Khóa luận Nghiên cứu hiện trạng phân bố của quần thể dừa nước tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An

Tài liệu Khóa luận Nghiên cứu hiện trạng phân bố của quần thể dừa nước tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An: TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐỨC TRÍ KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC – MÔI TRƯỜNG ––––@&?———— NGÔ THỊ TRÀ MY NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG PHÂN BỐ CỦA QUẦN THỂ DỪA NƯỚC TẠI Xà CẨM THANH, THÀNH PHỐ HỘI AN Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐÀ NẴNG, 2011 TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐỨC TRÍ KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC – MÔI TRƯỜNG ––––@&?———— NGÔ THỊ TRÀ MY NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG PHÂN BỐ CỦA QUẦN THỂ DỪA NƯỚC TẠI Xà CẨM THANH, THÀNH PHỐ HỘI AN Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG Người hướng dẫn khoa học: NGUYỄN THỊ GIA THẠNH ĐÀ NẴNG, 2011 LỜI CẢM ƠN Trong thời gian học tập tại trường em đã tiếp thu rất nhiều kiến thức và khóa luận này là thành quả của quá trình học tập và rèn luyện dưới sự dày công dạy bảo của Quý Thầy Cô Trường Cao đẳng Đức Trí. Em xin gởi đến Quý Thầy Cô lời cảm ơn chân thành, đặc biệt em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn Thị Gia Thạnh đã giúp em hoàn thành tốt bài khóa luận tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn các chú trong Hội Nông Dân xã Cẩm Thanh đã...

doc43 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Nghiên cứu hiện trạng phân bố của quần thể dừa nước tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐỨC TRÍ KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC – MÔI TRƯỜNG ––––@&?———— NGÔ THỊ TRÀ MY NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG PHÂN BỐ CỦA QUẦN THỂ DỪA NƯỚC TẠI Xà CẨM THANH, THÀNH PHỐ HỘI AN Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐÀ NẴNG, 2011 TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐỨC TRÍ KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC – MÔI TRƯỜNG ––––@&?———— NGÔ THỊ TRÀ MY NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG PHÂN BỐ CỦA QUẦN THỂ DỪA NƯỚC TẠI Xà CẨM THANH, THÀNH PHỐ HỘI AN Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG Người hướng dẫn khoa học: NGUYỄN THỊ GIA THẠNH ĐÀ NẴNG, 2011 LỜI CẢM ƠN Trong thời gian học tập tại trường em đã tiếp thu rất nhiều kiến thức và khóa luận này là thành quả của quá trình học tập và rèn luyện dưới sự dày công dạy bảo của Quý Thầy Cô Trường Cao đẳng Đức Trí. Em xin gởi đến Quý Thầy Cô lời cảm ơn chân thành, đặc biệt em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn Thị Gia Thạnh đã giúp em hoàn thành tốt bài khóa luận tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn các chú trong Hội Nông Dân xã Cẩm Thanh đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm đề tài. Với thời gian thực tập hạn hẹp và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu xót, em kính mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của Quý Thầy cô. Cuối cùng em vô cùng cảm ơn gia đình đã động viên và tạo điều kiện hết sức để em hoàn thành khóa luận này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và kính chúc Quý Thầy cô sức khỏe và thành đạt. Đà Nẵng, ngày 14 tháng 5 năm 2011 Sinh viên thực hiện Ngô Thị Trà My DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tên gốc RNM Rừng ngập mặn UNEP Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc UBND Uỷ ban nhân dân DN Dừa nước ĐNN Đất ngập nước BĐKH Biến đổi khí hậu ĐDSH Đa dạng sinh học DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1. Phân bố dân cư theo đơn vị thôn Bảng 3.1. Biến động diện tích rừng Dừa nước ở xã Cẩm Thanh theo thời gian Bảng 3.2. Độ mặn ở một số điểm DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 3.1. Biểu đồ diễn biến diện tích dừa nước từ năm 1980 – 2010 Hình 3.2 . Ranh giới hành chính xã Cẩm Thanh ở hạ lưu sông Thu Bồn và vị trí phân bố của dừa nước. Hình 3.3. Hoa và quả Dừa nước Hình 3.4 . Chuyển diện tích rừng Dừa nước thành ruộng nuôi tôm Hình 3.5. Khai thác thủy sản và rong câu từ rừng Dừa nước Hình 3.6. Vật liệu xây dựng làm từ lá dừa nước Hình 3.7. Nhà du lịch được làm từ Dừa nước Hình 3.8. Khai thác hàu trong rừng Dừa nước Hình 3.9. Vai trò môi trường của rừng Dừa nước đối với các rạn san hô ở Cù Lao Chàm MỞ ĐẦU Trải dài trên nhiều vĩ tuyến và có khí hậu thay đổi từ Bắc đến Nam, hệ sinh thái rừng Việt Nam, nhất là rừng ngập mặn (RNM) có tính đa dạng sinh học rất cao. Rừng ngập mặn là hệ sinh thái có năng suất cao ở vùng cửa sông ven biển nhiệt đới nhưng rất nhạy cảm với các tác động của con người và thiên nhiên. RNM không những cung cấp các lâm sản có giá trị như gỗ, than, củi,… mà còn là nơi sống và ươm giống của nhiều loài hải sản, chim nước. Ngoài ra, RNM còn có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ bờ biển, bờ sông điều hòa khí hậu, hạn chế xói lỡ, mở rộng diện tích lục địa,…bảo vệ nơi sống của người dân ven biển trước sự tàn phá của gió mùa, bão, nước biển dâng. Tuy nhiên, chiến tranh và sức ép dân số đã làm cho những thảm thực vật RNM ở Việt Nam suy thoái nghiêm trọng. Ở Quảng Nam hệ sinh thái dừa nước có vai trò quan trọng đối với môi trường và sinh vật. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng ngập mặn ở ven biển Cẩm Thanh ( Hội An) mất dần do việc khai thác nguyên liệu dừa nước một cách ồ ạt để phát triển làng nghề và đào ao nuôi tôm, cua, cá, đã tạo điều kiện cho sự xâm nhiễm nước mặn vào đất liền diễn ra rất nhanh, thúc đẩy quá trình xói lỡ, gây ô nhiễm đất và nguồn nước [11]. Đặc biệt, trong bối cảnh sự biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra nhanh chóng trên quy mô toàn cầu, trong khi Việt Nam được dự báo là một trong 5 quốc gia trên thế giới sẽ hứng chịu hậu quả nặng nề nhất do thảm họa này gây ra với những tác nhân được cho là chủ yếu đến từ phía biển. Cũng theo các chuyên gia về môi trường, rừng ngập mặn đóng một vai trò tích cực trong việc góp phần giảm thiểu BĐKH cũng như những thiệt hại do BĐKH có thể gây ra, đồng thời tạo ra điều kiện tốt cho việc thích ứng với BĐKH, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên em chọn đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng phân bố của quần thể dừa nước tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An” nhằm nắm được các quy luật phát triển của các quần xã sinh vật đồng thời chủ động điều khiển sự diễn thế theo hướng có lợi cho con người. Có biện pháp khai thác và bảo vệ hợp lý nguồn tài nguyên từ rừng dừa nước. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tổng quan về rừng ngập mặn 1.1.1. Khái niệm rừng ngập mặn Rừng ngập mặn là kiểu rừng phát triển trên vùng đất lầy, ngập nước mặn vùng cửa sông, ven biển, dọc theo các sông ngòi, kênh rạch nước lợ. RNM là một thuật ngữ mô tả hệ sinh thái thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới tạo trên nền các thực vật vùng triều với tổ hợp động thực vật đặc trưng [3]. 