Tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
***********
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ.
Sinh viên thực hiện: Bùi Đức Chí Toàn
Lớp Nga – khóa K38 E
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Phạm Song Hạnh
Hà Nội - 2003
Mục lục
Nội dung Trang số
Lời nói đầu
Chương I
Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế
I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh 3
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 3
2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4
II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp 7
1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 9
III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành giấy 16
1. Do ngành giấy là một ngành có vai ...
83 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1117 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
***********
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ.
Sinh viên thực hiện: Bùi Đức Chí Toàn
Lớp Nga – khóa K38 E
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Phạm Song Hạnh
Hà Nội - 2003
Mục lục
Nội dung Trang số
Lời nói đầu
Chương I
Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế
I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh 3
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 3
2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 4
II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp 7
1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 7
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 9
III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành giấy 16
1. Do ngành giấy là một ngành có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế nước ta 16
2. Phát triển ngành giấy là một yêu cầu đặt ra nhằm phát huy
nguồn lực của đất nước, thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng
nhu cầu trong nước
18
3. Muốn phát triển ngành giấy thì phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế 20
Chương II
Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước
thềm hội nhập kinh tế quốc tế
I/ Tình hình hoạt động của ngành giấy Việt Nam 22
1. Những thuận lợi 24
2. Khó khăn đối với ngành giấy 26
3. Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 29
III/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy
Việt Nam trong điều kiện hội nhập 36
1. Những thách thức và cơ hội đối với ngành giấy Việt Nam
trong quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 37
2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam 45
Chương III
Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành giấy Việt Nam
I/ Mục tiêu định hướng phát triển ngành giấy Việt Nam
đến năm 2010 52
1. Quan điểm 52
2. Mục tiêu của ngành giấy đến năm 2010 54
II/ Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy
A/ Về phía các doanh nghiệp 56
1. Xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp 56
2. Xây dựng nhận thức đúng đắn về hội nhập
57
3. Áp dụng biện pháp giảm chi phí, nâng cao chất lượng 59
4. Phát huy nhân tố con người 61
5. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp ngành giấy 64
6. Đầu tư hợp lý cho công nghệ 66
B/ Về phía Nhà nước 68
1. Xây dựng chiến lược qui hoạch phát triển ngành giấy hợp lý 68
2. Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành giấy 70
3. Sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tăng cường
năng lực cạnh tranh cho toàn ngành 72
4. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho ngành giấy,
thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ 73
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 5 -
Lời nói đầu
Trong điều kiện, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu
rộng làm nảy sinh rất nhiều vấn đề mới mẻ. Quá trình hội nhập đã, đang và sẽ
tạo ra những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta. Hội nhập mang đến
cơ hội cho nhiều ngành công nghiệp phát triển, xuất khẩu được nhiều hàng
hóa, tạo ra nhiều việc làm mới, nhưng cũng gây ra thách thức cho không ít
ngành của nước ta, trong đó có ngành công nghiệp giấy.
Giấy là một mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đối với nhu cầu của nhân dân
và công nghiệp giấy có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển
sản xuất mặt hàng giấy là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong ba
chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu văn
hóa, học tập, sản xuất công nghiệp. Nhưng hiện đang có không ít ý kiến cho
rằng, ngành công nghiệp giấy Việt Nam có năng lực cạnh tranh yếu và có thể
sẽ bị hàng nước ngoài lấn áp hoàn toàn. Có thực như vậy không?
Xuất phát từ ý định đưa ra một cái nhìn và một sự đánh giá tương đối
tổng quát và công bằng hơn đối với ngành công nghiệp giấy Việt Nam trước
những thách thức của quá trình hội nhập, tác giả đã thực hiện khóa luận này.
Mục đích của tác giả không phải là đi sâu vào tình hình, thực trạng sản xuất,
kinh doanh của ngành công nghiệp giấy Việt Nam hiện nay, mà đi vào phân
tích, đánh giá thách thức, cơ hội và năng lực cạnh tranh của ngành, thông qua
đó đề ra một hệ thống giải pháp ngành nên áp dụng để nâng cao năng lực cạnh
tranh và phát triển ngành.
Khóa luận sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như thống kê, tổng
hợp, phân tích, so sánh, diễn giải để nêu rõ mục đích của khóa luận.
Ngoài phần lời nói đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, kết cấu khóa luận
được tác giả chia làm 3 chương:
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 6 -
- Chương I :Lý thuyết về năng lực cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế
- Chương II :Thực trạng của ngành giấy Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế
quốc tế
Chương III : Một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
giấy Việt Nam
Do ngành giấy là một ngành tương đối đặc thù dẫn đến khó khăn trong
việc thu thập thông tin và tài liệu tham khảo, đồng thời kiến thức và tư duy còn
hạn hẹp, nên ý kiến của tôi nêu ra có thể còn chưa được hợp lý. Tác giả rất
mong nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô, và các bạn đọc.
Qua khóa luận này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo,
thạc sỹ Nguyễn Song Hạnh, người đã giúp đỡ và chỉ dẫn cho tôi trong quá
trình thực hiện khóa luận. Cám ơn khoa KTNT, thư viện trường đại học ngoại
thương, chú Hoan, giám đốc công ty VPP Hồng Hà đã giúp đỡ và cung cấp
cho tôi nhiều tài liệu và thông tin bổ ích để thực hiện khóa luận. Cám ơn bố mẹ
đã tạo điều kiện cho con được học tập ở trường đại học ngoại thương, cám ơn
các thầy cô đã dạy dỗ em trong bốn năm qua.
Bùi Đức Chí Toàn
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 7 -
Chương I
LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH (NLCT) VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI NÂNG CAO NLCT CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM
TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP KINH TẾ
I/ Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh
Trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa đang lan rộng, nền
kinh tế thế giới đang phát triển rất nhanh thì vấn đề cạnh tranh trong thương
mại và trong sản xuất không còn bó hẹp trong phạm vi giữa các doanh nghiệp
của một quốc gia, mà đã mở rộng ra phạm vi quốc tế và mang tính toàn cầu.
Cạnh tranh giữa các công ty của các quốc gia để tiêu thụ hàng hoá rất quyết
liệt. Nhà sản xuất, xuất khẩu nào cũng muốn tiêu thụ hàng hóa sao cho được
nhanh chóng, được nhiều để có thể thu được thật nhiều lợi nhuận, nhưng thị
trường thì có muôn vàn khó khăn và nghiệt ngã cản bước họ. Thương trường là
chiến trường, trong cuộc cạnh tranh tất nhiên sẽ có người chiến thắng và kẻ
chiến bại. Người chiến thắng phải là người có năng lực cạnh tranh cao hơn kẻ
chiến bại. Năng lực cạnh tranh chính là chìa khóa để một doanh nghiệp dành
chiến thắng trước các đối thủ cạnh tranh. Thế nhưng ta hiểu thế nào là năng lực
cạnh tranh? Và những nhân tố nào ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh?
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm nhiều loại:
- Năng lực cạnh tranh của quốc gia
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Năng lực cạnh tranh của hàng hóa
Mỗi loại lại có những cách hiểu, khái niệm khác nhau, có những nhân tố
ảnh hưởng khác nhau. Cho tới nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 8 -
khác nhau về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng như của một
quốc gia.
- Ở tầm quốc gia: Theo định nghĩa của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới)
thì: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được
mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối
và các đặc trưng kinh tế khác”.
- Ở cấp doanh nghiệp: Theo Fafchamps, một chuyên gia về năng lực cạnh
tranh, cho rằng: “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng
của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung
bình thấp hơn giá của nó trên thị trường”. Theo khái niệm này, doanh nghiệp
nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của
doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì coi là có năng lực cạnh
tranh.
Theo tôi, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là “năng lực
nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi
thị phần tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng cao”. Hiểu một
cách đơn giản năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng hãng đó bán
được hàng nhanh, nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ
thể về một loại hàng cụ thể. Quan điểm này có thể áp dụng đối với từng doanh
nghiệp, cũng như đối với một ngành công nghiệp của một quốc gia trong cuộc
cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới
- “Năng lực cạnh tranh của hàng hóa là khả năng bán được hàng
nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều người cùng bán hàng đó”. Nó liên
quan trực tiếp đến quyết định lựa chọn của người mua.
Trong khóa luận này tôi chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 9 -
Có rất nhiều chỉ tiêu để phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Và chỉ có qua những chỉ tiêu này, chúng ta mới có thể theo dõi,
đáng giá được đúng năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Trong đó, điển
hình nhất là một số chỉ tiêu sau:
a) Doanh số: là số tiền bán hàng thu được trong một thời gian nhất định.
Doanh số = giá bán x số sản phẩm bán ra
Trên thực tế, người ta không chỉ xem xét thuần túy về giá trị mà còn chú
trọng về mặt hiện vật của số sản phẩm bán ra đó, kể cả số lượng và chất lượng.
Trong khi lợi nhuận chỉ rõ khả năng sinh lời thì doanh số lại cho biết quy mô
hay tầm cỡ của doanh nghiệp lớn hay nhỏ ở mức nào. Tuy nhiên, không phải
khi nào doanh số của hãng này lớn hơn hãng kia, thì cũng có nghĩa là lợi nhuận
của nó cũng sẽ lớn hơn một cách tương ứng. Điều này do sự tác động của
nhiều yếu tố chi phối như việc lựa chọn loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh
doanh, chất lượng kinh doanh…
b) Thị phần của doanh nghiệp: là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà
doanh nghiệp chiếm lĩnh. Đây là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Số sp bán ra của doanh nghiệp
Thị phần =
Tổng số sp tiêu thụ của thị trường
- Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đó là tỷ lệ %
giữa giá trị sản phẩm của doanh nghiệp bán ra so với giá trị của toàn ngành.
- Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó
chính là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn
phân khúc.
- Thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp
với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, chỉ tiêu này cho biết vị thế sản phẩm của
doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào?
Số sp bán ra của doanh nghiệp
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 10 -
Thị phần =
Số sp bán ra của đối thủ
Nếu hệ số trên của thị phần tương đối lớn hơn 1 thì lợi thế cạnh tranh
thuộc về doanh nghiệp, và ngược lại.
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp sẽ biết
mình đang đứng ở vị trí nào, và có thể vạch ra một chiến lược hành động phù
hợp. Chỉ tiêu này nói lên mức độ lớn của thị trường và vai trò vị trí của doanh
nghiệp. Nó cho biết mức độ hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay
không hiệu quả. Khi tiềm lực của thị trường đang lên mà phần thị trường của
doanh nghiệp không thay đổi tức là thị trường đã ngoài vòng kiểm soát của
doanh nghiệp hay một phần của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho
nên doanh nghiệp cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở
rộng thị trường của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản
phẩm trên thị trường hiện tại, có giải pháp thích hợp lôi kéo các đối tượng tiêu
dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị
trường của đối thủ cạnh tranh với mình…
Mục tiêu doanh số và thị phần có liên quan mật thiết với nhau. Doanh số
cho biết kết quả của doanh nghiệp ở thị trường đang hoạt động, còn thị phần
thì chỉ rõ doanh nghiệp chiếm được bao nhiêu trong cả “chiếc bánh thị trường”
đó. Hai mục tiêu này còn gọi là những mục tiêu tạo lợi thế cạnh tranh hay mục
tiêu thế lực. Khi doanh số và thị phần càng vượt xa đối thủ, doanh nghiệp càng
có nhiều lợi thế trong cuộc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường và thao túng giá
cả. Mức lợi thế áp đảo tuyệt đối sẽ dẫn tới sự lũng đoạn và độc quyền thị
trưòng, hình thành giá cả lững đoạn và lợi nhuận lũng đoạn.
c) Lợi nhuận: Lợi nhuận được định nghĩa một cách khái quát là phần chênh
lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Chỉ tiêu lợi nhuận là thước đo hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 11 -
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện để tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường các nhà sản
xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ mong muốn cho
chi phí đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các
chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở
rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, cũng cố và tăng cường vị trí
của mình trên thị trường để nâng cao khả năng của doanh nghiệp.
d) Tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biết mức sinh lời của
đồng vốn dùng trong kinh doanh. Tỷ suất này thể hiện sự bù đắp chi phí cơ hội
của việc sử dụng vốn. Thông thường đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả
nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác hay ít
nhất phải cao hơn mức lãi suất tín dụng ngân hàng. Tỷ suất lợi nhuận là một
chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp mà còn
thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản kinh doanh của doanh nghiệp ấy.
Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì chứng tỏ doanh
nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi và có hiệu quả.
e) Tỷ suất doanh thu trên vốn: cho biết mức doanh thu tạo ra trên một đồng
vốn, ngoài ra nó còn cho biết mức độ quay vòng của vốn. Tỷ suất này phụ
thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành và chu kỳ sản xuất kinh doanh.
f) Tỷ lệ chi phí marketing trên tổng doanh thu: Đây cũng là một chỉ tiêu được
sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả tiêu thụ sản
phẩm của các doanh nghiệp.
II/ Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, hay của một ngành liên
quan trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà doanh nghiệp, ngành
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 12 -
đó cung cấp. Những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của hàng hóa cũng
chính là những yếu tố tạo ra năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, một
ngành. Qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa ta có thể thấy được năng lực
cạnh tranh của một doanh nghiệp. Vì thế, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là một tổng thể, bao gồm nhiều nhân tố.
Chất lượng: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu của năng lực cạnh
tranh. Khi chất lượng cuộc sống ngày càng tăng thì người ta càng có xu hướng
lựa chọn hàng hóa đẹp, tốt, có chất lượng cao hơn là chọn hàng hóa có giá rẻ.
Tùy theo mặt hàng mà tiêu chí chất lượng có thể thay đổi, đối với hàng tiêu
dùng, thì những hàng hóa có kiểu dáng hiện đại, màu sắc phù hợp thị hiếu, chất
lượng tốt,… sẽ thu hút khách hàng và được lựa chọn. Đối với mặt hàng thiết bị
máy móc, tiêu dùng dài ngày thì sự ưu việt của các tính năng, độ tin cậy cao,
tiện nghi sử dụng là những yếu tố quyết định.
Giá cả: giá cả cũng là một yếu tố có sức lôi cuốn người mua, và được
người mua cân nhắc khi mua một sản phẩm nào đó. Tuy nhiên, giá thấp chưa
chắc đã là một lợi thế, cái quyết định là tương quan hợp lý của giá và chất
lượng. Trong trường hợp, khi hàng hóa có giá trị tương đương nhau, thì hàng
hóa của doanh nghiệp nào có giá thấp hơn hàng hóa đó sẽ dễ bán hơn, và có
khả năng cạnh tranh cao hơn.
Chi phí sử dụng: Đối với những hàng hóa sử dụng dài ngày thì chi phí
sử dụng là yếu tố rất quan trọng. Chi phí sử dụng thấp sẽ làm cho hiệu quả sử
dụng cao. Người mua hàng rất quan tâm đến yếu tố này, bởi vì, nhiều khi chi
phí sử dụng có thể vượt xa chi phí mua hàng. Hàng giá thấp nhưng chi phí sử
dụng cao có thể làm cho tổng chi phí vẫn cao và sử dụng không kinh tế.
Chi phí sử dụng thường là chi phí cho việc tiêu tốn năng lượng, nhiên
liệu, vật liệu kỹ thuật, chi phí cho người vận hành, chi phí bảo dưỡng, duy
tu…. Để chi phí sử dụng thấp thì sản phẩm phải được chế tạo hoàn hảo, trình
độ kỹ thuật cao.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 13 -
Phục vụ kỹ thuật khi bán và sau bán ( hậu mãi ): để tạo thuận lợi
và lôi cuốn người mua, các doanh nghiệp thường cung cấp những dịch vụ miễn
phí như chở hàng đến tận nơi, lắp đặt, hướng dẫn bảo hành,… Đó là những
phục vụ kỹ thuật khi bán.
Phục vụ kỹ thuật sau khi bán là bảo hành, cung cấp phụ tùng, tổ chức
sửa chữa,… Đây cũng là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp, ngành nâng
cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của mình, và cho chính bản thân doanh
nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, hàng hóa của hai doanh nghiệp có chất lượng,
giá cả tương đương nhau thì khách hàng sẽ chọn hàng được doanh nghiệp phục
vụ kỹ thuật khi bán và sau bán hoàn hảo. Điều này sẽ khiến khách hàng yên
tâm, thoải mái hơn, tạo một ấn tượng đẹp nơi khách hàng, đồng thời giúp
doanh nghiệp nhanh chóng phát hiện ra những thiếu sót, nhược điểm của sản
phẩm và những đòi hỏi mong muốn của khách hàng… Từ đó, sẽ nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều
nhân tố, có những nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát (các nhân tố bên
trong doanh ngiệp), và những nhân tố phức tạp, không lệ thuộc và không bị
nhà doanh nghiệp chi phối (môi trường vĩ mô, môi trường ngành). Những nhân
tố này tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo những chiều
hướng khác nhau, và đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp thích hợp để ứng
phó.
* Môi trường vĩ mô
Các nhân tố thuộc về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở các phương diện sau.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 14 -
- Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng
thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng
lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt
được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá
bán, chất lượng, mẫu mã…) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và
có khả năng cạnh tranh cao.
- Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh
chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói
riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh
nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi
đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh
tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng
nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ
giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị trường
trong nước và trên thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của các doanh
nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài.
- Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn
phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của các
doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi suất tiền vay lớn, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
Các nhân tố về chính trị, pháp luật: những yếu tố thuộc môi trường này
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp. Trong số những yếu
tố này thì luật pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì luật pháp điều tiết hoạt
động kinh doanh, giải quyết mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội trước những hoạt
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 15 -
động của doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận đã coi thường lợi ích chung toàn
xã hội. Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở
đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và
cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều
kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất
nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Môi trường tự nhiên: Bao gồm các yếu tố như tài nguyên, đất đai, vấn
đề ô nhiễm môi trường… những vấn đề này có liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp, có ảnh hưởng đến các sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị
trường, liên quan đến giá thành và lợi nhuận. Đây là một yếu tố quan trọng
nhưng không phải mang tính quyết định, tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không
nên coi thường ảnh hưởng của những yếu tố này được.
Trình độ phát triển khoa học, công nghệ: Nhóm nhân tố này quan
trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh. Trình độ khoa học
công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên năng lực
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Những
tiến bộ về khoa học và công nghệ mới làm tăng năng suất, chất lượng sản
phẩm được đổi mới, tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo
nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước
chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh
tranh. Hiện nay, khi trên thế giới, có sự chuyển hướng quan tâm từ giá cả sang
chất lượng của hàng hóa, các doanh nghiệp chuyển từ cạnh tranh về giá sang
cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 16 -
lượng khoa học công nghệ cao, vòng đời của sản phẩm ngày càng ngắn, thì
trình độ khoa học công nghệ lại càng nắm giữ vai trò trọng yếu hơn.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các doanh nghiệp tạo ra được
những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn
bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiền đề để
các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
* Môi trường ngành
Hoạt động trên thương trường, doanh nghiệp tự ý thức được rằng không
phải mình đang “múa giáo ở chốn không người”, mà là giữa các đối thủ cạnh
tranh dù ở trong lĩnh vực nào cũng vậy. Trong ngành nghề của mình, doanh
nghiệp nào cũng sẽ phải bươn chải trong một “cái ao”, hay còn gọi là môi
trường ngành của mình, và phải chịu những tác động của nó đối với hoạt động
kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nào thích ứng tốt được với môi trường
ngành của mình thì sẽ có năng lực cạnh tranh cao và là người chiến thắng.
Trong tác phẩm “chiến lược cạnh tranh” của Michael Poter, một chuyên
gia đầu ngành về chiến lược cạnh tranh, đồng chủ tịch của báo cáo cạnh tranh
toàn cầu, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông
gọi là năm lực lượng cạnh tranh trên thị trường ngành. Sức mạnh tổng hợp của
năm lực cạnh tranh sẽ quyết định khả năng cạnh tranh của các hãng trong cùng
ngành. Sức mạnh của chúng ở mỗi ngành, và mỗi lúc lại khác nhau. Bất cứ
một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới chúng, trước khi có
những quyết định lựa chọn phương thức, nhiệm vụ phát triển của mình. Năm
lực lượng đó là:
Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong
những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 17 -
cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lược
lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các
doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau,
nhưng thường trong đó chỉ có một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ
cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của
mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng
của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh
tranh thích hợp với môi trường chung của ngành.
Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường
Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính
chất quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và
khối lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị
trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập
thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại các
đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược
như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những đặc điểm mới
của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho sản
phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường,
hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ… Sức ép cạnh tranh của các
doanh nghiệp mới gia nhập thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm
kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường đó.
Sức ép của nhà cung ứng
Những nhà cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều
cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận
của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 18 -
- Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc
quyền cung cấp.
- Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản
xuất, có hệ thống mạng lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẽ thì họ sẽ có thế
lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng.
Sức ép của khách hàng
Sức mạnh khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất
phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi
hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn,
tính tập trung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành.
Sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên
sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành. Mức độ sẵn có
của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong
ngành. Khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng
những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng cũng
chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay
thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả
năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các doanh nghiệp.
* Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Đây là những nhân tố thuộc nội bộ doanh nghiệp, nó là những yếu tố có thể
kiểm soát được hay cũng có thể nói đấy là những yếu tố chủ quan của doanh
nghiệp, doanh nghiệp có thể kiểm soát chúng để quản lý hoạt động kinh doanh
của mình. Có thể kể ra một số nhân tố như sau:
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 19 -
- Nguồn nhân lực: đội ngũ cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp
- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp
- Các quyết định từ các cấp thuộc doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
Nguồn nhân lực: Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh.
Trong nguồn nhân lực thì gồm có các bộ phận sau:
+ Ban giám đốc doanh nghiệp
+ Cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp
+ Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân
- Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất
trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ
chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ
phần, những công ty lớn ngoài ban giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại
diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp. Các thành viên ban giám đốc ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đội ngũ cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân: Nguồn cán
bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ
thực tế là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết
hợp nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và vật chất
- Công nhân: Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm
việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình
lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để các doanh
nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Nguồn lực vật chất và tài chính
- Máy móc thiết bị và công nghệ: Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và
công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực cạnh tranh
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 20 -
của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ
sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm.
Một doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất
định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói
là có khả năng cạnh tranh cao khi trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ
với công nghệ lạc hậu.
- Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua
sắm hay phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều
thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đâu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, để duy trì và nâng cao sức cạnh
tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm,
tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét, đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh
nghiệp và kể cả khả năng cạnh tranh của các đối thủ, thì ta phải xem xét đầy đủ
các yếu tố tác động đến nó, từ đó mới có thể “gạn đục, khơi trong” và tìm ra
các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của chính doanh
nghiệp.
III/ Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy
Ngành giấy Việt Nam có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta,
nhu cầu về giấy ngày càng tăng khi nền kinh tế phát triển, chính vì thế nâng
cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy là một nhiệm vụ cấp thiết và mang tính
tất yếu đối với nền kinh tế nước ta, đặc biệt là trong điều kiện nước ta đang hội
nhập kinh tế rất sâu và rộng như hiện nay. Nâng cao năng lực cạnh tranh là
nhằm phát triển ngành. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành sẽ được lý giải qua ba nguyên nhân chính.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 21 -
1. Do ngành giấy là một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế nước ta
Tuy hiện nay, ngành giấy Việt Nam còn chưa phát triển được đúng với
tiềm năng của mình, giá trị sản xuất của ngành còn khá khiêm tốn mới chỉ
chiếm hơn 2% trong tổng giá trị công nghiệp của cả nước, nhưng ngành giấy
vẫn được coi là một ngành công nghiệp quan trọng đối với nước ta và có vị trị
nhất định trong nền kinh tế nước ta. Sự quan trọng của ngành thể hiện trong
vai trò của nó đối với nền kinh tế nước ta:
Thứ nhất, ngành giấy là một ngành thu hút nhiều lao động. Số lao động
làm việc trực tiếp cho các đơn vị công nghiệp sản xuất giấy là khoảng 50.000
người. Những người lao động này bao gồm: những người sản xuất bột giấy và
những người sản xuất ra các sản phẩm giấy. Nếu chỉ xem xét số lao động làm
việc trực tiếp trong ngành thì ta có thể cho rằng ngành giấy mới thu hút được
một số lao động không phải là lớn lắm so với những ngành như may mặc, da
giày…. Nhưng để thấy hết vai trò của ngành trong việc tạo công ăn việc làm,
ta phải đi từ đặc điểm của ngành. Ngành giấy là một ngành sử dụng khối lượng
nguyên vật liệu thô đầu vào rất lớn, và để phục vụ nhu cầu nguyên liệu cho
ngành thì sẽ cần phải có một đội ngũ hùng hậu những người trồng rừng, khai
thác rừng. Bên cạnh đó, để phục vụ cho nhu cầu về hóa chất, xút, và các chất
phụ gia của ngành thì cũng dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực sản xuất chuyên
phục vụ nhu cầu này của ngành giấy và cũng sẽ tạo ra rất nhiều chỗ làm. Chính
vì thế, tuy số lao động làm việc trực tiếp trong ngành có thể còn khiêm tốn,
nhưng nếu cộng cả số lao động làm việc gián tiếp trong ngành thì tổng số lao
động của ngành có thể không kém gì những ngành thu hút nhiều lao động như
dệt may hay da giày.
