Tài liệu Khóa luận Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch: Trường Đại học NGoại Thương
Khoa Kinh tế ngoại thương
Khoá luận
tốt nghiệp
Đề tài:
Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch
GV hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Trung Vãn
Sinh viên thực hiện : Đoàn Thanh Tú
Lớp : Trung 1
Khóa : 38E
Hà Nội 12/2003
Hà Nội 12/2003
lời nói đầu
Trong quá trình phát triển, các nước công nghiệp tiên tiến như Anh, Pháp, Nhật... trước đây, cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... hiện nay thường quan tâm phát triển sản xuất, xuất khẩu dệt may như một ngành xuất khẩu chính.
ở Việt Nam, ngành dệt may trong các năm qua cũng được quan tâm đầu tư, mở rộng năng lực sản xuất, và cũng trải qua bao thăng trầm bởi thị trường quốc tế và cơ chế quản lý trong nước. Đến nay, kim ngạch ngành dệt may năm 2002 đạt mức 2,7 tỷ USD, chiếm gần 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, chỉ đứng sau xuất khẩu dầu thô. Xuất khẩu dệt may đã tạo dựng được bước phát triển khởi sắc đáng mừng.
Để thực hiện thắng lợi chi...
104 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học NGoại Thương
Khoa Kinh tế ngoại thương
Khoá luận
tốt nghiệp
Đề tài:
Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch
GV hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Trung Vãn
Sinh viên thực hiện : Đoàn Thanh Tú
Lớp : Trung 1
Khóa : 38E
Hà Nội 12/2003
Hà Nội 12/2003
lời nói đầu
Trong quá trình phát triển, các nước công nghiệp tiên tiến như Anh, Pháp, Nhật... trước đây, cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... hiện nay thường quan tâm phát triển sản xuất, xuất khẩu dệt may như một ngành xuất khẩu chính.
ở Việt Nam, ngành dệt may trong các năm qua cũng được quan tâm đầu tư, mở rộng năng lực sản xuất, và cũng trải qua bao thăng trầm bởi thị trường quốc tế và cơ chế quản lý trong nước. Đến nay, kim ngạch ngành dệt may năm 2002 đạt mức 2,7 tỷ USD, chiếm gần 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, chỉ đứng sau xuất khẩu dầu thô. Xuất khẩu dệt may đã tạo dựng được bước phát triển khởi sắc đáng mừng.
Để thực hiện thắng lợi chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay ngành công nghiệp nói chung cần duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 15%/năm, trong đó ngành dệt may cần có tốc độ tăng trưởng cao hơn, nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng chung, và tiến kịp các nước ASEAN trong lộ trình hội nhập. Để đi xa hơn nữa, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đang có nhiều việc cần làm: đổi mới công nghệ hàng loạt cơ sở sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh quốc tế, chuyển mạnh hơn nữa hình thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu v.v...
ý thức được tình hình trên, em đã quyết định lựa chọn đề tài: " Một số giải pháp chủ yếu nhằm đầy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch" cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương sau:
Chương I: Tổng quan về một số thị trường dệt may phi hạn ngạch trên thế giới
Chương II: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam những năm qua
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch
Do những hạn chế về thời gian, tài liệu và khả năng của người viết nên nội dung khoá luận này chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô và góp ý của đông đảo bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 15 tháng 12 năm 2003
chương 1
Tổng quan về một số thị trường dệt maY phi hạn ngạch trên thế giới
Hiện nay, thế giới đang tồn tại hai hình thái thị trường dệt may chủ yếu. Đó là thị trường hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch (nếu căn cứ vào tiêu chí có sự ấn định về mặt số lượng của nước nhập khẩu đối với nước xuất khẩu). Thị trường hạn ngạch gồm những nước và khu vực như thị trường EU, thị trường Canada,... Thị trường phi hạn ngạch gồm các nước và khu vực không hạn chế mức nhập khẩu và chủ yếu phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của chính sản phẩm đó
Khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu nhưng thị trường phi hạn ngạch điển hình là: Nhật Bản, SNG (chủ yếu là Nga) và Châu Phi. Ngoài ra khoá luận còn nêu tóm tắt một số thị trường khác như ASEAN, Ôxtraylia và Trung Đông.
1. Thị trường Nhật Bản, một thị trường khó tính nhưng đầy hấp dẫn
Thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, chỉ đứng sau thị trường Mỹ và thị trường EU. Tuy nhiên nếu với thị trường EU và thị trường Mỹ hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam bị hạn chế bởi hạn ngạch thì khi chúng ta xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản lại không phải chịu hạn ngạch. Như vậy, có thể khẳng định rằng Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại. Vậy thị trường Nhật Bản có những đặc điểm gì ?
1.1. Mức tiêu thụ
Nhật Bản là một thị trường mở, có quy mô tương đối lớn đối với các nhà xuất khẩu hàng may mặc nước ngoài. Với số dân là 126,9 triệu người và mức thu nhập bình quân hàng năm vào khoảng 30.039 USD/người, Nhật Bản là nước nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ hai trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên việc mua sắm của người Nhật Bản đối với các sản phẩm nói chung và các sản phẩm may mặc nói riêng đều khác biệt với các thị trường như Mỹ và EU hay bất kỳ một thị trường nào khác. Một trong những nguyên nhân là Nhật Bản đang đối mặt với sự thay đổi giữa các nhóm tuổi trong xã hội theo hướng già hoá dân số tương đối nhanh chóng. Theo một nghiên cứu về xu hướng thay đổi dân số Nhật Bản giai đoạn 1990-2025 cho thấy: năm 2000 nhóm tuổi từ 15-29 là 16 triệu người thì tới năm 2010 sẽ giảm xuống còn 12,3 triệu người và đến năm 2025 chỉ còn 10,8 triệu người. Số dân có độ tuổi từ 30-59 cũng có mức giảm đáng kể qua các năm như năm 2000 có 42,7 triệu người, đến năm 2010 giảm xuống 42,2 triệu người, năm 2025 độ tuổi này chỉ còn 38,7 triệu người. Trong khi đó nhóm dân số có độ tuổi từ 60-64 lại tăng lên. Năm 2000 có 4,4 triệu người nhưng đến năm 2025 sẽ tăng lên 5,3 triệu người, nhóm dân số có độ tuổi trên 65 cũng có mức tăng như vậy. (Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 12/2003)
Xu hướng già hoá dân số của Nhật Bản sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cách thức tiêu dùng hàng hoá, sự lựa chọn, sở thích, thói quen, tâm lý tiêu dùng, đồng thời nó còn tác động đến mức chi tiêu của người Nhật Bản. Nếu như trước đây, vào thập niên 80, các gia đình Nhật Bản đoạt ngôi vô địch về tỷ lệ gửi tiền tiết kiệm so với thu nhập nhưng giờ đây tỷ lệ này chỉ tương đương với người Mỹ vốn quen thói tiêu hoang. Theo số liệu mới nhất của chính quyền Nhật Bản cho thấy tỷ lệ tiền tiết kiệm so với thu nhập của các hộ gia đình người Nhật giảm từ 23% năm 1975 còn 14% năm 1990; 6,9% năm 2001; 4% năm 2002 và 2% vào quý I năm 2003 (Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 31/2003). Tỷ lệ này thậm chí còn thấp hơn cả tỷ lệ tiết kiệm 3,5% của người Mỹ và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 10% ở Liên minh Châu Âu (EU). Sự giảm sút về tỷ lệ tiền tiết kiệm khiến cho mức chi tiêu so với thu nhập của người Nhật Bản tăng lên. Do vậy sẽ không hề ngạc nhiên khi kết quả một cuộc điều tra về người tiêu dùng Nhật Bản cách đây hai năm về tiêu chí mà họ quan tâm nhất khi chọn mua hàng may mặc đã cho thấy: giữa hai tiêu chí là giá cả và chất lượng, người tiêu dùng Nhật Bản có xu hướng ưu tiên giá cả hàng may mặc hơn chất lượng hàng hoá một cách tương đối.
Vậy nhưng theo kết quả một nghiên cứu mới đây của các chuyên gia tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho biết, có đến 42% người tiêu dùng chọn mua hàng may mặc dựa theo kiểu dáng; 25% khách hàng lựa chọn theo chất lượng; 21% lựa chọn theo nhãn mác; 12% khách hàng lựa chọn theo giá cả (Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 12/2003). Qua những con số trên chúng ta có thể thấy rằng đã có một sự thay đổi trong xu hướng tiêu dùng của người Nhật Bản một cách tương đối, từ quan tâm đến giá cả giờ chuyển sang quan tâm nhiều hơn đến chất lượng mặc dù từ trước đến nay người Nhật Bản vẫn luôn khắt khe và khó tính thậm chí còn được đánh giá là thị trường khó tính nhất thế giới. Đặc biệt đối với hàng dệt may, người Nhật chú ý đến từng đường kim mũi chỉ, sản phẩm không được có sai sót gì dù là nhỏ nhất.
Vậy là với mức chi tiêu "thoáng" hơn, giờ đây người Nhật Bản sẵn sàng trả giá cao để mua những sản phẩm chất lượng tốt, tính thời trang thẩm mỹ cao. Sản phẩm còn phải thể hiện được những nét đặc trưng của nơi sản xuất về truyền thống văn hoá, nguyên vật liệu bởi họ quan niệm rằng một sản phẩm may mặc không chỉ đáp ứng nhu cầu thông thường là để mặc, mà nó còn là một sản phẩm nghệ thuật làm đẹp cho người sử dụng. Họ trở nên tin tưởng và dễ dàng bỏ tiền ra mua những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản như tiêu chuẩn công nghiệp Nhật (JIS) hoặc các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, SA 8000. Người tiêu dùng Nhật Bản cũng sẵn sàng từ chối những sản phẩm làm theo kiểu dáng "hàng nhái" cho dù bán với giá rẻ hoặc những sản phẩm có những vết xước, vết bẩn trên bao bì, những sợi chỉ sợi bông còn sót lại trên bề mặt sản phẩm, kể cả sản phẩm sắp xếp không ngăn nắp đẹp mắt, bị xô lệch. Đây có thể sẽ là những gợi ý để doanh nghiệp Việt Nam tham khảo khi muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản vì hiện tại nhiều chuyên gia kinh tế Nhật Bản đều có chung một nhận xét về hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam: mặc dù hàng may mặc Việt Nam đạt chất lượng tốt nhưng không đồng đều, không ổn định, kiểu dáng mẫu mã rất nghèo nàn và chưa thể hiện được những yếu tố đặc trưng của sản phẩm may mặc Việt Nam.
Ngoài ra, mức tiêu thụ hàng may mặc của người dân Nhật Bản còn chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của giá đồng Yên. Còn nhớ cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ năm 98 đã làm cho nền kinh tế nước này bị ảnh hưởng nặng nề, kinh tế suy thoái, sức mua giảm sút. Nhưng khi nền kinh tế nước này có dấu hiệu phục hồi, đồng Yên tăng giá, giá hàng hóa giảm, do vậy người tiêu dùng Nhật Bản thấy không cần phải tiết kiệm để giữ giá trị tài sản thực.
Mức tiêu thụ hàng may mặc của người Nhật
Đơn vị: triệu Yên
Chủng loại
1997
1998
1999
2000
2001
Hàng dệt kim
1.176.768
1.155.672
1.024.614
1.078.446
1.055.324
Hàng dệt thoi
1.638.039
1.565.785
1.372.379
1.500.833
1.498.793
Tổng
2.814.806
2.721.457
2.396.994
2.579.279
2.554.117
(Nguồn: Báocáo của JETRO)
Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy dấu hiệu phục hồi của kinh tế Nhật Bản qua mức tăng của năm 2000 so với năm 1999. Tuy nhiên đến năm 2001 kinh tế Nhật Bản cũng như nhiều nền kinh tế lớn khác như Mỹ đều bị tác động bởi vụ khủng bố 11/9 nhưng sự suy giảm mức tiêu thụ của người dân Nhật Bản không quá nhiều. Vậy nên chúng ta hãy tiếp tục tin tưởng vào triển vọng sáng sủa của kinh tế Nhật Bản thời gian tới.
1.2 Cơ cấu tiêu thụ các sản phẩm dệt may
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ rất nhiều hàng dệt may. Nhìn chung hàng dệt may được tiêu thụ có thể phân thành hai nhóm chính nếu căn cứ theo phương thức dệt là hàng dệt kim và hàng dệt thoi. Trong đó hàng dệt kim thường chiếm tới 70% tổng khối lượng nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản.
Trong nhóm hàng dệt kim, những mặt hàng được người Nhật quan tâm thường là các loại áo len, áo khoác nam, áo khoác nữ, sơ mi, quần áo trẻ em, găng tay, bít tất, áo gile, T.shirt, quần áo dệt kim, quần áo thể thao, áo jacket. Trong đó hàng dệt kim với chất liệu là len hoặc cotton được ưa chuộng hơn cả.
Bên cạnh đó, hàng dệt thoi mà chủ yếu là lụa tơ tằm, các loại áo sơ mi dệt thoi chất liệu bông, áo blouse, đồ lót, váy làm từ chất liệu tơ tằm cũng được người Nhật Bản yêu thích.
1.3. Mức tự cung đảm bảo
Là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới, khối lượng nhập khẩu hàng may mặc của Nhật Bản tăng nhanh qua các năm. Mức nhập khẩu có chững lại khi nền kinh tế Nhật Bản lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997-1998. Nhưng kể từ sau khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật đang tăng trở lại. Ngược với xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều, hiện nay mức sản xuất hàng dệt may trong nước của Nhật Bản ngày một suy giảm, nhất là từ năm 1992 cả về mặt giá trị và số lượng.
Một trong nguyên nhân chủ yếu khiến cho việc sản xuất tại thị trường nội địa không được mở rộng là do sự suy giảm sức mua trên thị trường, áp lực của nền kinh tế giảm phát những năm vừa qua, đơn giá sản phẩm bị hạ xuống một cách đáng kể qua từng năm. Để đáp ứng đòi hỏi hạ giá bán hàng hoá, các nhà bán lẻ đã buộc phải bán hàng hoá với giá rẻ, dẫn tới việc giảm tỷ suất lợi nhuận trong ngành dệt may Nhật Bản. Và hệ quả tất yếu là các nhà sản xuất hàng dệt may và các hãng buôn đã chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài nhằm đối phó với tình hình này.
