Khóa luận Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hóa của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

Tài liệu Khóa luận Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hóa của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO: Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương --------- cd --------- Khoá luận tốt nghiệp Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Hoàng Ngọc Thiết Sinh viên : Hoàng Anh Tuấn Lớp : Anh 9 - K38C - KTNT Hà Nội - 12/2003 Lời cảm ơn Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại Thương, đặc biệt là các thầy cô trong Ban giám hiệu và Khoa Kinh tế ngoại thương, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em học tập và trưởng thành trong hơn bốn năm học tại trường. Em xin trân trọng cảm ơn thầy Hoàng Ngọc Thiết – Phó giáo sư, Tiến sỹ, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại Thương, người đã nhiệt tâm và tận tình hướng dẫn em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới Tiến sỹ Hoa Hữu Long - Chuyên viên chính, Phó vụ trưởng Vụ Pháp luật Quốc tế và Hợp tác Quốc tế - Bộ Tư pháp, Ông Lê Minh T...

doc121 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hóa của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương --------- cd --------- Khoá luận tốt nghiệp Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Hoàng Ngọc Thiết Sinh viên : Hoàng Anh Tuấn Lớp : Anh 9 - K38C - KTNT Hà Nội - 12/2003 Lời cảm ơn Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại Thương, đặc biệt là các thầy cô trong Ban giám hiệu và Khoa Kinh tế ngoại thương, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em học tập và trưởng thành trong hơn bốn năm học tại trường. Em xin trân trọng cảm ơn thầy Hoàng Ngọc Thiết – Phó giáo sư, Tiến sỹ, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại Thương, người đã nhiệt tâm và tận tình hướng dẫn em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới Tiến sỹ Hoa Hữu Long - Chuyên viên chính, Phó vụ trưởng Vụ Pháp luật Quốc tế và Hợp tác Quốc tế - Bộ Tư pháp, Ông Lê Minh Tâm - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng hàng hoá - Bộ Thương mại, Thạc sỹ Nguyễn Thành Hưng - Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Thương mại, những nhà khoa học đã luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện về tài liệu cập nhật giúp em trong quá trình viết khoá luận. Em cũng xin cảm ơn các cô bác công tác tại thư viện Trường Đại học Ngoại Thương, thư viện Quốc gia, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật và Viện Kinh tế thế giới đã giúp đỡ và cho em mượn những tài liệu quý báu. Cuối cùng, em xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn cổ vũ, quan tâm và tạo điều kiện về thời gian cho em trong suốt quá trình viết khoá luận. Mặc dù đã hết sức cố gắng từ việc nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, tổng hợp các ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực này, song khoá luận vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn của các thầy cô và các bạn. Điều đó là nguồn cổ vũ lớn lao để em tiếp tục con đường khoa học đầy chông gai và thử thách. Người viết Sinh viên Hoàng Anh Tuấn Lời nói đầu Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã đặt ra nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn mới là “tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và tiến tới gia nhập WTO…” Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị quốc gia, 2001 . Thực hiện chủ trương trên của Đảng, chúng ta đã và đang tham gia có hiệu quả vào ASEAN/AFTA, APEC và đang “tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế” Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/1/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế (mục tiêu dự kiến vào năm 2005). Có thể khẳng định, việc gia nhập WTO trong thời gian tới sẽ là bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới. Với sự gia nhập này, chúng ta sẽ tránh được tình trạng bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế, ổn định được thị trường xuất khẩu, từng bước nâng cao vị thế của quốc gia và tạo thế đứng vững chắc hơn trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO cũng đòi hỏi Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế - thương mại sao cho phù hợp với các quy tắc chung của hệ thống thương mại quốc tế, với “luật chơi” chung của thế giới, đồng thời vẫn đảm bảo được quyền lợi của đất nước, độc lập, chủ quyền dân tộc, ổn định đời sống kinh tế - chính trị - xã hội trong nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo “luật chơi” chung của WTO là một vấn đề không hề đơn giản. Bởi lẽ, WTO được tổ chức và vận hành dựa trên một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ nhằm bảo đảm tính khả thi và hiệu quả cao nhất trong mọi hoạt động của mình, nhằm mục đích phối hợp hành động của các quốc gia trong nỗ lực chung là tiến tới tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu. Khuôn khổ đó là một hệ thống các văn bản pháp lý có giá trị ràng buộc tất cả các nước thành viên, gồm 60 Hiệp định, Phụ lục, Quyết định và Văn bản diễn giải mà các nước tham dự Vòng đàm phán Uruguay đã ký thông qua Định ước cuối cùng (Final Act) cùng với Hiệp định thành lập WTO. Theo phạm vi điều chỉnh, những văn bản này gồm 6 nhóm lớn, trong đó nhóm văn bản điều chỉnh quy mô nhất là về thương mại hàng hoá. Chính vì vậy, muốn trở thành thành viên của WTO, Việt Nam nói riêng và tất cả các quốc gia nói chung phải nghiên cứu chế định thương mại hàng hoá đồ sộ của WTO và phải tham gia đầy đủ vào Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT 1994) cùng 12 Hiệp định và rất nhiều Phụ lục liên quan kèm theo. Nhìn lại hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam trong những năm qua, ta có thể thấy rằng các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của chúng ta điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hoá đã liên tục được được ban hành mới, các văn bản chưa phù hợp cũng đã được sửa đổi, bổ sung theo kịp bước phát triển của nền kinh tế cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, với hệ thống các văn bản quy định chặt chẽ và đồng bộ của WTO, chúng ta vẫn phải tiếp tục đối chiếu, rà soát các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về lĩnh vực thương mại hàng hoá với các quy định tương ứng của WTO để từng bước hoàn thiện cho phù hợp hơn nữa, thúc đẩy tiến trình gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này. Chính vì những lý do trên, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. Mục đích của khoá luận Tìm hiểu, phân tích nội dung cơ bản của chế định thương mại hàng hoá của WTO, đồng thời so sánh, đối chiếu những điểm tương đồng và khác biệt giữa các quy định về thương mại hàng hoá của Việt Nam với các quy định tương ứng của WTO. Trên cơ sở đó, khoá luận đưa ra một số giải pháp nhằm điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu chuẩn bị gia nhập WTO (mục tiêu dự kiến vào năm 2005). Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là chế định thương mại hàng hoá của WTO bao gồm Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và các Hiệp định kèm theo (12 Hiệp định) Xem Danh mục các Phụ lục của Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (Hiệp định WTO), trang 19 (List of Annexes, page 19, Final Act embodying the Results of the Uruguay Round of Multilateral Trade Negotiatons. The Uruguay Round, Trade Negotiations Committee) cùng các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam về thương mại hàng hoá. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận chỉ giới hạn ở những quy định và nội dung cơ bản trong các Hiệp định và các văn bản pháp luật kể trên, không đi sâu phân tích chi tiết và toàn bộ các Hiệp định, các văn bản đó, không phân tích các Phụ lục, các Văn bản diễn giải đi kèm các Hiệp định của WTO, cũng như không phân tích các luật thương mại chuyên ngành như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư v.v… Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, diễn giải, quy nạp để nghiên cứu đề tài khoá luận. Ngoài ra, khoá luận còn vận dụng các quan điểm, đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát hệ thống và khẳng định kết quả nghiên cứu. Bố cục của khoá luận Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của khoá luận được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Những quy định cơ bản về thương mại hàng hoá của WTO Chương 2: So sánh pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam với các quy định về thương mại hàng hoá của WTO Chương 3: Quan điểm, nguyên tắc và các giải pháp điều chỉnh hoàn thiện pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO Pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam trước yêu cầu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một vấn đề phức tạp và rộng lớn. Việc nghiên cứu thấu đáo cũng như đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thương mại hàng hoá là yêu cầu bức xúc của khoa học pháp lý Việt Nam, đây cũng là công việc phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm túc. Khoá luận này xin được góp một phần nhỏ vào sự xem xét đó. Danh mục các chữ viết tắt trong khoá luận AA Agreement on Agriculture Hiệp định Nông nghiệp ADP Agreement on Implementation of Article VI of the GATT 1994 (“Anti-Dumping Code”) Hiệp định về thực hiện Điều VI của GATT 1994 (Chống bán phá giá ADP) AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC Asia Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương AS Agreement on Safeguards Hiệp định về Các biện pháp tự vệ ASEAN Association of South East Asian Nations Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á ATC Agreement on Textiles and Clothing Hiệp định về Hàng dệt và May mặc CVA Agreement on Implementation of Article VI of the GATT 1994 (“Customs Value Code”) Hiệp định về thực thi Điều VII của GATT 1994 (Xác định trị giá tính thuế hải quan) DSU Understanding on Rules and Procedures Governing the Settlement of Disputes Bản thoả thuận về Quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp EU European Union Liên minh Châu Âu GATS General Agreement on Trade in Services Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ GATT General Agreement on Tariffs and Trade Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch GSP Generalized System of Preferences Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập ILP Agreement on Import Licensing Procedures Hiệp định về Thủ tục cấp phép nhập khẩu IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế ITO International Trade Organization Tổ chức Thương mại Quốc tế MFN Most-Favoured Nation Đãi ngộ Tối huệ quốc NT National Treatment Nguyên tắc đối xử quốc gia PSI Ageement on Preshipment Inspection Hiệp định về Giám định hàng hoá trước khi gửi hàng ROA Agreement on Rules of Origin Hiệp định về Quy tắc xuất xứ hàng hoá SCM Agreement on Subsidies and Countervailing Measures Hiệp định về Trợ giá và Các biện pháp chống trợ giá SPS Agreement on the Application of Sanitary and Phytosanitary Measures Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịnh động thực vật TBT Agreement on Technical Barriers to Trade Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại TPRM Trade Policy Review Mechanism Cơ chế đánh giá chính sách thương mại TRIMs Agreement on Trade-Related Investment Measures Hiệp định Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại TRIPS Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại UNCTAD United Nations Conference on Trade and Development Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc WB World Bank Ngân hàng Thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới Nguồn: Final Act embodying the Results of the Uruguay Round of Multilateral Trade Negotiatons. The Uruguay Round, Trade Negotiations Committee Chương 1 Những quy định cơ bản về thương mại hàng hoá của wto 1.1. tổng quan về tổ chức thương mại thế giới (WTO) 1.1.1. Lịch sử hình thành WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT ra đời sau Đại chiến Thế giới lần thứ 2 trong trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, mà điển hình là Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay. Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, về thương mại hàng hoá, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. Đồng thời, các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý các biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hoá mậu dịch, mở đường cho cho kinh tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân các nước thành viên. Hiến chương thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thỏa thuận tại Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ 11/1947 đến 24/3/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được. Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1948. Trong quá trình hoạt động của mình từ tháng 1/1948 đến tháng 1/1995, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán Xem thêm Phụ lục 1: Tóm tắt các vòng đàm phán của GATT chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX và đặc biệt từ Vòng đàm phán Uruguay (1986 - 1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề về hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thoả thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrakesh (Marốc), kết thúc Vòng đàm phán Uruguay Xem thêm Phụ lục 2: Tóm tắt thành quả của Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) , các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo đó, WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hợp quốc và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. Tính đến tháng 12 năm 2003, WTO đã có 146 nước và lãnh thổ là thành viên chính thức, 26 nước và vùng lãnh thổ cùng 7 tổ chức quốc tế được hưởng quy chế quan sát viên tại WTO Xem thêm Phụ lục 3: Danh sách thành viên chính thức và các chính phủ nước, tổ chức quốc tế được hưởng quy chế quan sát viên tại WTO . 