1.1.2. Vai trò của rừng ngập mặn 1.1.2.1. Bảo tồn đa dạng sinh học cho đới biển ven bờ Hệ sinh thái RNM chứa đựng mức đa dạng sinh học rất cao. Nơi ở trong RNM phân hóa rất mạnh: trên không, mặt đất, trong nước với các dạng đáy cứng, đáy mềm, hang trong đất, những không gian chật hẹp trong bụi cây, bộ rễ, độ muối lại biến động thường xuyên. Sinh vật sống trong RNM không những có số lượng loài đông mà trong nội bộ mỗi loài còn có những biến dị phong phú dễ thích nghi với những nơi ở khác nhau, nguồn sống khác nhau và điều kiện sống biến đổi muôn màu. Bởi vậy rừng ngập mặn là nơi lưu trữ nguồn gen giàu có và có giá trị. Các khu RNM ở Châu Á bước đầu đã thống kê được 1918 loài sinh vật, trong đó vi khuẩn, tảo 100 loài, thực vật 208 loài, động vật không xương sống ở nước 491 loài, côn trùng và nhện 500 loài, động vật có xương sống 520 loài. RNM là nơi sống của nhiều loài tôm, cua, cá và cũng là bãi đẻ của chúng. Đối với nhiều loài động vật trên cạn mà cuộc sống gắn liền với bãi triều thì RNM là nơi tập trung để kiếm thức ăn. 1.1.2.2. Duy trì nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển các loài sinh vật RNM hàng năm cung cấp một sản lượng rơi rụng khá lớn để làm giàu cho môi trường đất rừng và vùng cửa sông ven biển. Ngoài các chất thải bã, xác chết của các loài động vật, lượng rơi rụng của bản thân cây rừng được đánh giá vào khoảng 8-20 tấn/ha, trong đó 79,7% là lá. Những sản phẩm này một phần có thể sử dụng trực tiếp bởi một số ít loài động vật, một phần nhỏ nằm dưới dạng chất hữu cơ hòa tan cung cấp cho một số loài dinh dưỡng bằng con đường thẩm thấu. Phần chủ yếu còn lại chuyển thành nguồn thức ăn phế liệu hay cặn vẩn để nuôi sống các loài động vật ăn mùn bã thực vật . 1.1.2.3. RNM là nơi nuôi dưỡng ấu trùng, ấu thể các hải sản RNM không những là nguồn cung cấp thức ăn mà còn là nơi cư trú, nuôi dưỡng con non của nhiều loài thủy sản có giá trị, đặc biệt là các loài tôm sú, tôm biển xuất khẩu. Trong vòng đời của một số lớn các loài cá, tôm, cua,… có một hoặc nhiều giai đoạn bắt buộc phải sống trong các vùng nước nông, cửa sông có RNM. Ví dụ điển hình là vòng đời của loài tôm thẻ (Penaeus merguiensis). Loài tôm này có tập tính đẻ ở biển, cách xa bờ chừng 12 km, do tác động của dòng nước và thay đổi của nước triều, sau khi trứng thụ tinh, ấu trùng chuyển vào vùng nước ven bờ, bơi dần vào cửa sông theo nước triều lên, thường tìm những vùng nước nông có giá bám như bụi cỏ, rễ cây,… sau đó đi sâu vào kênh rạch RNM. Chúng sinh trưởng và phát triển ở đó cho tới khi thành thục, thường từ 3 – 4 tháng. Ở giai đoạn trưởng thành thì chúng lại bắt đầu di cư ra biển để đẻ. RNM ở đây vừa là nơi bảo vệ vừa là nơi nuôi dưỡng con non. Với vai trò vừa là nơi bảo vệ, nuôi dưỡng con non, con giống vừa cung cấp thức ăn, RNM đóng góp một cách đáng kể vào sản lượng thủy sản. 1.1.2.4. Nơi bảo tồn nguồn gen của các loài động vật trên cạn RNM có vai trò quan trọng không kém gì rừng nội địa đồng thời là nơi lưu trữ những loài động vật quý hiếm mà trên cạn không có như cá sấu nước, hổ Bengal. Khu hệ động vật của RNM Việt Nam khá phong phú. Một vài nghiên cứu ở rừng cấm Năm Căn ( Cà Mau) số lượng ếch nhái có 6 loài, bò sát 18 loài, chim 41 loài, động vật có vú 15 loài trong đó có nhiều loài thú lớn như lợn rừng, vượn, hổ, nai và đông nhất và có giá trị là chim dao động từ 121 – 147 loài. Ở nhiều nơi trong rừng ngập mặn không nhiều loài nhưng số lượng rất đông, tạo nên nhiều sân chim nổi tiếng. Ở đây có rất nhiều loài chim quý hiếm của thế giới như già đẫy, hạc cổ trắng, cò thìa, nhiều loài chim di cư từ phương bắc và còn có các loài chim được ghi vào sách đỏ của thế giới. Ngoài các động vật trên thì RNM còn đa dạng và phong phú về các loài côn trùng. 1.1.2.5. Giảm mạnh độ cao của sóng khi triều cường Rừng ngập mặn trong trạng thái tốt sẽ làm giảm các lực tác động của bão và sóng thần, đồng thời cũng hấp thụ một phần lớn năng lượng của nước dâng và làm giảm thiểu thiệt hại do sóng thần gây ra. Ở các nước Ðông Nam Á, nhờ sự tồn tại của vành đai bảo vệ bờ bao gồm các rạn san hô và rừng ngập mặn, nên những trận sóng thần trong lịch sử đã không gây nên những thiệt hại lớn về người và của. Các trận sóng thần phải vượt qua rào chắn của các rạn san hô trước khi đạt tới bờ và tại đây chúng bị hấp thụ bởi một lớp dày đặc cây cối của rừng ngập mặn. Những hàng cây thấp, mềm mại với bộ cành và rễ kéo dài từ mặt biển xuống lớp bùn cát đáy biển sẽ hấp thụ năng lượng va đập ban đầu của sóng thần. Khi vượt qua lớp này, sóng đi tiếp vào sẽ bị cản trở và triệt tiêu bởi hàng cây ngập mặn cao hơn. Các nhà khoa học cho rằng sức phá hoại của sóng thần có độ cao 15m hầu như sẽ bị tiêu tán hết khi vượt qua đới bờ nguyên sinh phát triển bao gồm san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn. Những vành đai xanh bảo vệ này còn có một vai trò sinh tử trong giảm thiểu bồi lấp và xói lở bờ biển. 1.1.2.6. Bảo vệ đê và hạn chế xâm nhập mặn Hệ thống rễ dày đặc của các loài cây RNM có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ đất ven biển và vùng cửa sông. Chúng vừa ngăn chặn hiệu quả sự công phá bờ biển của sóng, vừa làm vật cản cho trầm tích lắng đọng, giữ hoa lá, cành rụng trên mặt bùn và phân hủy tại chỗ nên bảo vệ được đất. Ví dụ: Ở huyện Thái Thụy – Thái Bình có hai tuyến đê số 7 dài 45,1 km, đê số 8 dài 41,5km bao quanh huyện. Hầu hết hai tuyến đê này được xây dựng từ lâu đời, việc đắp đê chủ yếu bằng lao động thủ công nhưng cơn bão số 6 và số 7 năm 2005 đúng lúc triều cường sóng lớn nhưng các tuyến đê ở Thái Thụy không bị xói lở đó là nhờ dải RNM với diện tích 4.564 ha rừng với độ rộng 800 đến 1.300 mét. Độ cao cây trung bình từ 2,5 đến 3 mét với các loài cây: sú vẹt, đước, trang. Khi RNM chưa bị phá thì quá trình xâm nhập mặn diễn ra chậm, phạm vi hẹp, vì khi thủy triều cao nước đã lan tỏa vào trong những khu RNM có hệ thống rễ cây dày đặc đã làm giảm tốc độ dòng chảy, tán cây hạn chế tốc độ gió. Nhưng hiện nay, hầu hết RNM ven biển đã bị phá để làm ruộng sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đắp những dãy bờ lớn để làm đầm nuôi tôm quảng canh làm thu hẹp phạm vi phân bố của nước triều ở ven biển, cưả sông. Do đó, nước mặn theo dòng triều lên được gió mùa hỗ trợ đã vào sâu trong các dòng sông trong đất liền với tốc độ lớn, kèm theo sóng, gây ra xói lở bờ sông và các chân đê. Nước mặn còn thẩm thấu qua chân đê vào đồng ruộng, làm năng suất bị giảm, thiếu nước ngọt, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt. 1.1.2.7. Điều hòa khí hậu, tích tụ cacbon Rừng ngập mặn có vai trò điều hòa khí hậu, Theo Blasco (1975) nghiên cứu khí hậu và vi khí hậu rừng, đã có nhận xét: các quần xã RNM là một tác nhân làm cho khí hậu dịu mát hơn, giảm nhiệt độ tối đa và biên độ nhiệt. Hệ sinh thái RNM giúp cân bằng O2 và CO2 trong khí quyển, điều hoà khí hậu địa phương (nhiệt độ, lượng mưa) và giảm thiểu khí nhà kính. Theo Lê Xuân Tuấn và cộng sự, 2005, hàm lượng CO2 của nước ở trong rừng (7,38mg/l) thấp hơn nơi không có rừng (7,63mg/l). Lượng cacbon tích tụ trên bề mặt đến độ sâu 100cm khoảng từ 71- 82 tấn cacbon/ha. Nhờ các tán lá hút CO2 mạnh nên hàm lượng khí CO2 nơi có rừng giảm mạnh, qua đó làm cho pH của nước phù hợp với điều kiện sống của thủy sinh vật 1.1.3. Thành phần của rừng ngập mặn Theo Phan Nguyên Hồng (1999), khu hệ thực vật rừng ngập mặn Việt Nam bao gồm 47 họ thực vật. Số lượng loài biến động theo từng vùng khác nhau: vùng ven biển Bắc Bộ có 52 loài, vùng ven biển Trung Bộ có 69 loài, vùng ven biển Nam Bộ có 100 loài. Trong khu hệ thực vật rừng ngập mặn có 5 họ thực vật giữ vai trò quan trọng là họ Đước (Rhizophoraceae), họ Mắm (Avicemiaceae), họ Bần ( Sounerratiaceae), họ Đơn nem ( Myrsinaceae) và họ Dừa ( Palmae). Khu hệ động vật rừng ngập mặn bao gồm một tập hợp các loài động vật không xương sống và có xương sống có nguồn gốc từ môi trường đất liền, biển và nước ngọt. Ví dụ: Kết quả nghiên cứu ở rừng ngập mặn Cần Giờ ( Thành phố Hồ Chí Minh) cho thấy có 22 loài động vật sống nổi trên mặt nước, 114 loài động vật đáy bao gồm 34 loài giun, 51 loài giáp sát, 29 loài thân mềm, 137 loài cá, 9 loài lưỡng cư, 31 loài bò sát, 130 loài chim, 19 loài động vật có vú ( theo Vũ Trung Tạn, 1994 ; Phạm Đình Trọng, 1995 ; Lê Đức Tuấn, 1997). Trong các loài động vật thì tôm là loài động vật có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với rừng ngập mặn. 1.1.4. Phân bố rừng ngập mặn 1.1.4.1. Phân bố rừng ngập mặn trên thế giới Trên thế giới RNM phân bố chủ yếu ở các vùng cửa sông, ven biển nhiệt đới và một vài loài ở vùng á nhiệt đới. Theo đánh giá của Hutchings và Seaneg (1987) thì diện tích RNM trên thế giới là 15.429.000 ha, trong đó 6.246.000 ha nằm ở vùng Châu Á nhiệt đới và Châu Đại Dương, 5.781.000 ha nằm ở vùng Châu Mỹ nhiệt đới và 3.402.000 ha thuộc châu Phi. Trên phạm vi toàn cầu, Wash (1974) cho rằng sự phân bố địa lý của RNM trên thế giới chia thành hai khu vực chính là khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương bao gồm Nam Nhật Bản, Philippin, Đông Nam Á, Ấn Độ, bờ biển Hồng Hải, Đông Phi, Úc, NewZealand, các đảo phía Nam Thái Bình Dương kéo dài tới quần đảo Xamoa và khu vực Tây Phi – Châu Mỹ bao gồm bờ biển Châu Phi ở Đại Tây Dương, quần đảo Galapagos và Châu Mỹ, khu vực Ấn Độ - Malaysia được xem là trung tâm phân bố các loài ngập mặn. Các vùng RNM phồn thịnh nhất ở Đông Nam Á bao gồm: Malaysia, Indonesia, Việt Nam. 1.1.4.2. Phân bố rừng ngập mặn ở Việt Nam Theo Phan Nguyên Hồng, hệ sinh thái rừng ngập mặn nước ta gồm có 77 loài cây ngập mặn thuộc 2 nhóm được phân chia theo các điều kiện môi trường và dạng sống khác nhau. Nhóm 1 có 35 loài cây ngập mặn thuộc 20 chi của 16 họ, nhóm này thường được gọi là cây ngập mặn “thực thụ”. Nhóm 2 có 42 loài thuộc 36 chi của 28 họ, nhóm này bao gồm các loài cây “gia nhập” . Sự phân bố địa lí rừng ngập mặn khác nhau giữ miền Bắc với miền Nam . Ở miền Nam có 69 loài trong khi ở miền Bắc chỉ có 34 loài. Sự phân bố, độ nhiều của các loài thực vật ngập mặn ven biển Việt Nam cho thấy phần lớn đều nằm ở ven biển Nam Bộ, rồi đến Bắc Bộ và miền Trung. Theo Phan Nguyên Hồng thì RNM Việt Nam được chia thành 4 khu vực bao gồm: Khu vực I: Ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn Khu vực II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ mũi Đồ Sơn đến cửa Lạch Trường Khu vực III: Ven biển miền Trung từ cửa Lạch Trường đến mũi Vùng Tàu Khu vực IV: Ven biển Nam Bộ, từ mũi Vũng Tàu đến Hà Tiên 1.1.5. Tình hình RNM trên thế giới và ở Việt Nam 1.1.5.1. Tình hình RNM trên thế giới Trên thế giới RNM phân bố chủ yếu ở các vùng cửa sông, ven biển nhiệt đới và một vài loài ở vùng á nhiệt đới. Theo đánh giá của Hutchings và Seaneg (1987) thì diện tích RNM trên thế giới là 15.429.000 ha, trong đó 6.246.000 ha nằm ở vùng Châu Á nhiệt đới và Châu Đại Dương, 5.781.000 ha nằm ở vùng Châu Mỹ nhiệt đới và 3.402.000 ha thuộc châu Phi. Tuy nhiên, tùy thuộc vào phương pháp nghiên cứu và thời gian công bố của từng nước mà diện tích rừng ngập mặn có nhiều sai khác. RNM đang đối mặt với với nhiều thách thức như diện tích rừng ngập mặn trên thế giới liên tục suy giảm do các yếu tố của thiên nhiên và con người. Theo một báo cáo mới của Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) và Hội bảo tồn thiên nhiên, trên toàn thế giới, các cánh rừng ngập mặn đang biến mất với tốc độ nhanh chóng: kể từ năm 1980, 1/5 rừng ngập mặn trên thế giới bị chặt phá. Rừng ngập mặn được trồng ở các vùng biển nước mặn đang mất đi với tốc độ nhanh gấp 4 lần so với các loại rừng khác. Chúng đang bị phá hủy chủ yếu cho mục đích nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp và phát triển bờ biển trên toàn thế giới. Theo báo cáo, thậm chí các rừng ngập mặn còn sót lại cũng đang bị suy thoái [10]. 1.1.5.2. Tình hình RNM ở Việt Nam Rừng ngập mặn ( RNM) tại Việt Nam được nghiên cứu từ rất lâu. Trước chiến tranh Việt Nam có khoảng 400.000 hecta, ngày nay còn khoảng 200.000 hecta do rừng mới được trồng [2]. Theo Phan Nguyên Hồng thì rừng ngập mặn ở Việt Nam suy giảm diện tích do những nguyên nhân sau: chiến tranh hóa học, khai thác quá mức, nuôi tôm quảng canh,… Diện tích RNM ở Nam Bộ bị rải chất diệt cỏ trong chiến tranh là 159.200 ha. Sau 20 năm phần lớn diện tích đã phục hồi, nhưng ở nhiều nơi sau khi rừng tái sinh, nhân dân địa phương lại tiếp tục chặt phá để làm đầm nuôi tôm. Theo thống kê của công ty Seaprodex (1987) từ 1981-1987 diện tích làm đầm nuôi tôm nước lợ từ 50000 ha đã lên 120.000 ha. Minh Hải tỉnh có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất cũng là nơi rừng ngập mặn bị phá hủy nhiều nhất. Trong vòng 8 năm từ 1983-1995 Minh Hải đã mất đi 66.253 ha rừng do việc làm đầm nuôi tôm, bình quân mỗi năm mất 8280 ha. 1.1.6. Nguyên nhân suy thoái rừng ngập mặn RNM Việt Nam đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Dưới đây là một số nguyên nhân chính. 1.1.6.1. Chiến tranh hóa học Ở Việt Nam, RNM là những căn cứ quan trọng của hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chính vì thế, mà quân đội Mỹ đã dùng bom đạn và chất độc hóa học, chất diệt cỏ và chất làm rụng lá cây với liều lượng cao để hủy diệt rừng. Theo kết quả điều tra của viện điều tra quy hoạch rừng, đối chiếu với kết quả điều tra của một số địa phương, bước đầu tính ra được diện tích RNM Nam Bộ bị rải chất diệt cỏ là 159.200 ha. 1.1.6.2. Khai thác quá mức Miền Nam sau chiến tranh nhân dân ven biển trở về quê cũ cùng với sự di dân ồ ạt từ nhiều nơi khác đến vùng RNM cùng với nhu cầu về xây dựng, củi, than đun nấu tăng. Mặt khác, việc khai thác của ngành lâm nghiệp tăng hàng năm. Có một thời gian nhân dân đua nhau làm các lò than gia đình đem ra các tỉnh khác bán đã phá hủy các khu rừng quí giá kể cả rừng mới trồng sau chiến tranh. 