Trong 5- 10 năm qua việc chuyển hoạt động sản xuất hàng dệt may ra nước ngoài đã phát triển rất nhanh mà điểm đến thường là những nước đang phát triển rất gần với Nhật Bản. Đầu tiên là sự chuyển dịch sang Hàn Quốc và Đài Loan. Tiếp đó là thị trường Trung Quốc và thị trường Inđônêxia, hai trong số nhiều nước thuộc khu vực Đông á và Đông Nam á với nguồn nguyên phụ liệu dồi dào, nguồn lao động phong phú với giá tương đối rẻ. Hiện nay Trung Quốc được xem là một "cơ sở" sản xuất lớn và là nguồn nhập khẩu quan trọng của Nhật Bản.
Hiện tại mức sản xuất trong nước của Nhật Bản chỉ chiếm trên dưới 30% tổng lượng tiêu thụ hàng dệt may của thị trường nội địa. Xu hướng này sẽ được thể hiện rõ hơn qua bảng số liệu dưới đây.
Năng lực sản xuất nội địa
(Đơn vị:triệu Yên)
Chủng loại
1997
1998
1999
2000
2001
Hàng dệt kim
415.602
381.422
314.742
280.585
211.124
Hàng dệt thoi
660.404
585.595
484.036
502.190
377.956
Nguồn:Báo cáo của JETRO
Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng mức tự cung trong nước cả hai loại hàng dệt kim và dệt thoi đều giảm nhưng hàng dệt kim giảm nhanh hơn hàng dệt thoi từ năm 1998, hàng dệt thoi giảm nhưng tốc độ giảm tương đối ổn định.
Nhưng việc chuyển sản xuất ra nước ngoài với nhịp độ nhanh trong 5-10 năm trở lại đây đã tác động xấu đến thị trường nội địa Nhật Bản. Thậm chí tại Nhật Bản đã có nhiều đánh giá lại là xét cho cùng sản phẩm mà người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm nhiều nhất lại không có sẵn cho họ. Có thể việc chuyển sản xuất hàng dệt may ra nước ngoài những năm tới sẽ không còn nhanh và nhiều như trước nữa.
Nhu cầu nhập khẩu
Với mức tự cung đảm bảo chỉ đáp ứng được khoảng 30% tổng mức tiêu thụ hàng dệt may trên thị trường nội địa nên kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản thường rất lớn cả về mặt giá trị và khối lượng, chiếm xấp xỉ 70% tổng cầu của thị trường đối với cả hai loại là hàng dệt kim và hàng dệt thoi. Một nguyên nhân mà mục 1.3 đã nêu, đó là do xu hướng chuyển sản xuất ra nước ngoài của các công ty Nhật Bản nhằm đối phó với tình trạng giảm tỷ suất lợi nhuận trong ngành dệt may. Hình thức mà các công ty này hoạt động dựa trên sự liên doanh liên kết với các công ty Trung Quốc. Do vậy những sản phẩm được làm ra ở những thị trường như thế này dễ dàng được người tiêu dùng Nhật Bản chấp nhận hơn bất kỳ sản phẩm nào được sản xuất ở các nước khác, những hàng hoá được sản xuất ở Trung Quốc được đối xử như với hàng hoá được sản xuất tại Nhật Bản vậy.
Hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản bao gồm hàng dệt thoi và hàng dệt kim. Dưới đây là bảng số liệu kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản trong một số năm gần đây.
Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản
(Đơn vị:triệu Yên)
Chủng loại
1997
1998
1999
2000
2001
Hàng dệt kim
770.412
782.895
719.019
808.410
853.171
Hàng dệt thoi
995.394
995.394
902.634
1.013.980
1.135.825
Nguồn:Báo cáo của JETRO
Ngoài ra còn có một cách phân loại hàng dệt may nhập khẩu nữa là căn cứ theo những đặc điểm khác biệt nổi bật nhất của hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá của Nhật Bản người ta chia ra thành những loại sau:
Những sản phẩm có sức thu hút, có tính thời trang, có chất lượng cao. Đó là những sản phẩm đặc biệt hấp dẫn về cả màu sắc, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm, thiết kế cũng như sự khéo léo tinh tế trong từng đường nét của sản phẩm. Với những đặc điểm nổi bật đó, loại sản phẩm này thường được nhập khẩu từ những trung tâm thời trang nổi tiếng trên thế giới tập trung chủ yếu ở Mỹ và các nước EU.
Những sản phẩm làm từ những loại nguyên phụ liệu hiếm không thể sản xuất được ở Nhật Bản như len cashmere, vải nỉ angora, hoặc một số loại len ít phổ biến khác...
Những sản phẩm đòi hỏi nhiều lao động, với nhiều khâu thủ công tỉ mỉ thường được sản xuất ở các nước đang phát triển có nguồn lao động dồi dào nhưng giá nhân công lại rẻ.
Những sản phẩm thủ công mang đậm truyền thống dân tộc của nơi sản xuất ra nó. Đó là những sản phẩm truyền thống được làm bằng tay. Hầu như không phân biệt chủng loại, những sản phẩm như thế đều được nhập khẩu vào Nhật Bản bởi người Nhật rất coi trọng những nét đặc trưng cá biệt của sản phẩm, đặc biệt là những nét đẹp của từng nền văn hoá mỗi dân tộc ẩn chứa trong sản phẩm đó.
1.5. Những nhà cung cấp chủ yếu của Nhật Bản
Hiện tại bạn hàng chính của Nhật Bản là các khu vực, các nước và vùng lãnh thổ như: Trung Quốc, EU, Mỹ, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông.
1.5.1.Trung Quốc
Trung Quốc được xem là nhà cung cấp hàng dệt may lớn nhất của Nhật Bản trên hai thị trường: thị trường đại chúng và thị trường hàng hoá cấp trung. Theo thống kê xuất nhập khẩu hàng dệt may, Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết có tới 79,6% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt kim và 80,4% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt thoi năm 2001 của Nhật Bản là do Trung Quốc cung cấp. Nếu xét về lượng nhập khẩu thì Trung Quốc còn chiếm thị phần lớn hơn với hàng dệt kim là 87,7% và hàng dệt thoi là 89,9%. Như vậy Trung Quốc đã chiếm ưu thế tuyệt đối với cả hai nhóm hàng dệt thoi và dệt kim. Hiện tại không chỉ có các công ty Nhật Bản mà cả các các doanh nghiệp Mỹ và các hãng kinh doanh ở EU đã chuyển hoạt động sản xuất của mình sang Trung Quốc nhằm giảm giá thành sản phẩm và để rút ngắn thời gian giao hàng.
Trung Quốc luôn chiếm ưu thế trên thị trường đại chúng với những mặt hàng bình dân và thị trường sản phẩm cấp trung bởi nguồn nguyên phụ liệu trong nước phong phú, lực lượng lao động dồi dào, mức lương không cao. Chính vì vậy mức giá hàng hoá Trung Quốc đưa ra luôn có sức cạnh tranh lớn trên thị trường Nhật Bản. Đó là những thuận lợi khiến Trung Quốc chiếm thế thượng phong với hầu hết các mặt hàng trên hai thị trường kể trên. Trong những năm vừa qua, với việc gia tăng hoạt động gia công xuất khẩu, Trung Quốc càng tạo được cho mình một chỗ đứng vững chắc tại thị trường Nhật Bản.
1.5.2.Hàn Quốc
Do vị trí địa lý gần kề Nhật Bản nên Hàn Quốc có được những ưu thế về vận tải hơn các nước khác. Thực vậy hàng hoá từ cảng Pusan của Hàn Quốc có thể chuyên chở tới cảng Shimonoseki nằm ở phía Tây của Nhật Bản chỉ trong vòng một ngày. Điều đó đã tạo cho Hàn Quốc những lợi thế nhất định. Tuy nhiên với sự tăng giá của đồngWon thời gian gần đây và giá nhân công cao đã làm khả năng cạnh tranh cuả hàng dệt may Hàn Quốc giảm đáng kể nhất là những mặt hàng dành cho thị trường đại chúng. Vì thế, hiện nay Hàn Quốc chủ yếu tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cấp trung hơn là những mặt hàng bình dân như trước kia.
1.5.3.EU
Tuy bất lợi cả về khoảng cách địa lý cũng như giá nhân công cao hơn hẳn các nước ASEAN nhưng hàng dệt may của EU vẫn có thể đứng vững trên thị trường Nhật Bản, bởi những mặt hàng xuất khẩu của EU sang thị trường này thường là những mặt hàng cao cấp, hợp thời trang và đắt tiền. Đó là những sản phẩm gắn với những tên tuổi lớn trong ngành công nghiệp thời trang thế giới, nhưng số lượng cung cấp chỉ có hạn. Ngoài ra EU cũng được coi là đã khéo léo sử dụng những ảnh hưởng của mình tại thị trường dệt may Nhật Bản. Song một điều không thể phủ nhận là hàng dệt may của EU được đánh giá rất cao bởi sự tinh tế trong việc sử dụng màu sắc sản phẩm, việc kết hợp khéo léo hơn hẳn những sản phẩm của Nhật Bản. Nhưng từ cuối thập niên 80 phần lớn những những sản phẩm của các thương hiệu lớn của EU đều đã được sản xuất tại Nhật Bản dưới hình thức license chứ không còn được nhập khẩu trực tiếp từ EU.
1.5.4. Mỹ
Việc nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản từ Mỹ bắt đầu tăng đáng kể từ cuối những năm 80. Điều đó đã biến Mỹ trở thành một trong những nhà cung cấp hàng may mặc quan trọng đối với Nhật Bản. Hầu hết các sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ là những loại quần áo thông thường, thứ đến là những mặt hàng thời trang. Trên thực tế một trong những thế mạnh về hàng dệt may của Mỹ là mặt hàng chất liệu cotton.
1.5.5.ASEAN
Bắt đầu từ giữa thập kỷ 80 khi việc xuất khẩu hàng dệt may của các nước công nghiệp mới (NIEs) sang Nhật Bản có xu hướng giảm thì cũng là lúc các nước ASEAN như Thái Lan, Inđônêxia, Philippin từng bước tìm chỗ đứng cho mình trên thị trường Nhật Bản. Mặc dù ngành dệt may tương đối phát triển nhưng ASEAN vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ những hàng hoá của Trung Quốc. Gần đây hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam có dấu hiệu tăng trưởng. Cho dù hiện nay những nước ASEAN vẫn còn cần phải giải quyết nhiều vấn đề như nguồn nguyên phụ liệu, công nghệ thiết bị sản xuất, giá nhân công nhưng chắc chắn xuất khẩu của ASEAN sang Nhật Bản sẽ tăng trưởng trong tương lai.
2. Thị trường truyền thống SNG
2.1. Đặc điểm của thị trường SNG
Đây là khu vực địa lý có diện tích lớn nhất thế giới, trải dài trên hai châu lục á-âu, cùng với số dân hơn 300 triệu người, SNG hiện đang là cơ hội để mở rộng thị trường không thể bỏ lỡ của mọi doanh nghiệp. Thị trường SNG bao gồm cộng đồng các quốc gia độc lập chủ yếu sau:
Cộng hoà Liên Bang Nga với diện tích là 17.075.200 km2 và dân số là 143,5 triệu người.
Cộng hoà Belarutcia với diện tích là 207.600 km2 và dân số là 9,9 triệu người.
Cộng hoà Moldova với diện tích là 33.700 km2 và dân số là 4,3 triệu người.
Cộng hoà Ukraina với diện tích là 603.700 km2 và dân số là 48,2 triệu người.
Cộng hoà Grudia với diện tích là 69.700 km2 và dân số là 4,4 triệu người.
Cộng hoà Acmenia với diện tích là 29.800 km2 và dân số là 3,8 triệu người.
Cộng hoà Azecbaizan với diện tích là 86.600 km2 và dân số là 8,2 triệu người.
Cộng hoà Udơbêkixtan với diện tích là 447.400 km2 và dân số là 28,4 triệu người.
Cộng hoà Tazikixtan với diện tích là 143.100 km2 và dân số là 6,3 triệu người.
Cộng hoà Kiecghikixtan với diện tích là 198.500 km2 và dân số là 5,0 triệu người.
Cộng hoà Kazacxtan với diện tích là 2.717.300 km2 và dân số là 14,8 triệu người.
Cộng hoà Tuyecmenia với diện tích là 488.100 km2 và dân số là 5,6 triệu người.(Niên giám thống kê 2002)
Tất cả các quốc gia trên được tách ra từ Liên bang Xô Viết trước đây (Liên Xô cũ) cho nên đều giao lưu tốt một ngôn ngữ (tiếng Nga) bên cạnh một nền văn hoá gần gũi tương đồng. Đây là một thuận lợi không nhỏ cho các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường đầy hứa hẹn này.
Lâu nay, SNG vẫn được coi là thị trường truyền thống của Việt Nam bởi mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, sự hiểu biết sâu sắc giữa các nước anh em trong khối các nước xã hội chủ nghĩa trước kia, bởi mối quan hệ kinh tế-thương mại đã được tạo dựng trong quá khứ, và giờ đang trở thành nền móng vững chắc giúp chúng ta nhanh chóng khôi phục thị trường này, tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam thêm thuận lợi trong việc hiểu rõ hơn nhu cầu, thị hiếu của thị trường truyền thống này.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của nước ta trước đây chủ yếu là các mặt hàng may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô và hàng nông thuỷ sản, đồng thời cũng là những mặt hàng chủ lực của nước ta hiện nay. Trong số các mặt hàng đó, giá trị xuất khẩu dệt may thường chiếm 60-70% tổng giá trị xuất khẩu sang thị trường này.
Sự phân chia thành nhiều thị trường các quốc gia độc lập hiện nay dẫn tới những chính sách kinh tế thương mại của mỗi quốc gia khác nhau và các chính sách ngoại thương cũng khác nhau. Chính vì thế việc xuất khẩu hàng hoá của nước ta sang thị trường các nước này đã thay đổi rất nhiều so với trước kia và xuất hiện cách thức mới trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước SNG. Do vậy muốn trở lại với thị trường này chúng ta cần phải dựa trên quan hệ truyền thống làm nền tảng, trong việc tiếp cận thị trường SNG chúng ta cũng cần xác định nên bắt đầu từ đâu và thị trường nào đóng vai trò quyết định nhất. Trong thị trường SNG hiện nay, rõ ràng đóng vai trò quyết định nhất trong quan hệ ngoại thương, đó là thị trường Nga.
