh vũ có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài chim, con tinh tinh có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài cầm thú". Làm người mà không có Lễ thì tuy biết nói đấy nhưng có khác gì loài cầm thú ? cho nên cha con ở lẫn lộn với nhau. Vì vậy việc làm người của bậc thánh nhân là lấy Lễ dạy người, khiến người ta ai cũng biết để phân biệt người với cầm thú [32, 37].
Các thành viên trong gia đình Huế được xem là con người có Lễ, Nghĩa thì phải đi "thưa" về "trình", đi đâu thì phải cho cha mẹ biết, làm gì cũng phải lo cho sự nghiệp của mình, không vào chỗ nguy hiểm để cha mẹ lo lắng, không lên chỗ cao, xuống chỗ sâu, không nghe lén người khác nói chuyện, không nhận ban thưởng..., ăn nói phải giữ ý giữ tứ. Chính ảnh hưởng của tư tưởng này làm cho người dân ở chốn Cố Đô có một phong cách mà người ta thường gọi là "đài các", tức là sự giữ kẽ và ý tứ trong mỗi con người. Khuôn vào trong đạo đức gia đình nên ta thấy các gia đình ở Huế thường có hiện tượng "kín cửa" hay là "kính cổng cao tường" là đều ta dễ bắt gặp.
Như vậy, tư tưởng Ngũ thường với năm đức cơ bản thuộc về đạo đức mỗi con người, đã giúp cho bản thân của mỗi thành viên trong gia đình tự kiểm điểm, hoàn thiện bản thân, hoàn thiện nhân cách của mình. Nó làm cho mỗi cá nhân gạt bỏ được thói hư tật xấu và xây dựng được những đức tính tốt. Chính thông qua sự kiểm điểm mà lòng nhân ái, tinh thần thượng nghĩa, đức hiếu kính cũng như đức khiêm nhường được nâng cao. Giữa con người với con người trong gia đình và trong xã hội hòa đồng tiến tới xây dựng gia đình Thừa Thiên Huế ấm no, hạnh phúc.
Để xây dựng đạo đức gia đình tiến bộ, lành mạnh góp phần xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế. Trước hết, về mặt nhận thức, cần xem việc xây dựng đạo đức gia đình là công việc quan trọng, có ý nghĩa của mỗi một cá nhân, mỗi gia đình và toàn thể nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trong quá trình xây dựng gia đình văn hóa, cần phải kế thừa những giá trị đạo đức trong tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo như tôn kính, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. Đồng thời phải loại bỏ những hủ tục làm anh hưởng đến phong trào xây dựng đạo đức gia đình.
2.2.2. Xây dựng nếp sống gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay
Nếp sống gia đình là "cách tổ chức cuộc sống, sinh hoạt ổn định của các thành viên trong gia đình, bao gồm cả hoạt động nghề nghiệp, vui chơi, giải trí, giáo dục con cái ăn, ngủ cũng như những ngày lễ tết. Đó là toàn bộ sự phân công thực hiện các nhiệm vụ khác nhau giữa các thành viên nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mỗi một gia đình" [6, 57].
Theo tiến trình của sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thiết chế gia đình Việt Nam nói chung và thiết chế gia đình Thừa Thiên Huế nói riêng đang có sự chuyển biến từ truyền thống sang hiện đại. Trong những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI có nêu: “Xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải có môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hóa Việt Nam” [77, 37].
Có người cho rằng, con người ta muốn thành người theo đúng nghĩa của nó thì cần trải qua ba lần xã hội hóa. Lần thứ nhất là gia đình, lần thứ hai là nhà trường, lần thứ ba là ngoài đời. Trong ba lần xã hội hóa ấy thì gia đình là khâu đầu tiên có tầm quan trọng đặc biệt.