1.1.2. Mục đích hoạt động của WTO WTO chỉ là một thiết chế quốc tế liên quan đến các quy tắc của thương mại giữa các quốc gia. Hạt nhân của thiết chế này là các Hiệp định của WTO được các quốc gia tham gia quan hệ thương mại quốc tế xây dựng và cam kết thực hiện. Các Hiệp định này đã tạo lập một khung pháp lý vững chắc cho thương mại đa biên, là khuôn khổ ràng buộc chính phủ các nước duy trì chính sách thương mại của mình phù hợp với kỷ cương đã được định lập. Cho dù các Hiệp định đó do chính phủ các nước đàm phán và ký kết với nhau, nhưng đích cuối cùng của chúng là trợ giúp các nhà sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ, các nhà xuất khẩu và nhập khẩu trong điều chỉnh các hành vi thương mại, kinh doanh của họ. WTO có 3 mục đích cơ bản sau: Thứ nhất, giúp cho dòng thương mại càng tự do được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Để làm được như vậy, người ta cố gắng để mọi cái có thể rõ ràng mà không trừu tượng, có thể nhận biết và dự báo trước được. Điều đó có nghĩa WTO phải phấn đấu để bảo đảm cho các cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ các nước hiểu rằng các quy tắc thương mại là thống nhất trên toàn thế giới và không một nước nào được đột nhiên thay đổi chính sách thương mại mà không một cá nhân, tổ chức của nước khác biết trước. Nói một cách khác là các quy tắc thương mại phải “trong sáng, rõ ràng” và có thể lường trước được mọi thay đổi. Thứ hai, thực hiện chức năng của trung tâm dàn xếp, thương lượng và thoả thuận các chính sách, quy tắc thương mại đa biên. Thứ ba, trung tâm để giải quyết các bất đồng, các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động thương mại quốc tế. 1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của WTO Xem thêm Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế, Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, NXB CTQG, 2000, trang 18-24 và Thông tin khoa học pháp lý Chuyên đề về: ASEAN, APEC, WTO - Một số vấn đề pháp lý về tổ chức và hợp tác, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 10/1998, trang 46-51 Hệ thống các hiệp định của WTO khá lớn và đồng bộ, bao quát cả một phạm vi rộng lớn các hoạt động thương mại. Các hiệp định đó liên quan đến nông nghiệp, hàng dệt may, ngân hàng, vô tuyến viễn thông, mua sắm của chính phủ, các tiêu chuẩn công nghiệp, đến sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực khác. Tuy vậy, các nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc nền tảng của WTO xuyên suốt toàn bộ các hiệp định. Các nguyên tắc đó là cơ sở của hệ thống thương mại đa biên. Có thể nêu lên một số nguyên tắc cơ bản sau đây của WTO: 1.1.3.1. Thương mại không phân biệt đối xử Thương mại thế giới phải được thực hiện một cách công bằng, không có sự phân biệt đối xử, với nội dung sau: Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), tức là chế độ đãi ngộ ở các lĩnh vực mình dành cho hàng hoá của một nước bạn hàng này tới mức nào thì cũng phải dành cho hàng hoá của các nước bạn khác chế độ đãi ngộ như vậy, bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử nào. Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ Đối xử quốc gia (NT), tức là chế độ không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu với hàng sản xuất trong nước, khi hàng nhập khẩu được đưa vào thị trường trong nước. Các quốc gia có chính sách đối xử như thế nào đối với hàng hoá sản xuất trong nước thì cũng phải đối xử như vậy đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên WTO. Chế độ MFN và chế độ NT chủ yếu dành cho hàng hoá khi áp dụng các chính sách ở lĩnh vực thuế quan, phi thuế quan, thanh toán, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm… cả trong thương mại đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ, và đều có những trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, hiện nay cộng đồng quốc tế đang tích cực vận động để mở rộng chế độ MFN, NT đối với cả thương nhân, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, thương mại dịch vụ và các thể nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. 1.1.3.2. Nguyên tắc tự do hoá thương mại Xu thế chung của các quốc gia là luôn luôn xác định thương mại là yếu tố mang tính quyết định hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước, trong đó thị trường là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Do vậy, cộng đồng thương mại quốc tế mà đại diện là WTO luôn xác định tự do hoá thương mại là mục tiêu hàng đầu phải nỗ lực thực hiện. Nội dung cốt lõi của nguyên tắc tự do hoá thương mại này là cắt giảm dần từng bước hàng rào thuế quan và phi thuế quan, để đến một lúc nào đó trong tương lai sẽ xoá bỏ hoàn toàn, mở đường cho thương mại phát triển. Tự do hoá thương mại gắn với việc dỡ bỏ hàng rào thương mại thông qua đàm phán song phương và đa phương phù hợp với pháp luật, thể lệ và khả năng cụ thể của từng nước. Đến nay hầu hết các nước đều hưỏng ứng chủ trương tự do hoá thương mại của WTO để tranh thủ khả năng và cơ hội hợp tác, liên kết kinh tế ở các mức độ khác nhau, tham gia vào phân công lao động quốc tế, thâm nhập vào thị trường quốc tế ngày càng sâu sắc hơn. 1.1.3.3. Nguyên tắc bảo hộ bằng hàng rào thuế quan Tuy chủ trương tự do hoá thương mại, nhưng WTO vẫn thừa nhận sự cần thiết của bảo hộ mậu dịch vì các nước đều nhận thấy thực tiễn thế giới có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, thương mại giữa các nước. Nguyên tắc bảo hộ mậu dịch mà WTO chủ trương là bảo hộ bằng hàng rào thuế quan, không ủng hộ bảo hộ mậu dịch bằng hàng rào phi thuế quan hoặc các biện pháp hành chính. Các nước có nghĩa vụ phải công bố mức thuế trần cam kết, để rồi từ đó cùng với các nước WTO khác thương lượng giảm dần. Chỉ có giảm, mà không có tăng quá mức trần cam kết, nếu tăng quá thì phải bồi thường nhanh chóng, kịp thời và thoả đáng cho các nước bị thiệt hại. Ngoài ra, mỗi nước phải cam kết mốc thời gian thực hiện lộ trình cắt giảm dần để tiến tới mục tiêu xoá bỏ hàng rào quan thuế. 1.1.3.4. Nguyên tắc ổn định trong thương mại Nguyên tắc này còn gọi là “có thể dự đoán trước được” WTO chủ trương thương mại quốc tế phải được tiến hành trên cơ sở ổn định, rõ ràng, minh bạch, không ẩn ý. Để thực hiện nguyên tắc này, WTO quy định: Các nước thành viên phải thông qua đàm phán, đưa ra các cam kết với những lộ trình thực hiện cụ thể. Tuy thừa nhận quyền của mỗi nước thành viên được đàm phán lại các cam kết của mình, nhưng WTO quy định nghĩa vụ phải đền bù các thiệt hại có thể xảy ra cho các thành viên khác. Mọi chế độ, chính sách thương mại của quốc gia phải được công bố công khai cho mọi người, ổn định trong thời gian dài và có thể dự báo trước những rủi ro có thể xảy ra. Nếu quốc gia có thay đổi thì phải thông báo trước cho các doanh nghiệp, cá nhân có đủ thời gian nghiên cứu, góp ý, phản ánh nguyện vọng của họ trước khi đưa chính sách đã thay đổi đó ra áp dụng. Nguyên tắc này giúp môi trường kinh doanh có tính ổn định, lành mạnh và có thể dự đoán trước được. 1.1.3.5. Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh công bằng WTO luôn chủ trương tăng cường cạnh tranh lành mạnh, công bằng trong thương mại quốc tế, để cho chất lượng, giá cả quyết định vận mệnh của hàng hoá trong cạnh tranh trên thương trường; không được dùng quyền lực Nhà nước để áp đặt, bóp méo tính lành mạnh, công bằng của cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Nguyên tắc này đã được nhấn mạnh trong các lĩnh vực như quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước; quyền cấp phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; cấp hạn ngạch; trợ giá; bán phá giá; quản lý ngoại hối; quản lý giá cả và các hoạt động trong lĩnh vực phi thuế quan khác. 1.1.3.6. Nguyên tắc không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu WTO chủ trương không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép có những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng các hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu (QR), khi nước đó gặp khó khăn về cán cân thanh toán, hoặc do trình độ phát triển thấp của nền kinh tế trong nước, hoặc vì những lý do về môi trường, an ninh quốc gia. Tuy vậy, đây chỉ là những trường hợp đặc biệt, có tính chất tạm thời, cần có thời hạn cụ thể để xoá bỏ hẳn. 1.1.3.7. Quyền được khước từ và được tự vệ trong trường hợp khẩn cấp Nguyên tắc này được ghi nhận trong GATT 1994. Điều XXV của GATT 1994 cho phép trong một số trường hợp thật đặc biệt, một nước có thể khước từ việc thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ cam kết. Tuy vậy, đây chỉ là một quyền hết sức tạm thời và phải được 3/4 số phiếu biểu quyết tán thành Xem thêm khoản 3,4 Điều IX Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (Hiệp định WTO) . Điều XIX của GATT 1994 còn cho phép một nước thành viên áp dụng những biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp, khi nền sản xuất trong nước bị hàng hoá nhập khẩu đe doạ. Với quyền tự vệ này, mỗi nước có thể sử dụng hình thức tăng thuế nhập khẩu vượt mức trần cam kết hoặc áp dụng hình thức hạn chế số lượng hoặc các hình thức khác để hạn chế nhập khẩu, hỗ trợ sản xuất trong nước. Tuy vậy, biện pháp này chỉ có tính tạm thời và phải áp dụng bình đẳng, công khai. 1.1.3.8. Nguyên tắc tôn trọng các tổ chức quốc tế khu vực WTO là đại diện cho thương mại toàn cầu, nhưng vẫn thừa nhận những tổ chức kinh tế khu vực hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế, miễn là những tổ chức này tuân thủ nguyên tắc tự do hoá thương mại, thực hiện chính sách kinh tế mở, hướng ngoại, không co cụm, thực hiện việc loại bỏ dần hoặc giảm dần các hàng rào quan thuế, phi quan thuế gây cản trở cho dòng thương mại toàn cầu. Do vậy, nguyên tắc MFN được miễn trừ trong quan hệ giữa các nước thành viên của tổ chức kinh tế, thương mại khu vực dưới hình thức liên minh thuế quan hoặc khu vực mậu dịch tự do. 1.1.3.9. Nguyên tắc dành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và chậm phát triển Phần IV GATT 1994 thừa nhận sự cần thiết phải dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển những điều kiện thuận lợi hơn trong thương mại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ. Đối với những nước này, các nước công nghiệp phát triển sẽ không yêu cầu có đi có lại trong các cam kết, giảm hoặc bỏ hàng rào thuế quan hoặc phi thuế quan để các nước đó có thể tham gia đầy đủ vào thương mại thương mại quốc tế. Trong điều khoản “hỗ trợ khả năng” của WTO, các nước phát triển cam kết dành chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) cho các nước đang phát triển và chế độ ưu đãi thương mại đặc biệt cho các nước chậm phát triển nhất. 1.1.4. Hệ thống các hiệp định của WTO Xem thêm Danh mục các chữ viết tắt trong khoá luận Hệ thống các hiệp định của WTO đến nay gồm có: (1) Hiệp định Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (Hiệp định WTO) (2) Các Hiệp định đa biên về thương mại hàng hoá, trong đó gồm: - Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994) - Các Hiệp định kèm theo: + Hiệp định về thực hiện Điều VII của GATT 1994 (Xác định trị giá tính thuế hải quan) + Hiệp định về Giám định hàng hoá trước khi gửi hàng (PSI) + Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) + Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịnh động thực vật (SPS) + Hiệp định về Thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP) + Hiệp định về Các biện pháp tự vệ (AS) + Hiệp định về Trợ giá và Các biện pháp chống trợ giá (SCM) + Hiệp định về thực hiện Điều VI của GATT 1994 (Chống bán phá giá ADP) + Hiệp định Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) + Hiệp định về Hàng dệt may (ATC) + Hiệp định Nông nghiệp (AA) + Hiệp định về Quy tắc xuất xứ hàng hoá (ROA) (3) Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) (4) Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) (5) Bản thoả thuận về Quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU) (6) Cơ chế rà soát chính sách thương mại (TPRM) (7) Hiệp định thương mại nhiều bên - Hiệp định về thương mại máy bay dân dụng - Hiệp định về mua sắm chính phủ - Hiệp định quốc tế về bơ sữa - Hiệp định quốc tế về thịt bò Nguồn: Final Act embodying the Results of the Uruguay Round of Multilateral Trade Negotiatons. The Uruguay Round - Trade Negotiations Committee WTO chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện các Hiệp định này. Tổ chức này cũng đóng vai trò là diễn đàn đàm phán giữa các nước nhằm tự do hoá hơn nữa thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ. Nó cũng đưa ra một cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên. Bất cứ nước thành viên nào cho rằng thương mại của mình bị ảnh hưởng bất lợi vì một nước khác không tuân thủ các quy tắc, nếu không đi đến được một giải pháp thoả đáng thông qua tham vấn song phương, có thể đưa vấn đề ra WTO để giải quyết. Mọi vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của WTO được quyết định tại Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên. Hội nghị hai năm họp ít nhất một lần. 1.2. Những quy định cơ bản Về thương mại hàng hoá CủA WTO 1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản của WTO về thương mại hàng hoá ở phần trên, chúng ta đã tìm hiểu và phân tích các nguyên tắc cơ bản nhất của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) (gồm 9 nguyên tắc). Đó được coi là những nguyên tắc nền tảng nhằm điều chỉnh và chi phối mọi quy