Liên bang Nga là nước có diện tích lớn nhất thế giới trải dài trên hai lục địa Âu và á, có biên giới giáp với 14 quốc gia cũng như giáp với rất nhiều biển và đại dương.
Nga cũng là một nước đa sắc tộc đa tôn giáo. Tại Nga hiện có hơn 100 dân tộc cùng sinh sống trong đó dân tộc Nga chiếm 81,5%, người Tácta chiếm 3,8% và người Ukraina chiếm 3% dân số. Ngoài ra còn gần 25 triệu người Nga sống ở các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và gần 2 triệu người ở các nước khác trên thế giới. Phần lớn dân Nga theo đạo Cơ đốc chính thống. Tuy nhiên, một bộ phận dân số không nhỏ là gần 20 triệu người theo đạo Hồi sống dọc biên giới phía Nam của Nga. Ngoài ra còn có các tôn giáo khác như đạo Phật, Do Thái, Thiên Chúa giáo La Mã.
Thị trường Nga đã từng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói riêng. Những biến động về chính trị xã hội của Liên Xô cũ năm 91-92 đã khiến cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này giảm mạnh, xuất khẩu hàng dệt may cũng không phải là ngoại lệ. Sau khi Liên Xô tan rã, kinh tế Nga lâm vào khủng hoảng sâu sắc, sản xuất đình trệ, giá cả leo thang, đời sống nhân dân sa sút, nợ nước ngoài và nợ khó đòi trong nội bộ nền kinh tế chồng chất. Các chương trình, chính sách kinh tế thiếu thực tế đầu những năm 1990 như chương trình tư nhân hoá ồ ạt cộng với tình hình chính trị bất ổn càng đẩy nền kinh tế sâu vào vòng xoáy khủng hoảng. Khi bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi vào các năm 1996-1997 thì nền kinh tế Nga lại rơi vào ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997-1998.
Những năm vừa qua, sau một loạt những chương trình cải cách của Chính phủ thời tổng thống Nga Putin như chương trình cải cách về thuế, cải cách trong những lĩnh vực "độc quyền tư nhân", cải cách pháp lý, cải cách luật lao động, cải cách hành chính, cải cách trợ cấp xã hội.v.v. nền kinh tế Liên Bang Nga đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và có những chuyển biến tích cực: kinh tế đi vào ổn định do chuyển đổi cơ cấu đúng hướng, lạm phát được kiềm chế, GDP năm1999 là 3,2% và năm 2000 đạt 7,9% tiếp đó trong năm 2001 đạt hơn 5%, năm 2002 là 4,3%, trong sáu tháng đầu năm 2003 tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2001. Sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đều tăng trưởng đáng kể thậm chí năm 2000 Nga đã trở thành nước xuất khẩu lương thực. (
Mặt khác, Nga cũng đã giải quyết được nhiều vấn đề xã hội như: cơ bản giải quyết nợ lương, từng bước tăng lương hưu, lương ngân sách và lương quân đội, bước đầu cải thiện được đời sống nhân dân. Tuy vẫn còn một số khó khăn cần phải khắc phục như phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nguyên nhiên liệu, tỉ lệ thất thoát vốn lớn, khả năng cạnh tranh chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước...nhưng nền kinh tế Nga đang phục hồi và tăng trưởng một cách khả quan.
Như vậy Liên Bang Nga đã đạt được sự phát triển ổn định và đó là lý do rất đáng để chúng ta tin tưởng về một tương lai tốt đẹp của đất nước này.
Hiện tại, kinh tế Nga đang đi theo hướng kinh tế thị trường hiện đại. Trọng tâm của nền kinh tế Nga không phải là có chuyển hướng kinh tế hay không mà là phải đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế như thế nào cho phù hợp nhất với riêng nước Nga.
Với quy mô nhập khẩu tới 50 tỷ USD mỗi năm về hàng tiêu dùng, chủ yếu là nông phẩm và đồ gia dụng, Nga thực sự là một thị trường đầy triển vọng với Việt Nam. Mặt khác Nga mới chỉ chú trọng phát triển công nghiệp nặng chứ chưa chú ý đầu tư phát triển sản xuất hàng tiêu dùng cỡ nhỏ như quần áo, giày dép, nông sản và thực phẩm chế biến, đồ nhựa gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ, gia vị, đông dược, gỗ ván sàn. Đó cũng là một lợi thế cho Việt Nam xuất khẩu những hàng hoá tiêu dùng sang thị trường này.
Theo thoả thuận đã đạt được giữa hai nước trong tổng số nợ hàng năm mà Việt Nam phải trả cho phía Nga, phần lớn trong số đó Việt Nam trả bằng hàng hoá. Đây là cơ hội tốt cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp hàng hoá sang Nga. Quan trọng hơn là tạo chỗ đứng lâu dài trên cho hàng hoá Việt Nam tại thị trường Nga.
2.2. Thị hiếu tiêu dùng
Tuy Liên Bang Nga được coi là thị trường truyền thống của ta nhưng sau những biến động của lịch sử , chắc chắn thị hiếu tiêu dùng của người dân Nga cũng khác. Trước đây doanh nghiệp Việt Nam khá quen thuộc với thói quen và sở thích tiêu dùng của người dân Nga, đó là những người tiêu dùng khá dễ tính không đòi hỏi quá cao về chất lượng. Hiện nay, hàng may mặc tại thị trường Nga đã có những thay đổi về cơ bản, tuy không khó tính như thị trường Nhật Bản nhưng thị trường Nga đang tiếp cận ngày một nhanh với thị trường các nước Châu Âu, các tập đoàn thương mại lớn trên thế giới đầu đã có mặt tại Nga, ở Châu Âu có hàng hoá gì thì Nga cũng có loại hàng đó. Do vậy, yêu cầu về chất lượng cũng như hình thức sản phẩm ở mức cao với giá cả chấp nhận được. Hàng có phẩm chất trung bình chỉ có thể tiêu thụ được ở các vùng nông thôn.
Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là hai quốc gia có thị phần may mặc lớn nhất tại thị trường Nga. Hàng may mặc Trung Quốc có giá rẻ hơn lại đa dạng hơn về màu sắc cũng như mẫu mã sản phẩm. Hàng Thổ Nhĩ Kỳ có ưu thế về vận chuyển và giao hàng.
Như vậy những khó khăn khi quay trở về thị trường truyền thống SNG nói chung và thị trường Nga nói riêng vẫn còn đang ở phía trước. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam cần có một cách nhìn biện chứng về thị trường này.
Thị trường Châu Phi, một thị trường tiềm năng cần được khai thác
Quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống Việt Nam- Châu Phi dựa trên nền tảng vững chắc bởi những nét tương đồng về lịch sử và nguyện vọng thiết tha về độc lập dân tộc đã được thiết lập từ nhiều năm về trước, trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, mối quan hệ đó vẫn không ngừng được củng cố và phát triển. Giờ đây trước những diễn biến mới của tình hình quốc tế, việc tăng cường quan hệ với các nước Châu Phi càng có ý nghĩa quan trọng trong chính sách đối ngoại "đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế, chính trị" của Đảng và Nhà nước ta.
Những nét chung về thị trường Châu Phi
Châu Phi là một châu lục lớn thứ 3 trên thế giới (có diện tích khoảng 31 triệu km2) chia làm hai khu vực chính Bắc Phi và Nam Phi, với 53 quốc gia Châu Phi chứa đựng trong mình một tiềm năng to lớn đang bắt đầu " thức giấc". Trên thực tế thị trường Châu Phi rộng lớn với 800 triệu người tiêu dùng đang trong giai đoạn tái thiết và phát triển, là lực hấp dẫn mạnh mẽ thu hút sự quan tâm của giới kinh doanh trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam.
Hầu hết các nước Châu Phi đều là những nền kinh tế đang phát triển, với mức thu nhập bình quân ở nhiều nước xấp xỉ 400USD/người/năm. Tuy mức thu nhập bình quân tính theo đầu người này còn khá khiêm tốn nếu không muốn nói là thấp nhưng lại có tiềm năng phong phú về tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, với nguồn lao động dồi dào. Sự ổn định chính trị đang dần trở lại với châu lục này lại cộng thêm sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế thì chắc chắn trong một tương lai không xa Châu Phi sẽ có một diện mạo mới tươi sáng hơn.
Ngoài Ai Cập và Cộng hoà Nam Phi, Châu Phi vẫn chưa tự xây dựng được cho mình những ngành công nghiệp quan trọng cần thiết để khai thác nguồn nguyên liệu đa dạng của mình bởi lẽ thiếu vốn để xây dựng nhà máy, lại chưa đào tạo được nhiều công nhân lành nghề, nhà quản lý và kỹ thuật viên tốt nên không đủ sức cạnh tranh với nền kinh tế công nghiệp của Mỹ và Châu Âu. Từ đầu thế kỷ XX và ngay đến hiện tại Châu Phi chỉ có một số ngành công nghiệp tiêu dùng quy mô nhỏ như công nghiệp dệt, thuốc lá, nước giải khát, giày dép và sản xuất linh kiện ô tô.
Hiện nay nền công nghiệp nhiều nước Châu Phi vẫn chưa tạo lập được vị trí xứng đáng với ưu thế về tài nguyên. Do vậy ngoại thương đang đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của lục địa này. Hiện có khoảng 1/4 sản phẩm của châu lục này được xuất khẩu, trong đó dầu khí là mặt hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu, tiếp đến là cà phê, ca cao, bông, khí đốt tự nhiên... Bên cạnh đó, cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước Châu Phi nổi bật là những mặt hàng như máy móc các loại, hoá chất, nhựa, hàng dệt may, các sản phẩm hoá dầu, cao su tự nhiên, hàng tiêu dùng, hàng nông sản (gạo, chè, cà phê), hàng thủ công mỹ nghệ.
Cơ cấu nhập khẩu trên cho thấy, phần lớn những mặt hàng mà Châu Phi có nhu cầu nhập khẩu cũng là những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh. Trong những năm gần đây với mục tiêu tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác, Việt Nam và các nước Châu Phi đã trao đổi và ký nhiều thoả thuận, hiệp định song phương trong khuôn khổ pháp lý. Đến nay Việt Nam đã ký với các nước Châu Phi 15 hiệp định khung về hợp tác kinh tế, thương mại, văn hoá và khoa học kỹ thuật, 14 hiệp định thương mại, 4 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác với 8 nước Châu Phi cũng đã được thành lập. Năm 1991 trao đổi thương mại hai chiều mới chỉ đạt 15 triệu USD thì đến nay đã đạt trên 200 triệu USD và đang tiếp tục trong chiều hướng phát triển. Hàng Việt Nam đã có mặt tại thị trường 44 nước trong khu vực này với nhiều sản phẩm có thế mạnh như gạo, nông sản, hàng may mặc, giày dép, hàng gia dụng.
Theo báo Đầu tư ngày 30/5/2003, 10 bạn hàng nhập khẩu lớn nhất tại Châu Phi của Việt Nam năm 2001 là các thị trường Nam Phi, Ai Cập, Angola, Senegan, Angieri, Tanzania, Nigieria, Ghana, Kenya, Gabông. Trong đó kim ngạch xuất khẩu sang Nam Phi đạt 29,1 triệu USD, thị trường Ai Cập là 28,6 triệu USD, hai thị trường xếp cuối bảng là Kenya và Gabông lần lượt là 4 triệu USD và 3 triệu USD.
Như vậy Nam Phi là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam tại Châu Phi. Hiện nay thị trường này được chúng ta đặc biệt quan tâm do nước này không áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập khẩu, đồng thời cũng mở rộng các thị trường còn lại ở Châu Phi. Thị trường Nam Phi nói riêng và thị trường Châu Phi nói chung nằm trong kế hoạch xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm và khai thác thị trường mới của Nhà nước ta. Do vậy ngành dệt may Việt Nam có rất nhiều cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngoài những điểm chung với các nước còn lại của Châu lục đen, Nam Phi còn có những nét riêng biệt. Nam Phi là một thị trường lớn với diện tích 1.221.037 km2 và dân số là 43,7 triệu người. Với mức thu nhập bình quân theo đầu người là 1200 USD/năm, Nam Phi được xếp vào hàng các nước có thu nhập cao trong số các nước đang phát triển. Thị trường Nam Phi không phải là thị trường khó tính vì nhu cầu rất đa dạng. Các sản phẩm cao cấp cũng như bình dân đều có thể tiêu thụ được tại thị trường này. Trong vài năm trở lại đây, những cải cách kinh tế được chú trọng như chính sách linh hoạt về ngoại hối, cơ cấu lại nền kinh tế làm cho đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng, thị trường nội địa không ngừng mở cửa cho cạnh tranh từ bên ngoài.
Bạn hàng lớn của Nam Phi là EU và Mỹ nhưng Châu Phi cũng là một đối tác quan trọng của đất nước cực Nam Châu Phi này. Nam Phi hiện là thành viên của SACU (Liên minh Thuế quan Miền Nam Châu Phi, gồm 5 nước: Bôtsoana, Lêsôthô, Nammibia, Swaziland, Nam Phi). Thương mại giữa các nước thuộc SACU hầu như không có cản trở gì và hoàn toàn tự do. Cũng trong khu vực Châu Phi, Nam Phi đã cam kết thành lập một khu vực thương mại tự do với các thành viên của SADC (Cộng đồng phát triển Miền Nam Châu Phi) gồm 14 nước Miền Trung và Miền Nam Châu Phi. Như vậy có thể coi Nam Phi là một cánh cửa để đưa hàng hoá của Việt Nam vào thị trường các nước Trung và Nam Châu Phi.
Ngoại thương đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước này. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 34,3 tỷ USD, đóng góp 45% GDP, nhập khẩu khoảng 30 tỷ USD. Nam Phi là nước xuất khẩu vàng hàng đầu thế giới. Ngoài ra, Nam Phi cũng xuất khẩu nhiều mặt hàng khác nhau như kim cương, các sản phẩm kim loại (sắt, thép), đá quý, nông sản (ngô, kê), thuốc lá sợi, hoá chất, than, uranium. Cùng với xuất khẩu, Nam Phi cũng nhập khẩu nhiều mặt hàng như máy móc các loại, dụng cụ khoa học, nhựa, hàng dệt may, dầu mỏ.v.v.