Thứ hai, phát triển ngành giấy là tiền đề phát triển nhiều ngành kinh tế
khác, góp phần tích cực vào quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
Nguyên liệu chủ yếu của ngành giấy là từ gỗ, chính vì vậy, nếu ngành giấy
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 22 -
phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành lâm nghiệp, tạo đầu ra ổn định
cho ngành lâm nghiệp. Đồng thời, do trồng, khai thác nguyên liệu cho ngành
giấy phải được chuyên môn hóa, tập trung thâm canh nên dẫn đến yêu cầu phải
áp dụng các giống cây trồng có năng suất cao, kỹ thuật thâm canh tiên tiến, và
sử dụng máy móc vào trồng, khai thác, nên sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa và hiện đại hóa trong lâm nghiệp. Đầu ra của ngành giấy là để phục vụ cho
nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp và cho nhu cầu của nhân dân. Ngành
giấy phát triển sẽ tạo điều kiện cho những ngành sử dụng nguyên liệu đầu vào
là giấy như ngành in, ngành sản xuất bao bì …phát triển, nâng cao khả năng
cạnh tranh của những ngành này nhờ vào nguyên liệu đầu vào có giá rẻ, chất
lượng cao. Ngành giấy phát triển sẽ phục vụ tốt nhu cầu học tập, giải trí,
nghiên cứu, tìm hiểu đa dạng và ngày càng cao của người dân, góp phần nâng
cao nhận thức của họ, qua đó sẽ nâng cao trình độ nguồn nhân lực của nước ta,
tạo ra một tác động nhất định đến quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, phát triển ngành giấy sẽ giúp tái chuyển dịch cơ cấu kinh tế
giữa các vùng, xóa đói giảm nghèo, tăng cường an ninh quốc phòng và bảo vệ
môi trường. Vai trò của ngành giấy trong việc bảo vệ môi trường thể hiện ở
chỗ: Ngành giấy ngoài việc sử dụng nguyên liệu là gỗ, thì còn sử dụng nguyên
liệu là những thứ đã qua sử dụng như giấy phế liệu, bã mía….Chỉ trong năm
2002, ngành giấy nước ta đã thu gom và sử dụng được 206.000 tấn trong nước
để đưa vào tái sản xuất. Điều này không chỉ giúp ngành giấy đáp ứng được
36% nguyên liệu cho sản xuất giấy, mà còn góp một phần không nhỏ trong
việc bảo vệ, làm sạch môi trường, tiết kiệm chi phí cho xã hội trong việc giải
quyết đống “phế liệu” khổng lồ này. Bên cạnh đó, do cây nguyên liệu giấy
không đòi hỏi cao về chất đất, nên phát triển ngành giấy sẽ giúp phủ xanh diện
tích đất trống đồi trọc đang ở mức đáng lo ngại. Trồng rừng nguyên liệu giấy
vừa giúp bảo vệ môi trường, vừa tăng thu nhập cho người dân trồng rừng,
khiến họ gắn bó với rừng, không phá rừng nữa và sẽ bảo vệ rừng như bảo vệ
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 23 -
tài sản của mình. Rừng nguyên liệu giấy thường được trồng ở các đồi núi, vùng
sâu vùng xa nên nó sẽ giúp chuyển đổi cơ cấu cây trồng lạc hậu, kém hiệu quả
của người dân địa phương, nâng cao đời sống cho họ, qua đó, xóa đói giảm
nghèo ở những vùng này. Đời sống của người dân ở vùng sâu, vùng xa được
cải thiện không chỉ làm kinh tế của vùng được nâng cao, mà còn tạo điều kiện
để nhân dân gắn bó với đất đai, kết hợp với các đơn vị bộ đội, công an trong
việc giữ đất, giữ rừng, bảo vệ an ninh quốc phòng ở địa phương.
2. Phát triển ngành giấy là một yêu cầu đặt ra nhằm phát huy nguồn
lực của đất nước, thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu trong
nước
Thực trạng thị trường cầu được xem xét thông qua mối quan hệ với qui
mô sản xuất của ngành và lượng giấy nhập khẩu. Từ dó, ta sẽ thấy được yêu
cầu cấp bách phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành để sản xuất hàng
hóa thay thế hàng nhập khẩu. Theo hiệp hội giấy Việt Nam, năm 2001, nhu cầu
giấy bình quân trên đầu người của nước ta là 8kg/người/năm, đây là mức tương
đối thấp so với mức trung bình của khu vực và thế giới, nhưng ngành giấy
cũng chỉ sản xuất được 420.107 tấn, đáp ứng được chưa đầy 60% nhu cầu
trong nước, nên nước ta phải nhập 290.000 tấn giấy các loại, trị giá hơn 100
triệu USD. Năm 2002, ngành đã tăng sản lượng sản xuất, đạt 538.231 tấn, tăng
28%, nhưng cũng chỉ đáp ứng được 59% nhu cầu, còn lại nước ta vẫn phải
nhập 371.554 tấn giấy, trong đó có 145.251 tấn giấy tráng, loại giấy có giá trị
cao nhưng trong nước chưa sản xuất được. Nước ta đang trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, GDP tăng 6-7%/năm, cộng với sự gia tăng dân số,
nhu cầu về giấy sẽ chỉ có tăng chứ khó có khả năng giảm, nó sẽ tăng tỉ lệ thuận
với tốc độ tăng của GDP. Dự báo mức tiêu dùng giấy của nước ta sẽ tăng ổn
định bình quân 10 %/năm (trong đó giấy in báo tăng 7%, giấy in viết và bao bì
tăng 10%, các loại khác là 15%/năm).
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 24 -
Đến năm 2020 thì nhu cầu về giấy của Việt Nam có thể lên tới 3.420.000
tấn/năm.
Năm
2005
2010
2020
Dân số 83 89 102
Tiêu thụ giấy bình quân (kg) 9,4 14,5 33,6
Nhu cầu giấy (triệu tấn)
Trong đó:
- Giấy in báo
- Giấy in, viết
- Giấy bao bì
Loại khác
781.000
85.000
226.000
410.000
60.000
1.286.000
120.000
365.000
691.000
110.000
3.420.000
236.000
947.000
1.729.000
445.000
(Nguồn tổng công ty giấy Việt Nam)
Theo nghiên cứu trên thì ta có thể thấy rằng nhu cầu giấy của nước ta là
rất lớn so với năng lực sản xuất hiện tại của toàn nghành (năm 2002 là
538.554 tấn). Để có thể đáp ứng được nhu cầu này thì phải phát triển sản xuất
giấy trong nước. Nếu không mỗi năm chúng ta lại có thể phải bỏ ra 200 – 300
triệu USD để nhập khẩu giấy, tương đương với số tiền đầu tư, xây dựng một
nhà máy giấy hiện đại, công suất lớn, trong khi chúng ta có đủ khả năng về con
người và nguyên liệu tự nhiên để phát triển ngành dẫn tới một sự lãng phí lớn
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 25 -
nguồn lực của đất nước. Chính vì vậy đặt ra yêu cầu phát triển ngành để đáp
ứng đủ được nhu cầu trong nước.
3. Muốn phát triển ngành giấy thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng mạnh, xu hướng cắt giảm
thuế quan diễn ra ngày càng nhanh, để phát triển ngành giấy thì một nhiệm vụ
cấp bách là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Trong những năm
qua sản phẩm của ngành giấy đã chiếm được 50-60% thị phần trong nước và
phần nào đáp ứng được nhu cầu của thị trường, đặc biệt là các sản phẩm giấy
in, giấy viết, in báo, giấy vệ sinh đã chiếm 80 - 90% thị phần phục vụ cho nhu
cầu in ấn, văn hoá, giáo dục, sinh hoạt... của nhân dân. Nhưng trong thời gian
tới khi thuế suất đối với các mặt hàng giấy chỉ còn 0-5% vào năm 2006, sản
phẩm giấy nội địa sẽ phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt của giấy ngoại nhập
về chủng loại, chất lượng, giá cả. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của ngành
hiện còn đang rất yếu, nếu chúng ta không nâng cao chất lượng và đặc biệt là
hạ được giá thành sản phẩm thì khả năng tồn tại của sản phẩm giấy nội địa là
rất khó, chứ đừng nói đến phát triển ngành, thay thế hàng nhập khẩu, phát huy
nguồn lực trong nước. Nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ giúp phát triển ngành
giấy, và ngành giấy có phát triển thì mới có sức cạnh tranh với hàng nước
ngoài , hai vấn đề này có tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, đề ra giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành giấy là một nhiệm vụ tất yếu
khách quan để phát triển ngành giấy, đặc biệt là trong thời điểm hội nhập ngày
càng gần. Đó là nhiệm vụ, yêu cầu không phải chỉ của riêng một mình tổng
công ty giấy, của ngành giấy, mà là của toàn xã hội.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 26 -
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 27 -
Chương II
THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRƯỚC
THỀM HỘI NHẬPKINH TẾ QUỐC TẾ
I/ Tình hình hoạt động của ngành giấy Việt Nam
Sản xuất giấy ở Việt Nam đã có từ lâu đời, nhưng ngành công nghiệp
giấy Việt Nam thì chỉ mới ra đời vào đầu thế kỷ 20, trong thời gian đầu các
nhà máy giấy có tính chất thủ công, vào những năm trước 1945 cả nước có
khoảng 7 nhà máy sản xuất giấy, sản lượng trung bình mỗi năm chỉ vào
khoảng 1000 tấn/năm, chất lượng giấy rất thấp, qui trình sản xuất còn rất thủ
công. Đến những năm 50-60, công nghiệp giấy bắt đầu đi vào phát triển, trang
bị những máy móc thiết bị sản xuất giấy công nghiệp, công suất các nhà máy
được nâng lên mức 20.000 tấn/năm, điển hình trong giai đoạn này là sự ra đời
của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ(1949), “cái nôi của ngành giấy Việt Nam”,
sản phẩm giấy trong thời kỳ này chủ yếu là để phục vụ nhu cầu in ấn và viết.
Trong giai đoạn 1960 – 1970 xuất hiện hàng loạt các nhà máy giấy với qui mô
nhỏ ở khắp miền Nam và miền Bắc. Trong thời gian này sản phẩm giấy được
sản xuất cũng đa dạng hơn bao gồm các loại giấy báo, giấy viết, carton… Sản
lượng đạt khoảng 40.000 tấn/năm. Sản lượng giấy năm 1970 tăng 10 lần so
với năm 1960 đạt mức hơn 50.000 tấn. Tuy nhiên, chỉ sau năm 1975 công
nghiệp giấy mới thực sự được đầu tư phát triển với những nhà máy mới có
công suất trung bình. Đặc biệt sau tám năm xây dựng, ngày26/1/1982 lễ khánh
thành nhà máy giấy Bãi Bằng đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của
ngành công nghiệp giấy Việt Nam. Vào thời điểm đó thì công ty giấy Bãi Bằng
được coi là một nhà máy sản xuất tương đối hiện đại, với qui trình sản xuất
khép kín, ứng dụng kỹ thuật cơ giới hoá và tự động hóa khá đồng bộ với năng
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 28 -
suất thiết kế là 55.000 tấn giấy/năm và 48.000 tấn bột giấy/năm. Với sự ra đời
của nhà máy giấy Bãi Bằng thì tổng công suất của ngành giấy đã tăng lên
90.000 tấn/năm, chất lượng giấy cũng được cải thiện rõ rệt so với trước, đặc
biệt là hai mặt hàng giấy in và giấy viết. Mặc dù vậy, trong giai đoạn này, cũng
như nhiều ngành công nghiệp khác, ngành giấy Việt Nam cũng vấp phải không
ít khó khăn, có lúc tưởng chừng không thể vượt qua do cơ chế quan liêu bao
cấp, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sản phẩm sản xuất ra lại không đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dụng. Chính sách đổi mới do Đảng và chính phủ
ta đề ra năm 1986 đã tạo ra sự thay đổi lớn lao trong mọi mặt đời sống xã hội
và kinh tế nước ta. Theo đó, thực hiện việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự quản lý
của Nhà nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh
doanh sản xuất, chuyển từ mục tiêu tập trung phát triển công nghiệp nặng sang
phát triển công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Sự thay
đổi đó đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt trong nền kinh tể nói chung và ngành
công nghiệp giấy nói riêng. Lúc này, ngành giấy Việt Nam đã có hai nhà máy
có công suất tương đối lớn hơn 50.000 tấn/năm là Bãi Bằng và Tân Mai. Tốc
độ tăng trưởng bình quân của ngành giấy trong giai đoạn 1990-1999 bình quân
đạt 16%/năm, tốc độ tăng trưởng này nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng của
công nghiệp chế biến nước ta nói riêng và công nghiệp nói chung, nhiều thành
phần kinh tế đã tham gia vào đầu tư, sản xuất giấy đã đáp ứng được một phần
nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm giấy, ngành giấy Việt Nam đã
xuất khẩu được một số loại giấy sang các thị trường nước ngoài (Đài Loan,
Srilanca, Trung Đông,…). Năm 1999 sản lượng toàn ngành đạt 292.000 tấn
gấp gần 4 lần năm 1990. Sau 10 năm liền tăng trưởng với tốc độ bình quân
16%/năm(1990 – 1999), nhạy bén nắm bắt thời cơ, ngành giấy Việt Nam đã
vươn lên tốc độ tăng trưởng rất cao (cao nhất trong các ngành công nghiệp) với
tốc độ tăng trưởng trong 3 năm gần đây ( 2000 –2002 ) là 24%/năm, ngành
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 29 -
giấy cũng đã có một số biện pháp chủ động để hội nhập kinh tế. Dù đã đạt
được một số thành tựu, vẫn giữ vững được thị trường, và bước đầu xâm nhập
thị trường nước ngoài, nhưng ngành giấy Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế
vẫn còn nhiều yếu kém và khuyết điểm. Để làm rõ những điểm yếu đó, tôi xin
trình bày, những thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp giấy Việt
Nam, tình hình hoạt động của ngành trong những năm gần đây. Qua đó, ta có
thể xác định được năng lực cạnh tranh của ngành và đề ra giải pháp để phát
triển ngành, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, phát huy, khai thác lợi
thế của ngành, đồng thời khắc phục những khó khăn, thách thức.