định, mọi hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của WTO từ thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ đến sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp… Tuy nhiên, ở từng lĩnh vực cụ thể, WTO lại có một số nguyên tắc cơ bản điều chỉnh riêng cho lĩnh vực đó. Trên cơ sở như vậy, chế định thương mại hàng hoá đồ sộ của WTO bao gồm Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT 1994) cùng 12 Hiệp định và rất nhiều Phụ lục, Quyết định, Các văn bản diễn giải liên quan kèm theo được xây dựng dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản sau đây: Nguyên tắc thứ nhất: Chỉ sử dụng thuế quan để bản hộ nền sản xuất trong nước. Theo nguyên tắc này, trong khi thừa nhận các nước cần theo đuổi chính sách thương mại mở và tự do nhưng đồng thời cũng cho phép các nước bảo hộ nền sản xuất trong nước tránh sự cạnh tranh của nước ngoài, miễn là sự bảo hộ này chỉ được thực hiện thông qua thuế quan và chỉ ở mức thấp. Để đạt được điều đó, nguyên tắc này nghiêm cấm các nước sử dụng các hạn chế định lượng, trừ những trường hợp ngoại lệ. Nguyên tắc chống hạn chế định lượng đã dh củng cố thêm tại Vòng đàm phán Uruguay. Nguyên tắc thứ hai: Cần giảm thuế quan và cam kết ràng buộc không tăng thêm. Nguyên tắc này quy định về việc giảm và xoá bỏ thuế quan và các rào cản thương mại khác thông qua đàm phán đa phương. Mức giảm thuế quan được liệt kê trên cơ sở dòng thuế quan trong Danh mục nhượng bộ của mỗi nước. Mức thuế trong Danh mục nhượng bộ này còn được gọi là mức thuế ràng buộc. Các nước không được phép nâng thuế suất vượt quá mức thuế ràng buộc ghi trong Danh mục. Nguyên tắc thứ ba: Thương mại theo quy chế Tối huệ quốc. Nguyên tắc này yêu cầu các nước tiến hành buôn bán mà không được phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu hoặc giữa các nước nhập khẩu hàng hoá đó. Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể trong quy định về Đối xử Tối huệ quốc (MFN). Trường hợp ngoại lệ đặc biệt của nguyên tắc này là thoả thuận ưu đãi khu vực. Nguyên tắc thứ tư: Đối xử quốc gia. Nguyên tắc này yêu cầu các nước không được đánh thuế nội địa như thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng vào các sản phẩm nhập khẩu, sau khi hàng hoá đó đã vào thị trường nội địa và nộp thuế nhập khẩu tại biên giới, theo mức thuế cao hơn mức thuế đánh vào sản phẩm nội địa tương tự. 1.2.1. Quy định cụ thể về Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia 1.2.1.1. Đối xử Tối huệ quốc (MFN) Theo Điều I Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT 1994), chế độ Đối xử Tối huệ quốc (MFN) yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các nước thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. Hơn thế nữa, nghĩa vụ đối xử Tối huệ quốc không chỉ hạn chế ở thuế quan mà còn áp dụng đối với: (i) bất kỳ khoản phí nào liên quan tới nhập khẩu và xuất khẩu; (ii) phương pháp đánh thuế và các khoản phí nói trên; (iii) những quy tắc và thủ tục liên quan đến xuất khẩu và nhập khẩu; (iv) thuế và phí nội địa đối với hàng nhập khẩu và các luật lệ, quy định, điều kiện ảnh hưởng đến việc bán hàng. Tuy vậy, vẫn có những ngoại lệ đối với nguyên tắc này. Điều XXIV GATT 1994 quy định các trường hợp ngoại lệ đối với thương mại giữa các nước thành viên của các liên minh thuế quan hoặc khu vực thương mại tự do, hay các nước có chung đường biên giới, được hưởng thuế suất ưu đãi hay được miễn giảm thuế. Một ngoại lệ khác tạo ra qua Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Theo hệ thống này, các nước phát triển áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc miễn giảm thuế cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước đang phát triển, nhưng lại áp dụng thuế suất MFN cho hàng hoá nhập khẩu từ các quốc gia khác. Điều XX của GATT 1994 quy định về các ngoại lệ chung, theo đó nguyên tắc này không áp dụng trong các trường hợp để bảo vệ đạo đức công cộng; sức khoẻ và cuộc sống của con người, động thực vật; di sản quốc gia; nguồn tài nguyên có thể cạn kiệt; nhằm thực hiện một kế hoạch ổn định kinh tế của chính phủ; bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không trái với quy định của Hiệp định; nhằm phân phối một sản phẩm thuộc diện khan hiếm chung trong nước hay tại một địa phương; nhằm bảo vệ an ninh và bí mật của quốc gia; hoặc liên quan đến lao động tù nhân. 1.2.1.2. Đối xử quốc gia (NT) Như trên đã nêu, nguyên tắc đối xử Tối huệ quốc yêu cầu các thành viên không phân biệt đối xử giữa các nước. Nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT) bổ sung cho đối xử Tối huệ quốc. Theo nguyên tắc NT quy định tại Điều III GATT 1994, một mặt hàng nhập khẩu sau khi đã đi qua biên giới và đã trả các khoản thuế quan cũng như các khoản phí khác sẽ không bị đối xử kém ưu đãi hơn so với các sản phẩm nội địa tương tự. Nói cách khác, nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên đối xử với các hàng nhập khẩu trên cùng cơ sở như hàng sản xuất trong nước. Vì vậy, các nước không được phép đánh các khoản thuế nội địa (ví dụ thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng VAT) với mức thuế suất cao hơn mức áp dụng cho các sản phẩm nội địa tương ứng đối với hàng nhập khẩu sau khi nó đã thanh toán các khoản thuế quan tại biên giới. Tương tự như vậy, các quy định tác động đến việc mua bán sản phẩm tại thị trường trong nước cũng không thể áp dụng nghiêm ngặt hơn đối với hàng nhập khẩu. 1.2.3. Những quy định về thuế quan của WTO 1.2.3.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế quan Thuế quan là loại thuế lấy vật phẩm xuất khẩu qua biên giới quốc gia hay quá cảnh làm đối tượng thu thuế, tạo thành khoản thu nhập thuế của Nhà nước do hải quan thực hiện. Mục đích thu thuế quan trong thời kỳ xã hội phong kiến và trước đó chủ yếu là để tăng thu nhập tài chính quốc gia. Sau khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển, thuế quan không chỉ là nguồn thu tài chính, mà còn là công cụ thực hiện chính sách kinh tế thương mại của các nước cận và hiện đại. Theo những tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân loại và gọi tên thuế quan theo nhiều cách. Ví dụ: theo hướng lưu thông hàng hoá xuất nhập khẩu có thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu, thuế quá cảnh; theo phương pháp đánh thuế có thuế quan tính theo giá, thuế quan tính theo lượng, thuế quan hỗn hợp; theo mức ưu đãi có thuế quan thông thường, thuế quan ưu đãi, thuế quan ưu đãi đặc biệt, thuế quan đãi ngộ Tối huệ quốc... Mặc dù có thể phân ra nhiều loại thuế như vậy nhưng thuế quan nói chung có những đặc điểm chủ yếu sau: - Tạo nguồn thu cho ngân sách. - Bảo hộ và thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển. - Cản trở sự phát triển của thương mại. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, WTO, cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế khác, luôn coi mục tiêu quan trọng của mình là tự do thương mại, huỷ bỏ hoặc cắt giảm rào cản thương mại, trong đó có thuế quan. 1.2.3.2. Quy định về thuế quan WTO thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, còn các hàng rào phi thuế phải được bãi bỏ. Sở dĩ như vậy là do thuế quan là biện pháp bảo hộ ít bóp méo thương mại nhất và cũng là biện pháp mang tính minh bạch hơn cả. Thuế hoá: chỉ sử dụng thuế quan Do tính rõ ràng và dễ đàm phán cắt giảm của thuế quan, các thành viên WTO thoả thuận một cách thức mới cho việc tiếp cận thị trường là "chỉ sử dụng thuế quan". Các biện pháp hạn chế số lượng tồn tại trước vòng Uruguay nay phải tiến hành "thuế hoá" (Tariffication) tức là chuyển biện pháp phi thuế đó thành một mức thuế quan bổ sung có tác dụng tương đương. Mức thuế đạt được sau khi thuế hoá sẽ tiếp tục được ràng buộc và cắt giảm thông qua đàm phán. Trong tương lai 95% số hàng hoá trong mậu dịch quốc tế sẽ được điều tiết chủ yếu bằng công cụ thuế quan. Cắt giảm thuế Từ khi ra đời cho đến nay, GATT, mà nay là WTO, đã bỏ ra rất nhiều nỗ lực để cắt giảm thuế quan đánh vào hàng hoá nhập khẩu. Có thể thấy trong tất cả 8 vòng đàm phán từ năm 1947 đến năm 1994, chủ đề chính vẫn là cắt giảm và ràng buộc thuế quan. Với các nước phát triển thì việc thực hiện cắt giảm thuế quan không phải là khó khăn. Nhưng với các nước đang phát triển, vốn có nguồn thu ngân sách hạn hẹp và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước yếu kém thì đây quả là một vấn đề nan giải. Tuy vậy, các thành viên của GATT đã đạt được thoả thuận giảm thuế cho 89.000 hạng mục hàng hoá. Riêng ở vòng đàm phán Uruguay, các cam kết cắt giảm và ràng buộc thuế quan đối với hàng nhập khẩu của các nước thành viên đã lên tới 22.500 trang văn bản. Bảng 1: Mức thuế trung bình trước và sau Vòng Uruguay Đơn vị: % Tên nước Nơi đến Các nước công nghiệp Các nước đang phát triển Các nước có nền kinh tế chuyển đổi Trước Sau Mức giảm Trước Sau Mức giảm Trước Sau Mức giảm Các nước công nghiệp 5,5 3,0 45 14,9 10,7 28 10,4 7,7 26 Mỹ 4,4 1,9 57 13,6 10,2 25 8,3 6,1 27 EU 5,8 3,5 40 18,4 13,8 25 10,6 7,9 25 Nhật 6,2 3,6 42 14,1 9,3 34 14,0 10,9 22 Nước khác 4,9 2,4 51 12,4 9,0 35 9,6 7,0 27 Nước đang phát triển 6,9 4,8 30 10,0 7,1 29 12,1 8,8 27 Mỹ la-tinh 4,4 3,2 27 13,4 10,1 25 5,1 2,9 43 Châu á 7,8 5,2 33 9,6 6,7 30 13,7 9,7 29 Châu Mỹ 8,4 6,7 20 2,5 1,1 56 5,0 2,8 44 Châu Âu 9,5 7,3 23 18,6 14,9 20 16,0 13,9 13 Nước có nền kinh tế chuyển đổi 5,9 3,6 39 20,8 15,7 25 0,4 0,3 25 Nguồn: World Bank Việc cắt giảm thuế quan đem đến cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng cơ hội được mua hàng hay thiết bị vật tư đầu vào cùng chất lượng với giá thấp hơn. Một khi thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào rẻ hơn thì sản phẩm đầu ra của các nhà sản xuất trong nước cũng có sức cạnh tranh hơn. Đồng thời, thuế nhập khẩu giảm sẽ kích thích nhập khẩu. Vì thế các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh ngày càng trực diện hơn với hàng ngoại nhập. Tuy vậy, có thể rút ra một điều là cắt giảm thuế quan không những đem lại lợi ích cho nước xuất khẩu mà còn khuyến khích các nước nhập khẩu nâng cao được năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình một khi họ thực sự cố gắng. Ràng buộc thuế quan Khi các nước đã công bố biểu thuế của mình cùng với sự cắt giảm thuế thì đồng thời cũng phải cam kết không tăng thuế vượt quá mức đã đưa ra. Việc cam kết không tăng thuế này gọi là Ràng buộc Thuế quan (Tariff Binding) và mức thuế đó gọi là Thuế suất Ràng buộc (Bound Tariff Rates). Trên thực tế, có thể gặp tới 3 loại ràng buộc thuế quan tương ứng với mức độ ràng buộc: - Thuế suất ràng buộc cao hơn thuế suất thực tế đang áp dụng. Trường hợp này hay gặp ở các nước đang phát triển. Mức thuế ràng buộc được gọi là mức thuế trần. Vì giữa mức thuế thực tế và mức thuế trần có một khoảng cách nên nước cam kết ràng buộc thuế hoàn toàn có thể tăng thuế suất thực tế của mình mà vẫn không vi phạm cam kết. - Thuế suất ràng buộc bằng thuế suất thực tế áp dụng. - Thuế suất ràng buộc thấp hơn thuế suất thực tế áp dụng. Hai trường hợp sau thường gặp ở các nước phát triển. Các nước này tự tin về khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước mình trước những hàng hoá nhập khẩu chịu thuế suất thấp. Vì thế, họ sẵn sàng đưa ra thuế suất ràng buộc bằng, thậm chí thấp hơn thuế suất thực tế áp dụng, thể hiện thiện chí giảm thuế và sự chuẩn bị chu đáo, kỹ càng trong lịch trình giảm thuế để đạt được thuế suất ràng buộc trong một khoảng thời gian cụ thể. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, các nước thành viên cam kết ràng buộc thuế quan đối với 100% các mặt hàng, Hầu như tất cả các hạn chế khác đều được quyền chuyển sang thuế. Còn trong lĩnh vực công nghiệp, các nước phát triển tăng mức cam kết ràng buộc từ 77% lên 99% mặt hàng, các nước đang phát triển cũng tăng từ 21% lên 73%, các nước có nền kinh tế chuyển đổi tăng từ 73% lên 98%. Các con số này đảm bảo mức độ tiếp cận thị trường an toàn hơn cho các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế. WTO có thể chấp nhận việc phá bỏ cam kết ràng buộc thuế trong một số trường hợp ngoại lệ nhưng sau đó, nước phá bỏ cam kết ràng buộc thuế phải đền bù cho phần thương mại mà các bạn hàng bị mất đi. Không phân biệt đối xử Thuế quan phải được áp dụng trên nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) cho tất cả các thành viên của WTO. Mà chế độ MFN của WTO, như đã được nghiên cứu ở phần trước, là chế độ MFN đa phương, vô điều kiện. Vì thế, nếu một nước, thông qua đàm phán, giảm thuế quan cho một mặt hàng nhất định của một nước khác thì cũng phải giảm thuế quan cho mặt hàng đó của tất cả các thành viên của WTO còn lại một cách vô điều kiện và ngay lập tức. Đây là một điều hết sức quý giá vì bất kỳ một quốc gia nào gia nhập WTO vào thời điểm hiện nay sẽ được hưởng ngay lập tức và vô điều kiện kết quả của suốt hơn 50 năm với 8 vòng đàm phán ròng rã cắt giảm thuế quan đa phương mà không phải mất một công sức gì. Quốc gia đó đương nhiên được hưởng thuế quan MFN và các ưu đãi liên quan tới thủ tục về thuế khác của tất cả các thành viên của WTO dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử. 1.2.4. Những quy định về các biện pháp phi thuế quan của WTO WTO thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp trong nước. Ngoài thuế quan ra, các hàng rào cản trở thương mại khác phải bị loại bỏ. Tuy nhiên, các thành viên có thể sử dụng các biện pháp phi thuế để hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia, văn hoá truyền thống, môi trường, sức khoẻ con người... Theo WTO, có những biện pháp phi thuế quan chủ yếu sau: 1.2.4.1. Cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu Nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO không cho phép các nước sử dụng biện pháp cấm xuất khẩu hay cấm nhập khẩu vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến luồng lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia với nhau, hạn chế sự phát triển của thương mại thế giới. Do đó, Điều XI GATT 1994 quy định: "Không một nước thành viên nào được sử dụng một biện pháp cấm hay hạn chế nào trừ thuế quan, dù mang hình thức hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các biện pháp khác nhằm vào việc nhập khẩu từ bất kỳ một nước thành viên khác" (Điều XI.1 - GATT 1994). 