Hiện Nam Phi đang tuân thủ các hiệp định tự do thương mại với một số nước như EU, Dimbabue. Trên cơ sở các hiệp định đó, Nam Phi xác định mức thuế cho mặt hàng may mặc cũng như các mặt hàng khác. Nam Phi cũng đang tiến hành đàm phán ký kết hiệp định tự do thương mại với ấn Độ và Trung Quốc, hai trong số các quốc gia có thế mạnh về ngành dệt may trên thế giới hiện nay. Mức thuế chung thường dao động từ 20-60%.
Như vậy thị trường Châu Phi nói chung và thị trường Nam Phi nói riêng là một cánh cửa còn bỏ ngỏ. Trước mắt việc hiệp định thương mại Việt Nam- Nam Phi đã có hiệu lực, trong đó hai nước cam kết dành cho nhau chế độ ưu đãi tối huệ quốc (MFN) về thuế quan có thể coi là thuận lợi bước đầu cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập được hay không và có thể trụ vững trên thị trường này không, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết của doanh nghiệp về những "thượng đế" "lục địa đen" mà trước hết là thị hiếu tiêu dùng của họ.
3.2. Thị hiếu tiêu dùng
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện tự nhiên của vùng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo nhưng phần lớn đất đai là sa mạc nên hầu hết các nước Châu Phi chịu ảnh hưởng của khí hậu sa mạc. ở hầu hết lục địa Châu Phi chỉ có hai mùa là mùa hè và mùa đông. Mùa hè thường bắt đầu vào tháng 9 và kéo dài cho đến tháng 2. Thời gian còn lại là mùa đông. Vào mùa hè, nhiệt độ ban ngày có thể lên tới 35-40 0C nhưng ban đêm nhiệt độ lại hạ xuống 5-7 0C. Vì vậy, những người thuộc tầng lớp bình dân chủ yếu là người da đen không nhiều tiền ở Châu lục này đều muốn có những chiếc áo lưỡng dụng, vừa có thể khoác vào ban ngày nhưng cũng đủ ấm cho họ vào ban đêm, giúp họ chống lại cái khắc nghiệt của những đêm sa mạc
Người da đen ở Nam Phi chiếm khoảng 77% dân số nước này. Nhìn chung họ thích mặc những loại quần áo vừa túi tiền hoặc rẻ tiền, chủ yếu là quần jeans, áo thun, áo phông. Họ không phải là người kỹ tính về chất liệu nhưng vải phải đủ độ bền, màu sắc càng màu mè, càng đậm thì càng được ưa chuộng.
Người da trắng chiếm 14% dân số Nam Phi. Khác với người da đen, phần đông người da trắng thuộc tầng lớp có thu nhập khá cao. Do đó, với họ, tông màu được ưa chuộng hơn cả, đó là màu sáng. Người da trắng cũng tỏ ra sành điệu hơn trong ăn mặc nhất là giới trẻ. Họ chuộng những màu cơ bản kiểu dáng Châu Âu, nhưng đơn giản và tiết kiệm vẫn là tiêu chí được chú trọng.
Ngoài ra, hàng may mặc Châu Phi còn phân theo mùa. Thường thì vùng Đông Bắc Châu Phi có khí hậu khắc nghiệt hơn cả. Vì vậy yêu cầu về độ bền của vải, độ ấm của quần áo được đặt lên hàng đầu, những tiêu chí còn lại như màu sắc, kiểu dáng chỉ là thứ yếu.
Nhìn chung thị trường Châu Phi là thị trường không đòi hỏi chất lượng quá cao và kỹ tính như thị trường Nhật Bản hay thị trường EU hoặc là thị trường Mỹ. Những mặt hàng mà thị trường này có nhu cầu doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng đáp ứng bởi trình độ phát triển của nước ta có nhiều điểm phù hợp với các nước Châu Phi. Và thực tế là hầu hết hàng hoá Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng Châu Phi. Thậm chí tại thủ đô Luanda của Angola các mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam như quần áo, điện tử, xe gắn máy,.v.v được bày bán rộng rãi và có sức tiêu thụ manh tại khu "Việt Nam town". Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng cho hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tìm được chỗ đứng xứng đáng trên thị trường này tương xứng với tiềm năng mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam- Châu Phi vì hòa bình và phát triển theo nguyên tắc cùng có lợi.
4. Một số thị trường khác
4.1. Thị trường một số nước trong khu vực
ASEAN là tên gọi tắt của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á được chính thức thành lập vào ngày 8/8/1967. Ngày 28/7/1995 đã đi vào lịch sử khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Lào cũng trở thành thành viên thứ 8 của hiệp hội vào tháng 7/97. Hiện tại ASEAN đã quy tụ được đầy đủ các nước trong khu vực Đông Nam á làm thành viên của mình.
Cùng với việc ưu tiên thương mại nội khối, ASEAN đã thiết lập những mối quan hệ kinh tế rộng rãi với các nước đối thoại của mình như: Mỹ, Nhật Bản, EU, Ôxtraylia, Newzealand, Canada, Hàn Quốc, với các nước thứ 3 khác và với các tổ chức quốc tế thông qua các chương trình và hoạt động hợp tác quốc tế.
Hiện nay bạn hàng chính của ASEAN là Nhật Bản, Mỹ và EU. Trong đó Nhật Bản luôn chiếm vị trí nổi bật. Nhật Bản đã chi phối thị trường xuất khẩu ASEAN từ 1970-1987 với tỷ trọng vào khoảng 20,9-29,6%, Nhật Bản thường nhập khẩu một khối lượng hàng hoá sơ chế lớn từ Inđônêxia và nhanh chóng di chuyển một số ngành công nghiệp của họ sang khu vực này trong 10 năm qua.
Từ năm 1988-1991 Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ASEAN trong đó tỷ trọng chiếm khoảng 20,2%.
Hiện nay ASEAN ngày càng đa dạng hoá thị trường xuất khẩu của mình bên cạnh việc duy trì những thị trường truyền thống đã có.
Một trong những đặc điểm trong buôn bán nội khối của ASEAN là cơ cấu xuất khẩu của các nước thành viên tương đối giống nhau khi cùng có sự chuyển hướng từ thực hiện chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Song điều đó không có nghĩa là chúng ta không thâm nhập được vào thị trường nội khối. Tuy nhiên, để thâm nhập thành công đối với nhiều mặt hàng xuất khẩu, trong đó có mặt hàng dệt may, doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm gắn liền với việc giao hàng đúng hẹn, đúng số lượng, đúng chủng loại.
Trong số các thị trường của các nước ASEAN, Lào là thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam rất quan tâm và đang tìm cách thâm nhập thị trường này.
Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào có diện tích là 236.800 km2 và dân số tính đến tháng 7/2002 là 5,5 triệu người. Sở dĩ thị trường Lào được các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt quan tâm là vì thị trường này ở vào vị trí như là chiếc cầu nối giữa vùng Đông Bắc Thái Lan hội nhập với Việt Nam và các nước trong khu vực, Lào có đường biên giới chung với các nước Trung Quốc, Myanmar và Campuchia, trong những năm tới khi đường xuyên á đã thông, các cây cầu nối Lào với Thái Lan, những con đường bộ thông suốt giữa Việt Nam-Lào thì Lào không chỉ là một thị trường tiêu thụ mà còn có thể là thị trường trung chuyển và quá cảnh hàng hoá đầy tiềm năng của Việt Nam.
Bên cạnh đó thị trường Lào hấp dẫn các doanh nghiệp Việt Nam bởi trong khi chi phí về nhập khẩu vải phụ liệu vào Lào cũng xấp xỉ như khi nhập khẩu vào Việt Nam nhưng giá nhân công tại Lào lại rẻ hơn. Đồng thời các công ty dệt may Việt Nam còn có thể liên doanh với các công ty Lào để có thể tranh thủ hạn ngạch của bạn.
Hiện Lào không phải chịu hạn ngạch dệt may khi xuất khẩu vào EU do số lượng không đáng kể ngoài ra hàng may mặc của Lào cũng nhận được một số ưu đãi về mặt thuế quan như được hưởng GSP....Do đó việc liên kết với phía Lào để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu sang nước thứ 3 để tận dụng những ưu đãi của Lào và ưu đãi của nước nhập khẩu là rất có triển vọng.
Hiện nay Trung Quốc và Thái Lan là những đối thủ cạnh tranh đối với hàng hoá Việt Nam tại thị trường Lào. Tuy nhiên ta có những thế mạnh mà hai đối thủ trên không thể có được đó là quan hệ hữu nghị đặc biệt thắm tình anh em giữa hai nước Việt Nam-Lào.
4.2. Thị trường Ôxtraylia
Ôxtraylia là một lục địa rộng lớn nằm ở Nam Bán cầu có diện tích 7.686.850 km2 được bao bọc bởi Thái Bình Dương ở phía Đông, ấn Độ Dương ở phía Tây, biển Arafura ở phía Bắc, Nam Đại Dương ở phía Nam. Với số dân chỉ là 19 triệu người nhưng Ôxtraylia lại là một xã hội đa văn hoá và đa sắc tộc với 65% người dân gốc Châu Âu, hơn 30% số dân nhập cư từ Châu á, thổ dân chỉ chiếm dưới 1%. ( Đó chính là nguyên nhân tạo ra sự phong phú muôn màu muôn vẻ về nhu cầu hàng dệt may của người dân nước này.
Nằm tách biệt so với các châu lục còn lại bởi sự bao bọc của đại dương nhưng kinh tế của Ôxtraylia mang nhiều nét đặc thù của kinh tế các nước Châu Âu đặc biệt là kinh tế nước Anh. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của lịch sử di dân và khai phá những vùng đất mới của người Châu Âu nhiều thế kỷ trước. Với GDP năm 2002 là 270 tỷ USD, hiện nay kinh tế Ôxtraylia đứng thứ 14 thế giới và đứng thứ 9 trong các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), thứ 11 trên thế giới về mức thu nhập bình quân theo đầu người là 17000 USD. Có được vị trí như vậy là do từ sau chiến tranh Thế giới thứ hai, Ôxtraylia đã có sự điều chỉnh lớn trong cơ cấu kinh tế, đó là sự chú trọng phát triển công nghiệp chế tạo cơ khí để xây dựng những ngành này thành mũi nhọn xuất khẩu. Những ngành công nghiệp nói trên hiện được coi là những ngành kinh tế chủ yếu của Ôxtraylia, đóng góp lớn vào GDP bên cạnh những ngành như chăn nuôi, trồng trọt, khai khoáng, chế biến thực phẩm và ngành dịch vụ.
Bạn hàng lớn của Ôxtraylia là Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc trong đó Nhật Bản được xem là đối tác kinh tế thương mại quan trọng nhất của Ôxtraylia, kim ngạch buôn bán hai chiều năm 2001 là hơn 2 tỷ USD, bằng 13% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Úc, chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu của Úc. Bên cạnh đó Úc cũng rất coi trọng xây dựng mối quan hệ với Trung Quốc vì Trung Quốc đã trở thành thành viên của WTO. Và hiện Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn thứ 3, là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 của Úc. Kim ngạch thương mại hai chiều khoảng 8 tỷ USD, dự kiến kim ngạch thương mại giữa hai nước sẽ còn tăng gấp đôi trong thập kỷ này. Thương mại của Úc với ASEAN trong thời gian qua cũng phát triển đáng kể. Kim ngạch thương mại năm 2000 đã tăng 62% so với năm 1996 với giá trị là 32 tỷ AUD. Xuất khẩu của ASEAN sang Úc tăng 110%. Trong thời gian này Úc cũng đang tích cực thảo luận với một số nước ASEAN để ký hiệp định thương mại tự do song phương.
Trong suốt 30 năm qua, quan hệ kinh tế-thương mại-đầu tư giữa Việt Nam và Ôxtraylia không ngừng được củng cố và mở rộng cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ôxtraylia đã ký với Việt Nam một loạt các hiệp định như hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định hợp tác kinh tế thương mại (6/90), hiệp định tránh đánh thuế hai lần... nhằm hướng tới mục tiêu chung là xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực. Đồng thời những hiệp định này đã tạo điều kiện cho các công ty Ôxtraylia thiết lập và mở rộng hoạt động ở Việt Nam tương đối dễ dàng cũng như hỗ trợ cho việc thâm nhập ngày càng nhiều của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Úc. Theo Thương vụ Việt Nam tại Ôxtraylia cho biết những mặt hàng mới của Việt Nam có triển vọng thâm nhập vào thị trường Úc như nhựa gia dụng, đồ gỗ, hàng may mặc, hải sản. Tuy nhiên trên thực tế không ít doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu hàng hoá sang Ôxtraylia từ nhiều năm qua nhưng vẫn mơ hồ về tập quán tiêu thụ trên thị trường này. Theo bà Đinh Thị Mỹ Loan, tham tán thương mại Việt Nam tại Ôxtraylia nhận xét:" Người tiêu dùng ở Úc rất kỹ tính, phải biết cách chiều chuộng. Không chỉ các nhà bán lẻ và các đại lý mà cả các nhà sản xuất ở đây cũng luôn luôn lắng nghe ý kiến cuả người tiêu dùng để đáp ứng đầy đủ những điều kiện của họ." Nhưng với những mặt hàng mới, đặc biệt là hàng dệt may, tập quán được giảm giá 5% so với giá thị trường đã rất quen thuộc với các nhà tiêu thụ ở Úc. Đây thực sự là thách thức lớn đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam vì hàng Việt Nam thường đắt hơn hàng cùng loại của Trung Quốc trên thị trường Úc.
Các chuyên gia thương mại cũng cho rằng từ năm 2005, hàng may mặc và giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang Ôxtraylia sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng của Trung Quốc do Ôxtraylia sẽ bãi bỏ hạn ngạch đối với hai nhóm hàng này của Trung Quốc.
Hiện tại hàng dệt may nhập khẩu của Ôxtraylia có thể chia thành hai nhóm chính. Nhóm hàng phù hợp cho đại đa số người tiêu dùng thường do các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Inđônêxia cung cấp. Những mặt hàng này tương đối bình dân vì thế chúng thường có giá cả thấp nhưng chất lượng chấp nhận được. Bên cạnh đó, l nhóm hàng khác có tính kỹ thuật cao hơn được Ôxtraylia nhập khẩu chủ yếu từ các nước Newzealand, Mỹ và Nhật Bản.