Đạo Khổng xem một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con người đó là: tu thân, tề gia, trị quốc. Mà cả ba khâu tu thân, tề gia, trị quốc đều có cơ sở từ gia đình. Cho nên, những mối quan hệ cơ bản nhất, cốt thiết nhất theo Nho giáo là Tam cương và Ngũ luân, nhưng để thực hiện tốt những mối quan hệ đó phải dựa trên cơ sở của Ngũ thường tức là phải thực hiện được: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Hơn nữa, theo các bậc thánh hiền đạo Nho các đức tốt trong lĩnh vực chính trị - xã hội, điều quyết định nhất tới chỗ trị quốc bình thiên hạ cũng bắt đầu từ các đức cơ bản trong đời sống gia đình. Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy phạm đạo đức tương ứng với từng mối quan hệ trong gia đình. Đã là gia đình thì phải có quan hệ vợ - chồng, cha - con, anh - em. Trong gia đình thì vợ chồng phải hòa thuận, "phu xướng phụ tùy"; là cha thì phải hiền từ, biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương cho con cái học tập. Ngược lại phận làm con phải ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Đã là anh em thì phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau; là anh chị phải biết nhường nhịn, là em phải biết nghe lời, lễ phép... Những yêu cầu đạo đức, những quy tắc xử sự như vậy đã tạo nên nếp sống văn hóa trong gia đình Việt Nam.
Huế là thành trì cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam nên sự ảnh hưởng đó càng sâu sắc và rõ nét hơn. Đây là vùng đất có bề dày của truyền thống Nho giáo, lịch sử đã để lại cho Thừa Thiên Huế không chỉ là những di sản văn hóa vật thể mà còn cả hệ thống văn hóa phi vật thể, trong đó có các giá trị chuẩn mực gắn với đạo đức, nếp sống văn hóa gia đình Thừa Thiên Huế.
Về cơ bản, gia đình truyền thống ở Thừa Thiên Huế là mẫu gia đình phổ biến có ba thế hệ (ông bà, cha mẹ, con cái) cùng chung sống duới một nếp nhà. Tính nề nếp, gia phong trong quá khứ vẫn tồn tại một cách bền vững trước những biến đổi ngoài xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng nếp sông gia đình ở Huế hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là nền tảng để nối kết các thành viên trong gia đình, xây dựng nếp sống văn hóa gia đình vững mạnh, hạnh phúc.
Để xây dựng gia đình hòa mục, tư tưởng Ngũ thường chủ trương, dùng Lễ, Nghĩa để thể chế hóa, làm cho mỗi thành viên theo đó mà cư xử, tự kiềm chế không xẩy ra xích mích trong gia đình. Theo Ngũ thường, trong gia đình phải có người chủ, người trên, người dưới. Trong ba mối quan hệ: cha - con, vợ - chồng, anh - em được quy định trên dưới rõ ràng và đặt ra nghĩa vụ người dưới phải nghe theo lời người trên để làm cho gia đình có thứ bậc, có trật tự chặt chẽ. Mạnh Tử nói: "Sinh ra ai chẳng yêu cha mẹ, ai chẳng kính anh, theo anh và đó là mầm móng của cái thiện trong mỗi con người".
Do sự ảnh hưởng của tư tưởng Ngũ thường, nên trong nếp sống gia đình người dân Thừa Thiên Huế có đặc trưng nổi bật là trong quan hệ ứng xử người Huế rất nhạy cảm với cảnh sướng khổ, vui buồn của người xung quanh. Vì vậy, họ luôn sẵn sàng chia sẻ với người khác, chữ "tâm" là cái gốc để hình thành nên lối ứng xử như vậy của người Huế. Từ cái "tâm" con người chứa đựng tất cả tình yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái, vị tha. Tinh thần lá lành đùm lá rách được đề cao, hàng xóm láng giềng quan tâm giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn khó khăn. Có người đã nhận xét rằng: "Xứ Huế còn là xứ đạo nghĩa ân tình giữa mẹ con, cha con, vợ chồng, anh em, thầy trò, làng xóm, chủ khách gắn bó với nhau trong tình nghĩa thủy chung".
Theo nếp sống văn hóa gia đình Thừa Thiên Huế, thì nếu "trong nhà có chuyện gì sai trái thì đóng cửa bảo nhau chứ đừng đem ra nói với người ngoài". Họ thường đề cao trách nhiệm với gia đình hơn hạnh phúc riêng tư cá nhân. Từ "tình" mà thành "nghĩa" đã tạo nên ý thức trách nhiệm của mọi người trong gia đình.
Trong tư tưởng Ngũ thường Lễ, Nghĩa đối với các thành viên trong gia đình cũng rất được quan tâm, nó được quy định là cách đối xử cụ thể chi tiết trong từng trường hợp: Thăm viếng, đứng ngồi, xưng hô, thưa gửi lễ phép, dạ thưa, có ý tứ, từ tốn, nhường nhịn mọi người.