1. Những thuận lợi
- Điều kiện tự nhiên
Việt Nam có hình chữ S với tổng diện tích là 330.541 km2 trải dài suốt
dọc bờ biển đông nam Châu Á, ba phần tư lãnh thổ là núi đồi với những đỉnh
cao trên 300 m trên mặt nước biển trung bình, khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm.
Hầu hết vùng núi là đất đỏ, trên núi cao có đất mùn và thung lũng sông và
đồng bằng châu thổ có đất phù sa phỡ nhiờu, cỏc vựng đá vôi có đất bazan và
ở một vài vùng ven biển đất cát nhiều. Đất đai, và khí hậu như vậy rất phù hợp
để phát triển trồng rừng nguyên liệu giấy, cây nguyên liệu có tốc độ tăng
trưởng nhanh.
Tổng diện tích đất của Việt Nam là khoảng 33 triệu ha, diện tích đất đã
sử dụng là 23,840 triệu ha chiếm 57,04% quỹ đất tự nhiên, diện tích đất chưa
sử dụng là khoảng 8 triệu ha (theo niên giám thống kê năm 2000), diện tích đất
này có khá nhiều khu vực có tiềm năng thích hợp để trồng cây nguyên liệu
giấy.Theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng thì rừng trồng nguyên liệu
giấy nước ta hiện có 803 000 ha, trong đó có 618.000 ha rừng tự nhiên, 185
000 ha rừng trồng các loại. Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn giai đoạn 2001 - 2010 đã được Quốc hội thông qua, cả nước sẽ trồng
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 30 -
mới 1.140.000 ha rừng cây nguyên liệu giấy trong Chương trình 5 triệu ha
rừng. Một vùng nguyên liệu dồi dào đang mở ra cho ngành giấy trong tương
lai.
Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, ngành giấy Việt Nam có lợi thế về
nguồn nguyên liệu thô rất phong phú. Đến nay, tuy chưa tuyển chọn được
nhiều, nhưng tập đoàn cây nguyên liệu giấy ở Việt Nam đã khá đa dạng, với
một số loài sinh trưởng nhanh, cho năng suất và chất lượng cao như thông 2 lá,
3 lá làm nguyên liệu cho sợi dài, bồ đề, bạch đàn làm nguyên liệu cho sợi
ngắn, lồ ô, tre cho nguyên liệu sợi trung bình. Với tổng trữ lượng gỗ là 751,5
triệu m3, tổng trữ lượng rừng tre nứa là 8,4 tỷ cây, ngành có thể sử dụng
nguyên liệu từ cây lá rộng, từ tre nứa, vầu, luồng… Ngoài ra, ngành còn có thể
sử dụng một nguồn nguyên liệu có khối lượng rất lớn và được cung cấp ổn
định những phụ phẩm của các ngành khác hàng chục triệu tấn/mỗi năm như
rơm rạ của các vùng sản xuất lúa gạo, bã mía của các nhà máy sản xuất
đường… Với nguồn nguyên liệu đa dạng, phong phú như vậy, ngành giấy có
khả năng chủ động được về nguyên liệu, từ đó có thể nâng cao vị thế của mình.
Vấn đề đặt ra là ngành phải khai thác và sử dụng chúng sao cho hợp lý và có
hiệu quả.
- Nguồn nhân lực
Thuận lợi thứ hai đối với ngành giấy là Việt Nam có nguồn nhân lực dồi
dào. Ước tính, hiện nay, Việt Nam có lực lượng lao động khoảng 50 triệu
người, và được bổ sung thường xuyên hàng năm với tốc độ tăng trung bình là
1,7%. Lao động của chúng ta được đánh giá là trẻ, cần cù, thông minh, chịu
khó và có khả năng tiếp thu công nghệ nhanh. Giá nhân công của nước ta lại
chỉ ở mức thấp. Đối với một ngành cần sử dụng nhiều lao động như ngành giấy
thì đây có thể coi là một yếu tố tương đối thuận lợi. Bên cạnh nguồn nhân lực
dồi dào, ngành giấy nước ta còn được hưởng lợi từ một thị trường nội địa rộng
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 31 -
lớn với dân số hơn 80 triệu người , thị trường này còn đang sơ khai và còn rất
nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết.
- Chính sách của Nhà nước
Ngành giấy, hiện nay cũng được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Nhà
nước và Chính phủ. Trong chính sách của mình, Chính phủ đánh giá ngành
giấy như một ngành sản xuất thay thế xuất khẩu, góp phần phát triển các vùng
kinh tế sâu và xa, do vậy Chính phủ đã đề ra một loạt chính sách để hỗ trợ phát
triển ngành giấy như cấp vốn bằng nguồn vốn đầu tư ưu đãi, quỹ đầu tư phát
triển, giảm thuế cho ngành, khuyến khích đầu tư vào ngành giấy. Kết quả là
hiện nay có rất nhiều thành phần kinh tế tham gia vào kinh doanh, sản xuất
trong ngành, sản lượng của ngành tăng vọt, mặt hàng cũng phong phú hơn.
Chính phủ đã và đang xây dựng qui hoạch phát triển ngành, vùng nguyên liệu,
giao đất giao rừng cho nhân dân, khuyến khích nhân dân trồng rừng nguyên
liệu giấy để tạo vùng nguyên liệu ổn định cho ngành. Sự quan tâm ưu ái của
Chính phủ cũng sẽ là một nhân tố thuận lợi để phát triển ngành.
- Thuận lợi khác
Do đã kinh doanh lâu năm, nên ngành đã xây dựng được cho mình một
kênh phân phối, mạng lưới đại lý trải khắp mọi miền của đất nước, sản phẩm
của ngành đã trở nên quen thuộc với mọi người, từ các nhà in lớn tiêu thụ hàng
nghìn tấn giấy một năm đến những em nhỏ lớp 1 với những trang vở đầu đời.
Những cái tên như Bãi Bằng, Tân Mai,…. đã trở thành thương hiệu lớn của
ngành không chỉ trong nước mà cả ngoài nước, thành một tài sản vô hình của
ngành. Đây là một ưu thế để ngành có thể cạnh tranh với các sản phẩm nước
ngoài.
2. Khó khăn đối với ngành giấy
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 32 -
Tuy ngành giấy Việt Nam có được một số thuận lợi khách quan nói trên,
nhưng ngành này cũng gặp rất nhiều khó khăn đặt ra do nhiều nguyên nhân
khác nhau:
Thứ nhất, nước ta có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào và chi phí nhân
công rẻ, nhưng nguồn nhân lực nước ta lại có những điểm yếu nhất định khi so
sánh với lao động nước ngoài
- Sức khoẻ hạn chế, độ bền dai rất kém: Sản xuất theo phương pháp
công nghiệp trong kinh tế thị trường, và đặc biệt khi hội nhập kinh tế đòi hỏi
một cường độ lao động cao hơn và căng thẳng hơn nhiều. Một phần do đặc
điểm về sinh học và hình thể thấp bé và nhẹ cân, một phần do phần lớn người
Việt Nam xuất thân từ nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu nên khó có thể
đáp ứng được một cường độ làm việc cao.
- Tác phong công nghiệp còn ít và chưa được định hình bền chặt: sinh ra
và trưởng thành trong một nền sản xuất tiểu nông manh mún, lộn xộn, nhiều
người Việt Nam quen làm việc theo kiểu tùy hứng, nước đến chân mới nhảy,
không thích hợp tác với nhau, nên khó có sự hợp tác nhịp nhàng, đồng bộ ăn
khớp. Mà trong điều kiện hội nhập kinh tế, thì tác phong công nghiệp là một
tố chất rất cần thiết đối với người công nhân.
- Hiểu biết chưa đủ sâu rộng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn
chế: do sống và làm việc quá lâu trong môi trường khép kín và dựa dẫm vào
Nhà nước, nên người lao động Việt Nam chỉ quen làm việc bằng kinh nghiệm
là chính, họ không thấy sự bức xúc lớn của việc sử dụng kiến thức, phương
pháp khoa học.
Chính những điểm yếu của nguồn nhân lực là một trong những nguyên
nhân làm cho sức cạnh tranh của ngành giấy cũng như nhiều ngành công
nghiệp của Việt Nam không cao. Tác phong công nghiệp yếu kém làm khả
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 33 -
năng phối hợp làm việc, hoạt động của dây chuyền không đồng bộ, nhịp
nhàng. Mà trong ngành công nghiệp giấy thì tính đồng bộ, nhịp nhàng lại là
một đòi hỏi rất quan trọng, bởi sản xuất giấy phải qua nhiều khâu, nhiều giai
đoạn, chỉ cần một giai đoạn có vấn đề thì cả dây chuyền sẽ gặp sự cố. Đây là
một trong những nguyên nhân làm năng suất lao động kém, hao phí nguyên vật
liệu nhiều. Nguồn nhân lực thì nhiều, nhưng những người lao động có trình độ,
năng lực, có khả năng tiếp thu công nghệ, đặc biệt là người có trình độ trong
ngành, thì lại thiếu dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng công nghệ mới, sử
dụng thiết bị hiện đại, hệ thống quản lý cồng kềnh, thiếu hiệu quả.
Thứ hai, công nghệ của ngành khá lạc hậu không chỉ so với các nước
trên thế giới, mà ngay cả với các nước trong khu vực Đông Nam á. Đây là khó
khăn lớn nhất đối với ngành giấy. Ở Việt Nam có những nhà máy được xây
dựng từ năm 60, đến giờ vẫn còn hoạt động và hầu như không được đầu tư,
nâng cấp trong 40 năm qua. Cả nước có hàng trăm nhà máy giấy, nhưng công
suất nhà máy trung bình thì lại nhỏ, cả nước chỉ có hai nhà máy có công suất
lớn hơn 50.000 tấn là Bãi Bằng, Tân Mai, công suất của các nhà máy giấy Việt
Nam là khoảng 10.000-15.000 tấn/năm, trong khi của Indonesia là hơn
100.000 tấn/năm. Nguồn lực của ngành lại phân tán trải rộng khắp ba miền,
chưa có những khu vực tập trung sản xuất công nghiệp lớn chuyên nghiệp do
nguồn nguyên liệu phân bổ không tập trung, lại thường nằm ở các khu vực có
hạ tầng cơ sở chưa phát triển. Công nghệ lạc hậu nên đòi hỏi phải đầu tư, nâng
cấp, nhưng chi phí vốn đầu tư lớn, suất phí đầu tư cho ngành tương đối lớn (1
800 - 2 200 USD/tấn bột giấy từ cây nguyên liệu và 1 000 - 1 200 USD/tấn
giấy từ bột giấy). Khả năng thu hồi vốn lại chậm, do tỷ suất lợi nhuận và lợi
nhuận thấp. Hiệu suất thu hồi nội bộ khoảng 11 - 12%/năm đối với các dự án
đầu tư mới. Chi phí để xử lý môi trường cao, đặc biệt các dự án đều nằm ở
thượng nguồn nên chi phí đầu tư hệ thống xử lý môi trường theo đúng tiêu
chuẩn Việt Nam chiếm khoảng 20 - 25% tổng chi phí đầu tư. Nếu không có
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 34 -
những chính sách đặc thù riêng thì rủi ro sẽ rất lớn. Nên ngành rất khó khăn
trong việc thu hút vốn đầu tư vào ngành, đặc biệt là vào vùng nguyên liệu và
sản xuất bột giấy. Đây là khó khăn lớn đòi hỏi ngành phải có những chính sách
đầu tư phát triển sao cho thật hợp lý, phù hợp với đặc điểm về nguyên liệu và
tài chính của Việt Nam.