Đây có thể sẽ là những thông tin tham khảo giúp cho doanh nghiệp Việt Nam cân nhắc hướng hoạt động sản xuất vào nhóm sản phẩm vừa phù hợp với bản thể doanh nghiệp vừa đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng Ôxtraylia.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt để những mặt hàng mới tìm được chỗ đứng trên thị trường Ôxtraylia, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ phải chấp nhận những đơn hàng nhỏ với mức giá cạnh tranh. Song điều đáng mừng là chính sách thị trường của Ôxtraylia muốn đa dạng hoá nguồn cung cấp để đáp ứng nhu cầu đa sắc tộc, đa văn hoá. Do vậy doanh nghiệp Việt Nam sẽ vẫn còn rất nhiều cơ hội để tiếp cận thị trường này, nhưng có thâm nhập được hay không, điều đó còn phụ thuộc vào sự chủ động tìm cho mình một con đường đi riêng phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng của doanh nghiệp Việt Nam.
4.3. Thị trường Trung Đông
Đây là khu vực có vị trí địa lý rất thuận lợi, nối liền Châu á, Châu Phi, Châu Âu đồng thời còn tiếp giáp với Địa Trung Hải, Hồng Hải và ấn Độ Dương. Trung Đông có điều kiện để phát triển kinh tế cho các nước trong khu vực đặc biệt, là trong lĩnh vực giao thông vận tải và buôn bán. Do khí hậu sa mạc khắc nghiệt nên điều kiện trồng trọt ở đây rất khó khăn. Trung Đông là khu vực tương đối rộng lớn tuy nhiên địa hình chủ yếu là núi cao nguyên và sa mạc.
Tuy Trung Đông là khu vực tương đối giàu tài nguyên nhưng không đa dạng, chỉ có dầu mỏ và khí đốt là có trữ lượng đáng kể và được xem là hai nguồn tài nguyên quan trọng nhất của vùng đất này. Hầu hết các nước trong khu vực đều phải dựa vào hai nguồn tài nguyên này.
ở các nước Trung Đông thành phần dân cư khá phức tạp, gồm những cộng đồng người khác nhau, trong đó người arập chiếm hơn 65% dân số của cả khu vực. Ngoài ra còn có người Thổ Nhĩ Kỳ, người Ba tư và người Cuôc. Khu vực Trung Đông có 3 tôn giáo lớn là Đạo Hồi, Đạo Do Thái và Đạo Thiên Chúa. Do thành phần dân cư và tôn giáo tương đối phức tạp nên trong khu vực thường xuyên xảy ra xung đột tôn giáo và sắc tộc. Đây chính là một khó khăn cản trở sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trên bản đồ thế giới nên từ trước đến nay Trung Đông luôn bị các đế quốc lớn "nhòm ngó ". Chỉ từ sau chiến tranh Thế giới thứ 2, các nước Trung Đông mới giành được độc lập nhưng kinh tế của những nước này vẫn phụ thuộc sâu sắc vào các nước phương Tây. Các nước Trung Đông chỉ thực sự bắt tay phát triển kinh tế từ sau 1945. Nhưng nhìn chung các nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển chưa cao, chưa đồng đều.
Tình hình xuất nhập khẩu của các nước Trung Đông không ổn định. Cơ cấu xuất khẩu của các nước Trung Đông chủ yếu là dầu thô và các sản phẩm từ dầu, một số sản phẩm truyền thống có nguồn gốc từ cây công nghiệp nên có xu hướng chịu giá cánh kéo rất bất lợi.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng nông sản, hàng dệt may...Các nước Trung Đông nhìn chung không khó tính như các nước Nhật Bản, Mỹ hay EU. Nhưng để hàng dệt may có thể xuất khẩu được sang thị trường này các doanh nghiệp có thể tiếp thị theo cách truyền thống là tham gia triển lãm, bán hàng tại các hội chợ quốc tế. Theo kinh nghiệm của các nhà doanh nghiệp thành đạt, muốn bán hàng thành công tại đây đòi hỏi sự kiên nhẫn công sức và chi phí ban đầu là rất đáng kể. Đặc biệt tại thị trường Ai Cập việc tiếp thị và giao dịch trực tiếp tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng hoặc trên cơ sở mẫu mã có sẵn, giá cả cạnh tranh sẽ là lợi thế cho những quyết định nhanh chóng với những điều kiện giao dịch trên, việc mua bán hàng qua hệ thống siêu thị các cửa hàng miễn thuế cũng rất phổ biến tại Ai Cập. Bạn hàng chính của Trung Đông là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc.
Do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh tại irăc đầu năm 2003, một lần nữa khu vực Trung Đông lại rơi vào vòng xoáy của các cuộc xung đột. Theo các nhà phân tích kinh tế với sự tàn phá của chiến tranh ở Irăc vừa qua, giờ đây khu vực Trung Đông nói chung và Irăc nói riêng đang chủ yếu tập trung vào tái thiết hạ tầng cơ sở hơn là mua sắm hàng tiêu dùng. Sự tàn phá của cuộc chiến không chỉ ở phạm vi Irăc mà còn làm tổn hại về kinh tế đối với hàng loạt các quốc gia trong khu vực như Côoét, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Syri, Libăng, kéo mức sống của khu vực này tụt hậu tới 10 năm so với mức trước chiến tranh. Dự đoán để thị trường khu vực này hồi phục mức tiêu thụ hàng hoá như trước thì phải mất ít nhất một thập kỷ nữa. Tuy vậy quan điểm của Bộ thương mại nước ta là quyết tâm không để mất thị trường Trung Đông đặc biệt là thị trường Irăc.
Quan hệ kinh tế thương mại với các nước Trung Đông không giống như những khu vực khác. Bởi tại hầu hết các nước trong khu vực này, Nhà nước vẫn nắm độc quyền về ngoại thương. Việc buôn bán đều diễn ra trong khuôn khổ hiệp định, các doanh nghiệp không thể tự động tìm kiếm bạn hàng. Vì vậy, hơn lúc nào hết vai trò của Chính phủ, của Nhà nước là vô cùng quan trọng, là chiếc cầu nối vững chắc đưa doanh nghiệp Việt Nam đến với thị trường này.
5. Đánh giá chung về các thị trường phi hạn ngạch
Nhìn chung, ngoài thị trường Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn và thường xuyên của Việt Nam, các thị trường còn lại hoặc là còn rất mới hoặc vì những lý do khách quan mà kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta còn nhỏ hoặc thậm chí bị gián đoạn. Tuy nhiên trong hoàn cảnh mới hiện nay, đó là mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp của ta với các nước đó cũng như trong điều kiện mới về chính trị, kinh tế, xã hội của bản thân những quốc gia này đã cho thấy các thị trường dệt may phi hạn ngạch nói trên đều là những thị trường còn nhiều tiềm năng cần được doanh nghiệp Việt Nam mở rộng. Do vậy doanh nghiệp Việt Nam không thể bỏ qua cơ hội này dù những khó khăn còn đang ở phía trước. Hơn thế nữa điều đó sẽ khẳng định rõ hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là muốn "làm bạn với tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, tôn giáo", từ đó hai bên cùng phát triển kinh tế, giữ vững hoà bình, hợp tác và phát triển trên nguyên tắc cùng có lợi.
Tất cả những phân tích trên cho thấy, thị trường phi hạn ngạch dệt may trên thế giới đặt ra cho doanh nghiệp Việt Nam cả cơ hội lẫn thách thức. Điều quan trọng hơn và thiết thực hơn là thực tế xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường này đạt kết quả ra sao. Đó cũng là nội dung lớn mà chương 2 sẽ đề cập.
Chương 2
Tình hình sản xuất và xuất khẩu dệt may của Việt Nam những năm qua
Năng lực sản xuất hàng dệt may của Việt Nam
Trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với các ngành kinh tế khác, ngành dệt may nước ta cũng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, đóng góp một phần không nhỏ vào mức tăng trưởng GDP và góp phần quan trọng trong việc xây dựng đất nước, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Để có được những thành tựu đáng khích lệ như vậy ngành dệt may đã biết phát huy những lợi thế so sánh để những sản phẩm của ngành dệt may nước ta có thể vươn xa đến với những thị trường mới.
Lợi thế sản xuất
1.1.1. Nguồn lao động và giá nhân công.
Đối với ngành may mặc thế giới, ngành may mặc Châu á nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng có lợi thế tương đối về nguồn nhân công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các khu vực còn lại trên thế giới. Tính đến năm 2005 dân số Việt Nam sẽ là 87,6 triệu người và đến năm 2010 dân số nước ta là 100 triệu người. Do mức lương tương đối thấp nên giá công may của Việt Nam chỉ là 0,18 USD/giờ thấp hơn so với mức bình quân của nhiều nước như Inđônêxia là 0,32 USD/giờ, của ấn Độ là 0,58USD/giờ và của Trung Quốc là 0,7 USD/giờ.(Tạp chí thương mại số 27/2003)
Ngoài ra, các sản phẩm dệt may thường là các sản phẩm có giá trị lao động sống cao trong khi lao động của Việt Nam không chỉ dồi dào mà còn khéo tay, thời gian đào tạo ngắn từ đó dẫn đến chi phí đầu tư thấp. Do vậy, yếu tố lao động dồi dào, tiền lương thấp là một trong những lợi thế để Việt Nam thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta nhằm phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và ngành dệt may nói riêng.
1.1.2. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Mục tiêu đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dệt may Việt Nam rất đa dạng và phong phú, ngoài lĩnh vực may quần áo xuất khẩu, các chủ đầu tư còn đầu tư vào những lĩnh vực khác: sản xuất túi du lịch, bô lô, vali, túi thể thao, dây khoá kéo, kim máy may, giầy da... với thời hạn đầu tư ngắn nhất là 5 năm và dài nhất là 30 năm. Hiện nay ngành dệt may Việt Nam đã có nhiều bước phát triển để từ đó đã tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường thế giới đồng thời giành được sự tin cậy của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.3. Chính sách của Nhà nước đối với phát triển ngành dệt may.
Nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã có những tác động tích cực tới kết quả của ngành dệt may trong những năm vừa qua, cụ thể như :
- Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và đặc biệt là việc nới lỏng trong quy chế thương mại, cho phép các doanh nghiệp và tổ chức kinh doanh cũng như các địa phương được quyền xuất khẩu trực tiếp đã tạo ra môi trường sản xuất và kinh doanh thuận lợi đối với ngành dệt may.
- Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng đã xác định việc sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu là một trong những lĩnh vực chú trọng trong chiến lược đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó việc thu hút vốn đầu tư sẽ được thực hiện theo phương châm “nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng”. Cụ thể hoá chiến lược đầu tư này là Luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đưa lại cho nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng nhiều cơ hội thu hút vốn nhằm nâng cao năng lực sản xuất và kinh doanh.
Nghị định số 55-CP của Chính phủ ngày 6/9/1995 đã phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty dệt may Việt nam. Đây là một bước quan trọng tiến tới việc xoá bỏ tình trạng manh mún, phân tán của nghành dệt may làm tăng sức cạnh tranh của ngành trong việc thu hút vốn và tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh đó, Đảng và Chính phủ đã có những chính sách thiết thực trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng dệt may, đặc biệt đối với thị trường phi hạn ngạch là việc mở rộng mối quan hệ hợp tác với Châu Phi một châu lục có nhiều nét tương đồng về lịch sử với Việt Nam thông qua cuộc hội thảo "Việt Nam-Châu Phi: Những cơ hội hợp tác và phát triển trong thế kỷ XXI" được tổ chức tại Hà Nội tháng 5 năm 2003.
Ngoài ra, còn rất nhiều chính sách thương mại và đầu tư được ban hành hoặc sửa đổi trong những năm gần đây để phù hợp với tình hình mới cũng đã có những tác động tích cực tới sự phát triển của ngành dệt may nước ta.
Năng lực sản xuất
1.2.1. Các cơ sở sản xuất chủ yếu
Tính đến hết năm 2002, ngành dệt may Việt Nam có khoảng 187 doanh nghiệp, trong đó có 70 doanh nghiệp dệt và 117 doanh nghiệp may. 70 doanh nghiệp dệt lại bao gồm 32 doanh nghiệp nhà nước và 38 doanh nghiệp địa phương. Ngoài ra Việt Nam còn có gần 800 công ty TNHH, cổ phần, doanh nghiệp tư nhân trong đó có 600 đơn vị may và hai 200 tổ hợp dệt (Thông tin chiến lược chính sách công nghiệp số 2/2003).
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may nước ta thời gian qua có đóng góp không nhỏ của đầu tư nước ngoài. Theo Vụ Quản lý dự án thuộc Bộ kế hoạch đầu tư hiện nay trong cả nước có 500 dự án đầu tư liên doanh và 100% vốn nước ngoài hoạt động trên các lĩnh vực: sợi, dệt nhuộm, đan len, may mặc, phụ tùng máy may với tồng số vốn đăng ký là 2.600 triệu USD. Khu vực dệt may có vốn đầu tư nước ngoài không những góp phần phát triển năng lực sản xuất mà còn tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may trong đó có thị trường phi hạn ngạch. Trong các nhà đầu tư vào ngành dệt may ở nước ta, Đài Loan là nước có số dự án đầu tư nhiều nhất là 144 dự án với tổng vốn đăng ký 1.100 triệu USD trong đó vốn thực hiện là 420 triệu USD.(Thông tin chiến lược chính sách công nghiệp số 2/2003)
Ngoài ra còn có hàng nghìn tổ sản xuất nhỏ mang tính gia đình, cá thể tập trung chủ yếu vào những sản phẩm đơn giản phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, chỉ có một số lượng rất nhỏ sản phẩm là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Như vậy hiện nay toàn ngành dệt may đã thu hút giải quyết việc làm cho khoảng 1.600.000 lao động kể cả 700.000 lao động trồng bông, nuôi tằm, chiếm 25% lực lượng lao động công nghiệp.(Thông tin chiến lược chính sách công nghiệp số 2/2003)
Với mục đích tập trung những nguồn lực phân tán, tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh ở cả thị trường trong và ngoài nước.Ngày 29/4/1995, Thủ tướng Chính Phủ đã quyết định thành lập Tổng Công ty Dệt May Việt Nam. Đến ngày 20/9/1997, Tổng Công ty Dệt May Việt Nam đã làm lễ ra mắt mở đầu cho một hoạt động mới trong lĩnh vực dệt may của cả nước. Là đầu tàu của ngành dệt may Tổng Công ty đã nhanh chóng kiện toàn tổ chức quản lý, chính sách hạch toán, hợp nhất các xí nghiệp nhỏ và mới thành lập vào các công ty lớn có thế mạnh, liên kết giữa dệt và may nhằm chủ động được cả đầu ra và đầu vào.