Với bản chất hiền lành, bình dị của mình, người Huế đánh giá cao sự hồn nhiên, sự tế nhị, dịu dàng và sâu sắc trong tính tình, trong giao tiếp. Họ rất khó chịu về sự khiếm nhã, suồng sã, thô bạo, gian dối. Chỉ một sự dửng dưng, lạnh nhạt, khách sáo, giả tạo cũng làm phiền lòng những con người vốn nhạy cảm ấy. Nhưng, sự phiền lòng nhiều khi cũng rất kín đáo hay là sự biểu lộ rất nhẹ nhàng, đặc biệt là từ "dạ" - một từ thể hiện sự khiêm tốn của người Huế. Thâm trầm, trầm tĩnh, trầm lắng là phong cách đặc biệt của con người xứ Huế, từ đó cũng tạo nên nếp sống đặc biệt trong gia đình của cư dân Huế.
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín cũng tạo ra nếp sống gia đình Huế là lối sống trọng lễ nghi trong gia đình, tức là cách biểu đạt lòng yêu thương, sự hòa mục, thái độ tôn kính, thương yêu lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Từ những chuyện bình dị nhất trong cuộc sống như rót một chén nước, xới một bát cơm, thăm hỏi mọi người lúc ngủ, lúc dậy, đứng ngồi, nói chuyện với nhau..., cũng kèm theo nghi thức thể hiện tình cảm chu đáo, trên dưới phân minh. Mỗi thành viên trong gia đình đều biết nhiệm vụ lễ tiết và nghi thức đối với từng trường hợp, tự giác làm theo tạo thành nếp sống của gia đình.
Theo tư tưởng của Ngũ thường thì Nghĩa là tiêu chuẩn, là chuẩn mực đạo đức để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong gia đình. Theo đó đức Nghĩa yêu cầu vợ chồng phải thương yêu và có trách nhiệm với nhau. Tuy nhiên, trong quan niệm của Ngũ thường nói riêng và Nho giáo nói chung trong gia đình và ngoài xã hội người phụ nữ nói chung được đánh giá thấp hơn so với nam giới. Đây chính là điều làm cho vai trò người chồng, người con trưởng trong gia đình trở thành quan trọng và có ảnh hưởng đến việc xây dựng đạo đức gia đình ngày nay.
Từ thời Phong kiến, đức Nghĩa trong Ngũ thường đã có ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ làm cho gia đình ở Thừa Thiên Huế có cấu trúc vững chắc và được liên kết bởi những mối quan hệ có trên dưới rạch ròi tạo ra một xã hội có trật tự, tôn ti tuyệt đối. Từ việc thiết lập các mối quan hệ trong gia đình có tôn ti trật tự, người đàn ông là chủ gia đình chịu trách nhiệm về mọi người trong gia đình với làng, với nước, đồng thời chịu trách nhiệm cả về vật chất lẫn tinh thần đối với gia đình mình. Đó là cơ sở tạo nên sự vững chắc trong kết cấu gia đình ở Thừa Thiên Huế. Bên cạnh vai trò của người chồng, người cha trong gia đình thì vai trò của người vợ, người mẹ trong gia Thừa Thiên Huế cũng được quan tâm đúng mức. Bởi, con người xứ Huế quan niệm rằng người đàn ông phải gánh vác những công việc lớn lao ngoài xã hội những việc nhỏ nhặt thuộc về "bếp núc" là việc riêng của người phụ nữ.