Thứ ba, do đặc điểm của ngành giấy đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư rất
lớn, thời gian đầu tư lại khá dài, đòi hỏi về trình độ công nghệ tương đối cao.
Nhưng nước ta vẫn còn nghèo, nguồn lực về tài chính còn yếu, lại có nhiều
ngành, nhiều việc đòi hỏi phải được đầu tư, rót vốn ngay, nên ngành giấy nước
ta gặp nhiều khó khăn trong việc có được vốn để đầu tư xây dựng nhà máy,
phát triển ngành, nâng cao sức cạnh tranh, tiềm lực tài chính của mỗi doanh
nghiệp còn nhỏ bé nên chưa thể khai thác hết lợi thế về nguồn nhân lực và
nguyên liệu dồi dào.
3. Thực trạng của ngành giấy Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực
3.1 Cơ cấu tổ chức
Hiện nay, trên toàn quốc nếu không kể các cơ sở sản xuất giấy nhỏ lẻ thủ
công, có 473 đơn vị sản xuất công nghiệp giấy và bột giấy, với 441 doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó những cơ sở thuộc loại vừa và lớn ở Việt
Nam là khoảng 145 đơn vị, 100 đơn vị sản xuất giấy, 45 đơn vị sản xuất bột
giấy. Các đơn vị sản xuất giấy trong ngành công nghiệp được chia ra làm 3 bộ
phận chính:
- Các doanh nghiệp Nhà nước: tổng công ty giấy Việt Nam
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: gồm có các công ty cổ phần,
TNHH, tổ hợp tác.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 35 -
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng công ty giấy Việt Nam: Tổng công ty giấy Việt Nam (tổng công ty
91), đây là doanh nghiệp mạnh nhất, lớn nhất, ra đời vào năm 1996 với mục
tiêu mong muốn hình thành một tập đoàn kinh tế mạnh, đủ điều kiện chi phối
các hoạt động của ngành, giúp đỡ lẫn nhau. Tổng công ty được quản lý bởi Hội
đồng quản trị và được điều hành bởi Tổng giám đốc. Tổng công ty giấy Việt
Nam bao gồm các thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập, doanh nghiệp
hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp, có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích
kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp giấy và trồng rừng nguyên liệu giấy, nhằm tăng
cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để
thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh
của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty; đáp ứng nhu cầu về giấy
của thị trường. Tổng công ty chịu sự quản lý, chỉ đạo, kiểm tra giám sát của
Bộ Công nghiệp nhẹ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ
ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương với tư cách là các cơ
quan quản lý Nhà nước; đồng thời chịu sự quản lý của các cơ quan này với tư
cách là cơ quan thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà
nước theo quy định tại Luật Doanh nghiệp Nhà nước và các quy định khác của
pháp luật. Các doanh nghiệp của tổng công ty được phân bổ ở hai vùng chủ
yếu là Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ. Đặc trưng của các doanh nghiệp thuộc
tổng công ty là:
- Có nguồn vốn thường được rót từ ngân quỹ Nhà nước hay sự bảo lãnh
vay của Nhà Nước. Nên tuy dự án đầu tư của họ thường có quy mô lớn nhưng
lại có sự phụ thuộc, không được linh hoạt như các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 36 -
- Có quy mô thuộc loại vừa và lớn so với các doanh nghiệp giấy khác ở
Việt Nam, thường được xây dựng tương đối đồng bộ, thường là với một vùng
nguyên liệu quy hoạch đi kèm.
Từ ngày được thành lập, tổng công ty đã liên tục phát triển và đã có một
tiếng nói quan trọng đối với ngành, đóng góp một vai trò không nhỏ trong
ngành. Tổng công ty giấy Việt Nam, có thể nói đã khẳng định được vai trò là
thành phần kinh tế chủ đạo. Bằng chứng là Tổng công ty đã cung cấp hơn 80%
các mặt hàng sản phẩm có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội như giấy báo, giấy
in, giấy viết. Sản phẩm giấy in, giấy viết, giấy in báo của các doanh nghiệp
thuộc tổng công ty không chỉ phục vụ ngày càng tốt nhu cầu trong nước, mà
còn bước đầu xuất khẩu được sang một số nước. Tổng công ty hiện là chủ đầu
tư của những công trình lớn nhất về công nghiệp giấy như dự án dây chuyền
giấy bao bì công nghiệp Việt Trì (35 triệu USD), dự án mở rộng Công ty giấy
Bãi Bằng giai đoạn 1 lên 100.000 tấn/năm (54 triệu USD), xây dựng nhà máy
bột giấy Kon Tum công suất 130.000 tấn/năm (244 triệu USD),...(nguồn tạp
chí cộng sản số 14 năm 2002). Tuy nhiên, do cơ chế, cách thức quản lý của
Nhà nước, ảnh hưởng của cơ chế tập trung, quan liêu còn rơi rớt, nên hoạt
động đầu tư, nâng cấp của tổng công ty còn thực hiện rất chậm, ì ạch, tốc độ
tăng trưởng của tổng công ty giấy trong 3 năm gần đây chỉ đạt 4%/năm.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trước năm 1990, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh còn chưa thực sự phát triển. Sau năm 1990, với sự cởi mở về
cơ chế, chính sách, sự khuyến khích của Nhà nước, đặc biệt là khi có luật
doanh nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong ngành giấy mọc lên
nhanh chóng ở trên mọi miền đất nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thường hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần và công ty TNHH, chịu sự
quản lý và kiểm tra của Sở công nghiệp và UBND các địa phương theo luật
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ hơn, số vốn hoạt động chỉ
trong tầm từ vài tỉ đến vài chục tỉ, nguồn vốn của họ huy động từ nhiều nguồn
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 37 -
khác nhau: vốn tự đóng góp, vốn từ bán cổ phần, vốn huy động qua kênh thị
trường chứng khoán…nhưng cơ cấu mặt hàng của họ rất đa dạng, từ giấy vệ
sinh, bìa carton, giấy kraft đến giấy in, giấy viết. Các đơn vị sản xuất giấy
ngoài quốc doanh thường nằm ngay ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh, hoặc ở các khu vực công nghiệp như Đồng Nai, Bình
Dương, Bắc Ninh để thuận tiện cho sản xuất và lưu thông hàng hóa của họ.
Hoạt động của họ rất linh hoạt, bộ máy quản lý gọn nhẹ, sử dụng lao động rẻ,
quản lý vật tư, nguyên liệu chặt chẽ. Hoạt động đầu tư của họ có tính nhạy bén
trong việc đoán trước nhu cầu của thị trường, chuẩn xác trong việc chọn thời
điểm, đa dạng trong đầu tư, phối hợp nhịp nhàng giữa các doanh nghiệp có quy
mô khác nhau. Họ mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực mà họ cho là có triển
vọng, nhiều dây chuyền sản xuất giấy duplex, giấy kraft, giấy viết đã ra đời
như thế. Quy mô đầu tư mới điển hình của khu vực ngoài quốc doanh là
12.000 tấn/năm (thay vì 700 – 1500 tấn/năm như trước đây). Đã và đang xuất
hiện một số công ty lớn sản xuất giấy ở khu vực ngoài quốc doanh có quy mô
trên dưới 30.000 tấn/năm, đứng hàng thứ 3,4,5 trong các cơ sở sản xuất lớn của
ngành, sản lượng tăng đều qua từng năm như Vạn Phát, An Bình, Hapaco,
công ty giấy Sài Gòn….Tuy nhiên, các doanh nghiệp này cũng còn gặp rất
nhiều khó khăn về huy động vốn và cơ chế hoạt động, qui mô, nên rất cần có
sự trợ giúp, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Từ năm 1991, cùng với sự
phát triển của đầu tư nước ngoài, thì trong ngành giấy cũng ra đời những doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút hơn 3.000 lao động và chiếm 2% sản
lượng toàn ngành, trong đó lớn nhất là nhà máy giấy Newtoyo. Hiện tại, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ đầu tư vào các lĩnh vực sản
xuất giấy tissue, các tông, và một số loại giấy chuyên dụng… Nhưng trong
tương lai, khi nhu cầu về giấy của nước ta tăng mạnh thì các doanh nghiệp
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 38 -
nước ngoài sẽ có thể tăng lượng đầu tư vào ngành giấy của nước ta với cơ cấu
mặt hàng đa dạng hơn, và xây dựng thêm nhiều nhà máy khác.
3.2 Thực trạng về năng lực sản xuất
Trong những năm gần đây, công suất của ngành giấy Việt Nam liên tục
được cải thiện, nâng cấp. Hiện nay, tổng công suất của toàn ngành đạt 658 .000
tấn giấy và 200.000 tấn bột giấy. Do máy móc, thiết bị, công nghệ còn lạc hậu,
và sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập, nên nhìn chung ngành cũng
chỉ khai thác được khoảng 80- 90% công suất. Tuy nhiên, sản lượng của ngành
cũng liên tục tăng, năm sau nhiều hơn năm trước. Năm 1999, sản lượng của
toàn ngành là 292.200 tấn, thì đến năm 2002, ngành giấy đã đạt mức sản lượng
538.231 tấn, gấp 1,84 lần năm 1999, hoàn thành toàn diện và vượt mức mục
tiêu năm 2005 mà Đảng và Nhà Nước đã giao cho ngành (vượt 8% so với chỉ
tiêu 500.000 tấn).
Trong đó Sản lượng toàn
Ngành Tcty giấy VN Các DN khác
So sánh
Năm
1 2 3 2/1
Tấn % Tấn % Tấn % %
1999 292.200 100 168.924 100 123.276 100 58
2000 350.103 119 173.965 103 176.035 143 50
2001 420.107 120 187.000 107 243.000 132 45
2002 538.231 128 192.665 103 345.463 148 36
( Nguồn hiệp hội giấy Việt Nam)
Năng lực sản xuất của tổng công ty giấy Việt Nam đến thời điểm năm
2003 là 233.000 tấn, và 126.000 tấn bột giấy. Nhưng xem bảng trên, ta thấy
sản lượng của ngành vẫn chưa đạt được mức 200.000 tấn. Trong năm 2003, dù
dây chuyền sản xuất giấy của nhà máy Vạn Điểm và dây chuyền sản xuất
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 39 -
duplex của nhà máy Việt Trì đã đi vào hoạt động, nhưng tổng công ty cũng chỉ
dự định sản xuất 194.800 tấn do nhà máy Bãi Bằng phải ngừng sản xuất để
nâng cấp. Sản phẩm chủ yếu vẫn là giấy in và giấy viết.
Nhìn bảng trên, ta cũng thấy năng lực sản xuất của các doanh nghiệp
ngoài tổng công ty tăng liên tục cả về chỉ tiêu tương đối lẫn tuyệt đối. Năm
1999, sản lượng của các doanh nghiệp này mới chỉ chiếm 42 % sản lượng toàn
ngành. Đến năm 2002 các doanh nghiệp này đã sản xuất được 345.463 tấn,
chiếm 64%, gần gấp đôi sản lượng của tổng công ty giấy Việt Nam. Điều này
thể hiện rõ sự tăng trưởng nhảy vọt của các doanh nghiệp này, đặc biệt là của
các công ty cổ phần, còn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì vẫn
mới chỉ chiếm một phần khiêm tốn là 2% tổng sản lượng toàn ngành.
3.3 Thực trạng về cơ cấu sản phẩm
Cơ cấu sản phẩm ngành giấy trong những năm gần đây đã có sự biến đổi
và chuyển dịch cùng với sự thay đổi của cơ chế thị trường, mở rộng thương
mại.