Cho tới nay tổng giá trị sản xuất của toàn ngành dệt may đã chiếm khoảng 8,58% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, chiếm tới 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta, với năng lực hiện đạt là 90.000 tấn các loại sợi/năm trong đó 22% là sợi chải kỹ, còn lại là sợi thô các loại, 380 triệu mét/năm (khổ 80) đáp ứng được 30% nguyên liệu làm hàng xuất khẩu, 22.000 tấn/năm vải dệt kim, 25.000 tấn/năm khăn bông các loại và 400 triệu sản phẩm may (Thông tin chiến lược chính sách công nghiệp số 2/2003).
Theo Tổng công ty Dệt may Việt Nam cho biết từ đầu năm đến nay đã phê duyệt 32 dự án với tổng vốn đầu tư hơn 1.080 tỷ đồng. Trong số này có 12 dự án vào ngành dệt và 11 dự án vào ngành may. Các dự án chuyển tiếp và mới phê duyệt hiện đang được triển khai thực hiện trong đó có nhiều dự án đã hoàn thành và đi vào hoạt động như nhà máy may Hà Nam của công ty may Thăng Long, nhà máy may công nghệ cao của công ty may Đức Giang tại khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh thị xã Thái Bình hay nhà máy may Sông Tiền của Công ty may Nhà Bè...Trong 3 tháng cuối năm Vinatex tiếp tục liên kết với các tỉnh đầu tư cho các nhà máy mới và hỗ trợ giúp đỡ giới thiệu khách hàng, đơn đặt hàng cho các doanh nghiệp địa phương có khó khăn. Tổng công ty cũng kiến nghị với Nhà nước ban hành cơ chế cho phép một số doanh nghiệp nằm trong diện di dời được sử dụng toàn bộ nguồn vốn thu được từ việc thay đổi mục đích sử dụng mặt bằng hiện tại để kết hợp đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị. Đây là một tín hiệu đáng mừng vì nhiều doanh nghiệp thành viên của VINATEX đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Căn cứ theo số liệu của Bộ Công nghiệp tổng năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam hiện được đánh giá như sau:
Năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam
Mục
Đơn vị
Toàn ngành
VINATEX
Chỉ
1000 tấn
85
75
Lụa
Triệu mét
302
139
áo thun
Triệu sản phẩm
90
25
May
Triệu sản phẩm
400
110
Máy xe chỉ
Con suốt
1.050.000
900.000
Máy dệt thoi
Vòng
14.000
6.320
Máy dệt kim
Máy dệt kim
450
130
Máy may
Máy may
190.000
28.000
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam năm 2002
Số liệu trên cho thấy các doanh nghiệp tập trung đầu tư vào ngành dệt nhiều hơn ngành may nhưng ngành may lại phát triển hơn ngành dệt do sản phẩm may mặc xuất khẩu được nhiều hơn sản phẩm dệt.
Các cơ sở dệt may tập trung chủ yếu ở hai khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ và chiếm khoảng 50-60% sản lượng, vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phụ cận chiếm 30-40% sản lượng, vùng duyên hải Miền Trung chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng của toàn ngành dệt may. Để tìm hiểu rõ hơn tình hình sản xuất hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua ta sẽ tìm hiểu về tình hình đầu tư thiết bị công nghệ của ngành dệt may Việt Nam.
1.2.2. Cơ cấu chủng loại công nghệ
Ngành may ở Việt Nam sau thời kỳ tan rã của thị trường Liên Xô (cũ) và Đông Âu nhất là từ năm 1992, đã đầu tư hàng triệu USD để đổi mới các thiết bị công nghệ của các nước như Đức, Nhật, Hà Lan, Hàn Quốc để đạt được trình độ may tiên tiến. Từ năm 1992 đến nay, mỗi năm đều có 18.000 máy may thiết bị chuyên ngành được nhập khẩu vào Việt Nam, nâng tổng số thiết bị ngành may cả nước lên đến hơn 100.000 chiếc các loại.
Riêng với ngành dệt, hiện thời ngành này có 868.000 cọc sợi, 43.200 máy dệt, trong đó các xí nghiệp quốc doanh Trung ương và địa phương quản lý 14.200 máy, số còn lại do các hợp tác xã và tư nhân quản lý. Các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 triệu m/năm, các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20.900 tấn sản phẩm/năm, bao gồm dệt kim tròn và dệt kim dọc năm (Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 14/2003)
Tuy nhiên, phần lớn thiết bị ngành dệt hầu như đã rất cũ và thiếu đồng bộ giữa các khâu. Cụ thể là khâu kéo sợi có đến 70% máy móc ở trình độ trung bình và dưới trung bình, chỉ có 30% máy móc ở trình độ khá, thiết bị kéo sợi có tới hơn 60% là loại sợi chải thô, chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp. Đối với khâu dệt, ngoài khu vực dệt kim được đánh giá là có hệ thống thiết bị tương đối khá, khu vực dệt thoi máy mới chỉ chiếm khoảng trên 35%, số máy mới cải tạo chiếm khoảng 25%, còn tới 40% là máy cũ. Cuối cùng là khâu hoàn tất được đánh giá là có năng lực yếu nhất với 35% số thiết bị đã được sử dụng trên 30 năm, 30% số lượng thiết bị được sử dụng từ 20-30 năm, số thiết bị được gọi là máy mới (chiếm 35%) cũng đã được sử dụng từ 10-20 năm, dây chuyền nhuộm hoàn tất phần lớn là thiết bị khổ hẹp tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm (Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 14/2003).
Ngoài ra, một số công đoạn quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm thì ngành dệt Việt Nam lại đang thiếu như: Khâu kéo sợi thiếu sợi chải kỹ, khâu dệt, máy dệt chủ yếu là khổ hẹp, công đoạn chuẩn bị dệt (hồ, mắc) rất yếu không tương ứng với hệ thống máy dệt. Đặc biệt khâu thiết kế mẫu dệt rất hạn chế. Số lượng mẫu vải nghèo nàn về kết cấu mật độ sợi ngang, sợi dọc và màu sắc. Còn khâu nhuộm và hoàn tất thiếu các công đoạn như chống co, chống nhàu, làm bóng...thiết bị in hoa không đồng bộ.
Mặc dù đang trên đà phát triển nhưng nhìn chung trình độ công nghệ ngành dệt may nước ta vẫn còn khoảng cách so với các nước trong khu vực. Vì vậy để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may, vấn đề sống còn là phải đổi mới máy móc thiết bị công nghệ. Song để đổi mới thành công thì doanh nghiệp cần tính toán thận trọng trong từng bước đi, đặc biệt cần tìm nguồn vốn lãi suất chấp nhận được, đồng thời đổi mới cũng cần tiến hành đồng bộ cả về lao động, quản lý.
Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
Từ nhiều năm nay, công nghiệp dệt may Việt Nam được xem là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực và có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Khẳng định điều này theo Hiệp hội dệt may Việt Nam thì vào những năm 90 trở về trước, Việt Nam đã xuất khẩu hàng may mặc ra nước ngoài, nhưng trong bảng xếp hạng, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này luôn đứng ở vị trí cuối cùng. Sự khởi sắc chỉ bắt đầu từ những năm 1996-1997, ngành dệt may đã vươn lên đứng đầu trong bảng tổng sắp, và sau đó chỉ nhường chỗ cho ngành dầu khí mà thôi. Vậy chúng ta hãy cùng nhìn lại hoạt động xuất khẩu dệt may những năm vừa qua.
Tình hình xuất khẩu hàng dệt may nói chung
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã tăng trưởng không ngừng. Nếu như năm 1989 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt xấp xỉ 100 triệu USD thì năm 1999 đã tăng lên 1.700 triệu USD và năm 2002 đã đạt 2.710 triệu USD. Có được sự tăng trưởng nhanh như vậy chúng ta không thể không nhắc tới những mốc thời gian có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ngành dệt may xuất khẩu.
Đầu tiên phải kể đến là hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký ngày 15/12/1992. Ngay sau đó kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1993 so với năm 1992 đã tăng 66%, một kỷ lục về tốc độ tăng trưởng tính đến năm 2002. Có thể nói, Hiệp định buôn bán hàng dệt may được ký năm 1992 cùng với những lần điều chỉnh, sửa đổi hiệp định này về sau đều đã có những tác động theo xu hướng tích cực đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của nước ta, đưa hàng dệt may trở thành nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 2 sau dầu thô.
Kế đó phải nhắc tới Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ được ký chính thức ngày17/7/2003 sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực hơn 1 năm. Phải nói thêm rằng từ năm 1996, năm đánh dấu bước phát triển quan trọng của ngành dệt may Việt Nam: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vượt qua con số 1 tỷ USD (1,15 tỷ) và doanh nghiệp Việt Nam đã có chỗ đứng tại thị trường Mỹ nhưng giá trị xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này cũng chỉ dừng lại ở con số xấp xỉ 40 triệu USD/ năm. Do vậy, chỉ có thể nói rằng Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ là cánh cửa đang được rộng mở hơn cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam, giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu một cách hiệu quả. Và thực tế là kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ năm 2002 đã đạt 800 triệu USD so với năm 2001 chỉ xuất khẩu được 47 triệu USD.
Với tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 40%/năm giai đoạn 1991-1997 so với tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước là 27,5%, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam từ 1991-2002
Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại- Bộ Thương mại
Biểu đồ trên cho thấy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ngày càng gia tăng nhưng tốc độ tăng không đều qua các năm. Năm 1993 là năm có tốc độ tăng cao nhất, tăng 66% so với năm 1992. Trong hai năm 1997 và 1998 tốc độ tăng kim ngạch có phần chậm lại. Sự chững lại này là do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Việt Nam phải cạnh tranh gay với các nước láng giềng có đồng tiền bị phá giá mạnh mẽ. Trong thời điểm đó liên tục xuất hiện các thông báo về các hợp đồng bị huỷ bỏ, đặc biệt từ phía Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngoài ra, người mua nước ngoài còn đòi giảm giá đối với các hợp đồng gia công (có khi tới 20%). Vì vậy, dù được coi là năm ngành dệt may đã hoàn thành kế hoạch tốt hơn các ngành khác, giá trị xuất khẩu năm 1998 cũng chỉ đạt 1,35 tỷ USD (so với ước tính trước đó là 1,6-1,7 tỷ USD). Năm 1999 tình hình khả quan trở lại kim ngạch xuất khẩu tăng 26% so với năm 1998. Cũng kể từ năm 1999 đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta luôn tăng. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là 1,9 tỷ USD tăng 13% so với năm 1999, năm 2001 tuy tốc độ tăng so với năm 2000 chỉ là 5,7% nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng đã đạt xấp xỉ 2 tỷ USD. Năm 2002 kim ngạch đạt 2,71 tỷ USD tăng 35,5% chủ yếu do thị trường Mỹ được mở ra.
Trong số rất nhiều doanh nghiệp có đóng góp cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may, nổi bật 10 gương mặt doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn nhất năm 2002.
10 doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất năm 2002
Thứ tự
Doanh nghiệp
Giá trị (triệu USD)
1
Công ty may Việt Tiến
84,944
2
Công ty TNHH Quốc tế Chutex
63,984
3
Công ty May 10
61,380
4
Công ty may Đức Giang
57,275
5
Công ty TNHH Triumph International
40,295
6
Công ty cổ phần may Bình Minh
39,122
7
Công ty TNHH may Đồng Tiến
33,583
8
Công ty TNHH Kollan Việt Nam
33,405
9
Công ty cổ phần may Sài Gòn 3
31,669
10
Công ty may Nhà Bè
29,507
(Thời báo kinh tế Sài Gòn 13/2/2003)
Nhìn chung, hàng dệt may xuất khẩu đã mang lại nguồn thu về ngoại tệ cho đất nước. Trong tương lai, hàng dệt may vẫn sẽ là mặt hàng mũi nhọn trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam.
2.1.2.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Từ khi nước ta tiến hành công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngành dệt may Việt Nam cũng có sự cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các sản phẩm của mình. Vì vậy, ngày càng có nhiều sản phẩm dệt may Việt Nam được nhiều nước trên thế giới ưa chuộng như: hàng may mặc, hàng thêu, thảm các loại... Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của ngành dệt may được thể hiện qua bảng sau:
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của ngành dệt may Việt Nam năm 2002
Sản phẩm xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu
Tỷ trọng (%)
Sợi các loại
Sợi bông
Sợi polyester philamang
Sợi polyester stape
Sợi thực vật
34.450
3.403
21.585
9.254
209
2,55
0,26
1,6
0,68
0,01
Vải các loại
Vải bông
Vải từ sợi philamang
Vải từ sợi stape
Vải từ sợi thực vật
27.414
3.196
24.047
114
30
2,03
0,24
1,78
0,01
_
Hàng may mặc
1.231.262
91,2
Hàng khác (hàng thêu, thảm các loại...)
56.873
4,22
Tổng cộng
1.350.000
100
Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
Như vậy, sản phẩm may mặc chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của nước ta, còn hàng vải và sợi chỉ chiếm khối lượng khiêm tốn. Hàng may mặc xuất khẩu chủ yếu vẫn là hàng gia công theo đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài nên giá trị ngoại tệ thực tế thu được chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu, 75% còn lại là giá trị vật tư phía nước ngoài đưa đến.
Cụ thể với hàng may mặc, ta đã xuất khẩu nhiều mặt hàng, từ nhóm các sản phẩm lót, sản phẩm dùng trong nhà, sản phẩm mặc thường ngày đến nhóm quần áo thể thao, nhóm hàng may thời trang. Tuy nhiên, do xu hướng phát triển sản xuất những sản phẩm dễ tiêu thụ, dễ kiếm lời mà Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng như áo sơmi, jacket,... Đối với các sản phẩm thời trang cao cấp, doanh nghiệp của ta hầu như chưa có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
2.1.3.Cơ cấu thị trường xuất khẩu
Đầu thập kỷ 90 trở về trước, nước ta chủ yếu xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường các nước xã hội chủ nghĩa theo nội dung các nghị định thư trao đổi hàng hoá. Các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu là sơ mi nam nữ, quần áo bảo hộ, và một số sản phẩm đơn giản khác. Năm 1991 khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, thị trường truyền thống của ta không còn nữa. Tuy trong thời gian đầu ngành dệt may Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn nhưng cùng với thời gian và với sự nỗ lực của toàn ngành, giờ đây hàng dệt may của ta đã có mặt tại nhiều nước và đang tạo dựng cho mình chỗ đứng ổn định trên thị trường thế giới. Trong những năm qua ngành dệt may nước ta đã có nhiều khởi sắc, ngày càng khẳng định vị trí mũi nhọn trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam năm 2002
Nguồn: Tổng công ty Dệt may 2002
Trong bối cảnh thị trường Mỹ được mở ra, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đã tăng mạnh. Nếu như năm 2001 thị phần của thị trường Mỹ chỉ chiếm 2% thì năm 2002 đã tăng lên một cách ngoạn mục là 35%. Và hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam rất quan tâm và cố gắng đẩy mạnh việc xuất khẩu vào thị trường này bao gồm những Cat bị áp dụng hạn ngạch được quy định trong Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ và nhất là những Cat phi hạn ngạch.
