Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế

Tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG *********** KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ. Sinh viên thực hiện: Bùi Đức Chí Toàn Lớp Nga – khóa K38 E Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Phạm Song Hạnh Hà Nội - 2003 Mục lục Nội dung Trang số Lời nói đầu Chương I Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh 3 1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 3 2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4 II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7 1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 9 III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy 16 1. Do ngành giấy là một ngành có vai ...

pdf83 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1117 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG *********** KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ. Sinh viên thực hiện: Bùi Đức Chí Toàn Lớp Nga – khóa K38 E Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Phạm Song Hạnh Hà Nội - 2003 Mục lục Nội dung Trang số Lời nói đầu Chương I Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh 3 1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 3 2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4 II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7 1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 9 III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy 16 1. Do ngành giấy là một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta 16 2. Phát triển ngành giấy là một yêu cầu đặt ra nhằm phát huy nguồn lực của đất nước, thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước 18 3. Muốn phát triển ngành giấy thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế 20 Chương II Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế I/ Tình hình hoạt động của ngành giấy Việt Nam 22 1. Những thuận lợi 24 2. Khó khăn đối với ngành giấy 26 3. Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 29 III/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập 36 1. Những thách thức và cơ hội đối với ngành giấy Việt Nam trong quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 37 2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam 45 Chương III Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam I/ Mục tiêu định hướng phát triển ngành giấy Việt Nam đến năm 2010 52 1. Quan điểm 52 2. Mục tiêu của ngành giấy đến năm 2010 54 II/ Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy A/ Về phía các doanh nghiệp 56 1. Xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp 56 2. Xây dựng nhận thức đúng đắn về hội nhập 57 3. Áp dụng biện pháp giảm chi phí, nâng cao chất lượng 59 4. Phát huy nhân tố con người 61 5. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp ngành giấy 64 6. Đầu tư hợp lý cho công nghệ 66 B/ Về phía Nhà nước 68 1. Xây dựng chiến lược qui hoạch phát triển ngành giấy hợp lý 68 2. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành giấy 70 3. Sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh cho toàn ngành 72 4. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho ngành giấy, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ 73 Kết luận Tài liệu tham khảo  Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 5 - Lời nói đầu Trong điều kiện, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng làm nảy sinh rất nhiều vấn đề mới mẻ. Quá trình hội nhập đã, đang và sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta. Hội nhập mang đến cơ hội cho nhiều ngành công nghiệp phát triển, xuất khẩu được nhiều hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm mới, nhưng cũng gây ra thách thức cho không ít ngành của nước ta, trong đó có ngành công nghiệp giấy. Giấy là một mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đối với nhu cầu của nhân dân và công nghiệp giấy có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển sản xuất mặt hàng giấy là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong ba chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa, học tập, sản xuất công nghiệp. Nhưng hiện đang có không ít ý kiến cho rằng, ngành công nghiệp giấy Việt Nam có năng lực cạnh tranh yếu và có thể sẽ bị hàng nước ngoài lấn áp hoàn toàn. Có thực như vậy không? Xuất phát từ ý định đưa ra một cái nhìn và một sự đánh giá tương đối tổng quát và công bằng hơn đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam trước những thách thức của quá trình hội nhập, tác giả đã thực hiện khóa luận này. Mục đích của tác giả không phải là đi sâu vào tình hình, thực trạng sản xuất, kinh doanh của ngành công nghiệp giấy Việt Nam hiện nay, mà đi vào phân tích, đánh giá thách thức, cơ hội và năng lực cạnh tranh của ngành, thông qua đó đề ra một hệ thống giải pháp ngành nên áp dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành. Khóa luận sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn giải để nêu rõ mục đích của khóa luận. Ngoài phần lời nói đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, kết cấu khóa luận được tác giả chia làm 3 chương: Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 6 - - Chương I :Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế - Chương II :Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế Chương III : Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam Do ngành giấy là một ngành tương đối đặc thù dẫn đến khó khăn trong việc thu thập thông tin và tài liệu tham khảo, đồng thời kiến thức và tư duy còn hạn hẹp, nên ý kiến của tôi nêu ra có thể còn chưa được hợp lý. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, và các bạn đọc. Qua khóa luận này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Song Hạnh, người đã giúp đỡ và chỉ dẫn cho tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Cám ơn khoa KTNT, thư viện trường đại học ngoại thương, chú Hoan, giám đốc công ty VPP Hồng Hà đã giúp đỡ và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu và thông tin bổ ích để thực hiện khóa luận. Cám ơn bố mẹ đã tạo điều kiện cho con được học tập ở trường đại học ngoại thương, cám ơn các thầy cô đã dạy dỗ em trong bốn năm qua. Bùi Đức Chí Toàn Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 7 - Chương I LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH (NLCT) VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NLCT CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP KINH TẾ I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh Trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa đang lan rộng, nền kinh tế thế giới đang phát triển rất nhanh thì vấn đề cạnh tranh trong thương mại và trong sản xuất không còn bó hẹp trong phạm vi giữa các doanh nghiệp của một quốc gia, mà đã mở rộng ra phạm vi quốc tế và mang tính toàn cầu. Cạnh tranh giữa các công ty của các quốc gia để tiêu thụ hàng hoá rất quyết liệt. Nhà sản xuất, xuất khẩu nào cũng muốn tiêu thụ hàng hóa sao cho được nhanh chóng, được nhiều để có thể thu được thật nhiều lợi nhuận, nhưng thị trường thì có muôn vàn khó khăn và nghiệt ngã cản bước họ. Thương trường là chiến trường, trong cuộc cạnh tranh tất nhiên sẽ có người chiến thắng và kẻ chiến bại. Người chiến thắng phải là người có năng lực cạnh tranh cao hơn kẻ chiến bại. Năng lực cạnh tranh chính là chìa khóa để một doanh nghiệp dành chiến thắng trước các đối thủ cạnh tranh. Thế nhưng ta hiểu thế nào là năng lực cạnh tranh? Và những nhân tố nào ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh? 1. Khái niệm năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm nhiều loại: - Năng lực cạnh tranh của quốc gia - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp - Năng lực cạnh tranh của hàng hóa Mỗi loại lại có những cách hiểu, khái niệm khác nhau, có những nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Cho tới nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 8 - khác nhau về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia. - Ở tầm quốc gia: Theo định nghĩa của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) thì: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”. - Ở cấp doanh nghiệp: Theo Fafchamps, một chuyên gia về năng lực cạnh tranh, cho rằng: “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường”. Theo khái niệm này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì coi là có năng lực cạnh tranh. Theo tôi, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là “năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng cao”. Hiểu một cách đơn giản năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng hãng đó bán được hàng nhanh, nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về một loại hàng cụ thể. Quan điểm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, cũng như đối với một ngành công nghiệp của một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới - “Năng lực cạnh tranh của hàng hóa là khả năng bán được hàng nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều người cùng bán hàng đó”. Nó liên quan trực tiếp đến quyết định lựa chọn của người mua. Trong khóa luận này tôi chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 9 - Có rất nhiều chỉ tiêu để phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Và chỉ có qua những chỉ tiêu này, chúng ta mới có thể theo dõi, đáng giá được đúng năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Trong đó, điển hình nhất là một số chỉ tiêu sau: a) Doanh số: là số tiền bán hàng thu được trong một thời gian nhất định. Doanh số = giá bán x số sản phẩm bán ra Trên thực tế, người ta không chỉ xem xét thuần túy về giá trị mà còn chú trọng về mặt hiện vật của số sản phẩm bán ra đó, kể cả số lượng và chất lượng. Trong khi lợi nhuận chỉ rõ khả năng sinh lời thì doanh số lại cho biết quy mô hay tầm cỡ của doanh nghiệp lớn hay nhỏ ở mức nào. Tuy nhiên, không phải khi nào doanh số của hãng này lớn hơn hãng kia, thì cũng có nghĩa là lợi nhuận của nó cũng sẽ lớn hơn một cách tương ứng. Điều này do sự tác động của nhiều yếu tố chi phối như việc lựa chọn loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, chất lượng kinh doanh… b) Thị phần của doanh nghiệp: là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh. Đây là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Số sp bán ra của doanh nghiệp Thị phần = Tổng số sp tiêu thụ của thị trường - Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đó là tỷ lệ % giữa giá trị sản phẩm của doanh nghiệp bán ra so với giá trị của toàn ngành. - Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó chính là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn phân khúc. - Thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, chỉ tiêu này cho biết vị thế sản phẩm của doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào? Số sp bán ra của doanh nghiệp Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 10 - Thị phần = Số sp bán ra của đối thủ Nếu hệ số trên của thị phần tương đối lớn hơn 1 thì lợi thế cạnh tranh thuộc về doanh nghiệp, và ngược lại. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp sẽ biết mình đang đứng ở vị trí nào, và có thể vạch ra một chiến lược hành động phù hợp. Chỉ tiêu này nói lên mức độ lớn của thị trường và vai trò vị trí của doanh nghiệp. Nó cho biết mức độ hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không hiệu quả. Khi tiềm lực của thị trường đang lên mà phần thị trường của doanh nghiệp không thay đổi tức là thị trường đã ngoài vòng kiểm soát của doanh nghiệp hay một phần của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho nên doanh nghiệp cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng thị trường của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm trên thị trường hiện tại, có giải pháp thích hợp lôi kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình… Mục tiêu doanh số và thị phần có liên quan mật thiết với nhau. Doanh số cho biết kết quả của doanh nghiệp ở thị trường đang hoạt động, còn thị phần thì chỉ rõ doanh nghiệp chiếm được bao nhiêu trong cả “chiếc bánh thị trường” đó. Hai mục tiêu này còn gọi là những mục tiêu tạo lợi thế cạnh tranh hay mục tiêu thế lực. Khi doanh số và thị phần càng vượt xa đối thủ, doanh nghiệp càng có nhiều lợi thế trong cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường và thao túng giá cả. Mức lợi thế áp đảo tuyệt đối sẽ dẫn tới sự lũng đoạn và độc quyền thị trưòng, hình thành giá cả lững đoạn và lợi nhuận lũng đoạn. c) Lợi nhuận: Lợi nhuận được định nghĩa một cách khái quát là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Chỉ tiêu lợi nhuận là thước đo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 11 - Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện để tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ mong muốn cho chi phí đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, cũng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường để nâng cao khả năng của doanh nghiệp. d) Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biết mức sinh lời của đồng vốn dùng trong kinh doanh. Tỷ suất này thể hiện sự bù đắp chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thông thường đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác hay ít nhất phải cao hơn mức lãi suất tín dụng ngân hàng. Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản kinh doanh của doanh nghiệp ấy. Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì chứng tỏ doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi và có hiệu quả. e) Tỷ suất doanh thu trên vốn: cho biết mức doanh thu tạo ra trên một đồng vốn, ngoài ra nó còn cho biết mức độ quay vòng của vốn. Tỷ suất này phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành và chu kỳ sản xuất kinh doanh. f) Tỷ lệ chi phí marketing trên tổng doanh thu: Đây cũng là một chỉ tiêu được sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, hay của một ngành liên quan trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà doanh nghiệp, ngành Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 12 - đó cung cấp. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của hàng hóa cũng chính là những yếu tố tạo ra năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành. Qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa ta có thể thấy được năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Vì thế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tổng thể, bao gồm nhiều nhân tố. Chất lượng: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu của năng lực cạnh tranh. Khi chất lượng cuộc sống ngày càng tăng thì người ta càng có xu hướng lựa chọn hàng hóa đẹp, tốt, có chất lượng cao hơn là chọn hàng hóa có giá rẻ. Tùy theo mặt hàng mà tiêu chí chất lượng có thể thay đổi, đối với hàng tiêu dùng, thì những hàng hóa có kiểu dáng hiện đại, màu sắc phù hợp thị hiếu, chất lượng tốt,… sẽ thu hút khách hàng và được lựa chọn. Đối với mặt hàng thiết bị máy móc, tiêu dùng dài ngày thì sự ưu việt của các tính năng, độ tin cậy cao, tiện nghi sử dụng là những yếu tố quyết định. Giá cả: giá cả cũng là một yếu tố có sức lôi cuốn người mua, và được người mua cân nhắc khi mua một sản phẩm nào đó. Tuy nhiên, giá thấp chưa chắc đã là một lợi thế, cái quyết định là tương quan hợp lý của giá và chất lượng. Trong trường hợp, khi hàng hóa có giá trị tương đương nhau, thì hàng hóa của doanh nghiệp nào có giá thấp hơn hàng hóa đó sẽ dễ bán hơn, và có khả năng cạnh tranh cao hơn. Chi phí sử dụng: Đối với những hàng hóa sử dụng dài ngày thì chi phí sử dụng là yếu tố rất quan trọng. Chi phí sử dụng thấp sẽ làm cho hiệu quả sử dụng cao. Người mua hàng rất quan tâm đến yếu tố này, bởi vì, nhiều khi chi phí sử dụng có thể vượt xa chi phí mua hàng. Hàng giá thấp nhưng chi phí sử dụng cao có thể làm cho tổng chi phí vẫn cao và sử dụng không kinh tế. Chi phí sử dụng thường là chi phí cho việc tiêu tốn năng lượng, nhiên liệu, vật liệu kỹ thuật, chi phí cho người vận hành, chi phí bảo dưỡng, duy tu…. Để chi phí sử dụng thấp thì sản phẩm phải được chế tạo hoàn hảo, trình độ kỹ thuật cao. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 13 - Phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán ( hậu mãi ): để tạo thuận lợi và lôi cuốn người mua, các doanh nghiệp thường cung cấp những dịch vụ miễn phí như chở hàng đến tận nơi, lắp đặt, hướng dẫn bảo hành,… Đó là những phục vụ kỹ thuật khi bán. Phục vụ kỹ thuật sau khi bán là bảo hành, cung cấp phụ tùng, tổ chức sửa chữa,… Đây cũng là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp, ngành nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của mình, và cho chính bản thân doanh nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, hàng hóa của hai doanh nghiệp có chất lượng, giá cả tương đương nhau thì khách hàng sẽ chọn hàng được doanh nghiệp phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán hoàn hảo. Điều này sẽ khiến khách hàng yên tâm, thoải mái hơn, tạo một ấn tượng đẹp nơi khách hàng, đồng thời giúp doanh nghiệp nhanh chóng phát hiện ra những thiếu sót, nhược điểm của sản phẩm và những đòi hỏi mong muốn của khách hàng… Từ đó, sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố, có những nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát (các nhân tố bên trong doanh ngiệp), và những nhân tố phức tạp, không lệ thuộc và không bị nhà doanh nghiệp chi phối (môi trường vĩ mô, môi trường ngành). Những nhân tố này tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo những chiều hướng khác nhau, và đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp thích hợp để ứng phó. * Môi trường vĩ mô Các nhân tố thuộc về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở các phương diện sau. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 14 - - Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã…) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao. - Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị trường trong nước và trên thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài. - Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của các doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi suất tiền vay lớn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn. Các nhân tố về chính trị, pháp luật: những yếu tố thuộc môi trường này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp. Trong số những yếu tố này thì luật pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì luật pháp điều tiết hoạt động kinh doanh, giải quyết mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội trước những hoạt Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 15 - động của doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận đã coi thường lợi ích chung toàn xã hội. Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất trong nước. Môi trường tự nhiên: Bao gồm các yếu tố như tài nguyên, đất đai, vấn đề ô nhiễm môi trường… những vấn đề này có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến các sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường, liên quan đến giá thành và lợi nhuận. Đây là một yếu tố quan trọng nhưng không phải mang tính quyết định, tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không nên coi thường ảnh hưởng của những yếu tố này được. Trình độ phát triển khoa học, công nghệ: Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh. Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Những tiến bộ về khoa học và công nghệ mới làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm được đổi mới, tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Hiện nay, khi trên thế giới, có sự chuyển hướng quan tâm từ giá cả sang chất lượng của hàng hóa, các doanh nghiệp chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 16 - lượng khoa học công nghệ cao, vòng đời của sản phẩm ngày càng ngắn, thì trình độ khoa học công nghệ lại càng nắm giữ vai trò trọng yếu hơn. Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các doanh nghiệp tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. * Môi trường ngành Hoạt động trên thương trường, doanh nghiệp tự ý thức được rằng không phải mình đang “múa giáo ở chốn không người”, mà là giữa các đối thủ cạnh tranh dù ở trong lĩnh vực nào cũng vậy. Trong ngành nghề của mình, doanh nghiệp nào cũng sẽ phải bươn chải trong một “cái ao”, hay còn gọi là môi trường ngành của mình, và phải chịu những tác động của nó đối với hoạt động kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nào thích ứng tốt được với môi trường ngành của mình thì sẽ có năng lực cạnh tranh cao và là người chiến thắng. Trong tác phẩm “chiến lược cạnh tranh” của Michael Poter, một chuyên gia đầu ngành về chiến lược cạnh tranh, đồng chủ tịch của báo cáo cạnh tranh toàn cầu, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông gọi là năm lực lượng cạnh tranh trên thị trường ngành. Sức mạnh tổng hợp của năm lực cạnh tranh sẽ quyết định khả năng cạnh tranh của các hãng trong cùng ngành. Sức mạnh của chúng ở mỗi ngành, và mỗi lúc lại khác nhau. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới chúng, trước khi có những quyết định lựa chọn phương thức, nhiệm vụ phát triển của mình. Năm lực lượng đó là: Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 17 - cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lược lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ có một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung của ngành. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ… Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường đó. Sức ép của nhà cung ứng Những nhà cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau: Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 18 - - Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền cung cấp. - Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống mạng lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẽ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng. Sức ép của khách hàng Sức mạnh khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn, tính tập trung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành. Sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành. Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng cũng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các doanh nghiệp. * Các nhân tố bên trong doanh nghiệp Đây là những nhân tố thuộc nội bộ doanh nghiệp, nó là những yếu tố có thể kiểm soát được hay cũng có thể nói đấy là những yếu tố chủ quan của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể kiểm soát chúng để quản lý hoạt động kinh doanh của mình. Có thể kể ra một số nhân tố như sau: Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 19 - - Nguồn nhân lực: đội ngũ cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp - Tình hình tài chính của doanh nghiệp - Trình độ công nghệ của doanh nghiệp - Các quyết định từ các cấp thuộc doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh Nguồn nhân lực: Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh. Trong nguồn nhân lực thì gồm có các bộ phận sau: + Ban giám đốc doanh nghiệp + Cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp + Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân - Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những công ty lớn ngoài ban giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp. Các thành viên ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Đội ngũ cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân: Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và vật chất - Công nhân: Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh. Nguồn lực vật chất và tài chính - Máy móc thiết bị và công nghệ: Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực cạnh tranh Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 20 - của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ lạc hậu. - Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đâu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường. Nói tóm lại, khi xem xét, đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và kể cả khả năng cạnh tranh của các đối thủ, thì ta phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động đến nó, từ đó mới có thể “gạn đục, khơi trong” và tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của chính doanh nghiệp. III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Ngành giấy Việt Nam có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta, nhu cầu về giấy ngày càng tăng khi nền kinh tế phát triển, chính vì thế nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy là một nhiệm vụ cấp thiết và mang tính tất yếu đối với nền kinh tế nước ta, đặc biệt là trong điều kiện nước ta đang hội nhập kinh tế rất sâu và rộng như hiện nay. Nâng cao năng lực cạnh tranh là nhằm phát triển ngành. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành sẽ được lý giải qua ba nguyên nhân chính. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 21 - 1. Do ngành giấy là một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta Tuy hiện nay, ngành giấy Việt Nam còn chưa phát triển được đúng với tiềm năng của mình, giá trị sản xuất của ngành còn khá khiêm tốn mới chỉ chiếm hơn 2% trong tổng giá trị công nghiệp của cả nước, nhưng ngành giấy vẫn được coi là một ngành công nghiệp quan trọng đối với nước ta và có vị trị nhất định trong nền kinh tế nước ta. Sự quan trọng của ngành thể hiện trong vai trò của nó đối với nền kinh tế nước ta: Thứ nhất, ngành giấy là một ngành thu hút nhiều lao động. Số lao động làm việc trực tiếp cho các đơn vị công nghiệp sản xuất giấy là khoảng 50.000 người. Những người lao động này bao gồm: những người sản xuất bột giấy và những người sản xuất ra các sản phẩm giấy. Nếu chỉ xem xét số lao động làm việc trực tiếp trong ngành thì ta có thể cho rằng ngành giấy mới thu hút được một số lao động không phải là lớn lắm so với những ngành như may mặc, da giày…. Nhưng để thấy hết vai trò của ngành trong việc tạo công ăn việc làm, ta phải đi từ đặc điểm của ngành. Ngành giấy là một ngành sử dụng khối lượng nguyên vật liệu thô đầu vào rất lớn, và để phục vụ nhu cầu nguyên liệu cho ngành thì sẽ cần phải có một đội ngũ hùng hậu những người trồng rừng, khai thác rừng. Bên cạnh đó, để phục vụ cho nhu cầu về hóa chất, xút, và các chất phụ gia của ngành thì cũng dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực sản xuất chuyên phục vụ nhu cầu này của ngành giấy và cũng sẽ tạo ra rất nhiều chỗ làm. Chính vì thế, tuy số lao động làm việc trực tiếp trong ngành có thể còn khiêm tốn, nhưng nếu cộng cả số lao động làm việc gián tiếp trong ngành thì tổng số lao động của ngành có thể không kém gì những ngành thu hút nhiều lao động như dệt may hay da giày. Thứ hai, phát triển ngành giấy là tiền đề phát triển nhiều ngành kinh tế khác, góp phần tích cực vào quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Nguyên liệu chủ yếu của ngành giấy là từ gỗ, chính vì vậy, nếu ngành giấy Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 22 - phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành lâm nghiệp, tạo đầu ra ổn định cho ngành lâm nghiệp. Đồng thời, do trồng, khai thác nguyên liệu cho ngành giấy phải được chuyên môn hóa, tập trung thâm canh nên dẫn đến yêu cầu phải áp dụng các giống cây trồng có năng suất cao, kỹ thuật thâm canh tiên tiến, và sử dụng máy móc vào trồng, khai thác, nên sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong lâm nghiệp. Đầu ra của ngành giấy là để phục vụ cho nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp và cho nhu cầu của nhân dân. Ngành giấy phát triển sẽ tạo điều kiện cho những ngành sử dụng nguyên liệu đầu vào là giấy như ngành in, ngành sản xuất bao bì …phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của những ngành này nhờ vào nguyên liệu đầu vào có giá rẻ, chất lượng cao. Ngành giấy phát triển sẽ phục vụ tốt nhu cầu học tập, giải trí, nghiên cứu, tìm hiểu đa dạng và ngày càng cao của người dân, góp phần nâng cao nhận thức của họ, qua đó sẽ nâng cao trình độ nguồn nhân lực của nước ta, tạo ra một tác động nhất định đến quá trình CNH, HĐH đất nước. Thứ ba, phát triển ngành giấy sẽ giúp tái chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng, xóa đói giảm nghèo, tăng cường an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Vai trò của ngành giấy trong việc bảo vệ môi trường thể hiện ở chỗ: Ngành giấy ngoài việc sử dụng nguyên liệu là gỗ, thì còn sử dụng nguyên liệu là những thứ đã qua sử dụng như giấy phế liệu, bã mía….Chỉ trong năm 2002, ngành giấy nước ta đã thu gom và sử dụng được 206.000 tấn trong nước để đưa vào tái sản xuất. Điều này không chỉ giúp ngành giấy đáp ứng được 36% nguyên liệu cho sản xuất giấy, mà còn góp một phần không nhỏ trong việc bảo vệ, làm sạch môi trường, tiết kiệm chi phí cho xã hội trong việc giải quyết đống “phế liệu” khổng lồ này. Bên cạnh đó, do cây nguyên liệu giấy không đòi hỏi cao về chất đất, nên phát triển ngành giấy sẽ giúp phủ xanh diện tích đất trống đồi trọc đang ở mức đáng lo ngại. Trồng rừng nguyên liệu giấy vừa giúp bảo vệ môi trường, vừa tăng thu nhập cho người dân trồng rừng, khiến họ gắn bó với rừng, không phá rừng nữa và sẽ bảo vệ rừng như bảo vệ Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 23 - tài sản của mình. Rừng nguyên liệu giấy thường được trồng ở các đồi núi, vùng sâu vùng xa nên nó sẽ giúp chuyển đổi cơ cấu cây trồng lạc hậu, kém hiệu quả của người dân địa phương, nâng cao đời sống cho họ, qua đó, xóa đói giảm nghèo ở những vùng này. Đời sống của người dân ở vùng sâu, vùng xa được cải thiện không chỉ làm kinh tế của vùng được nâng cao, mà còn tạo điều kiện để nhân dân gắn bó với đất đai, kết hợp với các đơn vị bộ đội, công an trong việc giữ đất, giữ rừng, bảo vệ an ninh quốc phòng ở địa phương. 2. Phát triển ngành giấy là một yêu cầu đặt ra nhằm phát huy nguồn lực của đất nước, thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước Thực trạng thị trường cầu được xem xét thông qua mối quan hệ với qui mô sản xuất của ngành và lượng giấy nhập khẩu. Từ dó, ta sẽ thấy được yêu cầu cấp bách phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành để sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu. Theo hiệp hội giấy Việt Nam, năm 2001, nhu cầu giấy bình quân trên đầu người của nước ta là 8kg/người/năm, đây là mức tương đối thấp so với mức trung bình của khu vực và thế giới, nhưng ngành giấy cũng chỉ sản xuất được 420.107 tấn, đáp ứng được chưa đầy 60% nhu cầu trong nước, nên nước ta phải nhập 290.000 tấn giấy các loại, trị giá hơn 100 triệu USD. Năm 2002, ngành đã tăng sản lượng sản xuất, đạt 538.231 tấn, tăng 28%, nhưng cũng chỉ đáp ứng được 59% nhu cầu, còn lại nước ta vẫn phải nhập 371.554 tấn giấy, trong đó có 145.251 tấn giấy tráng, loại giấy có giá trị cao nhưng trong nước chưa sản xuất được. Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, GDP tăng 6-7%/năm, cộng với sự gia tăng dân số, nhu cầu về giấy sẽ chỉ có tăng chứ khó có khả năng giảm, nó sẽ tăng tỉ lệ thuận với tốc độ tăng của GDP. Dự báo mức tiêu dùng giấy của nước ta sẽ tăng ổn định bình quân 10 %/năm (trong đó giấy in báo tăng 7%, giấy in viết và bao bì tăng 10%, các loại khác là 15%/năm). Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 24 - Đến năm 2020 thì nhu cầu về giấy của Việt Nam có thể lên tới 3.420.000 tấn/năm. Năm 2005 2010 2020 Dân số 83 89 102 Tiêu thụ giấy bình quân (kg) 9,4 14,5 33,6 Nhu cầu giấy (triệu tấn) Trong đó: - Giấy in báo - Giấy in, viết - Giấy bao bì Loại khác 781.000 85.000 226.000 410.000 60.000 1.286.000 120.000 365.000 691.000 110.000 3.420.000 236.000 947.000 1.729.000 445.000 (Nguồn tổng công ty giấy Việt Nam) Theo nghiên cứu trên thì ta có thể thấy rằng nhu cầu giấy của nước ta là rất lớn so với năng lực sản xuất hiện tại của toàn nghành (năm 2002 là 538.554 tấn). Để có thể đáp ứng được nhu cầu này thì phải phát triển sản xuất giấy trong nước. Nếu không mỗi năm chúng ta lại có thể phải bỏ ra 200 – 300 triệu USD để nhập khẩu giấy, tương đương với số tiền đầu tư, xây dựng một nhà máy giấy hiện đại, công suất lớn, trong khi chúng ta có đủ khả năng về con người và nguyên liệu tự nhiên để phát triển ngành dẫn tới một sự lãng phí lớn Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 25 - nguồn lực của đất nước. Chính vì vậy đặt ra yêu cầu phát triển ngành để đáp ứng đủ được nhu cầu trong nước. 3. Muốn phát triển ngành giấy thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng mạnh, xu hướng cắt giảm thuế quan diễn ra ngày càng nhanh, để phát triển ngành giấy thì một nhiệm vụ cấp bách là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Trong những năm qua sản phẩm của ngành giấy đã chiếm được 50-60% thị phần trong nước và phần nào đáp ứng được nhu cầu của thị trường, đặc biệt là các sản phẩm giấy in, giấy viết, in báo, giấy vệ sinh đã chiếm 80 - 90% thị phần phục vụ cho nhu cầu in ấn, văn hoá, giáo dục, sinh hoạt... của nhân dân. Nhưng trong thời gian tới khi thuế suất đối với các mặt hàng giấy chỉ còn 0-5% vào năm 2006, sản phẩm giấy nội địa sẽ phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt của giấy ngoại nhập về chủng loại, chất lượng, giá cả. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của ngành hiện còn đang rất yếu, nếu chúng ta không nâng cao chất lượng và đặc biệt là hạ được giá thành sản phẩm thì khả năng tồn tại của sản phẩm giấy nội địa là rất khó, chứ đừng nói đến phát triển ngành, thay thế hàng nhập khẩu, phát huy nguồn lực trong nước. Nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ giúp phát triển ngành giấy, và ngành giấy có phát triển thì mới có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài , hai vấn đề này có tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, đề ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy là một nhiệm vụ tất yếu khách quan để phát triển ngành giấy, đặc biệt là trong thời điểm hội nhập ngày càng gần. Đó là nhiệm vụ, yêu cầu không phải chỉ của riêng một mình tổng công ty giấy, của ngành giấy, mà là của toàn xã hội. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 26 -  Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 27 - Chương II THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRƯỚC THỀM HỘI NHẬPKINH TẾ QUỐC TẾ I/ Tình hình hoạt động của ngành giấy Việt Nam Sản xuất giấy ở Việt Nam đã có từ lâu đời, nhưng ngành công nghiệp giấy Việt Nam thì chỉ mới ra đời vào đầu thế kỷ 20, trong thời gian đầu các nhà máy giấy có tính chất thủ công, vào những năm trước 1945 cả nước có khoảng 7 nhà máy sản xuất giấy, sản lượng trung bình mỗi năm chỉ vào khoảng 1000 tấn/năm, chất lượng giấy rất thấp, qui trình sản xuất còn rất thủ công. Đến những năm 50-60, công nghiệp giấy bắt đầu đi vào phát triển, trang bị những máy móc thiết bị sản xuất giấy công nghiệp, công suất các nhà máy được nâng lên mức 20.000 tấn/năm, điển hình trong giai đoạn này là sự ra đời của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ(1949), “cái nôi của ngành giấy Việt Nam”, sản phẩm giấy trong thời kỳ này chủ yếu là để phục vụ nhu cầu in ấn và viết. Trong giai đoạn 1960 – 1970 xuất hiện hàng loạt các nhà máy giấy với qui mô nhỏ ở khắp miền Nam và miền Bắc. Trong thời gian này sản phẩm giấy được sản xuất cũng đa dạng hơn bao gồm các loại giấy báo, giấy viết, carton… Sản lượng đạt khoảng 40.000 tấn/năm. Sản lượng giấy năm 1970 tăng 10 lần so với năm 1960 đạt mức hơn 50.000 tấn. Tuy nhiên, chỉ sau năm 1975 công nghiệp giấy mới thực sự được đầu tư phát triển với những nhà máy mới có công suất trung bình. Đặc biệt sau tám năm xây dựng, ngày26/1/1982 lễ khánh thành nhà máy giấy Bãi Bằng đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp giấy Việt Nam. Vào thời điểm đó thì công ty giấy Bãi Bằng được coi là một nhà máy sản xuất tương đối hiện đại, với qui trình sản xuất khép kín, ứng dụng kỹ thuật cơ giới hoá và tự động hóa khá đồng bộ với năng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 28 - suất thiết kế là 55.000 tấn giấy/năm và 48.000 tấn bột giấy/năm. Với sự ra đời của nhà máy giấy Bãi Bằng thì tổng công suất của ngành giấy đã tăng lên 90.000 tấn/năm, chất lượng giấy cũng được cải thiện rõ rệt so với trước, đặc biệt là hai mặt hàng giấy in và giấy viết. Mặc dù vậy, trong giai đoạn này, cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, ngành giấy Việt Nam cũng vấp phải không ít khó khăn, có lúc tưởng chừng không thể vượt qua do cơ chế quan liêu bao cấp, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sản phẩm sản xuất ra lại không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dụng. Chính sách đổi mới do Đảng và chính phủ ta đề ra năm 1986 đã tạo ra sự thay đổi lớn lao trong mọi mặt đời sống xã hội và kinh tế nước ta. Theo đó, thực hiện việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự quản lý của Nhà nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh sản xuất, chuyển từ mục tiêu tập trung phát triển công nghiệp nặng sang phát triển công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Sự thay đổi đó đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt trong nền kinh tể nói chung và ngành công nghiệp giấy nói riêng. Lúc này, ngành giấy Việt Nam đã có hai nhà máy có công suất tương đối lớn hơn 50.000 tấn/năm là Bãi Bằng và Tân Mai. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành giấy trong giai đoạn 1990-1999 bình quân đạt 16%/năm, tốc độ tăng trưởng này nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến nước ta nói riêng và công nghiệp nói chung, nhiều thành phần kinh tế đã tham gia vào đầu tư, sản xuất giấy đã đáp ứng được một phần nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm giấy, ngành giấy Việt Nam đã xuất khẩu được một số loại giấy sang các thị trường nước ngoài (Đài Loan, Srilanca, Trung Đông,…). Năm 1999 sản lượng toàn ngành đạt 292.000 tấn gấp gần 4 lần năm 1990. Sau 10 năm liền tăng trưởng với tốc độ bình quân 16%/năm(1990 – 1999), nhạy bén nắm bắt thời cơ, ngành giấy Việt Nam đã vươn lên tốc độ tăng trưởng rất cao (cao nhất trong các ngành công nghiệp) với tốc độ tăng trưởng trong 3 năm gần đây ( 2000 –2002 ) là 24%/năm, ngành Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 29 - giấy cũng đã có một số biện pháp chủ động để hội nhập kinh tế. Dù đã đạt được một số thành tựu, vẫn giữ vững được thị trường, và bước đầu xâm nhập thị trường nước ngoài, nhưng ngành giấy Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế vẫn còn nhiều yếu kém và khuyết điểm. Để làm rõ những điểm yếu đó, tôi xin trình bày, những thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam, tình hình hoạt động của ngành trong những năm gần đây. Qua đó, ta có thể xác định được năng lực cạnh tranh của ngành và đề ra giải pháp để phát triển ngành, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, phát huy, khai thác lợi thế của ngành, đồng thời khắc phục những khó khăn, thách thức. 1. Những thuận lợi - Điều kiện tự nhiên Việt Nam có hình chữ S với tổng diện tích là 330.541 km2 trải dài suốt dọc bờ biển đông nam Châu Á, ba phần tư lãnh thổ là núi đồi với những đỉnh cao trên 300 m trên mặt nước biển trung bình, khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Hầu hết vùng núi là đất đỏ, trên núi cao có đất mùn và thung lũng sông và đồng bằng châu thổ có đất phù sa phỡ nhiờu, cỏc vựng đá vôi có đất bazan và ở một vài vùng ven biển đất cát nhiều. Đất đai, và khí hậu như vậy rất phù hợp để phát triển trồng rừng nguyên liệu giấy, cây nguyên liệu có tốc độ tăng trưởng nhanh. Tổng diện tích đất của Việt Nam là khoảng 33 triệu ha, diện tích đất đã sử dụng là 23,840 triệu ha chiếm 57,04% quỹ đất tự nhiên, diện tích đất chưa sử dụng là khoảng 8 triệu ha (theo niên giám thống kê năm 2000), diện tích đất này có khá nhiều khu vực có tiềm năng thích hợp để trồng cây nguyên liệu giấy.Theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng thì rừng trồng nguyên liệu giấy nước ta hiện có 803 000 ha, trong đó có 618.000 ha rừng tự nhiên, 185 000 ha rừng trồng các loại. Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2001 - 2010 đã được Quốc hội thông qua, cả nước sẽ trồng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 30 - mới 1.140.000 ha rừng cây nguyên liệu giấy trong Chương trình 5 triệu ha rừng. Một vùng nguyên liệu dồi dào đang mở ra cho ngành giấy trong tương lai. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, ngành giấy Việt Nam có lợi thế về nguồn nguyên liệu thô rất phong phú. Đến nay, tuy chưa tuyển chọn được nhiều, nhưng tập đoàn cây nguyên liệu giấy ở Việt Nam đã khá đa dạng, với một số loài sinh trưởng nhanh, cho năng suất và chất lượng cao như thông 2 lá, 3 lá làm nguyên liệu cho sợi dài, bồ đề, bạch đàn làm nguyên liệu cho sợi ngắn, lồ ô, tre cho nguyên liệu sợi trung bình. Với tổng trữ lượng gỗ là 751,5 triệu m3, tổng trữ lượng rừng tre nứa là 8,4 tỷ cây, ngành có thể sử dụng nguyên liệu từ cây lá rộng, từ tre nứa, vầu, luồng… Ngoài ra, ngành còn có thể sử dụng một nguồn nguyên liệu có khối lượng rất lớn và được cung cấp ổn định những phụ phẩm của các ngành khác hàng chục triệu tấn/mỗi năm như rơm rạ của các vùng sản xuất lúa gạo, bã mía của các nhà máy sản xuất đường… Với nguồn nguyên liệu đa dạng, phong phú như vậy, ngành giấy có khả năng chủ động được về nguyên liệu, từ đó có thể nâng cao vị thế của mình. Vấn đề đặt ra là ngành phải khai thác và sử dụng chúng sao cho hợp lý và có hiệu quả. - Nguồn nhân lực Thuận lợi thứ hai đối với ngành giấy là Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào. Ước tính, hiện nay, Việt Nam có lực lượng lao động khoảng 50 triệu người, và được bổ sung thường xuyên hàng năm với tốc độ tăng trung bình là 1,7%. Lao động của chúng ta được đánh giá là trẻ, cần cù, thông minh, chịu khó và có khả năng tiếp thu công nghệ nhanh. Giá nhân công của nước ta lại chỉ ở mức thấp. Đối với một ngành cần sử dụng nhiều lao động như ngành giấy thì đây có thể coi là một yếu tố tương đối thuận lợi. Bên cạnh nguồn nhân lực dồi dào, ngành giấy nước ta còn được hưởng lợi từ một thị trường nội địa rộng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 31 - lớn với dân số hơn 80 triệu người , thị trường này còn đang sơ khai và còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết. - Chính sách của Nhà nước Ngành giấy, hiện nay cũng được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Nhà nước và Chính phủ. Trong chính sách của mình, Chính phủ đánh giá ngành giấy như một ngành sản xuất thay thế xuất khẩu, góp phần phát triển các vùng kinh tế sâu và xa, do vậy Chính phủ đã đề ra một loạt chính sách để hỗ trợ phát triển ngành giấy như cấp vốn bằng nguồn vốn đầu tư ưu đãi, quỹ đầu tư phát triển, giảm thuế cho ngành, khuyến khích đầu tư vào ngành giấy. Kết quả là hiện nay có rất nhiều thành phần kinh tế tham gia vào kinh doanh, sản xuất trong ngành, sản lượng của ngành tăng vọt, mặt hàng cũng phong phú hơn. Chính phủ đã và đang xây dựng qui hoạch phát triển ngành, vùng nguyên liệu, giao đất giao rừng cho nhân dân, khuyến khích nhân dân trồng rừng nguyên liệu giấy để tạo vùng nguyên liệu ổn định cho ngành. Sự quan tâm ưu ái của Chính phủ cũng sẽ là một nhân tố thuận lợi để phát triển ngành. - Thuận lợi khác Do đã kinh doanh lâu năm, nên ngành đã xây dựng được cho mình một kênh phân phối, mạng lưới đại lý trải khắp mọi miền của đất nước, sản phẩm của ngành đã trở nên quen thuộc với mọi người, từ các nhà in lớn tiêu thụ hàng nghìn tấn giấy một năm đến những em nhỏ lớp 1 với những trang vở đầu đời. Những cái tên như Bãi Bằng, Tân Mai,…. đã trở thành thương hiệu lớn của ngành không chỉ trong nước mà cả ngoài nước, thành một tài sản vô hình của ngành. Đây là một ưu thế để ngành có thể cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài. 2. Khó khăn đối với ngành giấy Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 32 - Tuy ngành giấy Việt Nam có được một số thuận lợi khách quan nói trên, nhưng ngành này cũng gặp rất nhiều khó khăn đặt ra do nhiều nguyên nhân khác nhau: Thứ nhất, nước ta có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào và chi phí nhân công rẻ, nhưng nguồn nhân lực nước ta lại có những điểm yếu nhất định khi so sánh với lao động nước ngoài - Sức khoẻ hạn chế, độ bền dai rất kém: Sản xuất theo phương pháp công nghiệp