1.1.6.3. Phá RNM để làm đầm nuôi tôm quảng canh Do nhu cầu về tôm xuất khẩu lớn vào những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, ở hầu hết vùng ven biển, cửa sông nước ta, nhân dân và các cơ quan đã phá những khu rừng ngập mặn xanh tốt để làm đầm nuôi tôm quảng canh thô sơ. Ở nhiều địa phương RNM đã biến mất còn lại các đầm tôm và đất hoang hóa. 1.1.6.4. Phá RNM lấy đất sản xuất nông nghiệp Do tăng dân số quá nhanh, thiếu lương thực nên nhiều địa phương đã phá RNM để lấy đất sản xuất nông nghiệp hậu quả là thiếu nước ngọt, năng suất cây trồng thấp hoặc không thu hoạch được. Ví dụ: Vào đầu những năm 1960, tỉnh Quảng Ninh có chủ trương phá hơn 2.000 ha RNM tự nhiên ( ở xã Hải Lạng – Tiên Yên) đắp đê sản xuất nông nghiệp nhưng không có nước tưới buộc phải bỏ hoang sau chuyển sang nuôi thủy sản cũng không thành công. 1.1.6.5. Phá rừng ngập mặn làm đồng muối Do dân số tăng nhanh, thiếu việc làm nhân dân một số nơi đã phá RNM để làm ruộng muối, kể cả rừng phòng hộ như Thụy Nguyên, Kiến Thụy( Hải Phòng), Vĩnh Châu ( Sóc Trăng). Ở Minh Hải có 9,067 ha ruộng muối trải dài trên 59 km bờ biển, phần lớn là do phá rừng mắm phòng hộ ven biển để làm muối. Tuy nhiên, đất ngập mặn là đất rất mịn, các hạt sét cỡ 0,062 mm chiếm 50 – 70% do đó mà khả năng thẩm thấu, bốc hơi nước kém. Mặt khác, trầm tích có lượng sulphua cao, lớp mặt thường là 1,5 -2 %, lớp xám xanh ở dưới 2,5 -3,5%. Đây là nguyên nhân cản trở quá trình hình thành muối. Do nước triều ở các vùng RNM chứa nhiều phù sa, độ đục lớn nên chất lượng muối kém. Hậu quả là một số cơ sở sản xuất muối đã thất bại. 1.1.6.6. Khai thác khoáng sản Khi khai thác khoáng sản các xí nghiệp đổ phế thải xuống sông, biển, lấp các bãi lầy có cây ngập mặn sinh sống. Việc xây dựng các cảng than ở Quảng Ninh đã phá hủy nhiều đám RNM và phá hủy các thảm cỏ biển và rạn san hô rất giàu động vật và hải sản sinh sống ở vùng ven bờ và biển nông. 1.1.6.7. Qúa trình đô thị hóa Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa của nước ta rất nhanh kéo theo diện tích rừng ngập mặn ngày càng bị thu hẹp. Điển hình ở thị trấn Năm Căn – Cà Mau chỉ sau 10 năm khi thị trấn chuyển đến địa điểm mới, dân số đã tăng lên 10 lần. Các khu dân cư, khu công nghiệp đã phá những khu rừng mắm, đước xanh tốt. Việc xây dựng nhà máy, cảng, khu đô thị còn gây nhiều tác động đến môi trường như chất thải trong quá trình sinh hoạt, sản xuất đều thải vào nước làm ô nhiễm môi trường, các sinh vật bị chết hoặc bỏ đi nơi khác. Ngoài ra còn gây xói lỡ bờ sông do hoạt động của tàu thuyền có máy lớn. Nhiều khu rừng bần, sú, ô rô khá tốt đã bị xói lỡ và trôi mất. 1.1.6.8. Đắp đê, đập, làm đường xá. Việc phát triển kinh tế vùng ven biển nhiều địa phương đã đắp đập, đường bộ nối các đảo với nhau, tuy có thuận lợi về giao thông nhưng ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và tài nguyên RNM. Xây dựng đập chắn, hồ chứa nước trên các sông đã phá hủy các bãi đẻ tự nhiên và đường di cư của một số loài các nước ngọt, nước mặn qua các cửa sông. Nguồn chất dinh dưỡng trước đây chuyển ra các cửa sông bị giảm sút, lượng nước ngọt chuyển vào các khu RNM giảm đã ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sinh lý của các loài động thực vật nhất là vào mùa sinh sản. Sự thay đổi dòng chảy lưu lượng trong sông kết hợp với tác động của gió nùa đông bắc đã đưa nước mặn vào sâu trong đất liền gây ra nhiễm mặn, mặt khác làm thay đổi quá trình bồi lỡ. 1.1.6.9. Ô nhiễm môi trường Hệ sinh thái RNM ở vùng cửa sông ven biển chịu ảnh hưởng nặng nề của việc thải bừa bãi các chất rắn, chất lỏng trong sinh hoạt và công nghiệp. Đặc biệt là ô nhiễm dầu đã và đang làm cho một số cây ngập mặn và sinh vật đáy chết. 1.1.7. Tình hình nghiên cứu cây Dừa nước Dừa nước (DN) phân bố rộng rãi trong RNM các nước châu Á và bờ biển Đông Châu Phi. Lá của chúng dài từ 3 – 9 mét, phần thân ngầm bò, ngắn với hệ thống rể chùm. Dừa nước thường phân bố dọc theo các bờ sông thành những dãy dài, chúng rất cần chế độ ngập nước theo thủy triều. Người dân Bangladesh trồng dừa nước thành ruộng để dùng cho nhu cầu làm nhà. DN phát triển ở các vùng nước ngọt và nước biển nơi có tác động của thuỷ triều. Nhiều dân tộc biết khai thác đa dạng các sản phẩm từ DN như chế tạo đường từ dịch chiết của buồng DN. Đây là công nghệ rất lý thú ở vùng quê của Dawei Township (Thái Lan). Trong tiến trình chế tạo đường từ DN, trước tiên là cuống buồng DN sẽ được cắt, sau đó dùng ống tre hứng phía dưới cuống buồng quả qua 1 đêm để lấy nước nhựa từ cuống chảy ra. Sáng hôm sau ống tre sẽ đầy nước dừa và được thu hoạch. Nước quả này sẽ được lọc rồi đun sôi trong chảo rộng. Khi sôi sẽ được vớt bọt để làm nước đường sạch hơn. Sau khi đun sôi 3 giờ, nước quả này sẽ keo lại, để nguội và thu được đường từ DN. Cuối cùng các ống tre sẽ được rửa sạch và được xông khói để dùng cho việc thu thập nước quả DN vào ngày mai, và cứ lặp lại như vậy [2]. Các nghiên cứu riêng về dừa nước ở Việt Nam hiện vẫn còn rất ít. Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đại (Viện Hải dương học, 2006) đánh giá tài nguyên đất ngập nước hạ lưu sông Thu Bồn và đề xuất giải pháp bảo vệ, phục hồi. Tác giả đã nghiên cứu vùng đất ngập nước (RNM, thảm cỏ biển) tại Hội An và một số địa phương lân cận như Duy Xuyên, Điện Bàn. Tại Hội An, đã xác định RNM ở Hội An chủ yếu là cây DN, ngoài ra cũng đã phát hiện ở vùng Cửa Đại một số loài cây ngập mặn khác như Đước đôi (Rhizhophora apiculata Bl.), Vẹt dù (Bruguiera gymnorhiza (L.) Lamk.) hay Ráng Đại (Acrostichum aureum L). Tác giả cũng đề xuất giải pháp xây dựng khu bảo tồn rừng dừa nước Cẩm Thanh và gắn kết công tác quản lý vùng đất ngập nước hạ lưu sông Thu Bồn với khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm. 1.1.7.1 Giới thiệu rừng dừa nước tại một số vùng ở Việt Nam Rừng dừa nước tại bến tre. Bến Tre có một hệ thống sông rạch chằng chịt mang nước ngọt từ trên thượng nguồn ra biển, đồng thời lại chịu ảnh hưởng của thủy triều, nên các quần thể thực vật ven sông rạch thể hiện rõ nét ba vùng sinh thái tiêu biểu: vùng mặn, vùng lợ và vùng ngọt. Các rừng Mắm, Đước, Vẹt có nhiệm vụ ổn định và bảo vệ bờ biển, ven sông rạch Dừa nước và Bần có nhiệm vụ bảo vệ vùng cửa sông và hai bên bờ sông. Dừa nước phát triển sau tập đoàn Đước - Vẹt trên vùng đất đã được ổn định, phát triển mạnh nhất ở vùng nước lợ, là cây chỉ thị của vùng này. Dừa nước có lá dài 7 - 8m, mọc dày đặc hai bên bờ sông ở Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri, Mỏ Cày, Giồng Trôm. Năm 2007, Bến Tre có khoảng 1.500ha Dừa nước, góp phần hạn chế sạt lở bờ sông và cố định các thành tạo trầm tích đang được hình thành. Ngoài ra dừa nước cũng làm tăng thêm vẻ đẹp nổi trội trong du lịch ”sinh thái miệt vườn”. Rừng dừa nước tại Kiên Giang Khu đề xuất bảo tồn thiên nhiên Kiên Lương nằm trong vùng đồng Hà Tiên ở tỉnh Kiên Giang là một vùng sinh cảnh hỗn hợp gồm các trảng cỏ, các vùng tràm gió tái sinh và đầm dừa nước Nypa fruticans. Vùng tràm gió tái sinh gồm các cây bụi có chiều cao từ 2 - 6 m. Hệ thực vật đầm lầy ưu thế bởi dừa Nước Nypa fruticans phân bố ở những vùng nước lợ. Rừng dừa nước tại Quảng Ngãi Bao gồm 4 xã: Bình Phước, Bình Thạnh, Bình Chánh và Bình Dương thuộc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây, dừa nước phân bố dọc theo sông Trà Bồng, cách cửa sông khoảng từ 2 - 7 km. 1.2. Diễn thế sinh thái 1.2.1. Khái niệm diễn thế sinh thái Diễn thế sinh thái (tiếng Anh là Ecological Succession) là quá trình biến đổi tuần tự của quần xã sinh vật qua các giai đoạn khác nhau, từ dạng (trạng thái) khởi đầu (hay tiên phong), được thay thế lần lượt qua các giai đoạn chuyển tiếp bởi các dạng quần xã tiếp theo và cuối cùng thường dẫn tới một quần xã tương đối ổn định hay trạng thái ổn định, tồn tại lâu dài theo thời gian. Đó là trạng thái đỉnh cực. Nguyên nhân Nguyên nhân dẫn đến diễn thế sinh thái là sự tác động mạnh mẽ của ngoại cảnh lên quần xã, tác động của quần xã lên ngoại cảnh làm biến đổi mạnh mẽ ngoại cảnh đến mức gây ra diễn thế và cuối cùng là tác động của con người. Các kiểu diễn thế: Diễn thế nguyên sinh: Là diễn