2.2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường phi hạn ngạch
2.2.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu
Hiện nay, các thị trường dệt may phi hạn ngạch của Việt Nam chiếm ưu thế hơn các thị trường hạn ngạch nếu xét về mặt số lượng, song tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường này chỉ chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta năm 2002. Vì vậy, việc tìm hiểu vị trí của từng thị trường phi hạn ngạch đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là rất cần thiết. Dưới đây là cơ cấu các thị trường dệt may phi hạn ngạch của Việt Nam.
Cơ cấu thị trường dệt may phi hạn ngạch của Việt Nam năm 2002
Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
Biểu đồ trên cho thấy, trong tổng kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường dệt may phi hạn ngạch năm 2002 là khoảng 1,3 tỷ USD (trong khi tổng KNXK hàng dệt may 2,71 tỷ USD) thì tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đã chiếm tới 41%. Thị trường Hàn Quốc và Đài Loan tuy chiếm tỷ trọng lớn nhưng đây không phải là những thị trường tiêu thụ hàng dệt may của Việt Nam mà là nước thuê doanh nghiệp của ta gia công để tái xuất sang nước thứ 3. Các thị trường còn lại như Ôxtraylia, SNG, Trung Đông hay thị trường Châu Phi chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 12%, một tỷ lệ còn khiêm tốn. Do vậy, việc hiểu rõ thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Ôxtraylia, Nga, Nam Phi, irăc, iran trong thời gian qua sẽ giúp các doanh nghiệp dệt may khắc phục hạn chế hiện tại, phát huy những lợi thế để hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường này ngày một khởi sắc.
2.2.2.Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
Các thị trường dệt may phi hạn ngạch giữ vị trí vô cùng quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam nhất là trong điều kiện hiện nay, khi hai thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của chúng ta là thị trường Mỹ và EU đều là những thị trường hạn ngạch. Do vậy, hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường phi hạn ngạch càng được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm hơn lúc nào hết.
2.2.2.1.Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ 3 của Việt Nam sau thị trường Mỹ và EU nhưng lại là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu tăng rất nhanh bắt đầu từ năm 1995, năm đầu tiên Việt Nam nằm trong danh sách 10 nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản. Năm 1997, Việt Nam đã vươn lên vị trí là "nhà cung cấp" hàng dệt may lớn thứ 5 cho thị trường Nhật Bản trong khi hàng dệt may xuất sang Nhật của hầu hết các nước giảm mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 4 trong các nhà cung cấp hàng may mặc cho Nhật Bản.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Nhật Bản
Nguồn: Tạp chí công nghiệp Việt Nam số12/2003
Qua biểu đồ trên có thể thấy rằng, năm 1997 nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản từ Việt Nam không giảm mà vẫn tăng nhẹ. Điều này rất đáng mừng nếu xét trong bối cảnh khủng hoảng tài chính tiền tệ đã tác động mạnh tới nền kinh tế Nhật Bản, khiến cho nước này giảm lượng nhập khẩu hàng dệt may từ các nước khác, trừ Việt Nam và Trung Quốc (Cụ thể là năm 1996 và 1997 nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản bắt đầu giảm lần lượt là 16%, và 14,3% sau nhiều năm nhập khẩu liên tục tăng trưởng). Kim ngạch xuất khẩu quần áo của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản năm 1997 đã tăng 11,4% so với năm 1996. Nhưng đến năm 1998 xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản lại giảm trên dưới 100 triệu USD. Vượt qua những cơn sóng gió 97-98, năm 2000 nền kinh tế Nhật Bản đã có dấu hiệu hồi phục nên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này đã đạt 620 triệu USD, một con số khá cao, nhưng sau đó đến năm 2001 lại giảm 5% so với năm trước đó. Nguyên nhân chủ yếu là do nền kinh tế Nhật Bản tuy đã có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa thật sự vững chắc lại thêm tác động của vụ khủng bố 11/9 nên tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản năm 2001 đã giảm liên tục qua từng quý, trong đó GDP thực tế quý 3 năm 2001 giảm 0,5% so với quý 2. Tình trạng suy giảm kinh tế kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng đã làm mất lòng tin của các công ty và người dân Nhật Bản. Dân chúng đã cắt giảm chi tiêu và tăng tiết kiệm do tâm lý lo ngại về triển vọng không mấy sáng sủa của kinh tế Nhật Bản. tuy vậy trong năm 2002 và đầu năm 2003 kinh tế Nhật Bản đã có nhiều dấu hiệu khả quan hơn chẳng hạn như việc đồng yên nhiều tháng qua đã tăng giá trở lại so với đồng USD, kinh tế Nhật Bản cũng bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng. Đây sẽ là thuận lợi cơ bản cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản.
Nhật Bản nhập khẩu hàng may mặc chủ yếu từ Trung Quốc, Italia, Mỹ, Hàn Quốc, Việt Nam và một số nước khác. Xét theo khu vực, nhập khẩu từ các nước Châu á tăng liên tục trong những năm qua. Thị phần của khu vực châu á trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật tăng từ 80,9% năm 1995 lên 82,2% năm 1997 và năm 2001 đạt xấp xỉ 87,5% tính cả Việt Nam. Thị phần của khu vực Châu Âu không có biến động lớn 12,9% năm 1995, 12,3% năm 1997 và giảm xuống 6,8% năm 2001.(
Tuy hiện nay Việt Nam đã cải thiện được vị trí của mình trong bảng xếp hạng những nước xuất khẩu hàng may mặc lớn vào thị trường Nhật Bản nhưng về thị phần hàng may mặc Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3%, cách xa so với nước đứng đầu là Trung Quốc với thị phần áp đảo tuyệt đối là 87% ( Chính vì vậy, hàng may mặc của Việt Nam chưa tạo được ấn tượng rõ nét nào với người tiêu dùng Nhật Bản. Trong tương lai, để có chỗ đứng ngày càng vững chắc tại thị trường này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ phải nỗ lực trong việc tạo ra những sản phẩm hấp dẫn người tiêu dùng Nhật Bản về chất lượng, giá cả và đặc biệt là tính cá biệt hoá của sản phẩm.
2.2.2.2.Thị trường Nga
Mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga đã được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ trước. Những biến động chính trị-kinh tế-xã hội trong lịch sử nước Nga đã có những tác động không nhỏ tới quan hệ thương mại hai nước, trong đó có hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga.
Nét đặc trưng nổi bật trong quan hệ thương mại Việt-Nga những năm 1986-1990 là mang đậm tình hữu nghị đặc biệt mà chính phủ Liên Xô dành cho Việt Nam. Trong giai đoạn này, một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này là hàng dệt may. Năm 1986 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này là 38 triệu USD thì năm 1988 là 88 triệu USD và năm 1990 là 140 triệu USD (Tổng cục thống kê Việt Nam). Như vậy tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn này xấp xỉ 38,5% và hàng dệt may chính là mặt hàng xuất khẩu sang Liên Xô đầu tiên vượt ngưỡng 100 triệu USD.
Những biến động về chính trị, xã hội tại Liên Xô cũ năm 1991-1992 khiến cho hoạt động xuất khẩu sang Nga giảm mạnh, xuất khẩu hàng dệt may cũng không ngoại lệ.
Đến giai đoạn 1993-1997, khi quan hệ thương mại song phương Việt-Nga đã chuyển hẳn sang cơ chế thị trường song được thực hiện trong bối cảnh các nền tảng của cơ chế thị trường đang còn yếu hoặc chưa được tạo dựng ở cả hai bên. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn này không ổn định nhưng vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong một vài năm gần đây, với sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc tìm lại thị trường truyền thống này cũng như các chính sách khuyến khích của chính phủ, xuất khẩu hàng dệt may sang Nga dần được khôi phục. Nga đã trở thành một trong 10 thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 70,6 triệu USD năm 1999, tăng 84% so với 38,39 triệu USD của năm 1993. Tuy đã đạt được kết quả bước đầu đáng mừng nhưng để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Nga vẫn còn không ít trở ngại. Hiện tại, hàng dệt may của Việt Nam đang phải cạnh tranh quyết liệt với hàng của nhiều nước khác nhất là Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Trung Quốc có phần nhanh chân hơn ta tại thị trường Nga. Thêm vào đó điều kiện đi lại có nhiều phiền phức vì địa bàn rộng lớn, từ đó chi phí vận tải sang các điểm giao hàng ở Nga luôn cao, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Một rào cản đáng kể khác là vấn đề cộng đồng người Việt tại Liên bang Nga đang dần chuyển sang buôn bán hàng Trung Quốc thay vì hàng Việt Nam như trước kia. Ngoài ra, hình thức thanh toán mang tính đặc thù của nhiều doanh nghiệp Nga như yêu cầu được trả chậm sau khi nhập khẩu hàng vẫn khá phổ biến do sự hạn chế về khả năng tài chính của các doanh nghiệp này. Những khó khăn đã ít nhiều ảnh hưởng đến việc tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nga. Và thực tế là kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đã giảm chỉ còn 49 triệu USD. Sang năm 2002 sau chuyến thăm khảo sát thị trường Nga của Bộ Thương mại và một số bộ ngành khác, nhiều doanh nghiệp dệt may của ta đã có niềm tin hơn khi xuất khẩu sang thị trường này. Tình hình xuất khẩu dệt may năm 2002 qua đó cũng được cải thiện.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nga
Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam
Tuy hiện nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nga đã tăng dần nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của hai nước. Trong tương lai, để có thể tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ còn gặp không ít khó khăn trong việc cạnh tranh với các nước, nhất là Trung Quốc do chính sách thuế của Nga xếp hàng Việt nam vào nhóm nước như Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, những nước có ngành dệt may khá phát triển.
2.2.2.3.Thị trường Nam Phi
Nam Phi là một thị trường còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Đây là một trong những thị trường Châu Phi nằm trong kế hoạch xúc tiến tìm thị trường mới của Bộ Thương mại. Mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước đã tăng trưởng trong những năm gần đây, cụ thể là kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều năm 1999 đạt khoảng 20 triệu USD, trong năm 2002 là 56 triệu USD, và dự kiến năm 2003 sẽ khoảng 100 triệu USD, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp. Một trong những mặt hàng chủ lực của ta xuất khẩu sang Nam Phi là mặt hàng dệt may, tuy vậy kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vẫn còn rất nhỏ bé.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nam Phi
Nguồn: Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam (Tổng cục Thống kê)
Biểu đồ trên cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nam Phi tăng nhanh từ sau năm 1999. Nếu tính từ năm 1999 trở về trước, hoạt động buôn bán hàng dệt may giữa hai nước hầu như đều thông qua nước thứ 3. Chỉ từ khi Bộ Thương mại mở cơ quan thương vụ cuối 1999 và đến tháng 7/2000 khi Đại sứ quán Việt Nam chính thức hoạt động thì việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam mới có những tiến triển. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 744 nghìn USD, năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt gần 1 triệu USD. Mặc dù kim ngạch này còn khiêm tốn nhưng với tiềm năng của cả hai bên, hoàn toàn có thể tin rằng, triển vọng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nam Phi, và sau này đến các thị trường Miền Nam Châu Phi là rất to lớn. Qua đó các doanh nghiệp của ta càng hiểu được vai trò cơ quan Thương vụ và Sứ quán Việt Nam tại Nam Phi. Những hoạt động xúc tiến thương mại và nhiều hoạt động tham quan triển lãm tại thị trường Nam Phi của đoàn kinh tế thương mại do Thứ trưởng Bộ Thương mại dẫn đầu tháng 3/2002 hay chuyến thăm khảo sát thị trường Nam Phi do Sở Thương mại Hà Nội phối hợp với thương vụ Việt Nam tổ chức hồi tháng 10/2002, đã góp phần làm cho các doanh nghiệp Việt nam cũng như doanh nghiệp Nam Phi hiểu rõ hơn về nhau, từ đó thiết lập được mối quan hệ đối tác kinh doanh đáng tin cậy. Vậy là khoảng cách về địa lý và những hạn chế tạm thời về thông tin thị trường Nam Phi sẽ không thể làm các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có doanh nghiệp dệt may dừng bước.
2.2.2.4.Thị trường Ôxtraylia
Ôxtraylia là thị trường nằm tách biệt với các châu lục khác tại Nam bán cầu. Với dân số chưa đến 20 triệu người nhưng thị trường Ôxtraylia được biết đến là một thị trường có mức độ cạnh tranh thuộc loại cao nhất thế giới. Trong nhiều năm qua quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Ôxtraylia liên tục phát triển. Một trong những mặt hàng chủ lực mà Việt Nam xuất khẩu sang Ôxtraylia là hàng dệt may.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Ôxtraylia
Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
Từ biểu đồ trên có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Ôxtraylia tuy tăng không nhiều nhưng đều đặn qua các năm. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 15 triệu USD, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng 50% so với năm 1999, đạt khoảng 22 triệu USD. Tuy tốc độ tăng trưởng này là khá cao nhưng hiện tại hàng dệt may Việt Nam vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với nhu cầu nhập khẩu của thị trường này do sản phẩm của ta yếu thế hơn những sản phẩm cùng loại của nhiều nước và khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Inđônêxia...Một trong những nguyên nhân là hàng dệt may của ta vẫn phải trung chuyển qua Singapore rồi mới tới được thị trường Ôxtraylia vì vậy cước phí cao đã làm giá thành sản phẩm cao. Trong năm 2001 trị giá xuất khẩu hàng dệt may chững lại xấp xỉ 23 triệu USD. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu cũng chỉ tăng thêm được 2 triệu USD vì doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn chưa xuất khẩu trực tiếp được sang thị trường úc. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may những năm qua chưa cao nhưng nếu xét trên thị trường có mức độ cạnh tranh mạnh như thị trường Úc thì đây vẫn là một kết quả rất đáng ghi nhận.