1.2.4.2. Hạn ngạch Hạn ngạch là biện pháp hạn chế số lượng xuất, nhập khẩu. Có hai loại hạn ngạch: - Hạn ngạch xuất khẩu (Export quotas): Hạn ngạch xuất khẩu là các hạn chế về giới hạn trần do nước xuất khẩu áp đặt cho tổng giá trị hoặc tổng khối lượng của một số sản phẩm nhất định. Hạn ngạch xuất khẩu được đặt ra để bảo vệ các nhà sản xuất và tiêu dùng trong nước khỏi sự thiếu hụt tạm thời của các sản phẩm và để cải thiện giá của các sản phẩm trên thị trường thế giới bằng việc thu hẹp nguồn cung cấp chúng. - Hạn ngạch nhập khẩu (Import quotas): Hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế trực tiếp về khối lượng hoặc giá trị nhập khẩu của những loại hàng hoá nhất định được phép mang từ nước ngoài vào trong một thời gian nhất định, thường là một năm. ở các nước phát triển, hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng để bảo vệ nông nghiệp, ví dụ hạn ngạch nhập khẩu pho-mát, đường ở Mỹ và EU. Còn các quốc gia đang phát triển quy định hạn ngạch nhập khẩu để bảo vệ sản xuất nội địa, hỗ trợ sản xuất hàng thay thế nhập khẩu mà phần lớn là công nghệ chế tạo hay công nghiệp chế biến và để cân bằng cán cân thanh toán. Việc quy định hạn ngạch hoàn toàn không có lợi cho tiêu dùng. Xã hội phải bỏ ra khoản chi phí cho việc bảo hộ sản xuất nội địa kém hiệu quả. Hạn ngạch cản trở tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường thế giới. Vì vậy, Điều XI GATT 1994 quy định: "Không một nước thành viên nào được sử dụng một biện pháp cấm hay hạn chế nào trừ thuế quan, dù mang hình thức hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các biện pháp khác nhằm vào việc nhập khẩu từ bất kỳ một nước thành viên khác" (Điều XI.1 - GATT 1994). Tuy vậy, WTO cũng vẫn cho phép được sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp ngoại lệ: đảm bảo an ninh lương thực (Điều XI.2.a); áp dụng các tiêu chuẩn hay quy chế về phân loại, xếp hạng, tiếp thị các sản phẩm trên thị trường quốc tế (Điều XI.2.b); triển khai các biện pháp của chính phủ được áp dụng đối với nông sản (Điều XI.2.c); bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán (Điều XII); và các ngoại lệ chung: để bảo vệ đạo đức xã hội; để bảo vệ cuộc sống của con người, động vật, thực vật; để bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không bất cập với các quy định của GATT; để bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ... (Điều XX) hay để bảo vệ các quyền lợi thiết yếu tới an ninh, duy trì hoà bình và an ninh quốc tế (Điều XXI). Các nước thành viên WTO sau khi đã viện dẫn đến các ngoại lệ nói trên, còn phải cam kết tránh gây tổn hại cho quyền lợi kinh tế của bất kỳ nước thành viên nào. Trong trường hợp các hạn ngạch được áp dụng với hàng nhập khẩu có tính chất kéo dài và có thể dẫn tới sự mất thăng bằng chung làm giảm khối lượng thương mại quốc tế thì vấn đề sẽ được đưa ra thảo luận bởi tất cả các thành viên WTO. Khi áp dụng hạn ngạch, các nước còn phải tuân theo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Tức là việc hạn chế hàng xuất, nhập khẩu phải được áp dụng cho những mặt hàng tương tự xuất khẩu đi hoặc nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên WTO (Điều XIII.1). Điều XIII.2 còn quy định khi áp dụng hạn ngạch nhập khẩu với một sản phẩm, các nước sẽ cố gắng đạt đến sự phân bổ sản phẩm đó gần sát nhất với thực trạng thương mại khi không có hạn ngạch, theo các quy định sau: - Khi có thể tiến hành được, phải xác định và công bố tổng hạn ngạch cho phép nhập khẩu cũng như công bố mọi thay đổi liên quan. - Khi không thể xác định được tổng hạn ngạch, các hạn chế về số lượng có thể được áp dụng bằng giấy phép nhập khẩu không hạn ngạch để thay thế. - Khi hạn ngạch được phân bổ giữa các nước xuất khẩu, nước áp dụng hạn ngạch có thể thoả thuận với các nước có quyền lợi đáng kể trong việc các sản phẩm đó về mức phân bổ. 1.2.4.3. Cấp phép nhập khẩu Các thủ tục cấp phép nhập khẩu quốc gia có thể tác động không có lợi đến quá trình nhập khẩu, đặc biệt nếu những thủ tục đó không minh bạch hoặc gây chậm trễ không cần thiết trong việc cấp phép. Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (Agreement on Import Licensing Procedures - Hiệp định ILP) đề ra những nguyên tắc và quy tắc cụ thể để khẳng định rằng quá trình thương mại quốc tế không bị cản trở do việc áp dụng những thủ tục cấp phép nhập khẩu không thích hợp và những thủ tục đó phải được thực hiện một cách công bằng và hợp lý. Để buôn bán thuận lợi, quan điểm cơ bản của GATT quy định là những đòi hỏi về thủ tục và lập chứng từ xuất nhập khẩu cần duy trì ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, GATT thừa nhận rằng thường với những lý do khác nhau, các nước yêu cầu các nhà nhập khẩu phải có giấy phép nhập khẩu. Chế độ cấp phép như vậy có thể được áp dụng để quản lý về hạn chế định lượng, trong những trường hợp cần thiết nhất định cho phép các nước thành viên áp dụng những hạn chế ấy. Cũng có thể được sử dụng chế độ này để giám sát thống kê thương mại hoặc giá cả của một số hàng hoá nhất định. Điều 1 Hiệp định ILP đề ra những quy tắc cho việc áp dụng và thi hành các thủ tục nhà nước về cấp phép nhập khẩu. Hiệp định định nghĩa “việc cấp phép nhập khẩu” là “các thủ tục hành chính … yêu cầu xuất trình đơn xin cấp … cho cơ quan quản lý liên quan, là điều kiện tiên quyết cho việc nhập khẩu… hàng hoá”. Hiệp định ILP bắt buộc các nước thành viên công bố tất cả quy định về thủ tục cấp phép nhập khẩu, để các nhà nhập khẩu, xuất khẩu và chính phủ của họ hiểu biết đầy đủ về: tư cách của những cá nhân, các công ty và các tổ chức làm đơn xin cấp; cơ quan quản lý hành chính chịu trách nhiệm cấp giấy phép; và những sản phẩm cần có giấy phép. Hiệp định phân định giấy phép nhập khẩu thành hai loại: loại giấy phép tự động và loại giấy phép không tự động. Cụ thể: Cấp phép nhập khẩu tự động (mặc nhiên): Theo chế độ này, các cơ quan hành chính có thẩm quyền cấp phép một cách tự động mà không được tuỳ ý quyết định và “giấy phép được cấp trong tất cả các trường hợp”. Hiệp định yêu cầu việc chấp thuận hoặc cấp phép lập tức ngay khi chấp nhận đơn và “chỉ trong thời hạn tối đa là 10 ngày làm việc” bất luận trong trường hợp nào (Điều 2 Hiệp định ILP). Cấp phép nhập khẩu không tự động (có điều kiện): Chế độ cấp phép có điều kiện được sử dụng cho mục đích chủ yếu của chính phủ là hạn chế nhập khẩu. Chính phủ có thể thực hiện điều này bằng cách thông báo hạn ngạch hoặc giới hạn định lượng áp dụng đối với hàng hoá hạn chế. Hiệp định đòi hỏi giấy phép nhập khẩu phải được cấp trong vòng 30 ngày kể từ lúc nhận đơn, thủ tục nơi cấp phép quy định rằng giấy phép được cấp trên cơ sở “đến trước giải quyết trước”. Trường hợp trong vòng 60 ngày tính từ ngày ngừng nhận đơn xin cấp phép thì giấy phép được cấp trên cơ sở “được xem xét đồng thời” (Điều 3 Hiệp định ILP). 