thế khởi đầu từ môi trường trống trơn hay xảy ra trên một nền (giá thể) mà trước đó chưa hề tồn tại một quần xã sinh vật nào hoặc là chưa có bất kỳ một “mầm móng” của sinh vật xuất hiện trước đây. Nhóm sinh vật đầu tiên được phát tán đến đó hình thành nên quần xã tiên phong. Tiếp đó là một dãy quần xã tuần tự thay thế nhau. Khi có cân bằng sinh thái giữa quần xã và ngoại cảnh thì quần xã ổn định trong một thời gian tương đối dài. Diễn thế nguyên sinh có thể xảy ra trên cạn hoặc dưới nước. Diễn thế thứ sinh (thứ cấp) xảy ra trên một nền (giá thể) mà trước đó từng tồn tại một quần xã nhưng đã bị tiêu diệt. Diễn thế phân hủy: Đây cũng là kiểu diễn thế xảy ra trên một giá thể mà giá thể đó dần dần biến đổi theo hướng bị phân huỷ qua mỗi quần xã trong quá trình diễn thế. Diễn thế này không dẫn đến quần xã đỉnh cực. Nội diễn thế: Nội diễn thế là loại diễn thế được gây ra bởi động lực bên trong của hệ sinh thái. Trong quá trình diễn thế này, loài ưu thế của quần xã đóng vai trò chìa khóa và thường làm cho điều kiện môi trường vật lý biến đổi đến mức bất lợi cho mình, nhưng lại thuận lợi cho sự phát triển của một loài ưu thế khác, có sức cạnh tranh cao hơn thay thế. Ngoại diễn thế: Ngoại diễn thế là diễn thế xảy ra do tác động hay sự kiểm soát của lực hay yếu tố bên ngoài 1.2.2. Diễn thế sinh thái rừng ngập mặn Theo Nguyễn Hoàng Trí thì diễn thế sinh thái rừng ngập mặn là sự thay đổi nhanh chóng các nhân tố môi trường ở vùng cửa sông, ven biển do hoạt động của thủy triều và lưu lượng sông khiến cho đất bồi hoặc bị xói lỡ nhanh chóng đến sự phân bố của các loài và có sự thay thế loài này bằng loài khác. Đối với các quần xã rừng ngập mặn thì diễn thế xảy ra theo hai hướng tiến hóa và thoái hóa là hai quá trình nối tiếp xảy ra trên cùng một nơi. Thông thường một bãi triều hình thành sẽ có các cây tiên phong cố định đất, giữ phù sa và trầm tích lại, đất bùn ngày càng chặt hơn, độ ngập triều dài, lượng nước ngọt được tăng cường tạo điều kiện thuận lợi cho các loài đến sau sinh trưởng thuận lợi hơn, số loài phong phú dần lên. Nhưng đến một mức phát triển nhất định lại nảy sinh sự cạnh tranh về thức ăn, ánh sáng. Những loài đến trước yếu hơn sẽ bị tiêu diệt dần để cho các loài đến sau ưu thế phát triển. Do đó mà ở các giai đoạn ổn định về sau các quần xã sẽ đơn giản hơn về thành phần loài và cấu trúc quần xã. Trong giai đoạn cuối khi đất không còn ngập triều, bùn khô, pyrit ( Fe2S) bị oxy hóa thành axit sunphat thì diễn thế chuyển sang dạng thoái hóa do môi trường bị thay đổi không phù hợp với cây ngập mặn nữa. Giai đoạn sau đó diễn ra hết sức phức tạp tùy thuộc vào mức độ can thiệp của con người và thiên nhiên. Ở các vùng đất thấp trũng về mùa mưa ngập nước ngọt, mùa khô thiếu nước thì quần xã tràm hình thành và phát triển. Ở các khu đất trũng thấp bị ngập nước mặn thì xuất hiện thảm cỏ chịu mặn hoặc có nơi quần xã họ Dầu hình thành và phát triển. RNM chuyển sang một thảm thực vật khác không giống tính chất của rừng ngập mặn. 1.3. Tổng quan về điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của xã Cẩm Thanh. 1.3.1.Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý Xã Cẩm Thanh nằm về phía Đông Nam thành phố Hội An, cách trung tâm thành phố 3 km, có tổng diện tích tự nhiên 895,43ha, được chia thành 8 thôn. Ranh giới xác định: Phía Đông : giáp phường Cửa Đại Phía Tây : giáp phường Cẩm Châu và phường Cẩm Nam Phía Nam : giáp huyện Duy Xuyên Phía Bắc : giáp phường Cẩm An Địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng Cẩm Thanh có địa hình khá phức tạp, thuộc dạng địa hình ven biển bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông, rạch chằng chịt. Phần lớn diện tích đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn và loang lỗ. Khí hậu và thời tiết Khí hậu : Xã Cẩm Thanh mang tính đặc trưng của khí hậu ven biển Nhiệt độ Nhiệt độ không khí trung bình: 25.60C Nhiệt độ không khí thấp nhất : 10.50C Nhiệt độ không khí cao nhất : 40.3 0C Biên độ nhiệt ngày đêm: 9,30C Tổng số giờ nắng trung bình trong năm: 2158 giờ Chế độ mưa Lượng mưa trung bình / năm : 2069 mm Lượng mưa trung bình lớn nhất trong năm: 3315 mm Lượng mưa trung bình nhỏ nhất trong năm: 2212 mm Tổng số ngày mưa trung bình trong năm: 120 ngày Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Tổng lượng mưa trong khoảng thời gian này chiếm từ 70-75% tổng lượng mưa bình quân năm. Tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 10 và tháng 11, những tháng còn lại mưa ít và khô cạn. Độ ẩm không khí Độ ẩm không khí trung bình: 82.1 % Độ ẩm không khí cao nhất : 90 % Độ ẩm không khí thấp nhất : 71 % Chế độ gió Gió mùa Đông Bắc: Trung bình từ tháng 10 năm nay đến cuối tháng 4 năm sau thường có những đợt không khí lạnh từ phía Bắc tràn về gây ra gió mùa Đông Bắc. Mỗi năm bình quân có từ 9 đến 10 đợt. Gió Tây Nam: Thường xuất hiện từ cuối tháng 3 đến trung tuần tháng 9 thường mang lại thời tiết khô nóng, thịnh hành mạnh nhất của gió này vào các tháng 6,7,8. Gió Đông Nam: Vào các tháng 4,5,6 Thủy văn Mạng lưới thủy văn của xã Cẩm Thanh thuộc hệ thống Thu Bồn. Với diện tích sông rạch chiếm 38,94 % diện tích tự nhiên của xã. Ngoài ra còn hàng trăm ao, hồ lớn, nhỏ. Dân số Bảng 1.1. Phân bố dân cư theo đơn vị thôn Đơn vị Hộ Nhân khẩu Nam Nữ Thôn 1 225 923 421 502 Thôn 2 211 938 473 465 Thôn 3 300 1152 540 602 Thôn 4 207 815 378 437 Thôn 5 292 1194 554 640 Thôn 6 306 1310 636 674 Thôn 7 208 994 431 450 Thôn 8 155 504 314 329 Toàn xã 1904 7729 3709 4020 ( Nguồn UBND xã Cẩm Thanh, 2010) 1.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội Kinh tế Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước, nền kinh tế của xã Cẩm Thanh đã từng bước phát triển và hòa nhập vào nền kinh tế thị trường. Một số ngành nghiệp chính như: Nuôi trồng và khai thác thủy hải sản: năm 2010 có 105 ha được đưa vào thả nuôi thủy sản với tổng giá trị nuôi trồng thủy sản đạt 8,774 tỷ đồng. Trồng trọt và chăn nuôi: toàn xã có 113 ha sản xuất lúa và 15 ha sản xuất hoa màu. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: ngành tranh tre dừa nước tiếp tục có bước phát triển, thị trường tiêu thụ ổn định, mang lại thu nhập khá cho một số hộ sản xuất và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Dịch vụ - du lịch : là địa phương giàu tiềm năng về du lịch sinh thái, tuy nhiên cho đến nay việc khai thác và phát huy lợi thế này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu kinh tế của xã phát triển theo hướng nông – ngư nghiệp, dịch vụ - du lịch - thương mại, tiểu thủ công nghiệp trong đó lấy nuôi trồng thủy sản làm ngành kinh tế mũi nhọn. Xã hội Toàn xã có 1.904 hộ với 7729 nhân khẩu ( theo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở 2010). Tổng số lao động trong độ tuổi lao động chiếm 63,39%dân số tự nhiên, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 32,3% tổng số lao động trong độ tuổi. Ngành nghề chính tại địa phương bao gồm: sản xuất cây lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy hải sản, chế biến tranh tre – dừa nước và các ngành nghề khác. Thu nhập bình quân đầu người là 750 ngàn đồng/người/tháng ( riêng ngành tranh tre - dừa nước thu nhập bình quân 1,3 triệu đồng/người/tháng). Công tác giáo dục tai địa phương đã