Ngày nay, ngoài việc chăm lo xây dựng gia đình mình theo những tiêu chuẩn của xây dựng gia đình văn hóa, thì người phụ nữ ở Thừa Thiên Huế đã vươn ra tham gia các hoạt động xã hội để được tôn vinh là người "giỏi việc nước, đảm việc nhà". Biểu hiện ở việc người phụ nữ Huế hiện đại vẫn được buộc chặt với "tứ đức" và được xem là chuẩn mực đạo đức căn bản của người phụ nữ. "Tứ đức" gồm: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
Về "Công", người phụ nữ ở Huế hơn hẳn những người khác trong nữ công gia chánh. Phụ nữ Huế đứng đầu về sự đảm đang, khéo léo đặc biệt là tài nội trợ. Một trong những đặc điểm nổi bật của nghệ thuật nấu ăn của các bà, các mẹ, các chị nội trợ Huế là thể hiện biệt tài về sự phối hợp nhiều loại thực phẩm để tạo ra những món ăn nổi tiếng làm nên phong vị ẩm thực xứ Huế. Đây là cơ sở để người phụ nữ Huế xây dựng và vun đắp những chuẩn mực đạo đức gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Về "Dung", nét nổi bật của phụ nữ Thừa Thiên Huế là ăn mặc kín đáo, giản dị. Hình ảnh của họ gắn liền với chiếc áo dài truyền thống và chiếc nón bài thơ. Áo dài Huế trang trọng và kín đáo. Vẫn là chiếc áo dài Việt Nam có gốc gác từ áo năm thân cổ truyền nhưng trong dòng cải biến, cách tân chung ấy phụ nữ Huế cũng tạo cho mình phong cách riêng bởi cách may, kiểu mặc, màu sắc...,phụ nữ Huế chọn vải cho chiếc áo dài truyền thống của mình với những gam màu nhẹ nhàng như tím phớt, xanh lơ, vàng mơ, hồng nhạt. Màu được ưa chuộng nhất là màu trắng, các cô gái Huế xem đó là tượng trưng cho sự thanh bạch, trong trắng. Còn các bà, các chị đã có chồng thì thích chọn cho mình màu tím vì theo họ màu tím tượng trưng cho sự thủy chung, sâu sắc, chín chắn.
Về "Ngôn", phụ nữ Huế được mọi người khen là ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng. Dường như giọng nói của họ luôn được thể hiện qua hai tiếng "dạ", "thưa" nhẹ nhàng, lại rất mực ngọt ngào hiền thực. Phụ nữ Huế kín đáo, ít bày tỏ; song, giọng nói đủ làm nổi bật phong thái đặc biệt của phụ nữ chốn Thành kinh này. Đó là sự nghiêm trang giữ gìn lễ tiết, dù cả trong lời nói.
Về "Hạnh", của phụ nữ Thừa Thiên Huế cũng khá đặc biệt, nơi đây có bài ca "Mười thương" theo điệu tình tang để nói lên phẩm hạn của người con gái Huế. Cái "duyên" của họ trân trọng yêu quý nhất bao hàm phẩm hạnh hay cái đạo nghĩa thông thường thì mái tóc của người con gái tượng trưng cho những gì cao cả để tôn thờ, để cúi đầu bái lạy trước phụ mẫu, tổ tiên và gia đường hương hỏa. Gọi "tóc thề" khi cắt một ít tóc ấy làm tin cho mối tình sâu nặng với ai đó người con gái Huế coi như đã thể hiện một lời thề hết sức lớn lao và có ý nghĩa, đó cũng là chữ "Hạnh" của đạo nghĩa luân thường và chung thủy.
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng về Ngũ thường của Nho giáo, trong phong trào xây dựng nếp sống gia đình văn hóa, Hội phụ nữ tỉnh Thừa Thiên Huế đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng nếp sống gia đình. Vì vậy, hàng năm hội phụ nữ tỉnh phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức nhiều hội thi về "Tứ đức" kịp thời biểu dương và nêu gương tiêu biểu để phát huy được vai trò của người vợ, người mẹ trong xây dựng đạo đức gia đình lành mạnh, bền vững.
Đồng thời, trong tư tưởng đạo đức Ngũ thường còn ràng buộc người phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân. Bởi Ngũ thường xem việc dựng vợ gả chồng cho con là việc hệ trọng, nó không chỉ liên quan đến hạnh phúc của con mà còn liên quan tới hạnh phúc của cả gia đình, dòng họ. Hôn nhân với nhiều nghi lễ, không chỉ làm cho việc lấy vợ, lấy chồng trở thành nghiêm trang, trọng thể mà còn nhằm giáo dục cho vợ chồng sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình. Nhờ vậy, "dù ở bất cứ loại hình nào, gia đình Huế tồn tại khá vững chắc, ít có trường hợp ly hôn, ly thân, ly dị. Các thành viên thường luôn yêu thương, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau tạo nên mái ấm gia đình có nề nếp, văn hóa. Nhờ phong trào xây dựng gia đình văn hóa này mà chúng ta thấy không ít gia đình thành đạt trong lĩnh vực học vấn, trong lĩnh vực kinh doanh, hay trong lĩnh vực chính trị..., tạo nên truyền thống riêng. Ngày xưa, do các quan niệm cổ truyền như "đông con là nhà có phúc"..., nên gia đình thường có nhiều thành viên chung sống với nhau "Tam đại đồng đường", "Tứ đại đồng đường". Nhưng ngày nay, với phong trào xây dựng gia đình văn hóa tình hình ấy giảm dần nhất là trong phạm vi thành phố Huế [26, 31]. Việc xây dựng nếp sống gia đình trên nền tảng coi trọng tổ tiên, coi trọng tình nghĩa là những chuẩn mực văn hóa của gia đình truyền thống được giữ gìn, phát huy và khẳng định nó như những chuẩn mực giá trị chính cho các thành viên trong gia đình Thừa Thiên Huế hiện đại. Tuy nhiên, thực trạng xây dựng nếp sống gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, như tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong nhận thức của con người.