Mặt hàng
Sản xuất
năm 2001
Sản xuất
năm 2002
Giấy in báo 35.000 34.335
Giấy in và giấy viết 130.052 135.120
Giấy làm bao bì, các tông 137.727 233.318
Giấy vệ sinh, tissue 17.843 24.000
Giấy tráng 0 0
Giấy vàng mã xuất khẩu 74.278 80.000
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 40 -
Giấy vàng mã dùng trong nước
15.000 18.000
(Nguồn báo công nghiệp giấy tháng 6/2003)
Trong những năm trước đây, mặt hàng chủ yếu của ngành giấy Việt
Nam là giấy in, giấy viết, giấy in báo, thì hiện nay, giấy làm bao bì, các tông
đã có sự gia tăng mạnh, năm 2002 tăng 1,7 lần so với năm 2001, vươn lên là
lĩnh vực có sản lượng lớn nhất trong cơ cấu mặt hàng của ngành, trong tương
lai, đây vẫn sẽ là một mặt hàng nhiều tiềm năng. Giấy in, giấy viết, giấy báo
vẫn là một trong những mặt hàng chính của ngành nhưng do sự cạnh tranh
mạnh của giấy nước ngoài, nên sản lượng chỉ tăng nhẹ. Tuy nhiên, cơ cấu mặt
hàng vẫn còn chưa đa dạng, phong phú, những mặt hàng cao cấp trong nước
vẫn chưa sản xuất được. Ví như mặt hàng giấy tráng, hiện tại, nước ta chưa sản
xuất được, chỉ sau vài năm nữa khi các dự án giấy tráng của các công ty Bình
An, Vạn Phát… đi vào hoạt động, thì sản xuất mới có thể đáp ứng được một
phần nhu cầu trong nước.
3.4 Thực trạng cơ cấu lao động
Ngành giấy thu hút khoảng 50.000 lao động trực tiếp tham gia sản xuất
trong ngành. Trong đó, có 13.800 lao động làm việc trong tổng công ty giấy,
còn lại làm việc trong các doanh nghiệp ngoài tổng công ty. Lao động của tổng
công ty giấy được đào tạo ở trường công nhân kỹ thuật ngành giấy, còn các kỹ
sư được đào tạo ở một số trường đại học như nông lâm, bách khoa, khoa học tự
nhiên. Còn ở các doanh nghiệp ngoài tổng công ty thì hình thức đào tạo chủ
yếu cho lao động là tự đào tạo. Trong những năm tới, khi ngành giấy phát triển
mạnh, nhu cầu đối với các kỹ sư , đặc biệt lao động có tay nghề cao sẽ rất lớn,
nhưng khó được đáp ứng đủ, do ngành mới có ít trường đào tạo nghề làm giấy.
Theo báo cáo của tổng công ty giấy VN, nhu cầu đào tạo cán bộ kỹ thuật trong
ngành và một số ngành liên quan rất lớn, nhu cầu đến năm 2005 là 1.500, 2010
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 41 -
là 2.500 và 2020 là 4.000 cán bộ. Để đáp ứng nhu cầu này rất cần có sự quan
tâm đầu tư thích đáng của Nhà nước.
3.5 Thực trạng về nguồn nguyên liệu
Trong những năm gần đây, ngành giấy đã dần chủ động được nguồn
nguyên liệu sản xuất giấy của mình. Các doanh nghiệp đã có thể sản xuất giấy
từ bột giấy trong nước, giấy phế liệu trong nước, gỗ nguyên liệu… Nhưng tình
hình nguyên liệu để sản xuất giấy vẫn còn một số vấn đề đáng lưu ý, cần phải
giải quyết:
- Về bột giấy: do năng lực sản xuất giấy và bột giấy của ngành không tương
xứng, nên dù có nhiều cố gắng, nhưng mỗi năm toàn ngành vẫn phải nhập
khẩu từ 60.000 – 80.000 tấn bột giấy để về gia công, sản xuất.
- Về gỗ nguyên liệu: nguồn nguyên liệu cây lá rộng được cung cấp khá ổn
định (thời điểm hiện nay "cung" và "cầu" đã gần tương đương). Trồng rừng
nguyên liệu giấy đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch chuyển
dịch cơ cấu cây trồng ở nhiều địa phương trong nước. Nhưng hiện lại diễn ra
tình trạng gỗ nguyên liệu cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất ở nhiều địa
phương, nơi thừa, nơi thiếu cục bộ. Ở phía Bắc, thì nhà máy giấy Bãi Bằng
đang ở trong tình trạng dư thừa trong thu mua nguyên liệu giấy, tình hình này
đã được dự báo từ lâu do cung đã vượt cầu và cơ chế thu mua một giá. Còn ở
phía Nam các nhà máy Đồng Nai, Tân Mai lại phải đi nhập nguyên liệu ở các
tỉnh lân cận, hoặc của Lào, Campuchia để đem về sản xuất.
- Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nhiều doanh nghiệp nước ta đã nhập
một khối lượng lớn giấy loại của nước ngoài về để gia công, tái chế, do nguồn
cung giấy phế liệu trong nước chỉ thu gom được khoảng 200.000 tấn, chưa đáp
ứng được nhu cầu của nhiều doanh nghiệp sử dụng loại nguyên liệu này.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 42 -
- Trong nước vẫn chưa sản xuất được nhiều loại hóa chất đặc chủng, nên
doanh nghiệp của ngành vẫn phải nhập khẩu chủ yếu từ nước ngoài.
III/ Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong
điều kiện hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế là việc các quốc gia thực hiện chính sách kinh tế
mở, tham gia các định chế kinh tế tài chính quốc tế, thực hiện tự do hóa và
thuận lợi hóa thương mại đầu tư. Hội nhập là một quá trình tất yếu, một đòi hỏi
khách quan đối với bất kể nền kinh tế nào trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù phát
triển hay mới chỉ đang phát triển. Bởi, lợi ích của việc hội nhập kinh tế thể
hiện ở chỗ. Khi ở tầm vĩ mô nó tạo điều kiện để kết hợp tốt nhất nguồn lực
trong nước và quốc tế, giúp tăng cường thu hút nguồn vốn, công nghệ, mở
rộng không gian để phát triển kinh tế và có được tiếng nói quan trọng trong
quan hệ quốc tế. ở cấp độ mỗi doanh nghiệp thì hội nhập sẽ mở rộng cơ hội
kinh doanh, thâm nhập thị trường, doanh nghiệp có cơ hội hoạt động trong một
môi trường bình đẳng, ổn định, học tập tiếp thu công nghệ sản xuất, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài.
Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế cũng đặt ra không ít khó khăn, thách
thức cho chúng ta. Hội nhập có nghĩa là phải cắt giảm thuế quan và hàng rào
phi thuế, sự bảo hộ của nhà nước đối với sản xuất sẽ phải giảm đi. Do xuất
phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trình độ công nghệ yếu kém, tác
phong quan liêu để lại từ một thời cách đây không xa, trình độ của nguồn nhân
lực còn yếu kém dẫn đến năng lực cạnh tranh của quốc gia, của công nghiệp,
của ngành, của doanh nghiệp đều còn yếu kém. Khi chúng ta tham gia vào sân
chơi quốc tế rộng lớn, chúng ta sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với các doanh
nghiệp nước ngoài cả trên thị trường trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp
của chúng ta sẽ phải chiến đấu trong một môi trường nhiều cơ may, nhưng
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 43 -
cũng không ít rủi ro khắc nghiệt, chỉ có những doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh cao, có biện pháp chủ động hội nhập kinh tế thì mới có thể tồn tại và phát
triển được. Chính vì lý do đó mà tôi muốn nghiên cứu năng lực cạnh tranh của
ngành giấy hiện tại, và từ đó đề ra biện pháp nhằm giúp ngành này có thể chủ
động giữ vững thị trường trong nước và sẵn sàng hội nhập vào nền kinh tế thế
giới.
1. Những thách thức và cơ hội đối với ngành giấy Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
a) Cơ hội
Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đã, đang và sẽ tạo ra những tác
động lớn đối với ngành giấy Việt Nam. Tác động tích cực của nó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, quá trình hội nhập kinh tế đã cho ngành giấy Việt Nam cơ
hội tiếp cận một thị trường rộng lớn và không ngừng mở rộng.
Hội nhập kinh tế làm cho nền kinh tế hướng về xuất khẩu của chúng ta
có tốc độ phát triển tương đối nhanh, đời sống của nhân dân được nâng cao,
nhu cầu được giải trí, học tập, nghiên cứu của người dân, nhu cầu quảng cáo và
bao bì công nghiệp đối với sản xuất tăng khiến cho nhu cầu về giấy và các sản
phẩm từ giấy ngày càng tăng. Một thị trường nội địa rộng lớn nhiều tiềm năng
cho ngành giấy đang được mở ra, và nó có thể đạt tới hơn 3 triệu tấn vào năm
2020. Vấn đề là ngành phải có biện pháp như thế nào để tiếp cận và khai thác
được nó cho hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc hội nhập kinh tế ngoài việc tạo cho ngành giấy Việt
Nam cơ hội đối với thị trường trong nước, còn có cơ hội tiếp cận thị trường
nước ngoài hết sức rộng lớn. Hiện tại, ngành giấy Việt Nam mới xuất khẩu
được một số lượng rất ít các sản phẩm giấy ra nước ngoài, và chủng loại hàng
cũng vẫn còn rất đơn giản. Nhưng trong tương lai, khi ngành giấy Việt Nam
chủ động được về nguồn nguyên liệu bột giấy thì ngành giấy Việt Nam hoàn
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 44 -
toàn có khả năng xuất khẩu các sản phẩm của mình sang các nước lân cận như
Lào, Campuchia, Mianma,Trung Đông,... và có thể xuất khẩu bột giấy cho
Trung Quốc, Đài Loan…. những nước có nhu cầu rất lớn về bột giấy để sản
xuất giấy.
Thứ hai, việc hội nhập kinh tế của Việt Nam sẽ tạo cơ hội cho ngành
giấy được tiếp xúc với những máy móc, thiết bị hiện đại, tiếp thu nguồn công
nghệ tiên tiến của thế giới đồng thời thu hút nguồn vốn đầu tư vào ngành. Nếu
như trước đây, công nghệ sản xuất giấy của Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc
từ Trung Quốc, Đông Âu,...với các thế hệ máy lạc hậu từ 30-40 năm so với thế
giới, thì hiện nay khi nước ta đang hội nhập mạnh mẽ, ngành giấy Việt Nam đã
có những dây chuyền sản xuất tương đối hiện đại có nguồn gốc từ các nước
châu Âu, Nhật, Hàn Quốc như dây chuyền sản xuất giấy in, viết của nhà máy
giấy Bãi Bằng, dây chuyền sản xuất bao bì công nghiệp của nhà máy giấy Việt
Trì, dây chuyền sản xuất giấy in offset của nhà máy giấy Vạn Điểm... Do xuất
phát sau nên ngành giấy có cơ hội để đi tắt đón đầu, tiếp xúc với những công
nghệ mới nhất về sản xuất giấy. Ngành giấy Việt Nam đã tham gia vào tổ chức
liên đoàn công nghiệp bột giấy và giấy ASEAN, đã có những cuộc tham quan
học tập ở các nước bạn, hội thảo chuyên đề với sự góp mặt của nhiều hãng
danh tiếng trên thế giới... giúp cho doanh nghiệp được tiếp cận nhiều hơn với
những qui trình công nghệ tiên tiến hiện đại của nước ngoài. Hội nhập cũng tạo
cơ hội cho ngành giấy Việt Nam cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vào
năm 1990 chưa có một doanh nghiệp nước ngoài nào đầu tư vào lĩnh vực này,
thì năm 1999 đã có 20 cơ sở hoạt động với 3.000 lao động làm phong phú
thêm thị trường và sản phẩm giấy của Việt Nam. Trong tương lai, khi quá trình
hội nhập kinh tế của nước ta tiến xa hơn, hình thức liên doanh, liên kết giữa
doanh nghiệp giấy trong nước và các công ty giấy lớn của nước ngoài sẽ ngày
càng phát triển, tạo cơ hội cho ngành thu hút càng nhiều vốn đầu tư và tiếp thu
kinh nghiệm và công nghệ hiện đại của nước ngoài.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 45 -
Thứ ba, việc hội nhập kinh tế là một dịp để ngành giấy tự kiểm tra,
đánh giá lại thực lực của chính mình, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của quá trình hội nhập kinh tế, những
doanh nghiệp nào có năng lực cạnh tranh kém, hoạt động không hiệu quả sẽ bị
đào thải, những doanh nghiệp nào có chiến lược hoạt động phù hợp có sản
phẩm tốt chất lượng cao không những sẽ tiếp tục tồn tại, mà còn phát triển
mạnh hơn. Mỗi doanh nghiệp của ngành sẽ có dịp tự kiểm điểm lại chính
mình, tự phấn đấu khắc phục những điểm yếu, phát huy những điểm mạnh để
nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình, qua đó nâng cao năng lực cạnh
tranh cho ngành giấy.