tiến hành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi 98.9%, tỷ lệ người biết chữ 98,9%. CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Rừng Dừa nước tại xã Cẩm Thanh – Hội An – Quảng Nam Diễn biến diện tích rừng Dừa nước từ năm 1990 – 2010. Diễn thế sinh thái hệ thực vật ( chủ yếu là dừa nước) Hiện trạng phân bố dừa nước 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp hồi cứu số liệu Thu thập tài liệu thứ cấp tại phòng Địa chính – Môi trường UBND xã Cẩm Thanh, sách báo và internet. Phương pháp khảo sát thực địa và phỏng vấn - Sử dụng ghe thuyền nhỏ kết hợp với việc di chuyển trên bộ để khảo sát thực trạng phân bố của hệ sinh thái rừng dừa nước - Chụp ảnh minh họa các loại thực vật và động vật trong quá trình khảo sát, tìm hiểu quan sát loại thực vật nào chiếm ưu thế và nơi phân bố. Phỏng vấn thu thập thông tin trong cộng đồng và các bên liên quan, về: Nguồn gốc rừng Dừa nước tại địa phương Diễn biến diện tích, phân bố của rừng Dừa nước qua các thời kỳ Các nhân tố ảnh hưởng đến rừng Dừa nước Kiến thức bản địa trong bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên rừng Đánh giá của cộng đồng và các bên liên quan đến vai trò, chức năng và giá trị của rừng Dừa nước tại địa phương. Phương pháp tổng hợp và thống kê số liệu Sử dụng bảng biểu, xử lý thống kê các thông tin điều tra từ bảng câu hỏi bằng phần mềm chuyên dụng. 2.2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian nghiên cứu: 11/2010 – 4/2011 Địa điểm nghiên cứu: Thôn 2,3,8 tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An. Đây là các thôn có diện tích dừa nước nhiều nhất. CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN 3. Hiện trạng phân bố dừa nước và các loài cây ngập mặn khác 3.1. Hiện trạng phân bố dừa nước Dừa nước là cây ngập mặn chủ yếu tại hạ lưu sông Thu Bồn. Chúng phân bố ven bờ sông và các kênh rạch và có nguồn gốc hàng trăm năm trước. Theo ý kiến của nhiều người lớn tuổi, dừa nước được các lái buôn thời xưa đi buôn gạo và đem giống từ Đồng Nai – Sông Bé về trồng. Phần lớn rừng dừa nước ở Cẩm Thanh là do người dân tự trồng. Thời kỳ hưng thịnh nhất của thảm dừa này là khoảng thập niên 1980, diện tích phân bố hàng trăm hecta. Đặc biệt là rừng dừa Bảy Mẫu trải rộng trên địa bàn thôn 1,2,3 và 8 của xã Cẩm Thanh. Sau thập niên 80, do việc phát triển mạnh của phong trào nuôi trồng thủy sản, làm muối và các hoạt động kinh tế xã hội, đã làm cho diện tích phân bố của dừa nước ngày càng bị thu hẹp dần chỉ còn gần 84.69 hecta. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của du lịch, nhu cầu sử dụng các sản phẩm là từ bẹ, lá dừa để làm nhà tăng cao, nhiều người dân đã bắt đầu chăm sóc hoặc trồng thêm dừa xung quanh nhà nên diện tích dừa nước hiện nay đang có phần gia tăng. Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân xã Cẩm Thanh cũng đang triển khai và kêu gọi người dân tham gia dự án phục hồi và bảo tồn rừng dừa nước Cẩm Thanh phục vụ du lịch sinh thái và phát triển bền vững nên diện tích dừa nước có xu hướng tăng lên. Bảng 3.1. Biến động diện tích rừng Dừa nước ở xã Cẩm Thanh theo thời gian Năm Diện tích dừa nước ( ha) Trước 1980 99.86 1995 93.04 2000 52.3966 2003 62.17 2005 57.68 2010 84.69 ( Nguồn:Báo cáo thuyết minh tổng kiểm kê đất đai từ trước 1990 đến 2010) Hình 3.1. Biểu đồ diễn biến diện tích dừa nước từ năm 1980 – 2010 Hiện trạng phân bố dừa nước hiện tại Vùng phân bố chính DN là loài cây ngập mặn ưu thế tuyệt đối tại hạ lưu sông Thu Bồn. Chúng hiện diện khắp nơi từ ven sông lớn cho đến các kênh rạch nhỏ. Thông thường là những dãy hẹp, rộng từ 3-20 mét. Khu vực Dừa nước phân bố tập trung là khu rừng dừa Bảy Mẫu thuộc địa phận thôn 2 và thôn 3 xã Cẩm Thanh. Nơi đây dừa nước tập trung thành thảm rộng, thảm DN này mọc tiếp giáp ra mũi đất bồi của thôn 2 về phía Cửa Đại. Vành đai ngoài DN mọc xen kẻ với cỏ biển. Các vùng phân bố rải rác Ngoài khu vực kể trên, hầu như DN phân bố rải rác thành các cụm, dãy, khắp các kênh rạch và các triền sông của xã Cẩm Thanh, Cẩm Nam và Cẩm Châu. Hiện nay, diện tích phân bố của DN ở khu vực chính rừng dừa Bảy Mẫu và các vùng phân bố rải rác này là khoảng 84.69 ha. Hình 3.2 . Ranh giới hành chính xã Cẩm Thanh ở hạ lưu sông Thu Bồn và vị trí phân bố của dừa nước. 3.2. Đặc điểm sinh học của dừa nước Dừa nước có tên khoa học là Nippa fructicans thuộc họ Palmae. 3.2.1. Đặc điểm hình thái loài Cây mọc thành dãy ven sông lạch nước lợ, gồm phần gốc thân ngầm với hệ thống rễ chằng chịt và phần trên là lá to. Thân cây dừa nước mọc ngang dưới lòng đất, chỉ có lá và cuống hoa mọc lên trên mà thôi. Vì vậy, nó không được xem như một loại cây gỗ, mặc dù tán lá có thể cao đến 9 mét. Hình 3.3. hoa và quả Dừa nước Cuống lá tròn, dài. Phần trên là bẹ lá phình to. Lá dùng để lợp nhà, làm vách, cuống lá có thể ghép lại dùng làm cửa, vách và các trang trí trong nhà. Cụm hoa dài 60-90cm. Hoa cái nở rộ thành chùm ở đầu cụm hoa hình cầu, hoa đực màu đỏ hoặc vàng dạng đuôi sóc trên những nhánh kế sau. Khi hoa đã thụ phấn, những trái nhỏ ép vào nhau và lớn lên thành dạng chùy như một quả bóng đường kính cỡ 25-30cm trên mỗi đầu cuống (quài dừa). Dừa nước có buồng quả to, gần hình cầu. Mỗi buồng có từ 40-60 quả, quả có nhân cứng, cơm của quả màu trắng, mềm, ngon, có thể ăn được, 1kg có từ 10-12 quả. Từ cuống của buồng hoa, quả, người ta có thể trích nhựa dừa nước, là một loại chất dịch có vị ngọt để làm đường, rượu, nước giải khát rất đặc biệt ở một số nước như Philippin, Thái Lan, Bangladesh. Hạt dừa nước khô già sẽ rơi rụng và phân tán theo thủy triều, có khi mọc mầm ngay khi trôi nổi. 3.2.2. Đặc điểm tái sinh DN có khả năng sinh sản rất nhanh bằng cách sinh sản dinh dưỡng do phần thân ngầm mọc ra cây mới. Cách sinh sản sinh dưỡng do sự phát tán của quả và mọc cây con trong rừng DN là rất khó. Việc trồng cây con lúc nước ngọt (tháng 10,11,12) là khả năng sống cao hơn và tốt nhất. 3.2.3. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cá thể và quần thể Chiều cao của lá là chỉ tiêu cho biết tình trạng sức khoẻ của thảm DN. Chiều cao trung bình từ 4-6 mét. Trong đó, khu vực triền sông thôn 2, khu vực rừng dừa bảy mẫu là khá tốt. Thường có chiều cao trên 5-6 mét. Lá sau khi khai thác xong, khoảng 15 ngày sau thì lên đọt non (giáo), 5 ngày sau thì giáo xoè lá, 6 tháng sau thì lá già đi. Theo nhiều người dân, các thảm DN trong tình trạng tốt, trung bình sau 3 năm thì diện tích DN có thể tăng từ 1 đến 1,5 ha. 3.3. Các yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến sự phân bố và sinh trưởng, phát triển của dừa nước Yếu tố khí hậu Khí hậu có nhiều thành phần, mỗi thành phần có ảnh hưởng nhất định đến sự sinh trưởng, phân bố của các loài và giữa các thành phần có tác động qua lại lẫn nhau. Trong các yếu tố khí hậu thì nhiệt độ, lượng mưa và gió có tác động lớn nhất đến cây ngập mặn Các yếu tố thổ nhưỡng Vùng nghiên cứu là vùng ĐNM cửa sông ven biển, chính vì vậy sự phân bố các kiểu trầm tích đáy rất phức tạp. Trong các vùng ĐNM có cây dừa nước thì chất đáy chủ yếu là bùn sét và cát màu đen chứa nhiều mùn bã hữu cơ, dần ra ở các lòng sông hạ lưu sông Thu Bồn, Sông Hội An, Sông Đế Võng (Tuý Loan) thì chất đáy có sự thay đổi, hàm lượng cát tăng lên, chuyển từ bùn sét