Trong Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, thì đức Nghĩa được xem là chuẩn mực đạo đức để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình với nhau. Vợ phải yêu thương, chăm sóc, thủy chung, và có trách nhiệm với chồng. Tuy nhiên, địa vị xã hội và vai trò của người phụ nữ được nhìn nhận và đánh giá thấp hơn người đàn ông. Xuất phát từ quan niệm coi trọng huyết thống và xem thường phụ nữ, Khổng Tử đã cho rằng đàn bà và bọn tiểu nhân là những kẻ khó dạy "Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã" [19, 706]. Thậm chí tư tưởng này còn đặt tình nghĩa anh em cao hơn tình nghĩa của vợ chồng. Phụ nữ là tầng lớp đã chịu nhiều thiệt thòi do chế độ hà khắc trong xã hội và gia đình gây nên. Phụ nữ không bao giờ là người chủ gia đình bởi họ bị buộc chặt với "Tam tòng" không thể thoát ra được: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" và người phụ nữ còn bị bủa vây bởi lưới của "Tứ đức" gồm Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Như vậy, người phụ nữ chỉ biết chịu sự sai khiến của chồng và gia đình bên chồng. Không những thế phụ nữ còn phải biết "vâng dạ", "tùy" và "tòng" theo người đàn ông suốt đời cho dù người đó là cha, chồng, hay là con trai mình. Nếu như chồng mất thì người phụ nữ phải giữ gìn danh tiết, còn đối với đàn ông thì họ tự cho mình cái quyền năm thê bảy thiếp và tiết liệt của họ cũng chẳng có gì để mà giữ gìn. Việc giáo dục đạo lý Tứ đức cho người phụ nữ không phải để tôn vinh đức tính cao đẹp của người phụ nữ mà để phục vụ Tam tòng và cột chặt người phụ nữ với gia đình. Làm cho phụ nữ tự kiềm chế và tước bỏ ham muốn cá nhân, chịu giáo dục để vâng lời, để hy sinh vì chồng con, vì gia đình nhà chồng. Phụ nữ dưới con mắt của các nhà Nho quả là không có nhân cách độc lập, chỉ thấy và chỉ biết khai thác vai trò của người phụ nữ trong gia đình mà chưa thấy hay cố tình không thấy vai trò của người phụ nữ ở trong xã hội. Nhà với nam giới là gốc của nước và thiên hạ thì đối với phụ nữ là ngục tối âm u, cách ly họ với xã hội bên ngoài. Rõ ràng đó là một thứ đạo đức lạc hậu, nó "Như người ngược đầu xuống đất, chân chổng lên trời" (Hồ Chí Minh toàn tập; tập 6, 320).
Ở Thừa Thiên Huế người phụ nữ trong gia đình có nhiệm vụ sinh con đẻ cái và chăm lo chuyện bếp núc để phục vụ chồng con. Trong việc sinh con đẻ cái: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô". Do tư tưởng trọng nam khinh nữ mà nhiều gia đình cố sinh cho được người con trai để nối dõi tông đường, để làm đích tôn cho dòng họ. Ở Thừa Thiên Huế người dân thường sử dụng từ "vô hậu" để chỉ những gia đình không có con trai. Điều đó cho thấy tư tưởng trọng nam khinh nữ biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày và có ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
Trong xã hội cũ chuyện người đàn ông lấy vợ lẽ là chuyện bình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KL-ThuyVan.doc