trong kinh tế thị trường, và đặc biệt khi hội nhập kinh tế đòi hỏi một cường độ lao động cao hơn và căng thẳng hơn nhiều. Một phần do đặc điểm về sinh học và hình thể thấp bé và nhẹ cân, một phần do phần lớn người Việt Nam xuất thân từ nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu nên khó có thể đáp ứng được một cường độ làm việc cao. - Tác phong công nghiệp còn ít và chưa được định hình bền chặt: sinh ra và trưởng thành trong một nền sản xuất tiểu nông manh mún, lộn xộn, nhiều người Việt Nam quen làm việc theo kiểu tùy hứng, nước đến chân mới nhảy, không thích hợp tác với nhau, nên khó có sự hợp tác nhịp nhàng, đồng bộ ăn khớp. Mà trong điều kiện hội nhập kinh tế, thì tác phong công nghiệp là một tố chất rất cần thiết đối với người công nhân. - Hiểu biết chưa đủ sâu rộng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế: do sống và làm việc quá lâu trong môi trường khép kín và dựa dẫm vào Nhà nước, nên người lao động Việt Nam chỉ quen làm việc bằng kinh nghiệm là chính, họ không thấy sự bức xúc lớn của việc sử dụng kiến thức, phương pháp khoa học. Chính những điểm yếu của nguồn nhân lực là một trong những nguyên nhân làm cho sức cạnh tranh của ngành giấy cũng như nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam không cao. Tác phong công nghiệp yếu kém làm khả Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 33 - năng phối hợp làm việc, hoạt động của dây chuyền không đồng bộ, nhịp nhàng. Mà trong ngành công nghiệp giấy thì tính đồng bộ, nhịp nhàng lại là một đòi hỏi rất quan trọng, bởi sản xuất giấy phải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn, chỉ cần một giai đoạn có vấn đề thì cả dây chuyền sẽ gặp sự cố. Đây là một trong những nguyên nhân làm năng suất lao động kém, hao phí nguyên vật liệu nhiều. Nguồn nhân lực thì nhiều, nhưng những người lao động có trình độ, năng lực, có khả năng tiếp thu công nghệ, đặc biệt là người có trình độ trong ngành, thì lại thiếu dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng công nghệ mới, sử dụng thiết bị hiện đại, hệ thống quản lý cồng kềnh, thiếu hiệu quả. Thứ hai, công nghệ của ngành khá lạc hậu không chỉ so với các nước trên thế giới, mà ngay cả với các nước trong khu vực Đông Nam á. Đây là khó khăn lớn nhất đối với ngành giấy. Ở Việt Nam có những nhà máy được xây dựng từ năm 60, đến giờ vẫn còn hoạt động và hầu như không được đầu tư, nâng cấp trong 40 năm qua. Cả nước có hàng trăm nhà máy giấy, nhưng công suất nhà máy trung bình thì lại nhỏ, cả nước chỉ có hai nhà máy có công suất lớn hơn 50.000 tấn là Bãi Bằng, Tân Mai, công suất của các nhà máy giấy Việt Nam là khoảng 10.000-15.000 tấn/năm, trong khi của Indonesia là hơn 100.000 tấn/năm. Nguồn lực của ngành lại phân tán trải rộng khắp ba miền, chưa có những khu vực tập trung sản xuất công nghiệp lớn chuyên nghiệp do nguồn nguyên liệu phân bổ không tập trung, lại thường nằm ở các khu vực có hạ tầng cơ sở chưa phát triển. Công nghệ lạc hậu nên đòi hỏi phải đầu tư, nâng cấp, nhưng chi phí vốn đầu tư lớn, suất phí đầu tư cho ngành tương đối lớn (1 800 - 2 200 USD/tấn bột giấy từ cây nguyên liệu và 1 000 - 1 200 USD/tấn giấy từ bột giấy). Khả năng thu hồi vốn lại chậm, do tỷ suất lợi nhuận và lợi nhuận thấp. Hiệu suất thu hồi nội bộ khoảng 11 - 12%/năm đối với các dự án đầu tư mới. Chi phí để xử lý môi trường cao, đặc biệt các dự án đều nằm ở thượng nguồn nên chi phí đầu tư hệ thống xử lý môi trường theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam chiếm khoảng 20 - 25% tổng chi phí đầu tư. Nếu không có Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 34 - những chính sách đặc thù riêng thì rủi ro sẽ rất lớn. Nên ngành rất khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư vào ngành, đặc biệt là vào vùng nguyên liệu và sản xuất bột giấy. Đây là khó khăn lớn đòi hỏi ngành phải có những chính sách đầu tư phát triển sao cho thật hợp lý, phù hợp với đặc điểm về nguyên liệu và tài chính của Việt Nam. Thứ ba, do đặc điểm của ngành giấy đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư rất lớn, thời gian đầu tư lại khá dài, đòi hỏi về trình độ công nghệ tương đối cao. Nhưng nước ta vẫn còn nghèo, nguồn lực về tài chính còn yếu, lại có nhiều ngành, nhiều việc đòi hỏi phải được đầu tư, rót vốn ngay, nên ngành giấy nước ta gặp nhiều khó khăn trong việc có được vốn để đầu tư xây dựng nhà máy, phát triển ngành, nâng cao sức cạnh tranh, tiềm lực tài chính của mỗi doanh nghiệp còn nhỏ bé nên chưa thể khai thác hết lợi thế về nguồn nhân lực và nguyên liệu dồi dào. 3. Thực trạng của ngành giấy Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 3.1 Cơ cấu tổ chức Hiện nay, trên toàn quốc nếu không kể các cơ sở sản xuất giấy nhỏ lẻ thủ công, có 473 đơn vị sản xuất công nghiệp giấy và bột giấy, với 441 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó những cơ sở thuộc loại vừa và lớn ở Việt Nam là khoảng 145 đơn vị, 100 đơn vị sản xuất giấy, 45 đơn vị sản xuất bột giấy. Các đơn vị sản xuất giấy trong ngành công nghiệp được chia ra làm 3 bộ phận chính: - Các doanh nghiệp Nhà nước: tổng công ty giấy Việt Nam - Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: gồm có các công ty cổ phần, TNHH, tổ hợp tác. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 35 - - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tổng công ty giấy Việt Nam: Tổng công ty giấy Việt Nam (tổng công ty 91), đây là doanh nghiệp mạnh nhất, lớn nhất, ra đời vào năm 1996 với mục tiêu mong muốn hình thành một tập đoàn kinh tế mạnh, đủ điều kiện chi phối các hoạt động của ngành, giúp đỡ lẫn nhau. Tổng công ty được quản lý bởi Hội đồng quản trị và được điều hành bởi Tổng giám đốc. Tổng công ty giấy Việt Nam bao gồm các thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập, doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp, có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp giấy và trồng rừng nguyên liệu giấy, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty; đáp ứng nhu cầu về giấy của thị trường. Tổng công ty chịu sự quản lý, chỉ đạo, kiểm tra giám sát của Bộ Công nghiệp nhẹ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương với tư cách là các cơ quan quản lý Nhà nước; đồng thời chịu sự quản lý của các cơ quan này với tư cách là cơ quan thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước theo quy định tại Luật Doanh nghiệp Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. Các doanh nghiệp của tổng công ty được phân bổ ở hai vùng chủ yếu là Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ. Đặc trưng của các doanh nghiệp thuộc tổng công ty là: - Có nguồn vốn thường được rót từ ngân quỹ Nhà nước hay sự bảo lãnh vay của Nhà Nước. Nên tuy dự án đầu tư của họ thường có quy mô lớn nhưng lại có sự phụ thuộc, không được linh hoạt như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 36 - - Có quy mô thuộc loại vừa và lớn so với các doanh nghiệp giấy khác ở Việt Nam, thường được xây dựng tương đối đồng bộ, thường là với một vùng nguyên liệu quy hoạch đi kèm. Từ ngày được thành lập, tổng công ty đã liên tục phát triển và đã có một tiếng nói quan trọng đối với ngành, đóng góp một vai trò không nhỏ trong ngành. Tổng công ty giấy Việt Nam, có thể nói đã khẳng định được vai trò là thành phần kinh tế chủ đạo. Bằng chứng là Tổng công ty đã cung cấp hơn 80% các mặt hàng sản phẩm có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội như giấy báo, giấy in, giấy viết. Sản phẩm giấy in, giấy viết, giấy in báo của các doanh nghiệp thuộc tổng công ty không chỉ phục vụ ngày càng tốt nhu cầu trong nước, mà còn bước đầu xuất khẩu được sang một số nước. Tổng công ty hiện là chủ đầu tư của những công trình lớn nhất về công nghiệp giấy như dự án dây chuyền giấy bao bì công nghiệp Việt Trì (35 triệu USD), dự án mở rộng Công ty giấy Bãi Bằng giai đoạn 1 lên 100.000 tấn/năm (54 triệu USD), xây dựng nhà máy bột giấy Kon Tum công suất 130.000 tấn/năm (244 triệu USD),...(nguồn tạp chí cộng sản số 14 năm 2002). Tuy nhiên, do cơ chế, cách thức quản lý của Nhà nước, ảnh hưởng của cơ chế tập trung, quan liêu còn rơi rớt, nên hoạt động đầu tư, nâng cấp của tổng công ty còn thực hiện rất chậm, ì ạch, tốc độ tăng trưởng của tổng công ty giấy trong 3 năm gần đây chỉ đạt 4%/năm. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trước năm 1990, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chưa thực sự phát triển. Sau năm 1990, với sự cởi mở về cơ chế, chính sách, sự khuyến khích của Nhà nước, đặc biệt là khi có luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong ngành giấy mọc lên nhanh chóng ở trên mọi miền đất nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần và công ty TNHH, chịu sự quản lý và kiểm tra của Sở công nghiệp và UBND các địa phương theo luật doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ hơn, số vốn hoạt động chỉ trong tầm từ vài tỉ đến vài chục tỉ, nguồn vốn của họ huy động từ nhiều nguồn Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 37 - khác nhau: vốn tự đóng góp, vốn từ bán cổ phần, vốn huy động qua kênh thị trường chứng khoán…nhưng cơ cấu mặt hàng của họ rất đa dạng, từ giấy vệ sinh, bìa carton, giấy kraft đến giấy in, giấy viết. Các đơn vị sản xuất giấy ngoài quốc doanh thường nằm ngay ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, hoặc ở các khu vực công nghiệp như Đồng Nai, Bình Dương, Bắc Ninh để thuận tiện cho sản xuất và lưu thông hàng hóa của họ. Hoạt động của họ rất linh hoạt, bộ máy quản lý gọn nhẹ, sử dụng lao động rẻ, quản lý vật tư, nguyên liệu chặt chẽ. Hoạt động đầu tư của họ có tính nhạy bén trong việc đoán trước nhu cầu của thị trường, chuẩn xác trong việc chọn thời điểm, đa dạng trong đầu tư, phối hợp nhịp nhàng giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. Họ mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực mà họ cho là có triển vọng, nhiều dây chuyền sản xuất giấy duplex, giấy kraft, giấy viết đã ra đời như thế. Quy mô đầu tư mới điển hình của khu vực ngoài quốc doanh là 12.000 tấn/năm (thay vì 700 – 1500 tấn/năm như trước đây). Đã và đang xuất hiện một số công ty lớn sản xuất giấy ở khu vực ngoài quốc doanh có quy mô trên dưới 30.000 tấn/năm, đứng hàng thứ 3,4,5 trong các cơ sở sản xuất lớn của ngành, sản lượng tăng đều qua từng năm như Vạn Phát, An Bình, Hapaco, công ty giấy Sài Gòn….Tuy nhiên, các doanh nghiệp này cũng còn gặp rất nhiều khó khăn về huy động vốn và cơ chế hoạt động, qui mô, nên rất cần có sự trợ giúp, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Từ năm 1991, cùng với sự phát triển của đầu tư nước ngoài, thì trong ngành giấy cũng ra đời những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút hơn 3.000 lao động và chiếm 2% sản lượng toàn ngành, trong đó lớn nhất là nhà máy giấy Newtoyo. Hiện tại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất giấy tissue, các tông, và một số loại giấy chuyên dụng… Nhưng trong tương lai, khi nhu cầu về giấy của nước ta tăng mạnh thì các doanh nghiệp Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 38 - nước ngoài sẽ có thể tăng