cát sang bùn cát và cát bùn, đôi nơi là cát. Sự tăng hàm lượng bùn sét trong chất đáy ở các vùng đất ngập nước ven sông một phần là do quá trình nuôi trồng thuỷ sản trong các ao nuôi tôm bên trong thải ra khi cải tạo ao nuôi. Chế độ thủy triều và độ triều Chế độ triều vùng nghiên cứu chịu ảnh hưởng của chế độ triều bán nhật không đều, do vậy biên độ thuỷ triều nhỏ, từ 0,8-1,2m. Trung bình mỗi tháng có 3 ngày chịu ảnh hưởng của chế độ nhật triều, tháng nhiều nhất có 8 ngày, tháng ít nhất có 1 ngày, thời gian còn lại chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều. Chế độ thuỷ triều là yếu tố quan trọng cho sự phân bố của cây ngập mặn trên vùng triều. Biên độ triều nhỏ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng và phát triển của các loài cây ngập mặn, trong đó có dừa nước. Độ mặn và sự biến thiên độ mặn theo mùa Độ mặn là một trong những yếu tố quyết định quan trọng nhất của sự phát triển rừng ngập mặn và phân bố. Rừng ngập mặn phát triển tốt ở những nơi nồng độ muối từ 0,02-0,035. Quá cao, nồng độ muối (0,04-0,08) làm giảm số lượng các loài và kích thước của chúng. Ở những nơi nồng độ muối đạt 0,09 chỉ có một vài loài có thể tồn tại và thậm chí sau đó, chúng phát triển chậm lại. Không có rừng ngập mặn tự nhiên có thể tìm thấy nơi độ mặn quá thấp. Bảng 3.2. Độ mặn ở một số điểm TT Địa điểm Toạ độ Độ mặn (0/00) Tình trạng phân bố của DN 1 Cồn Hí (Thôn 2- Cẩm Thanh) 15052’15” 108022’41” 20 Tập trung 2 Thôn 2 - Cẩm Thanh 15052’31” 108022’29” 18,5 Tương đối tập trung 3 Thôn 6 - Cẩm Thanh 15053’31” 108022’17” 18 Ít tập trung hơn 4 Thôn 7 - Cẩm Thanh 15052”12” 108022’40” 18 Tương đối tập trung ( Nguồn báo cáo đề tài 9/2007) Dừa Nước chỉ có thể phát triển trong môi trường nước lợ, với độ mặn 0,005-0,02 và sẽ chết khi trồng trong vùng đất mặn ven biển [9]. 3.4. Nguyên nhân và sự suy giảm hệ sinh thái rừng Dừa nước Trước đây diện tích phân bố của DN ở hạ lưu sông Thu Bồn có hơn 100 hecta, hiện nay bị suy giảm khoảng 40%. Tuy nhiên có điều lạc quan đáng mừng là diện tích này đang tăng do việc quản lý và phát triển tự nhiên của DN cũng như đang được người dân quan tâm trồng thêm. Các nguyên nhân gây suy giảm: - Phát triển ao nuôi tôm Thiên tai lũ lụt, xói lở bờ sông - Đô thị hóa và các hoạt động kinh tế xã hội Trong đó, nguyên nhân quan trọng nhất là phá DN làm ao nuôi tôm. Đáng chú ý nhất là từ năm 1995 – 2005 diện tích dừa nước tại xã Cẩm Thanh giảm nhanh chóng. Nhưng hiện nay nguyên nhân này là không còn, thêm vào đó giá trị các sản phẩm DN đang có giá trị cao. Phỏng vấn ý kiến của nhiều hộ dân đang quản lý các ao nuôi tôm bỏ hoang ở Cẩm Thanh, họ cũng rất thiết tha với việc trồng DN và cây ngập mặn khác nếu Nhà nước có các giải pháp quản lý, bảo vệ hợp lý. Vì vậy, khả năng phát triển trồng và quản lý cây rừng ngập mặn ở Cẩm Thanh được đánh giá là rất thuận lợi. Hình 3.4 . Chuyển diện tích rừng Dừa nước thành ruộng nuôi tôm 3.5. Giá trị của hệ sinh thái Dừa nước Hình 3.5. Khai thác thủy sản và rong câu từ rừng Dừa nước Giá trị trực tiếp Khai thác và chế biến sản phẩm lá, cọng Dừa nước Lá được người dân khai thác 2 lần/năm. Lần thứ nhất vào khoảng tháng 2, khai thác 5 tàu lá/cây và lần thứ hai vào tháng 7, khai thác 3 tàu lá/ cây. Lá sau khi được khai thác sẽ được chẻ đôi và phơi khô dùng để lợp lên mái nhà hay dựng vách. Phiến lá được cắt khỏi cọng và bện thành tấm lợp. Khi đó, bẹ và cọng lá làm thành các cây dài 4-5 mét dùng để ghép lại làm vách, làm cửa hay la phông. Hình 3.6 . Vật liệu xây dựng làm từ lá dừa nước Hình 3.7. Nhà du lịch được làm từ Dừa nước Khai thác nguồn lợi thủy sản Cho đến nay chưa có mô hình nuôi kết hợp DN và các đối tượng kinh tế theo cách nuôi quảng canh. Người dân các khu vực có DN thường đặt các đăng, nò ven, thả lưới trong các dãy DN để khai thác. Thông thường có thể thu nhập từ 20 – 30.000đ/ngày/1 nò. Hình 3.8. Khai thác hàu trong rừng Dừa nước Giá trị gián tiếp Giá trị về du lịch sinh thái Rừng dừa nước ở hạ lưu sông Thu Bồn quanh năm xanh tốt tạo cho khu vực đất ngập nước hạ lưu sông Thu Bồn một sinh cảnh rất đặc biệt cho miền Trung - Hội An mà ở Việt Nam, chúng ta chỉ có thể tìm gặp sinh cảnh này ở miền Tây Nam Bộ. Khu rừng dừa nước Bảy Mẫu gắn liền với những chiến tích oai hùng của Đảng bộ và nhân dân xã Cẩm Thanh vì vậy rất thuận lợi trong việc phát triển du lịch sinh thái. Người dân có thể tổ chức các tua du lịch sinh thái quanh vùng dừa nước bằng xe đạp hay bơi ghe để khám phá rừng dừa nước. Giá trị về môi trường Điều hoà khí hậu, chống bão lũ, xói lở bờ sông đê. Cân bằng sinh thái, xử lý và nâng cao chất lượng môi trường. Với mật độ dân cư, khách sạn, nhà hàng như hiện nay, các sự cố về môi trường là khó tránh khỏi. Các hệ sinh thái thực vật này là những máy lọc sinh học khổng lồ, duy trì cân bằng sinh thái cho khu vực hạ lưu sông Thu Bồn và xa hơn cho cả vùng lân cận Cù lao Chàm. Hình 3.9. Vai trò môi trường của rừng Dừa nước đối với các rạn san hô ở Cù Lao Chàm Cung cấp nơi ở, nơi cư trú cho các loài sinh vật, cung cấp chất hưu cơ đầu tiên cho sự sống. Lá, thân, rễ của các loài cây ngập mặn, cỏ biển khi phân huỷ sẽ cung cấp thức ăn cho các loài động vật. Ngoài ra, một số loài động vật ăn trực tiếp lá cỏ biển, chẳng hạn như ốc. Là nơi học tập, các khu vực ĐNN được phục hồi và bảo vệ sẽ rất đa dạng và lý thú cho các hoạt động học tập nâng cao hiểu biết và nhận thức của cộng đồng [1]. 3.6. Các giải pháp quản lý, phục hồi và bảo vệ hệ sinh thái 3.6.1. Xây dựng khu vực nghiên cứu và du lịch Khu vực từ triền thôn 1, 2 vòng qua thôn 6, 7 của xã Cẩm Thanh là khu vực có hệ sinh thái ngập mặn ( DN) và thảm cỏ biển đan xen vào nhau ở mức triều thấp và rong câu Chỉ cũng xuất hiện nhiều ở khu vực này tạo ra một hệ sinh thái đa dạng. Các đặc điểm sinh thái môi trường ở khu vực này có ít sự thay đổi lớn do ở gần Cửa Đại. Do đó, khu vực này rất thích hợp cho việc nghiên cứu và du lịch sinh thái. 3.6.2. Giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội và quy hoạch dân cư trong vùng rừng ngập mặn Nguồn lợi nuôi tôm ở vùng ngập mặn là rất lớn nên người dân tiến hành phá rừng để nuôi tôm quảng canh. Do đó cần có những giải pháp giải quyết vấn đề như: - Đưa việc giáo dục bảo vệ RNM và nguồn lợi thủy sản vào chương trình giáo dục ở các cấp phổ thông. Mặt khác, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về RNM hay cuộc thi vẽ tranh RNM để nâng cao ý thức của giới trẻ. - Nghiêm cấm việc phá rừng DN để chuyển sang mục đích khác. Chính quyền tiến hành xử phạt hành chính đối với các trường hợp vi phạm. - Hiện nay, có hai mô hình “ rừng riêng tôm riêng” và “ rừng tôm kết hợp”, nhưng ở Cẩm Thanh do diện tích đất hẹp nên phù hợp với mô hình “ rừng tôm kết hợp”. Vì vậy, chính quyền cần khuyến khích việc đầu tư vốn, công sức, kỹ thuật nuôi tôm theo mô hình lâm ngư kết hợp quy mô gia đình trên diện tích hẹp. 3.6.3. Cải tiến cách nuôi hải sản trong vùng rừng ngập mặn Khảo sát tỉ lệ diện tích rừng để nuôi tôm, nơi nào nuôi tôm không hiệu quả thì lấy lại đất để trồng rừng tạo môi trường sống lâu dài cho hải sản. Ngoài nuôi tôm thì có thể nuôi cua bằng cách nuôi trong lồng và đặt trong các vùng dừa nước. Khuyến khích phát triển ngành nghề truyền thống Thương hiệu dừa nước Cẩm