b) Thách thức
Tuy nhiên, giống như một tấm huy chương có hai mặt, mặt phải lấp
lánh ánh hào quang và mặt trái xù xì, thô ráp, hội nhập kinh tế không chỉ đem
lại cơ hội mà đi kèm với nó là những thách thức, khó khăn phải vượt qua. Xu
hướng cắt giảm thuế quan đặt ra trong quá trình hội nhập làm giảm sự bảo hộ
của Nhà nước đối với ngành. Điển hình là như theo lộ trình thực hiện AFTA,
mức thuế quan sẽ được cắt giảm rất nhiều, có nhiều mặt hàng giấy từ 40 - 50 %
xuống còn 20 % và tiếp nữa sẽ giảm xuống chỉ còn 0 - 5 %, không còn các
khoản phụ thu, phụ phí đánh vào hàng ngoại nhập nữa, như thế giá hàng ngoại
nhập sẽ giảm đi rất nhiều.Trong môi trường cạnh tranh rất khắc nghiệt và khá
bình đẳng không còn sự bảo hộ của nhà nước thì năng lực cạnh tranh mạnh hay
yếu của một doanh nghiệp, một ngành là yếu tố quyết định phân thắng thua
giữa doanh nghiệp của nước này với doanh nghiệp của nước khác. Đối với một
ngành, một doanh nghiệp, trước khi có thể nắm bắt được cơ hội đem lại từ hội
nhập, thì sẽ phải giải đáp hai câu hỏi “tồn tại hay không tồn tại?” và “tồn tại
bằng cách nào?”. Chỉ những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao mới có
thể giải đáp được hai câu hỏi trên, còn không thì chỉ có con đường duy nhất là
phá sản và sập tiệm trước sức ép mãnh liệt từ các đối thủ cạnh tranh nước
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 46 -
ngoài hùng mạnh. Đấy chính là thách thức lớn nhất mà quá trình hội nhập đặt
ra. Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, nước ta tham gia hội nhập kinh
tế từ một xuất phát điểm thấp là nền kinh tế nông nghiệp, công nghệ lạc hậu,
nên năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam cũng giống như nhiều ngành
khác là rất yếu đặc biệt là đối với các sản phẩm giấy viết và giấy in, theo đánh
giá thì hai sản phẩm này của ngành giấy Việt Nam chỉ được xếp vào nhóm có
năng lực cạnh tranh yếu. Nếu không có chính sách và biện pháp hợp lý nâng
cao năng lực cạnh tranh thì nguy cơ ngành bị xóa tên khỏi bản đồ công nghiệp
Việt Nam là không nhỏ. Có 4 nguyên nhân lớn làm ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh, gây ra thách thức cho sự tồn tại của ngành giấy Việt Nam trong quá
trình hội nhập.
- Các loại chi phí trung gian còn cao
Do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nên các loại chi phí trung gian cho ngành
giấy đều cao hơn so với các nước trong khu vực và lại thường xuyên có chiều
hướng gia tăng, chất lượng phục vụ cũng chưa ổn định, về nguyên liệu ngành
giấy Việt Nam lại chưa chủ động được về nguồn nguyên liệu bột giấy nên vẫn
phải nhập khẩu từ nước ngoài. Tôi xin đi vào phân tích một số loại chi phí
trung gian chủ yếu của ngành, để có thể nêu rõ thách thức giảm chi phí đang
bức thiết như thế nào đối với ngành..
+ Giá bột giấy cao lại thường không ổn định, ở thời điểm hiện nay giá
bột giấy đang xấp xỉ giá giấy (bột giấy in báo 380- 400 USD so với giấy in báo
410 – 430 USD) do các hãng giấy nước ngoài muốn thúc đẩy việc tiêu thụ các
sản phẩm giấy của mình. Bột giấy chiếm một phần lớn trong giá thành. Điều
này ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam do
ngành vẫn chưa chủ động được về nguyên liệu, và phải nhập khẩu từ 60.000 –
70.000 tấn bột giấy mỗi năm về chế biến.
+ Giá điện của Việt Nam cho sản xuất cao hơn các nước ASEAN từ 45
- 220 % do thất thoát điện năng quá lớn, và khu vực doanh nghiệp lại còn phải
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 47 -
gồng mình để bù đắp cho các khu vực khác, chất lượng điện lại kém thường
xuyên không đảm bảo điện áp, cắt điện thường xuyên làm tăng tỷ lệ phế phẩm,
gián đoạn quá trình sản xuất của ngành. Giá các loại nhiên liệu khác như than,
xăng dầu cũng ở mức cao và không ổn định làm chi phí sản xuất của ngành
giấy Việt Nam ở mức cao.
+ Do hệ thống đường sá chưa hoàn thiện, các khu vực cung cấp nguyên
liệu để sản xuất giấy và bột giấy lại phân tán dẫn đến chi phí vận tải cao do tốc
độ, khối lượng vận chuyển thấp, lại kèm theo nhiều khoản phụ thu, phụ phí.
Điều này làm chi phí vận chuyển nguyên liệu từ rừng nguyên liệu giấy đến nhà
máy cao hơn so với các nước khu vực, và sản phẩm sản xuất ra đến được tay
người tiêu dùng cũng sẽ có giá cao hơn do phải qua nhiều khâu vận chuyển. Ta
lấy ví dụ giá gỗ nguyên liệu mua tại rừng của nhà máy giấy Bãi Bằng là dưới
300.000 đ/m3, nhưng khi đến tay nhà máy lại lên đến 420.000/m3 so với mức
22 USD của Indonesia do phải trải qua nhiều khâu vận chuyển.
+ Lãi suất ngân hàng hàng 8-10/%năm và lãi suất ưu đãi 5,4% từ nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển cũng là một yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh
của ngành. Do đặc điểm của ngành giấy đòi hỏi những khoản đầu tư rất lớn,
nên lãi suất cao là một gánh nặng cho quá trình đổi mới công nghệ. Mỗi ngày
mà dự án chưa đi vào sản xuất là một ngày doanh nghiệp giấy lỗ nặng (đặc biệt
là trong các doanh nghiệp quốc doanh, thời gian đầu tư thường quá dài), một ví
dụ mới đây nhất chính là nhà máy bột giấy Kon Tum vớii tổng chi phí đầu tư
là 235 triệu USD, tổng công ty giấy Việt Nam đã đầu tư 70 tỷ từ năm 2001
nhưng đến nay dự án mới chỉ tiến hành được việc “đấu thầu tư vấn quốc tế”,
điều này không những làm tổng công ty giấy bị tồn đọng vốn, phải trả lãi ngân
hàng hàng trăm triệu mà còn bị lỡ thời cơ khi AFTA ngày càng đến gần hơn.
- Trình độ công nghệ lạc hậu
Công nghệ của ngành giấy nước ta lạc hậu so với thế giới từ 30 – 40
năm, có khá nhiều máy móc công nghệ thuộc thế hệ của những năm 1960 –
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 48 -
1970 lắp ghép, bổ sung, thay thế cải tiến thêm một số loại máy do ta tự sản
xuất, hoặc nhập lẻ chiếc từ nước ngoài nên dây chuyền thiết bị không đồng bộ.
Hậu quả nhãn tiền là máy móc thường xuyên phải duy tu, sửa chữa, bảo
dưỡng. Đến ngay như nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy giấy hiện đại nhất Việt
Nam nhưng cũng trung bình cứ một năm lại phải đóng máy một lần để duy tu
bảo dưỡng, nâng cấp. Yếu tố này làm phát sinh một khoản chi phí lớn, đồng
thời làm trì hoãn, gián đoạn công việc sản xuất, tạo ra sản phẩm có chất lượng
không cao, phế phẩm nhiều ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của
ngành. Công nghệ lạc hậu làm năng suất, chất lượng giấy của ngành giấy Việt
Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Trong khi, máy xeo giấy
thế hệ mới trên thế giới hiện nay sản xuất giấy khổ rộng 10m, tốc độ cán 2.000
m/phút, bột đưa vào cán theo công nghệ phun nên đều, nhanh, giấy có bề mặt
láng. Theo tính toán của các chuyên gia trong ngành, do khổ giấy hẹp hơn 2,63
lần và tốc độ kém hơn 4 lần, nên trong một phút máy xeo nước ngoài cán được
20.000m2 giấy nhưng máy của Việt Nam chỉ đạt 1.900m2, thấp hơn 10,52 lần.
Một nhà máy giấy của Indonesia sản xuất được 300.000 tấn bột giấy/năm mà
chỉ cần có 300 người, trong khi nhà máy giấy Bãi Bằng chỉ sản xuất có khoảng
60.000 tấn giấy và 50.000 tấn bột giấy/năm mà lại cần đến hơn 3.000 lao động.
Lương bình quân của người lao động thì thấp, nhưng tiền lương chia bình
quân cho một tấn sản phẩm lại cao hơn so với các công ty nước ngoài. Do đi
kèm với công nghệ lạc hậu là trình độ quản lý còn khá thấp, bộ máy quản lý
cồng kềnh (đặc biệt là trong các doanh nghiệp Nhà nước) dẫn đến thất thoát
nguyên vật liệu lớn, chi phí cho nhiên vật liệu, chi phí tiền lương cao, năng
suất lao động thấp, công suất nhà máy không được huy động hết, các dự án đầu
tư bị trì hoãn.
- Nhận thức của các doanh nghiệp trong ngành
Nhận thức về hội nhập của các doanh nghiệp trong ngành, nhất là trong
các doanh nghiệp Nhà nước còn chưa cao. Thương trường là chiến trường, sẽ
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 49 -
có sự đào thải tự nhiên trong quá trình cạnh tranh này, trở ngại lớn nhất vẫn là
hòn đá vô hình trong tư duy của nhiều quan chức, nhà vạch chính sách, lãnh
đạo các doanh nghiệp giấy (nhất là DNNN), họ vẫn trông chờ vào các biện
pháp bảo hộ của Nhà nước như cấp thêm vốn, khoanh nợ hoặc xóa nợ, dành
độc quyền nhập và cung cấp một số mặt hàng..., Các DNNN có tiến hành đầu
tư để đối phó với thách thức hội nhập, nhưng thời gian tiến hành đầu tư lại
thường quá lâu, nguồn vốn đầu tư lại ỷ lại trông chờ vào nhà nước. Hòn đá ấy
chính là sự trì trệ, bảo thủ nếu không muốn nói là khối kiến thức không theo
kịp đòi hỏi của sự vận động thị trường nữa. Mức tiêu thụ giấy trên thị trường
khu vực ASEAN gấp 3 lần thế giới và gấp rưỡi châu Á. Thị phần cung cấp chủ
yếu là các nước Indonesia, Thái Lan, Malaysia. Ngành giấy Việt Nam, hiện
nay chẳng những chưa "xơ múi" được thị trường khu vực béo bở, mà còn
không đủ sức bao "sân nhà". Các vị lãnh đạo của các doanh nghiệp, đặc biệt là
các DNNN cũng thấy lên tiếng. Nhưng thực ra "tiếng kêu" không khác trước
mặc dù cường độ lớn hơn trước. Nào là thời gian tới sẽ cố gắng cải thiện hệ
thống dây chuyền sản xuất. Nào là sẽ tìm mọi phương thức tiếp cận khách
hàng và, đặc biệt, cân đối sản xuất các chủng loại giấy để phù hợp nhu cầu tiêu
dùng. Thế nhưng khi mà quá trình hội nhập AFTA đã đi được nửa chặng
đường, tư tưởng trông chờ ỷ lại vào sự bảo hộ, giúp đỡ của Nhà nước vẫn còn
tồn tại trong đầu không ít vị lãnh đạo các doanh nghiệp kể cả những doanh
nghiệp lớn, chưa chủ động và sẵn sàng đối phó với hội nhập thì quả thật là
đáng lo.