lượng đầu tư vào ngành giấy của nước ta với cơ cấu mặt hàng đa dạng hơn, và xây dựng thêm nhiều nhà máy khác. 3.2 Thực trạng về năng lực sản xuất Trong những năm gần đây, công suất của ngành giấy Việt Nam liên tục được cải thiện, nâng cấp. Hiện nay, tổng công suất của toàn ngành đạt 658 .000 tấn giấy và 200.000 tấn bột giấy. Do máy móc, thiết bị, công nghệ còn lạc hậu, và sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập, nên nhìn chung ngành cũng chỉ khai thác được khoảng 80- 90% công suất. Tuy nhiên, sản lượng của ngành cũng liên tục tăng, năm sau nhiều hơn năm trước. Năm 1999, sản lượng của toàn ngành là 292.200 tấn, thì đến năm 2002, ngành giấy đã đạt mức sản lượng 538.231 tấn, gấp 1,84 lần năm 1999, hoàn thành toàn diện và vượt mức mục tiêu năm 2005 mà Đảng và Nhà Nước đã giao cho ngành (vượt 8% so với chỉ tiêu 500.000 tấn). Trong đó Sản lượng toàn Ngành Tcty giấy VN Các DN khác So sánh Năm 1 2 3 2/1 Tấn % Tấn % Tấn % % 1999 292.200 100 168.924 100 123.276 100 58 2000 350.103 119 173.965 103 176.035 143 50 2001 420.107 120 187.000 107 243.000 132 45 2002 538.231 128 192.665 103 345.463 148 36 ( Nguồn hiệp hội giấy Việt Nam) Năng lực sản xuất của tổng công ty giấy Việt Nam đến thời điểm năm 2003 là 233.000 tấn, và 126.000 tấn bột giấy. Nhưng xem bảng trên, ta thấy sản lượng của ngành vẫn chưa đạt được mức 200.000 tấn. Trong năm 2003, dù dây chuyền sản xuất giấy của nhà máy Vạn Điểm và dây chuyền sản xuất Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 39 - duplex của nhà máy Việt Trì đã đi vào hoạt động, nhưng tổng công ty cũng chỉ dự định sản xuất 194.800 tấn do nhà máy Bãi Bằng phải ngừng sản xuất để nâng cấp. Sản phẩm chủ yếu vẫn là giấy in và giấy viết. Nhìn bảng trên, ta cũng thấy năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngoài tổng công ty tăng liên tục cả về chỉ tiêu tương đối lẫn tuyệt đối. Năm 1999, sản lượng của các doanh nghiệp này mới chỉ chiếm 42 % sản lượng toàn ngành. Đến năm 2002 các doanh nghiệp này đã sản xuất được 345.463 tấn, chiếm 64%, gần gấp đôi sản lượng của tổng công ty giấy Việt Nam. Điều này thể hiện rõ sự tăng trưởng nhảy vọt của các doanh nghiệp này, đặc biệt là của các công ty cổ phần, còn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì vẫn mới chỉ chiếm một phần khiêm tốn là 2% tổng sản lượng toàn ngành. 3.3 Thực trạng về cơ cấu sản phẩm Cơ cấu sản phẩm ngành giấy trong những năm gần đây đã có sự biến đổi và chuyển dịch cùng với sự thay đổi của cơ chế thị trường, mở rộng thương mại. Mặt hàng Sản xuất năm 2001 Sản xuất năm 2002 Giấy in báo 35.000 34.335 Giấy in và giấy viết 130.052 135.120 Giấy làm bao bì, các tông 137.727 233.318 Giấy vệ sinh, tissue 17.843 24.000 Giấy tráng 0 0 Giấy vàng mã xuất khẩu 74.278 80.000 Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 40 - Giấy vàng mã dùng trong nước 15.000 18.000 (Nguồn báo công nghiệp giấy tháng 6/2003) Trong những năm trước đây, mặt hàng chủ yếu của ngành giấy Việt Nam là giấy in, giấy viết, giấy in báo, thì hiện nay, giấy làm bao bì, các tông đã có sự gia tăng mạnh, năm 2002 tăng 1,7 lần so với năm 2001, vươn lên là lĩnh vực có sản lượng lớn nhất trong cơ cấu mặt hàng của ngành, trong tương lai, đây vẫn sẽ là một mặt hàng nhiều tiềm năng. Giấy in, giấy viết, giấy báo vẫn là một trong những mặt hàng chính của ngành nhưng do sự cạnh tranh mạnh của giấy nước ngoài, nên sản lượng chỉ tăng nhẹ. Tuy nhiên, cơ cấu mặt hàng vẫn còn chưa đa dạng, phong phú, những mặt hàng cao cấp trong nước vẫn chưa sản xuất được. Ví như mặt hàng giấy tráng, hiện tại, nước ta chưa sản xuất được, chỉ sau vài năm nữa khi các dự án giấy tráng của các công ty Bình An, Vạn Phát… đi vào hoạt động, thì sản xuất mới có thể đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước. 3.4 Thực trạng cơ cấu lao động Ngành giấy thu hút khoảng 50.000 lao động trực tiếp tham gia sản xuất trong ngành. Trong đó, có 13.800 lao động làm việc trong tổng công ty giấy, còn lại làm việc trong các doanh nghiệp ngoài tổng công ty. Lao động của tổng công ty giấy được đào tạo ở trường công nhân kỹ thuật ngành giấy, còn các kỹ sư được đào tạo ở một số trường đại học như nông lâm, bách khoa, khoa học tự nhiên. Còn ở các doanh nghiệp ngoài tổng công ty thì hình thức đào tạo chủ yếu cho lao động là tự đào tạo. Trong những năm tới, khi ngành giấy phát triển mạnh, nhu cầu đối với các kỹ sư , đặc biệt lao động có tay nghề cao sẽ rất lớn, nhưng khó được đáp ứng đủ, do ngành mới có ít trường đào tạo nghề làm giấy. Theo báo cáo của tổng công ty giấy VN, nhu cầu đào tạo cán bộ kỹ thuật trong ngành và một số ngành liên quan rất lớn, nhu cầu đến năm 2005 là 1.500, 2010 Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 41 - là 2.500 và 2020 là 4.000 cán bộ. Để đáp ứng nhu cầu này rất cần có sự quan tâm đầu tư thích đáng của Nhà nước. 3.5 Thực trạng về nguồn nguyên liệu Trong những năm gần đây, ngành giấy đã dần chủ động được nguồn nguyên liệu sản xuất giấy của mình. Các doanh nghiệp đã có thể sản xuất giấy từ bột giấy trong nước, giấy phế liệu trong nước, gỗ nguyên liệu… Nhưng tình hình nguyên liệu để sản xuất giấy vẫn còn một số vấn đề đáng lưu ý, cần phải giải quyết: - Về bột giấy: do năng lực sản xuất giấy và bột giấy của ngành không tương xứng, nên dù có nhiều cố gắng, nhưng mỗi năm toàn ngành vẫn phải nhập khẩu từ 60.000 – 80.000 tấn bột giấy để về gia công, sản xuất. - Về gỗ nguyên liệu: nguồn nguyên liệu cây lá rộng được cung cấp khá ổn định (thời điểm hiện nay "cung" và "cầu" đã gần tương đương). Trồng rừng nguyên liệu giấy đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nhiều địa phương trong nước. Nhưng hiện lại diễn ra tình trạng gỗ nguyên liệu cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất ở nhiều địa phương, nơi thừa, nơi thiếu cục bộ. Ở phía Bắc, thì nhà máy giấy Bãi Bằng đang ở trong tình trạng dư thừa trong thu mua nguyên liệu giấy, tình hình này đã được dự báo từ lâu do cung đã vượt cầu và cơ chế thu mua một giá. Còn ở phía Nam các nhà máy Đồng Nai, Tân Mai lại phải đi nhập nguyên liệu ở các tỉnh lân cận, hoặc của Lào, Campuchia để đem về sản xuất. - Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nhiều doanh nghiệp nước ta đã nhập một khối lượng lớn giấy loại của nước ngoài về để gia công, tái chế, do nguồn cung giấy phế liệu trong nước chỉ thu gom được khoảng 200.000 tấn, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhiều doanh nghiệp sử dụng loại nguyên liệu này. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 42 - - Trong nước vẫn chưa sản xuất được nhiều loại hóa chất đặc chủng, nên doanh nghiệp của ngành vẫn phải nhập khẩu chủ yếu từ nước ngoài. III/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập Hội nhập kinh tế quốc tế là việc các quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế tài chính quốc tế, thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại đầu tư. Hội nhập là một quá trình tất yếu, một đòi hỏi khách quan đối với bất kể nền kinh tế nào trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù phát triển hay mới chỉ đang phát triển. Bởi, lợi ích của việc hội nhập kinh tế thể hiện ở chỗ. Khi ở tầm vĩ mô nó tạo điều kiện để kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, giúp tăng cường thu hút nguồn vốn, công nghệ, mở rộng không gian để phát triển kinh tế và có được tiếng nói quan trọng trong quan hệ quốc tế. ở cấp độ mỗi doanh nghiệp thì hội nhập sẽ mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường, doanh nghiệp có cơ hội hoạt động trong một môi trường bình đẳng, ổn định, học tập tiếp thu công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho chúng ta. Hội nhập có nghĩa là phải cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế, sự bảo hộ của nhà nước đối với sản xuất sẽ phải giảm đi. Do xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trình độ công nghệ yếu kém, tác phong quan liêu để lại từ một thời cách đây không xa, trình độ của nguồn nhân lực còn yếu kém dẫn đến năng lực cạnh tranh của quốc gia, của công nghiệp, của ngành, của doanh nghiệp đều còn yếu kém. Khi chúng ta tham gia vào sân chơi quốc tế rộng lớn, chúng ta sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp nước ngoài cả trên thị trường trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp của chúng ta sẽ phải chiến đấu trong một môi trường nhiều cơ may, nhưng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 43 - cũng không ít rủi ro khắc nghiệt, chỉ có những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, có biện pháp chủ động hội nhập kinh tế thì mới có thể tồn tại và phát triển được. Chính vì lý do đó mà tôi muốn nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành giấy hiện tại, và từ đó đề ra biện pháp nhằm giúp ngành này có thể chủ động giữ vững thị trường trong nước và sẵn sàng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 1. Những thách thức và cơ hội đối với ngành giấy Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực a) Cơ hội Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đã, đang và sẽ tạo ra những tác động lớn đối với ngành giấy Việt Nam. Tác động tích cực của nó thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, quá trình hội nhập kinh tế đã cho ngành giấy Việt Nam cơ hội tiếp cận một thị trường rộng lớn và không ngừng mở rộng. Hội nhập kinh tế làm cho nền kinh tế hướng về xuất khẩu của chúng ta có tốc độ phát triển tương đối nhanh, đời sống của nhân dân được nâng cao, nhu cầu được giải trí, học tập, nghiên cứu của người dân, nhu cầu quảng cáo và bao bì công nghiệp đối với sản xuất tăng khiến cho nhu cầu về giấy và các sản phẩm từ giấy ngày càng tăng. Một thị trường nội địa rộng lớn nhiều tiềm năng cho ngành giấy đang được mở ra, và nó có thể đạt tới hơn 3 triệu tấn vào năm 2020. Vấn đề là ngành phải có biện pháp như thế nào để tiếp cận và khai thác được nó cho hiệu quả. Bên cạnh đó, việc hội nhập kinh tế ngoài việc tạo cho ngành giấy Việt Nam cơ hội đối với thị trường trong nước, còn có cơ hội tiếp cận thị trường nước ngoài hết sức rộng lớn. Hiện tại, ngành giấy Việt Nam mới xuất khẩu được một số lượng rất ít các sản phẩm giấy ra nước ngoài, và chủng loại hàng cũng vẫn còn rất đơn giản. Nhưng trong tương lai, khi ngành giấy Việt Nam chủ động được về nguồn nguyên liệu bột giấy thì ngành giấy Việt Nam hoàn Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 44 - toàn có khả năng xuất khẩu các sản phẩm của mình sang các nước lân cận như Lào, Campuchia, Mianma,Trung Đông,... và có thể xuất khẩu bột giấy cho Trung Quốc, Đài Loan…. những nước có nhu cầu rất lớn về bột giấy để sản xuất giấy. Thứ hai, việc hội nhập kinh tế của Việt Nam sẽ tạo cơ hội cho ngành giấy được tiếp xúc với những máy móc, thiết bị hiện đại, tiếp thu nguồn công nghệ tiên tiến của thế giới đồng thời thu hút nguồn vốn đầu tư vào ngành. Nếu như trước đây, công nghệ sản xuất giấy của Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc từ Trung Quốc, Đông Âu,...với các thế hệ máy lạc hậu từ 30-40 năm so với thế giới, thì hiện nay khi nước ta đang hội nhập mạnh mẽ, ngành giấy Việt Nam đã có những dây chuyền sản xuất tương đối hiện đại có nguồn gốc từ các nước châu Âu, Nhật, Hàn Quốc như dây chuyền sản xuất giấy in, viết của nhà máy giấy Bãi Bằng, dây chuyền sản xuất bao bì công nghiệp của nhà máy giấy Việt Trì, dây chuyền sản xuất giấy in offset của nhà máy giấy Vạn Điểm... Do xuất phát sau nên ngành giấy có cơ hội để đi tắt đón đầu, tiếp xúc với những công nghệ mới nhất về sản xuất giấy. Ngành giấy Việt Nam đã tham gia vào tổ chức liên đoàn công nghiệp bột giấy và giấy ASEAN, đã có những cuộc tham quan học tập ở các nước bạn, hội thảo chuyên đề với sự góp mặt của nhiều hãng danh tiếng trên thế giới... giúp cho doanh nghiệp được tiếp cận nhiều hơn với những qui trình công nghệ tiên tiến hiện đại của nước ngoài. Hội nhập cũng tạo cơ hội cho ngành giấy Việt Nam cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vào năm 1990 chưa có một doanh nghiệp nước ngoài nào đầu tư vào lĩnh vực này, thì năm 1999 đã có 20 cơ sở hoạt động với 3.000 lao động làm phong phú thêm thị trường và sản phẩm giấy của Việt Nam. Trong tương lai, khi quá trình hội nhập kinh tế của nước ta tiến xa hơn, hình thức liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp giấy trong nước và các công ty giấy lớn của nước ngoài sẽ ngày càng phát triển, tạo cơ hội cho ngành thu hút càng nhiều vốn đầu tư và tiếp thu kinh nghiệm và công nghệ hiện đại của nước ngoài. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 45 - Thứ ba, việc hội nhập kinh tế là một dịp để ngành giấy tự kiểm tra, đánh giá lại thực lực của chính mình, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của quá trình hội nhập kinh tế, những doanh nghiệp nào có năng lực cạnh tranh kém, hoạt động không hiệu quả sẽ bị đào thải, những doanh nghiệp nào có chiến lược hoạt động phù hợp có sản phẩm tốt chất lượng cao không những sẽ tiếp tục tồn tại, mà còn phát triển mạnh hơn. Mỗi doanh nghiệp của ngành sẽ có dịp tự kiểm điểm lại chính mình, tự phấn đấu khắc phục những điểm yếu, phát huy những điểm mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành giấy. b) Thách thức Tuy nhiên, giống như một tấm huy chương có hai mặt, mặt phải lấp lánh ánh hào quang và mặt trái xù xì, thô ráp, hội nhập kinh tế không chỉ đem lại cơ hội mà đi kèm với nó là những thách thức, khó khăn phải vượt qua. Xu hướng cắt giảm thuế quan đặt ra trong quá trình hội nhập làm giảm sự bảo hộ của Nhà nước đối với ngành. Điển hình là như theo lộ trình thực hiện AFTA, mức thuế quan sẽ được cắt giảm rất nhiều, có nhiều mặt hàng giấy từ 40 - 50 % xuống còn 20 % và tiếp nữa sẽ giảm xuống chỉ còn 0 - 5 %, không còn các khoản phụ thu, phụ phí đánh vào hàng ngoại nhập nữa, như thế giá hàng ngoại nhập sẽ giảm đi rất nhiều.Trong môi trường cạnh tranh rất khắc nghiệt và khá bình đẳng không còn sự bảo hộ của nhà nước thì năng lực cạnh tranh mạnh hay yếu của một doanh nghiệp, một ngành là yếu tố quyết định phân thắng thua giữa doanh nghiệp của nước này với doanh nghiệp của nước khác. Đối với một ngành, một doanh nghiệp, trước khi có thể nắm bắt được cơ hội đem lại từ hội nhập, thì sẽ phải giải đáp hai câu hỏi “tồn tại hay không tồn tại?” và “tồn tại bằng cách nào?”. Chỉ những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao mới có thể giải đáp được hai câu hỏi trên, còn không thì chỉ có con đường duy nhất là phá sản và sập tiệm trước sức ép mãnh liệt từ các đối thủ cạnh tranh nước Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 46 - ngoài hùng mạnh. Đấy chính là thách thức lớn nhất mà quá trình hội nhập đặt ra. Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, nước ta tham gia hội nhập kinh tế từ một xuất phát điểm thấp là nền kinh tế nông nghiệp, công nghệ lạc hậu, nên năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam cũng giống như nhiều ngành khác là rất yếu đặc biệt là đối với các sản phẩm giấy viết và giấy in, theo đánh giá thì hai sản phẩm này của ngành giấy Việt Nam chỉ được xếp vào nhóm có năng lực cạnh tranh yếu. Nếu không có chính sách và biện pháp hợp lý nâng cao năng lực cạnh tranh thì nguy cơ ngành bị xóa tên khỏi bản đồ công nghiệp Việt Nam là không nhỏ. Có 4 nguyên nhân lớn làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, gây ra thách thức cho sự tồn tại của ngành giấy Việt Nam trong quá trình hội nhập. - Các loại chi phí trung gian còn cao Do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nên các loại chi phí trung gian cho ngành giấy đều cao hơn so với các nước trong khu vực và lại thường xuyên có chiều hướng gia tăng, chất lượng phục vụ cũng chưa ổn định, về nguyên liệu ngành giấy Việt Nam lại chưa chủ động được về nguồn nguyên liệu bột giấy nên vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Tôi xin đi vào phân tích một số loại chi phí trung gian chủ yếu của ngành, để có thể nêu rõ thách thức giảm chi phí đang bức thiết như thế nào đối với ngành.. + Giá bột giấy cao lại thường không ổn định, ở thời điểm hiện nay giá bột giấy đang xấp xỉ giá giấy (bột giấy in báo 380- 400 USD so với giấy in báo 410 – 430 USD) do các hãng giấy nước ngoài muốn thúc đẩy việc tiêu thụ các sản phẩm giấy của mình. Bột giấy chiếm một phần lớn trong giá thành. Điều này ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam do ngành vẫn chưa chủ động được về nguyên liệu, và phải nhập khẩu từ 60.000 – 70.000 tấn bột giấy mỗi năm về chế biến. + Giá điện của Việt Nam cho sản xuất cao hơn các nước ASEAN từ 45 - 220 % do thất thoát điện năng quá lớn, và khu vực doanh nghiệp lại còn phải Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 47 - gồng mình để bù đắp cho các khu vực khác, chất lượng điện lại kém thường xuyên không đảm bảo điện áp, cắt điện thường xuyên làm tăng tỷ lệ phế phẩm, gián đoạn quá trình sản xuất của ngành. Giá các loại nhiên liệu khác như than, xăng dầu cũng ở mức cao và không ổn định làm chi phí sản xuất của ngành giấy Việt Nam ở mức cao. + Do hệ thống đường sá chưa hoàn thiện, các khu vực cung cấp nguyên liệu để sản xuất giấy và bột giấy lại phân tán dẫn đến chi phí vận tải cao do tốc độ, khối lượng vận chuyển thấp, lại kèm theo nhiều khoản phụ thu, phụ phí. Điều này làm chi phí vận chuyển nguyên liệu từ rừng nguyên liệu giấy đến nhà máy cao hơn so với các nước khu vực, và sản phẩm sản xuất ra đến được tay người tiêu dùng cũng sẽ có giá cao hơn do phải qua nhiều khâu vận chuyển. Ta lấy ví dụ giá gỗ nguyên liệu mua tại rừng của nhà máy giấy Bãi Bằng là dưới 300.000 đ/m3, nhưng khi đến tay nhà máy lại lên đến 420.000/m3 so với mức 22 USD của Indonesia do phải trải qua nhiều khâu vận chuyển. + Lãi suất ngân hàng hàng 8-10/%năm và lãi suất ưu đãi 5,4% từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển cũng là một yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh của ngành. Do đặc điểm của ngành giấy đòi hỏi những khoản đầu tư rất lớn, nên lãi suất cao là một gánh nặng cho quá trình đổi mới công nghệ. Mỗi ngày mà dự án chưa đi vào sản xuất là một ngày doanh nghiệp giấy lỗ nặng (đặc biệt là trong các doanh nghiệp quốc doanh, thời gian đầu tư thường quá dài), một ví dụ mới đây nhất chính là nhà máy bột giấy Kon Tum vớii tổng chi phí đầu tư là 235 triệu USD, tổng công ty giấy Việt Nam đã đầu tư 70 tỷ từ năm 2001 nhưng đến nay dự án mới chỉ tiến hành được việc “đấu thầu tư vấn quốc tế”, điều này không những làm tổng công ty giấy bị tồn đọng vốn, phải trả lãi ngân hàng hàng trăm triệu mà còn bị lỡ thời cơ khi AFTA ngày càng đến gần hơn. - Trình độ công nghệ lạc hậu Công nghệ của ngành giấy nước ta lạc hậu so với thế giới từ 30 – 40 năm, có khá nhiều máy móc công nghệ thuộc thế hệ của những năm 1960 – Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 48 - 1970 lắp ghép, bổ sung, thay thế cải tiến thêm một số loại máy do ta tự sản xuất, hoặc nhập lẻ chiếc từ nước ngoài nên dây chuyền thiết bị không đồng bộ. Hậu quả nhãn tiền là máy móc thường xuyên phải duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng. Đến ngay như nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy giấy hiện đại nhất Việt Nam nhưng cũng trung bình cứ một năm lại phải đóng máy một lần để duy tu bảo dưỡng, nâng cấp. Yếu tố này làm phát sinh một khoản chi phí lớn, đồng thời làm trì hoãn, gián đoạn công việc sản xuất, tạo ra sản phẩm có chất lượng không cao, phế phẩm nhiều ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành. Công nghệ lạc hậu làm năng suất, chất lượng giấy của ngành giấy Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Trong khi, máy xeo giấy thế hệ mới trên thế giới hiện nay sản xuất giấy khổ rộng 10m, tốc độ cán 2.000 m/phút, bột đưa vào cán theo công nghệ phun nên đều, nhanh, giấy có bề mặt láng. Theo tính toán của các chuyên gia trong ngành, do khổ giấy hẹp hơn 2,63 lần và tốc độ kém hơn 4 lần, nên trong một phút máy xeo nước ngoài cán được 20.000m2 giấy nhưng máy của Việt Nam chỉ đạt 1.900m2, thấp hơn 10,52 lần. Một nhà máy giấy của Indonesia sản xuất được 300.000 tấn bột giấy/năm mà chỉ cần có 300 người, trong khi nhà máy giấy Bãi Bằng chỉ sản xuất có khoảng 60.000 tấn giấy và 50.000 tấn bột giấy/năm mà lại cần đến hơn 3.000 lao động. Lương bình quân của người lao động thì thấp, nhưng tiền lương chia bình quân cho một tấn sản phẩm lại cao hơn so với các công ty nước ngoài. Do đi kèm với công nghệ lạc hậu là trình độ quản lý còn khá thấp, bộ máy quản lý cồng kềnh (đặc biệt là trong các doanh nghiệp Nhà nước) dẫn đến thất thoát nguyên vật liệu lớn, chi phí cho nhiên vật liệu, chi phí tiền lương cao, năng suất lao động thấp, công suất nhà máy không được huy động hết, các dự án đầu tư bị trì hoãn. - Nhận thức của các doanh nghiệp trong ngành Nhận thức về hội nhập của các doanh nghiệp trong ngành, nhất là trong các doanh nghiệp Nhà nước còn chưa cao. Thương trường là chiến trường, sẽ Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 49 - có sự đào thải tự nhiên trong quá trình cạnh tranh này, trở ngại lớn nhất vẫn là hòn đá vô hình trong tư duy của nhiều quan chức, nhà vạch chính sách, lãnh đạo các doanh nghiệp giấy (nhất là DNNN), họ vẫn trông chờ vào các biện pháp bảo hộ của Nhà nước như cấp thêm vốn, khoanh nợ hoặc xóa nợ, dành độc quyền nhập và cung cấp một số mặt hàng..., Các DNNN có tiến hành đầu tư để đối phó với thách thức hội nhập, nhưng thời gian tiến hành đầu tư lại thường quá lâu, nguồn vốn đầu tư lại ỷ lại trông chờ vào nhà nước. Hòn đá ấy chính là sự trì trệ, bảo thủ nếu không muốn nói là khối kiến thức không theo kịp đòi hỏi của sự vận động thị trường nữa. Mức tiêu thụ giấy trên thị trường khu vực ASEAN gấp 3 lần thế giới và gấp rưỡi châu Á. Thị phần cung cấp chủ yếu là các nước Indonesia, Thái Lan, Malaysia. Ngành giấy Việt Nam, hiện nay chẳng những chưa "xơ múi" được thị trường khu vực béo bở, mà còn không đủ sức bao "sân nhà". Các vị lãnh đạo của các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNN cũng thấy lên tiếng. Nhưng thực ra "tiếng kêu" không khác trước mặc dù cường độ lớn hơn trước. Nào là thời gian tới sẽ cố gắng cải thiện hệ thống dây chuyền sản xuất. Nào là sẽ tìm mọi phương thức tiếp cận khách hàng và, đặc biệt, cân đối sản xuất các chủng loại giấy để phù hợp nhu cầu tiêu dùng. Thế nhưng khi mà quá trình hội nhập AFTA đã đi được nửa chặng đường, tư tưởng trông chờ ỷ lại vào sự bảo hộ, giúp đỡ của Nhà nước vẫn còn tồn tại trong đầu không ít vị lãnh đạo các doanh nghiệp kể cả những doanh nghiệp lớn, chưa chủ động và sẵn sàng đối phó với hội nhập thì quả thật là đáng lo. - Đầu tư của ngành giấy Một nguyên nhân nữa thách thức các doanh nghiệp giấy là vấn đề đầu tư. Các doanh nghiệp có tiến hành các dự án đầu tư, cải tạo, xây dựng mới một số nhà máy để nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng đều vấp phải hai vấn đề chủ yếu là vốn và thời gian đầu tư. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì thời gian đầu tư không phải là yếu tố cản trở chính đến quá trình đầu tư của Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 50 - họ, vấn đề chính là vốn. Với tiềm lực tài chính khá nhỏ bé, những doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường chỉ tiến hành các dự án đầu tư ở quy mô nhỏ và vừa khoảng vài triệu USD, họ chủ yếu đầu tư “hớt ngọn” vào lĩnh vực sản xuất các sản phẩm giấy như giấy in, giấy carton…..bằng nguyên liệu từ giấy loại, hay bột giấy mua của nước ngoài, của các công ty lớn, thời gian hoàn thành các dự án đầu tư khá nhanh, khoảng từ một đến hai năm là dự án đã bắt đầu đi vào hoạt động. Tuy nhiên, nguồn huy động vốn chủ yếu của họ là thông qua vay ngân hàng, kiểu đầu tư này làm chi phí đầu vào cao, mang tính chất tạm bợ, nên sẽ rất khó có thể cạnh tranh nổi với các công ty nước ngoài khi thuế quan đánh vào hàng giấy nhập khẩu được giảm. Còn các doanh nghiệp Nhà nước thì đã tiến hành đầu tư đồng thời nâng cấp một số dây chuyền cũ với một số dự án mới khá đồng bộ. Tuy nhiên, thời gian đầu tư rất lâu từ ý tưởng cho đến khi nhà máy đi vào hoạt động phải mất 4- 6 năm, luôn luôn quá hạn so với kế hoạch đề ra, như dây chuyền sản xuất bao bì công nghiệp của nhà máy giấy Việt Trì trễ đến hơn 30 tháng so với kế hoạch đặt ra. Vốn đầu tư cho các dự án này lấy chủ yếu từ hai nguồn là vay ngân hàng, và vốn do Nhà nước rót nên các doanh nghiệp không chủ động được, thời gian giải ngân lâu. Có một nghịch lý nữa trong đầu tư là doanh nghiệp luôn luôn phàn nàn về thiết bị lạc hậu nhưng cả về trung hạn, dài hạn, hầu như không doanh nghiệp nào chịu cắt một phần đủ lớn chiếc bánh lợi nhuận để đầu tư thích đáng vào nghiên cứu cải tiến công nghệ. Hoặc là doanh nghiệp bỏ một khoản tiền lớn mua máy móc ngoại trong khi không phải máy nào mua cũng là máy xịn. Hoặc họ cũng cắt kinh phí cho nghiên cứu nhưng khoản cắt đó bao giờ cũng chỉ ở mức gọi là, cho có phong trào nghiên cứu khoa học và cùng lắm là để mang công trình đi dự mấy cuộc thi sáng tạo lấy giải, chứ ít khi các công trình này được áp dụng vào thực tế sản xuất. Với cách đầu tư cho nghiên cứu khoa học như vậy, thì hỏi làm sao có thể nâng cao công nghệ, đi tắt đón đầu. Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 51 - 2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam Do ngành giấy là một ngành có cơ cấu mặt hàng khá đa dạng, có hàng chục mặt hàng, trong mỗi mặt hàng lại có những loại hàng khác nhau. Chính vì vậy, để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam, tác giả sẽ sử dụng bảng số liệu dưới đây và chỉ đi vào phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng chính của Việt Nam, hiện đang có nhu cầu và tiềm năng phát triển lớn trong tương lai. Nhu cầu năm 2002 So sánh Loại giấy Sản xuất năm 2001 Sản xuất Nhập khẩu Tổng cộng % % 1 2 3 4 2/1 3/4 Giấy in báo 35.000 34.335 29.364 63.699 98 46 Giấy in và giấy viết 130.052 135.120 29.833 164.953 104 18 Giấy làm bao bì, các tông 137.727 233.318 72.636 305.954 169 24 Giấy vệ sinh, tissue 17.843 24.000 24.000 135 Giấy tráng 145.251 145.251 100 Giấy vàng mã xuất khẩu 74.278 80.000 80.000 108 Giấy vàng mã dùng trong nước 15.000 18.000 18.000 120 Khác 10.207 12.556 94.470 107.928 132 88 Tổng cộng 420.107 538.231 371.554 909.785 128 41 (Nguồn báo công nghiệp giấy Việt Nam 6/2003) Giấy in, giấy viết: Trong bối cảnh, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế. Xu hướng cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm giấy là rất nhanh, và rất mạnh. Trong thời điểm hiện tại, khi lộ trình cắt Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 52 - giảm thuế quan của AFTA đang được thực hiện mạnh, thuế suất của các mặt hàng giấy in, giấy viết giảm từ 40 – 50% xuống còn 20%, và sẽ giảm xuống 0 – 5 % vào năm 2006, các khoản phụ thụ đánh vào mặt hàng này cũng phải xóa bỏ, và khi Việt Nam tham gia vào WTO thì cũng phải có mức giảm thuế tương tự cho sản phẩm của đại gia sản xuất trong khu vực như Nhật, Đài Loan, Mỹ. Vậy nên, hiện nay, tuy các sản phẩm giấy in, giấy viết của Việt Nam vẫn còn giữ được 80 – 90 % thị trường, nhưng con số thị phần kia không phản ánh được chân thực bức tranh về thị trường. Giấy in, giấy viết sản xuất trong nước khó có thể cạnh tranh với hàng nước ngoài về giá cả và chất lượng. Dấu hiệu thể hiện sự khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước sản xuất mặt hàng này là lượng hàng tồn kho ngày càng lớn. Chín tháng đầu năm 2003, chỉ riêng Tổng công ty giấy Việt Nam dù đã đóng máy một thời gian để tiêu thụ hết hàng tồn kho, áp dụng nhiều biện pháp để thúc đẩy tiêu thụ hàng, nhưng vẫn bị tồn 23.250 tấn sản phẩm giấy các loại, trong đó phần lớn là các sản phẩm giấy in và giấy viết. Các loại giấy in, giấy viết nhập khẩu từ Nhật Bản, Indonesia, Thái Lan hiện được bán ra tới tay người dùng với giá từ 12,6 -14 triệu đồng/tấn, tương đương với giá bán giấy in, giấy viết của tổng công ty giấy nói chung, nhà sản xuất giấy in, giấy viết lớn nhất trong nước, và cao hơn một chút so với giá giấy của công ty giấy Bãi Bằng. Mức giá ở thời điểm này của hàng nước ngoài, cụ thể là của các nước ASEAN còn cao là do giá giấy trên thị trường thế giới đang ở mức cao, và hàng của Nhật, Đài Loan vẫn phải chịu thuế cao, nhưng trong tương lại thì chắc chắn mức giá này của hàng nước ngoài sẽ giảm xuống nhiều. Mặc dù, hiện tại, giá giấy nội và ngoại không chênh nhau nhiều, nhưng các nhà xuất bản, công ty in đang bắt đầu quay sang sử dụng giấy nhập khẩu nhiều hơn do giấy ngoại có chất lượng tốt hơn, với rất nhiều ưu điểm nổi trội như: Độ trắng cao hơn, bề mặt nhẵn mịn, mỏng hơn, lại dai hơn, hút mực tốt hơn nên in được nhiều hơn khoảng 10% so với giấy trong nước, tỷ lệ phế phẩm trong quá trình sản xuất ít hơn. Dù hiện nay, chất lượng Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 53 - giấy in, giấy viết của các công ty lớn của chúng ta như Bãi Bằng, Tân Mai đã được nâng cao hơn rất nhiều so với trước nhưng vẫn chưa thể tương đương được với chất lượng hàng nhập khẩu. Như vậy, giấy in, giấy viết của ta kém thế hơn nước ngoài cả về giá lẫn chất lượng, các doanh nghiệp sản xuất loại sản phẩm này phải nhanh chóng phải có biện pháp đối phó, nếu không sang năm 2004, cơn bão giấy in, giấy viết ngoại sẽ tràn ngập thị trường Việt Nam, đánh bật các doanh nghiệp truyền thống của ta ra khỏi thị trường này. Sản phẩm giấy in báo: tình hình của sản phẩm này cũng hoàn toàn trong hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Nhà nước đã có biện pháp bảo hộ, song giá thành sản xuất giấy in báo luôn cao hơn giá bán trên thị trường trong nước và sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Hiện tại, giá giấy in báo của Tổng công ty Giấy là 8.980.000 đ/tấn (bao gồm cả thuế VAT), giá giấy in báo nhập khẩu từ Mỹ, Nga, Indonesia, Malaysia... cũng được chào bán với giá từ 8,9 - 9 triệu đồng/tấn, giấy nước ngoài lại dôi hơn, chất giấy đẹp hơn. Năm 2002, trước thời điểm cắt giảm thuế theo AFTA, tình hình đối với các doanh nghiệp sản xuất giấy báo đã khá bi đát, nước ta sản xuất được 34.000 tấn (bằng 98% so với năm 2001) thì cũng có tới hơn 29.000 tấn giấy báo được nhập vào, cạnh tranh quyết liệt với hàng nội và chiếm mất gần 1/2 thị phần trong nước. Tình trạng này đã dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh của nhiều DN sản xuất mặt hàng này luôn lỗ. Cụ thể, năm 2001, sản phẩm giấy in báo của công ty giấy Tân Mai lỗ 10.409 triệu đồng, năm 2002 lỗ 17.989 triệu đồng, năm 2003 lỗ 17.500 triệu đồng và năm 2004 dự kiến sẽ lỗ tới 90.180 triệu đồng. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm này đang được đặt trong tình trạng báo động, cần có sự quan tâm, hỗ trợ thích đáng. Sản phẩm giấy bao bì công nghiệp: Đây là một lĩnh vực sản xuất hiện có nhu cầu rất lớn, hiện các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này vẫn chưa đáp Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 54 - ứng được hết nhu cầu trong nước. Dự báo đến năm 2020 thì nhu cầu về bao bì công nghiệp sẽ lên tới 1.729.000 tấn, chiếm gần 1/2 nhu cầu về giấy và sản phẩm từ giấy, lý do là khi xã hội ngày càng phát triển thì sản phẩm của các ngành khác rất cần được sự bảo quản, che trở khi cung cấp đến tay người tiêu dùng. Thường thì có rất nhiều loại bao bì khác nhau, nhưng bao bì bằng chất liệu giấy ngày nay đang được ưa chuộng do đặc tính của nó (không ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dùng, có thể dễ dàng tái sinh, thu hồi, tái sử dụng, ít ảnh hưởng đến môi trường). Trong tương lai, bao bì bằng giấy sẽ là sự lựa chọn số một của các nhà sản xuất và của xã hội, và dần thay thế các loại bao bì bằng thay cho các loại bao bì như ni lon, nhựa... Thị trường của giấy bao bì công nghiệp ở nước ta được đánh giá là sẽ khá lớn, tăng đều cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp như xi măng, phân bón, chế biến thủy hải sản….thị trường ở các đô thị lớn với nhiều sản phẩm hàng hoá đa dạng tràn ngập cũng sẽ là tiềm năng để phát triển cho công nghiệp sản xuất giấy bao bì. Hiện tại, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này so với hàng nước ngoài là khá tốt, đặc biệt là các sản phẩm bao bì carton. Chất lượng của các sản phẩm bao bì do doanh nghiệp trong nước sản xuất hiện tuy chưa cao, nhưng tạm thời vẫn đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước, trong khi đó giá cả lại rẻ hơn rất nhiều, như giá bao bì carton rẻ hơn giấy ngoại nhập đến 40 %, trong khi thuế suất đối với mặt hàng này cũng chỉ là 5%. Đối với mặt hàng này thì doanh nghiệp giấy Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh và chiến thắng hàng nước ngoài, chiếm lĩnh được thị trường trong nước. Nguyên nhân của việc này là bởi dây chuyền sản xuất bao bì công nghiệp không đòi hỏi chi phí đầu tư quá lớn, nguyên liệu cũng không quá cầu kỳ. Trong năm 2002, nước ta sản xuất được 233.000 tấn, nhưng cung vẫn chưa đáp ứng được hết cầu của nền kinh tế, nên ta đã phải nhập bổ sung 72.000 tấn để phục vụ nhu cầu trong nước. Trong năm 2003, khi nhiều dây chuyền sản xuất mới được lắp đặt và đi vào hoạt động thì sẽ làm giảm khối lượng hàng nhập Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ - 55 - khẩu. Tuy nhiên, ngành giấy Việt Nam hiện tại mới có thể sản xuất được các loại bao bì cấp thấp còn loại bao bì cấp cao như giấy duplex thì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ..pdf