Thanh đang rất có tiếng trên thị trường trong vòng 4 năm trở lại đây, nhu cầu làm nhà dừa nước rất nhiều. Vì vậy, chính quyền địa phương nên mở các lớp học nghề tranh tre dừa nước và khuyến khích người dân tham gia để góp phần tăng thêm thu nhập cho người trồng dừa. 3.6.5. Nghiên cứu phát triển ngành mới Hiện nay, một số nước như Thái Lan, Bangladesh,… người ta đã biết rút nhựa cây dừa nước để sản xuất các sản phẩm có giá trị như : cồn, đường, giấm,… Tuy nhiên, ở Cẩm Thanh dừa nước chỉ mới được sử dụng để lợp nhà, các sản phẩm khác như quả DN và dịch ngọt từ buồng quả chưa được khai thác. Vì vậy, cần nghiên cứu và phổ biến cho nhân dân biết được kỹ thuật rút nhựa dừa nước để sản xuất các sản phẩm có giá trị tăng thêm thu nhập và tạo thương hiệu đặc sản quê hương Cẩm Thanh. Quản lý rừng ngập mặn trên cơ sở cộng đồng. Tiếp tục giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân đối với diện tích rừng và đất rừng chưa có chủ quản lý cụ thể. Tạo điều kiện thuận lợi để người dân và cộng đồng địa phương tham gia bảo vệ và phát triển loài trong hệ thống rừng phòng hộ ven biển, được hưởng lợi trực tiếp từ rừng. Đảm bảo vừa phát triển được vốn rừng phòng hộ ven biển vừa phát triển kinh tế thuỷ sản, giữ cân bằng giữa nhu cầu phòng hộ và phát triển kinh tế, tạo vùng an toàn bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ một cách bền vững. Người dân có nhiệm vụ trồng, chăm sóc và bảo vệ các khu vực của riêng họ nhưng cũng có quyền khai thác tài nguyên nguồn lợi trong khu vực bảo vệ ( kể cả du lịch sinh thái) nhưng việc khai thác này phải dựa trên cơ sở bền vững và được sự chỉ đạo cũng như quản lý của các nhà khoa học và chính quyền địa phương. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Qua quá trình điều tra hiện trạng rừng dừa nước tại xã Cẩm Thanh chúng tôi rút ra một số kết luận và kiến nghị sau: Kết luận Dừa nước phân bố khắp các sông, kênh rạch và phân bố tập trung tại khu vực rừng dừa Bảy Mẫu thuộc địa phận thôn 2 và thôn 3. Diện tích rừng dừa nước tại khu vực nghiên cứu có sự biến động khá lớn qua các thời kỳ. Thời kỳ suy giảm nhất thuộc vào những năm từ 1995 đến 2005. Lợi ích mà rừng dừa nước mang lại bao gồm: giá trị phòng hộ, kinh tế xã hội, môi trường và du lịch. Kiến nghị 1. Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên chỉ khảo sát được sự phân bố và hiện trạng quần thể dừa nước tại xã Cẩm Thanh. Nếu có thêm thời gian thì nên mở rộng quy mô nghiên cứu sang các xã lân cận dọc theo hạ lưu sông Thu Bồn như Cẩm Châu,… 2. Chưa áp dụng được các công cụ của hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong việc thành lập bản đồ xác định vùng phân bố của dừa nước. 3. Cần có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài, tình hình khai thác các nguồn lợi RNM để tạo cơ sở cho việc bảo vệ và phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Hữu Đại ( 2007), Đánh giá hiện trạng tài nguên đất ngập nước ( chủ yếu là dừa nước) ở hạ lưu sông Thu Bồn ( Quảng Nam) và các giải pháp quản lý, bảo vệ, phục hồi, báo cáo đề tài. 2. Phan Nguyên Hồng(1999), Rừng ngập mặn Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Lê Xuân Tuấn , Phan Nguyên Hồng, Trương Quang Học, Những vấn đề môi trường ven biển và phục hồi rừng ngập mặn ở Việt Nam. 4. Hội Nông Dân xã Cẩm Thanh, Dự án phục hồi và bảo tồn rừng dừa nước Cẩm Thanh phục vụ du lịch sinh thái và phát triển bền vững, quỹ môi trường toàn cầu. 5. Đoàn Thị Tâm(2010), Điều ta hiện trạng sử dụng tài nguyên sinh học trong rừng dừa nước và đề xuất một số phương pháp bảo tồn tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, khóa luận tốt nghiệp. 6. Võ Sĩ Tuấn(2003), Các hệ sinh thái biển chức năng hiện trạng sử dụng và những tác động, dự án khu bảo tồn biển Hòn Mun- khóa tập huấn quốc gia về quản lý khu bảo tồn biển, viện hải dương học Nha Trang. 7. Nguyễn Hoàng Trí( ), Sinh thái học rừng ngập mặn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Trần Thị Hồng Sa – Hà Văn Hành(2008), Sự biến đổi tài nguyên rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long và định hướng bảo tồn, phát triển, Tạp chí khoa học Đại Học Huế, số 48, 2008. 9. Trần Thị Sinh, Nghiên cứu hiện trạng phân bố và đặc điểm sinh thái học của loài cây Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) tại khu vực Trung Trung bộ, Khóa luận tốt nghiệp. 10. Trung tâm bảo tồn và phát triển tài nguyên nước, VRN tham gia thảo luận và đánh giá môi trường(2009), số 04- tháng 8 năm 2009. 11. Bộ nông nghiệp và phát triển Nông Thôn – chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp và đối tác (2006), Chương: Hệ sinh thái rừng tự nhiên Việt Nam, Cẩm nang ngành lâm nghiệp. 12. Nguồn CNN, “Rừng ngập mặn đang biến mất nhanh chóng”, 13. “Rừng ngập mặn, vườn ương cá trong rạn san hô”, 14. Trần Hoài, “ Quảng Nam giữ lấy hệ sinh thái biển”, 15. PGS-TS Đinh Văn Ưu, “Rừng ngập mặn làm giảm thiểu tác hại của sóng thần”, Nguồn: nhandan.com.vn 11/8/200, 16. “Một phần năm rừng ngập mặn trên thế giới đã mất trong vòng 30 năm qua”, Tiếng Anh 17. “ Learn about Mangroves” PHỤ LỤC BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA KHẢO SÁT HỆ SINH THÁI DỪA NƯỚC TẠI Xà CẨM THANH, THÀNH PHỐ HỘI AN Xin chào ông/bà. Xin tự giới thiệu, tôi tên là: Ngô Thị Trà My sinh viên ngành công nghệ môi trường, trường Cao Đẳng Đức Trí. Hiện nay tôi đang “Điều tra hiện trạng của rừng dừa nước” nhằm phục vụ cho việc làm khóa luận tốt nghiệp và đề xuất một số giải pháp bảo tồn các tài nguyên có trong rừng dừa nước tại xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An. Tôi có một số câu hỏi để hoàn thành vấn đề này rất mong ông/ bà giúp đỡ. Xin chân thành cảm ơn. Thông tin chung Ngày điều tra:……………………………. Họ và tên:………………………….. giới tính : 1 Nam 1 Nữ Địa chỉ :………………………. Nghề nghiệp:……………………. Tuổi : ……………………… 1.Ông/bà có biết được thời gian hình thành rừng dừa nước này không? 1 không rõ 1 có 2. Ông/ bà cho biết thời gian nào rừng dừa nước có diện tích lớn nhất. …………………………………………………………………………. 3. Ông bà cho biết nguyên nhân nào làm cho diện tích rừng dừa nước suy giảm trong khoảng thời gian đó không? ………………………………………………………………………….. 4 . Loài cây nào có số lượng nhiều nhất trong rừng ngập mặn Dừa nước 1 Vẹt 1 Đước 1 Loài cây khác 1 5 . Ông / bà cho biết diện tích rừng dừa nước hiện nay là bao nhiêu? ………………………………………………………… 6. Thôn nào có diện tích rừng dừa nước lớn nhất? …………………………………………………………… 7.Ông / bà khai thác những gì từ rừng dừa nước? …………………………………………………….. 8.Theo ông/bà nghề khai thác dừa nước có đảm bảo cuộc sống của gia đình mình không? 1 có 1 không 9.Ngoài nghề khai thác và chế biến dừa nước ông/ bà còn làm nghề nào khác không? 1 có 1 không Nghề ( nếu có)………………………………………….. 10Chính quyền địa phương đã có những giải pháp nào cho việc bảo tồn và phát triển rừng dừa nước chưa? 1 có 1 không Giải pháp ( nếu có)………………………………………………. 11.Ông/bà có đồng ý với việc bảo tồn dừa nước hay không? 1 có 1 không Người phỏng vấn Hội An, ngày …..tháng….năm 2011 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Đà Nẵng, ngày 23 tháng 5 năm 2011 GVHD ký tên Sinh viên ký tên Nguyễn Thị Gia Thạnh Ngô Thị Trà My

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBI KHA LU7852N 1.doc
Tài liệu liên quan