- Đầu tư của ngành giấy
Một nguyên nhân nữa thách thức các doanh nghiệp giấy là vấn đề đầu
tư. Các doanh nghiệp có tiến hành các dự án đầu tư, cải tạo, xây dựng mới một
số nhà máy để nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng đều vấp phải hai vấn đề
chủ yếu là vốn và thời gian đầu tư. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thì thời gian đầu tư không phải là yếu tố cản trở chính đến quá trình đầu tư của
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 50 -
họ, vấn đề chính là vốn. Với tiềm lực tài chính khá nhỏ bé, những doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thường chỉ tiến hành các dự án đầu tư ở quy mô nhỏ
và vừa khoảng vài triệu USD, họ chủ yếu đầu tư “hớt ngọn” vào lĩnh vực sản
xuất các sản phẩm giấy như giấy in, giấy carton…..bằng nguyên liệu từ giấy
loại, hay bột giấy mua của nước ngoài, của các công ty lớn, thời gian hoàn
thành các dự án đầu tư khá nhanh, khoảng từ một đến hai năm là dự án đã bắt
đầu đi vào hoạt động. Tuy nhiên, nguồn huy động vốn chủ yếu của họ là thông
qua vay ngân hàng, kiểu đầu tư này làm chi phí đầu vào cao, mang tính chất
tạm bợ, nên sẽ rất khó có thể cạnh tranh nổi với các công ty nước ngoài khi
thuế quan đánh vào hàng giấy nhập khẩu được giảm. Còn các doanh nghiệp
Nhà nước thì đã tiến hành đầu tư đồng thời nâng cấp một số dây chuyền cũ với
một số dự án mới khá đồng bộ. Tuy nhiên, thời gian đầu tư rất lâu từ ý tưởng
cho đến khi nhà máy đi vào hoạt động phải mất 4- 6 năm, luôn luôn quá hạn so
với kế hoạch đề ra, như dây chuyền sản xuất bao bì công nghiệp của nhà máy
giấy Việt Trì trễ đến hơn 30 tháng so với kế hoạch đặt ra. Vốn đầu tư cho các
dự án này lấy chủ yếu từ hai nguồn là vay ngân hàng, và vốn do Nhà nước rót
nên các doanh nghiệp không chủ động được, thời gian giải ngân lâu. Có một
nghịch lý nữa trong đầu tư là doanh nghiệp luôn luôn phàn nàn về thiết bị lạc
hậu nhưng cả về trung hạn, dài hạn, hầu như không doanh nghiệp nào chịu cắt
một phần đủ lớn chiếc bánh lợi nhuận để đầu tư thích đáng vào nghiên cứu cải
tiến công nghệ. Hoặc là doanh nghiệp bỏ một khoản tiền lớn mua máy móc
ngoại trong khi không phải máy nào mua cũng là máy xịn. Hoặc họ cũng cắt
kinh phí cho nghiên cứu nhưng khoản cắt đó bao giờ cũng chỉ ở mức gọi là,
cho có phong trào nghiên cứu khoa học và cùng lắm là để mang công trình đi
dự mấy cuộc thi sáng tạo lấy giải, chứ ít khi các công trình này được áp dụng
vào thực tế sản xuất. Với cách đầu tư cho nghiên cứu khoa học như vậy, thì hỏi
làm sao có thể nâng cao công nghệ, đi tắt đón đầu.
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 51 -
2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam
Do ngành giấy là một ngành có cơ cấu mặt hàng khá đa dạng, có hàng
chục mặt hàng, trong mỗi mặt hàng lại có những loại hàng khác nhau. Chính vì
vậy, để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam, tác giả sẽ sử
dụng bảng số liệu dưới đây và chỉ đi vào phân tích, đánh giá năng lực cạnh
tranh của một số mặt hàng chính của Việt Nam, hiện đang có nhu cầu và tiềm
năng phát triển lớn trong tương lai.
Nhu cầu năm 2002 So sánh
Loại giấy
Sản xuất
năm
2001 Sản xuất
Nhập
khẩu
Tổng
cộng
% %
1 2 3 4 2/1 3/4
Giấy in báo 35.000 34.335 29.364 63.699 98 46
Giấy in và giấy viết 130.052 135.120 29.833 164.953 104 18
Giấy làm bao bì, các tông 137.727 233.318 72.636 305.954 169 24
Giấy vệ sinh, tissue 17.843 24.000 24.000 135
Giấy tráng 145.251 145.251 100
Giấy vàng mã xuất khẩu 74.278 80.000 80.000 108
Giấy vàng mã dùng trong
nước
15.000 18.000 18.000 120
Khác 10.207 12.556 94.470 107.928 132 88
Tổng cộng 420.107 538.231 371.554 909.785 128 41
(Nguồn báo công nghiệp giấy Việt Nam 6/2003)
Giấy in, giấy viết: Trong bối cảnh, Việt Nam đang ngày càng hội nhập
sâu hơn vào khu vực và quốc tế. Xu hướng cắt giảm thuế quan đối với các sản
phẩm giấy là rất nhanh, và rất mạnh. Trong thời điểm hiện tại, khi lộ trình cắt
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 52 -
giảm thuế quan của AFTA đang được thực hiện mạnh, thuế suất của các mặt
hàng giấy in, giấy viết giảm từ 40 – 50% xuống còn 20%, và sẽ giảm xuống 0
– 5 % vào năm 2006, các khoản phụ thụ đánh vào mặt hàng này cũng phải xóa
bỏ, và khi Việt Nam tham gia vào WTO thì cũng phải có mức giảm thuế tương
tự cho sản phẩm của đại gia sản xuất trong khu vực như Nhật, Đài Loan, Mỹ.
Vậy nên, hiện nay, tuy các sản phẩm giấy in, giấy viết của Việt Nam vẫn còn
giữ được 80 – 90 % thị trường, nhưng con số thị phần kia không phản ánh
được chân thực bức tranh về thị trường. Giấy in, giấy viết sản xuất trong nước
khó có thể cạnh tranh với hàng nước ngoài về giá cả và chất lượng. Dấu hiệu
thể hiện sự khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước sản xuất mặt hàng
này là lượng hàng tồn kho ngày càng lớn. Chín tháng đầu năm 2003, chỉ riêng
Tổng công ty giấy Việt Nam dù đã đóng máy một thời gian để tiêu thụ hết
hàng tồn kho, áp dụng nhiều biện pháp để thúc đẩy tiêu thụ hàng, nhưng vẫn bị
tồn 23.250 tấn sản phẩm giấy các loại, trong đó phần lớn là các sản phẩm giấy
in và giấy viết. Các loại giấy in, giấy viết nhập khẩu từ Nhật Bản, Indonesia,
Thái Lan hiện được bán ra tới tay người dùng với giá từ 12,6 -14 triệu
đồng/tấn, tương đương với giá bán giấy in, giấy viết của tổng công ty giấy nói
chung, nhà sản xuất giấy in, giấy viết lớn nhất trong nước, và cao hơn một chút
so với giá giấy của công ty giấy Bãi Bằng. Mức giá ở thời điểm này của hàng
nước ngoài, cụ thể là của các nước ASEAN còn cao là do giá giấy trên thị
trường thế giới đang ở mức cao, và hàng của Nhật, Đài Loan vẫn phải chịu
thuế cao, nhưng trong tương lại thì chắc chắn mức giá này của hàng nước
ngoài sẽ giảm xuống nhiều. Mặc dù, hiện tại, giá giấy nội và ngoại không
chênh nhau nhiều, nhưng các nhà xuất bản, công ty in đang bắt đầu quay sang
sử dụng giấy nhập khẩu nhiều hơn do giấy ngoại có chất lượng tốt hơn, với rất
nhiều ưu điểm nổi trội như: Độ trắng cao hơn, bề mặt nhẵn mịn, mỏng hơn, lại
dai hơn, hút mực tốt hơn nên in được nhiều hơn khoảng 10% so với giấy trong
nước, tỷ lệ phế phẩm trong quá trình sản xuất ít hơn. Dù hiện nay, chất lượng
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 53 -
giấy in, giấy viết của các công ty lớn của chúng ta như Bãi Bằng, Tân Mai đã
được nâng cao hơn rất nhiều so với trước nhưng vẫn chưa thể tương đương
được với chất lượng hàng nhập khẩu. Như vậy, giấy in, giấy viết của ta kém
thế hơn nước ngoài cả về giá lẫn chất lượng, các doanh nghiệp sản xuất loại
sản phẩm này phải nhanh chóng phải có biện pháp đối phó, nếu không sang
năm 2004, cơn bão giấy in, giấy viết ngoại sẽ tràn ngập thị trường Việt Nam,
đánh bật các doanh nghiệp truyền thống của ta ra khỏi thị trường này.
Sản phẩm giấy in báo: tình hình của sản phẩm này cũng hoàn toàn
trong hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Nhà nước đã có biện pháp bảo hộ, song giá
thành sản xuất giấy in báo luôn cao hơn giá bán trên thị trường trong nước và
sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Hiện tại, giá giấy in báo của Tổng công ty Giấy
là 8.980.000 đ/tấn (bao gồm cả thuế VAT), giá giấy in báo nhập khẩu từ Mỹ,
Nga, Indonesia, Malaysia... cũng được chào bán với giá từ 8,9 - 9 triệu
đồng/tấn, giấy nước ngoài lại dôi hơn, chất giấy đẹp hơn. Năm 2002, trước thời
điểm cắt giảm thuế theo AFTA, tình hình đối với các doanh nghiệp sản xuất
giấy báo đã khá bi đát, nước ta sản xuất được 34.000 tấn (bằng 98% so với
năm 2001) thì cũng có tới hơn 29.000 tấn giấy báo được nhập vào, cạnh tranh
quyết liệt với hàng nội và chiếm mất gần 1/2 thị phần trong nước. Tình trạng
này đã dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh của nhiều DN sản xuất mặt hàng
này luôn lỗ. Cụ thể, năm 2001, sản phẩm giấy in báo của công ty giấy Tân Mai
lỗ 10.409 triệu đồng, năm 2002 lỗ 17.989 triệu đồng, năm 2003 lỗ 17.500 triệu
đồng và năm 2004 dự kiến sẽ lỗ tới 90.180 triệu đồng. Khả năng cạnh tranh
của sản phẩm này đang được đặt trong tình trạng báo động, cần có sự quan
tâm, hỗ trợ thích đáng.
Sản phẩm giấy bao bì công nghiệp: Đây là một lĩnh vực sản xuất hiện
có nhu cầu rất lớn, hiện các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này vẫn chưa đáp
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 54 -
ứng được hết nhu cầu trong nước. Dự báo đến năm 2020 thì nhu cầu về bao bì
công nghiệp sẽ lên tới 1.729.000 tấn, chiếm gần 1/2 nhu cầu về giấy và sản
phẩm từ giấy, lý do là khi xã hội ngày càng phát triển thì sản phẩm của các
ngành khác rất cần được sự bảo quản, che trở khi cung cấp đến tay người tiêu
dùng. Thường thì có rất nhiều loại bao bì khác nhau, nhưng bao bì bằng chất
liệu giấy ngày nay đang được ưa chuộng do đặc tính của nó (không ảnh hưởng
đến sức khoẻ của người dùng, có thể dễ dàng tái sinh, thu hồi, tái sử dụng, ít
ảnh hưởng đến môi trường). Trong tương lai, bao bì bằng giấy sẽ là sự lựa
chọn số một của các nhà sản xuất và của xã hội, và dần thay thế các loại bao bì
bằng thay cho các loại bao bì như ni lon, nhựa... Thị trường của giấy bao bì
công nghiệp ở nước ta được đánh giá là sẽ khá lớn, tăng đều cùng với sự phát
triển của các ngành công nghiệp như xi măng, phân bón, chế biến thủy hải
sản….thị trường ở các đô thị lớn với nhiều sản phẩm hàng hoá đa dạng tràn
ngập cũng sẽ là tiềm năng để phát triển cho công nghiệp sản xuất giấy bao bì.
Hiện tại, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này so
với hàng nước ngoài là khá tốt, đặc biệt là các sản phẩm bao bì carton. Chất
lượng của các sản phẩm bao bì do doanh nghiệp trong nước sản xuất hiện tuy
chưa cao, nhưng tạm thời vẫn đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước,
trong khi đó giá cả lại rẻ hơn rất nhiều, như giá bao bì carton rẻ hơn giấy ngoại
nhập đến 40 %, trong khi thuế suất đối với mặt hàng này cũng chỉ là 5%. Đối
với mặt hàng này thì doanh nghiệp giấy Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh
tranh và chiến thắng hàng nước ngoài, chiếm lĩnh được thị trường trong nước.
Nguyên nhân của việc này là bởi dây chuyền sản xuất bao bì công nghiệp
không đòi hỏi chi phí đầu tư quá lớn, nguyên liệu cũng không quá cầu kỳ.
Trong năm 2002, nước ta sản xuất được 233.000 tấn, nhưng cung vẫn chưa đáp
ứng được hết cầu của nền kinh tế, nên ta đã phải nhập bổ sung 72.000 tấn để
phục vụ nhu cầu trong nước. Trong năm 2003, khi nhiều dây chuyền sản xuất
mới được lắp đặt và đi vào hoạt động thì sẽ làm giảm khối lượng hàng nhập
Mét sè biÖn ph¸p nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña Bïi §øc ChÝ Toµn
ngµnh giÊy ViÖt Nam trong ®iÒu kiÖn héi nhËp kinh tÕ
- 55 -
khẩu. Tuy nhiên, ngành giấy Việt Nam hiện tại mới có thể sản xuất được các
loại bao bì cấp thấp còn loại bao bì cấp cao như giấy duplex thì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ..pdf