2.2.2.5.Thị trường Lào
Thị trường Lào là thị trường được đưa vào danh mục những thị trường trọng điểm xúc tiến thương mại quốc gia năm 2004 của Bộ Thương mại theo quyết định 1335/2003/QĐ-BTM. Điều này đã khẳng định tiềm năng của thị trường Lào đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói riêng. Lào là nước láng giềng và có nhiều nét tương đồng về lịch sử với Việt Nam, trong thời gian gần đây thị trường này được các doanh nghiệp dệt may Việt Nam rất quan tâm. Bởi lẽ, trong tương lai thị trường Lào không chỉ là thị trường tiêu thụ mà còn có thể là thị trường trung chuyển hàng dệt may của ta. Hiện tại, các doanh nghiệp của ta xuất khẩu hàng dệt may sang Lào với ý nghĩa Lào là thị trường tiêu thụ nhiều hơn.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Lào
Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
Biểu đồ trên cho thấy, trong hai năm gần đây kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang Lào tăng chậm. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt gần 2,8 triệu USD tăng 35% so với năm trước đó là 2,04 triệu USD. Tuy nhiên năm 2002 kim ngạch xuất khẩu sang Lào chỉ đạt 3 triệu USD tăng không đáng kể so với năm 2001. Có lẽ nguyên nhân là do các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may đã quá tập trung xuất khẩu sang thị trường Mỹ, một thị trường có mức tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất nhì thế giới. Đồng thời, việc hàng Thái Lan đang tràn ngập thị trường Lào cũng gây cho doanh nghiệp ta những khó khăn để len chân vào thị trường Lào. Nhưng với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là "đa dạng hoá đa phương hoá thị trường xuất khẩu" trong đó có thị trường xuất khẩu hàng dệt may, các doanh nghiệp nên quan tâm nhiều hơn nữa đến các thị trường phi hạnngạch như thị trường Lào, tránh tình trạng tập trung quá nhiều vào một hai thị trường chủ yếu như thị trường Mỹ, EU như hiện nay.
2.2.2.6.Thị trường Trung Đông
Mặc dù đã có quan hệ ngoại giao lâu đời với các nước Trung Đông, nhưng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước này mới chỉ bắt đầu vào thập kỷ 90, và khởi sắc từ năm 1995 lại đây. Trong khu vực Trung Đông, Irăc và Iran là những thị trường khá quen thuộc với các doanh nghiệp dệt may của ta nhất là các doanh nghiệp thành viên VINATEX. Năm 2003, chiến tranh nổ ra ở irăc đã kéo nước này cũng như các nước trong khu vực và nhiều nền kinh tế trên thế giới lâm vào tình cảnh vô cùng khó khăn. Ngay khi chiến tranh vừa kết thúc, Bộ Thương mại và các doanh nghiệp dệt may của ta đã ra quyết tâm không để mất thị trường này. Chính vì thế, tuy chịu ít nhiều ảnh hưởng của cuộc chiến tại irăc nhưng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vẫn không bị gián đoạn. Điều đó sẽ được thể hiện qua bảng số liệu sau.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước Trung Đông
Đơn vị;1000 USD
Nước
1998
1999
2000
2001
2002
Irăc
680
1000
1668
2981
3592
Iran
129
207
814
176
392
Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường irăc tuy nhỏ nhưng tăng đều, nhưng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường iran lại thường xuyên biến động, tuy nhiên năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này cũng đã tăng nhiều so với năm 2001. Đối với thị trường irăc, có thể dễ dàng nhận thấy kim ngạch năm 2002 tăng hơn 3 lần so với năm 2001, đây là một tốc độ tăng vào loại cao. Để có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng này không chỉ với thị trường irăc mà cả những thị trường còn lại trong khu vực Trung Đông, điều này đòi Chính phủ cần có những chính sách và thoả thuận với các nước Trung Đông nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu từ đó có được chỗ đứng vững chắc tại thị trường này.
2.2.3. Các phương thức xuất khẩu chủ yếu
2.2.3.1.Thị trường Nhật Bản
Hiện Việt Nam chủ yếu làm gia công theo đơn đặt hàng trực tiếp của các công ty Nhật Bản hoặc gián tiếp qua các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan. Vải cũng như các phụ liệu khác đều nhập từ nước ngoài. Điều này đã dẫn tới giá trị gia tăng của sản phẩm may mặc Việt Nam còn thấp, rất bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Đây là một vấn đề đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam sớm có những giải pháp để chuyển từ hoạt động gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp.
2.2.3.2.Thị trường Nga
Đầu những năm 90 trở về trước, Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng thông dụng như quần áo bảo hộ, quần áo trả nợ cho các thị trường Liên Xô cũ. Đó là những mặt hàng ít tính thời trang, chất lượng không cao, lợi nhuận do Nhà nước hoàn trả cho doanh nghiệp dựa trên cơ sở hợp đồng trả nợ ký kết giữa các chính phủ. Như vậy về cơ bản, hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nga dựa trên 2 phương thức xuất khẩu chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp theo hiệp định xử lý nợ giữa hai chính phủ (còn gọi là xuất khẩu theo nghị định thư) và theo phương thức hàng đổi hàng. Vì vậy, tuy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may thường lớn hơn so với nhiều mặt hàng khác của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nga, nhưng nó không phản ánh đúng về sự chủ động thâm nhập thị trường này của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu giai đoạn này.
Hiện nay, theo thoả thuận đã đạt được giữa Chính phủ hai nước, trong tổng số nợ hàng năm mà Việt Nam phải trả cho phía Nga, phần lớn Việt Nam trả bằng hàng hoá. So với giai đoạn trước, tuy cùng là xuất khẩu trả nợ nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã ý thức được đây là một cơ hội tốt, là bước đệm để doanh nghiệp tìm kiếm những đối tác Nga trong tương lai gần. Do vậy, chất lượng hàng dệt may xuất khẩu hiện nay chắc chắn sẽ được nâng cao hơn nhiều so với trước. Ngoài hình thức xuất khẩu theo nghị định thư, hiện nay cũng đã có một số doanh nghiệp thành viên của VINATEX xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may sang Nga nhưng kim ngạch còn khiêm tốn. Trong thời gian tới các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng có thể liên doanh với các công ty của Nga để sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may tại chỗ, qua đó giảm cước phí từ đó hạ giá thành sản phẩm, nhằm tăng khả năng cạnh tranh với hàng Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ tại thị trường này.
2.2.3.3.Thị trường Nam Phi
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện tại chủ yếu xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nam Phi theo phương thức xuất khẩu trực tiếp. Đối với phương thức xuất khẩu này, ông Trần Mạnh- Tham tán thương mại Việt Nam tại Cộng hòa Nam Phi đã đưa ra một số lời khuyên cho các doanh nghiệp: với phương thức xuất khẩu này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ chủ động hơn nhưng cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải thật cân nhắc để lựa chọn mặt hàng phù hợp với thẩm mỹ của người tiêu dùng Nam Phi, sau đó phải có thủ thuật trong việc sử dụng giá để "câu khách". Một khi đã lấy lòng được khách hàng thì những chi phí đó sẽ được tính trong các lô hàng sau. Tiếp đến là xây dựng quan hệ lâu dài để ổn định mặt hàng dệt may xuất khẩu. Lúc này không chỉ đơn thuần là việc mua đứt bán đoạn mà chuyển sang hướng hợp tác chiều sâu, ví dụ như hai bên có thể tính đến việc đặt mua, bán số lượng lớn ổn định và trên cơ sở đó sẽ mở kho chứa hàng. Như vậy, với phương thức xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Nam Phi như hiện nay, các doanh nghiệp dệt may cần có sự chủ động hơn nữa trong việc nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng nước này để có kế hoạch xây dựng chiến lược thị trường, thâm nhập sâu hơn vào Nam Phi.
2.2.3.4.Thị trường Ôxtraylia
Hiện tại cũng như rất nhiều mặt hàng khác, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Ôxtraylia chủ yếu vẫn phải quá cảnh Singapore, do vậy giá thành thường bị đội lên cao do chi phí vận chuyển lớn. Rất ít doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp sang thị trường này. Đây là một vấn đề đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sớm có những giải pháp tháo gỡ để hạ giá thành hàng dệt may, lúc đó mới mong hàng dệt may của ta có thể cạnh tranh được với những hàng hoá cùng loại của Trung Quốc, Hàn Quốc,...Ngoài ra, thương vụ Việt Nam tại Ôxtraylia cũng gợi ý các doanh nghiệp cũng có thể xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này theo phương thức hàng đổi hàng.
2.2.3.5.Thị trường Lào
Lào là nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam và cũng xuất sang Việt Nam một số nguyên phụ liệu dệt may. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàng dệt may sang Lào dưới hình thức xuất khẩu trực tiếp. Trong thời gian qua, do sự kêu gọi đầu tư vào Lào của Chính phủ nước này, một số doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã liên doanh với các công ty Lào để tiến hành sản xuất hàng dệt may rồi xuất khẩu tại chỗ nhằm mở rộng thị trường Lào. Việc xuất khẩu sang nước thứ 3 nhằm tận dụng những ưu đãi của Lào và ưu đãi của nước nhận hàng vẫn chưa được các doanh nghiệp Việt Nam chú ý. Nếu trong thời gian tới các doanh nghiệp dệt may Việt Nam quan tâm tới hướng phát triển trên, chắc chắn kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường như EU, Mỹ (những thị trường dành nhiều ưu đãi cho hàng dệt may Lào) thông qua thị trường Lào sẽ tăng lên.
2.2.3.6.Thị trường Trung Đông
Nét đặc trưng trong buôn bán với các nước Trung Đông là phương thức xuất khẩu theo nghị định thư. Nguyên nhân là vì Nhà nước vẫn nắm độc quyền về ngoại thương ở hầu khắp các nước khu vực này, mọi hoạt động buôn bán với nước ngoài đều diễn ra trong khuôn khổ các hiệp định. Do vậy, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này cũng tuân thủ theo phương thức trên. Với phương thức xuất khẩu này các doanh nghiệp dệt may không thể tự động tìm kiếm bạn hàng. Vì vậy, vai trò cùa Nhà nước, Chính phủ là rất quan trọng. Chính phủ Việt Nam cần đóng vai trò của một nhà marketing giúp các doanh nghiệp tìm được bạn hàng thông qua các hiệp định song phương.
2.2.4.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
2.2.4.1.Thị trường Nhật Bản
Hàng may mặc Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản đa dạng về chủng loại và tăng nhanh về khối lượng. Các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là hàng may mặc như Jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi nam, sơ mi nữ, quần lót cho nam, nữ, quần áo dệt kim của nam nữ... Hàng may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản được hưởng thuế ưu đãi phổ cập GSP với mức thuế từ 14-16,8%, mức thuế cho áo sơ mi còn thấp hơn từ 9-11,2%.
Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật Bản của VINATEX
Đơn vị:1000USD
Mặt hàng
1999
2000
2001
2002
2003 *
Jacket và áo khoác
53.970,778
83.065,413
82.297,578
19.124,672
13.321,884
Sơmi và áo các loại
26.736,473
28.612,708
12.698,483
17.197,577
8.791,708
Quần áo các loại khác
11.092,111
10.486,670
8.439,013
4.637,746
6.565,515
Quần các loại
3.134,715
8.589,728
8.927,877
7.432,886
4.506,686
Hàng dệt kim
29.634,709
24.504,052
17.700,203
12.896,055
10.966,303
áo len
6,976
19,484
258,840
466,082
2,253
Khăn bông
22.063,062
27.282,548
24.263,751
16.660,442
11.678,926
(*: số liệu 9 tháng đầu năm 2003) Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
Bảng số liệu trên cho thấy, phần lớn những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản vẫn là những mặt hàng phục vụ nhóm khách hàng cấp thấp và nhóm khách hàng cấp trung với giá thành rẻ, chất lượng vừa phải nhưng lại phải cạnh tranh gay gắt với hàng may mặc của nhiều quốc gia nhất là hàng của Trung Quốc.
Jacket, áo khoác các loại và khăn bông là những mặt hàng được xuất sang Nhật Bản nhiều nhất. Tuy năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng jacket và áo khoác giảm do đơn giá trên một sản phẩm bị hạ thấp cũng như khối lượng hàng xuất sang Nhật bị giảm. Nhưng năm nay kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong 9 tháng đã đạt gần 70% so với cả năm 2002, điều này cho thấy mặt hàng này đang dần tìm lại chỗ đứng của mình. Riêng đối mặt hàng áo len, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tăng nhanh qua các năm, nhất là năm 2002 tăng gần gấp đôi so với năm 2001. áo len thuộc nhóm hàng dệt kim và hiện Việt Nam đang xếp thứ 5 ở nhóm hàng này sau Trung Quốc, Hàn Quốc, ý và Mỹ. Với hàng dệt thoi, Việt Nam xếp vị trí thứ 3 sau Trung Quốc và ý, do doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ chú trọng sản xuất các sản phẩm dệt thoi nhiều hơn dệt kim vì sản phẩm dệt thoi thường đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu cho máy móc thiết bị ít hơn, lại dễ sản xuất hơn các sản phẩm dệt kim. Ngoài những mặt hàng trên, một số sản phẩm dệt may khác như: sợi, vải, áo choàng tắm cũng được các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nhưng kim ngạch còn hạn chế.
Từ bảng trên cũng có thể thấy rằng những sản phẩm dành cho nhóm khách hàng cao cấp như các bộ Com lê, bộ váy, quần âu cao cấp, áo măng tô... vẫn còn bị bỏ trống do các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể đáp ứng được yêu cầu của nhóm khách hàng này về mặt chất lượng.
2.2.4.2.Thị trường Nga
Trước đây, hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nga chủ yếu là quần áo bảo hộ, ... Hiện nay, với sự tăng trưởng kinh tế, sự cải thiện các điều kiện xã hôi sức mua và thị hiếu của người tiêu dùng Nga đã thay đổi nhiều so với trước. Điều này đã tác động lớn đến cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của ta sang thị trường này.
Cơ cấu xuất khẩu một số mặt hàng dệt may sang Nga của VINATEX
Đơn vị: 1000 USD
Mặt hàng
1999
2000
2001
2002
2003 *
Jacket và áo khoác
1.1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XK hang det may VN vao cac tri truong phi han ngach.doc