1.2.4.4. Các biện pháp kiểm dịch động thực vật Thuật ngữ “Quy định kiểm dịch động vật” chỉ các quy định có mục tiêu cơ bản nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm, ngăn chặn các bệnh tật lây truyền qua động vật không cho phép nhập khẩu vào một quốc gia. Còn “Quy định kiểm dịch thực vật” là các quy định nhằm ngăn chặn những căn bệnh lây truyền qua thực vật. Theo Phụ lục A của Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịnh động thực vật (Agreement on the Application of Sanitary and Phytosanitary Measures - Hiệp định SPS), các biện pháp kiểm dịch động thực vật được các nước áp dụng để bảo vệ: (i) cuộc sống của con người hoặc vật nuôi khỏi rủi ro do lương thực gây ra do việc sử dụng chất phụ gia, chất gây ô nhiễm, độc tố hoặc các tổ chức gây bệnh (và do đó đảm bảo được an toàn thực phẩm); (ii) sức khoẻ con người khỏi các bệnh lây nhiễm từ vật nuôi hoặc cây trồng; (iii) vật nuôi và cây trồng khỏi các loại sâu và dịch bệnh. Quy định về việc sử dụng các biện pháp kiểm dịch được nêu trong Hiệp định SPS yêu cầu các quốc gia thành viên phải: (i) Hướng dẫn xây dựng các biện pháp SPS căn cứ vào các tiêu chuẩn chỉ dẫn và khuyến nghị quốc tế được các tổ chức sau xây dựng: Uỷ ban dinh dưỡng Codex; Văn phòng quốc tế về bệnh dịch động thực vật; Các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan, hoạt động trong khuôn khổ Công ước Bảo vệ Thực vật quốc tế; hoặc Bất kỳ tổ chức quốc tế nào khác do Uỷ ban về SPS của WTO uỷ quyền (Lời tựa Hiệp định SPS); (ii) Tham gia đầy đủ vào hoạt động của các tổ chức quốc tế nêu trên nhằm thúc đẩy việc hài hoà các biện pháp SPS trên bình diện quốc tế (Điều 3.4 Hiệp định SPS); (iii) Tạo cơ hội cho các bên liên quan ở các nước thành viên khác góp ý cho dự thảo các tiêu chuẩn nếu các tiêu chuẩn đó không có cơ sở là các tiêu chuẩn quốc tế, hoặc đi chệch khỏi các tiêu chuẩn quốc tế hoặc khi không có tiêu chuẩn quốc tế liên quan (Điều 5 Hiệp định SPS); (iv) Chấp nhận các biện pháp SPS của nước xuất khẩu nếu các biện pháp đó đạt cùng mức độ bảo vệ SPS và tham gia, khi có thể, vào các thảo thuận thừa nhận lẫn nhau về tính tương đương của các biện pháp kiểm dịch động thực vật cụ thể (Điều 4 Hiệp định SPS). Hiệp định SPS yêu cầu các nước thành viên: (1) “Đảm bảo biện pháp kiểm dịch động thực vật của các nước thành viên phù hợp với các đặc điểm kiểm dịch động thực vật của một vùng - hoặc trong cả nước, hoặc một vùng trong một nước, hoặc các vùng của một vài nước - từ đó sản xuất ra sản phẩm hoặc là nơi sản phẩm sẽ được xuất đến” (Điều 6.1). Các đặc điểm này phải được xác định, căn cứ vào mức độ phổ biến của những bệnh dịch và sâu bệnh cụ thể; và; (2) Không áp dụng các biện pháp SPS gây phân biệt đối xử vô căn cứ hoặc tuỳ tiện giữa các nước thành viên hoặc khu vực nếu như có các điều kiện tương đồng áp đặt hoặc tạo ra những hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế (Điều 2.3). Tuy nhiên cần lưu ý rằng những linh hoạt trong việc cho phép không áp dụng nguyên tắc MFN chỉ được thực hiện đối với các biện pháp SPS có mục đích ngăn ngừa việc xâm nhập của các loại dịch và sâu bệnh gây ra bởi động thực vật vào nước thành viên. Các biện pháp SPS nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm (ví dụ như các quy định về chất phụ gia, sự nhiễm bẩn hoặc mức độ chất không phân huỷ cho phép) phải được áp dụng trên cơ sở MFN. 1.2.4.5. Hàng rào kỹ thuật trong thương mại Để tìm hiểu vấn đề thuộc về kỹ thuật này, trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ các khái niệm về các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp của các tiêu chuẩn quy định đó, cụ thể: (1) Các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật Các quy định quốc tế áp dụng cho các tiêu chuẩn sản phẩm được sử dụng trong thương mại hàng hoá và các thủ tục sử dụng cho việc đánh giá sự phù hợp với các tiêu chuẩn đó được quy định trong Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Agreement on Technical Barriers to Trade - Hiệp định TBT). Hiệp định đã sử dụng thuật ngữ “quy định kỹ thuật để chỉ các tiêu chuẩn mà việc tuân thủ là bắt buộc. Còn thuật ngữ “tiêu chuẩn kỹ thuật” thì được sử dụng để dùng cho các tiêu chuẩn không bắt buộc (tiêu chuẩn tự nguyện) (Phụ lục 1 - Hiệp định TBT). Cả hai thuật ngữ đó bao hàm: (i) Các đặc tính của sản phẩm bao gồm cả những đặc tính liên quan đến chất lượng; (ii) Quy trình và các phương pháp sản xuất (PPMs) có ảnh hưởng đến đặc tính của sản phẩm; (iii) Thuật ngữ và ký hiệu; và (iv) Các yêu cầu về đóng gói và ghi nhãn mác được áp dụng cho các sản phẩm. (2) Đánh giá sự phù hợp Hiệp định TBT định nghĩa các thủ tục đánh giá tính phù hợp là “bất kỳ một thủ tục nào được áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để xác định rằng các yêu cầu liên quan trong các quy định kỹ thuật hay các tiêu chuẩn được thực hiện hay không”. Việc đánh giá sự phù hợp với các tiêu chuẩn bằng cách mời cơ quan trung gian thứ ba thực hiện theo cách thức sau: kiểm nghiệm sản phẩm, chứng nhận sản phẩm sau khi giám định, đánh giá hệ thống quản lý chất lượng và các thủ tục công nhận năng lực: - Kiểm nghiệm sản phẩm: Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) định nghĩa một phép kiểm nghiệm, trong khuôn khổ đánh giá tính phù hợp, là “Một thao tác kỹ thuật bao gồm việc xác định một hay nhiều đặc điểm của một sản phẩm, một công đoạn hay dịch vụ nhất định theo một quy trình quy định”. - Chứng nhận sản phẩm sau khi giám định: ISO định nghĩa chứng nhận là một “thủ tục do một bên thứ ba đưa ra đảm bảo bằng văn bản là một sản phẩm, quá trình hay dịch vụ phù hợp với các yêu cầu quy định”. - Đánh giá hệ thống quản lý chất lượng: là việc đánh giá hệ thống đảm bảo chất lượng do một bên thứ ba thực hiện nhằm đảm bảo với người mua là nhà sản xuất có hệ thống hiệu quả và ổn định để có khả năng sản xuất sản phẩm có chất lượng và ổn định. Đó là một công cụ quản lý sản xuất để kiểm định và giám sát các biến đổi trong quá trình sản xuất mà dẫn tới những khiếm khuyết của sản phẩm. Hệ thống đảm bảo chất lượng được biết đến tốt nhất là các bộ tiêu chuẩn ISO 9000. - Các thủ tục chứng nhận năng lực: Ngành sản xuất và người tiêu dùng đều tin tưởng vào các hệ thống đảm bảo phù hợp chất lượng nếu năng lực của phòng kiểm nghiệm, các đơn vị chứng nhận sản phẩm hay cơ quan đăng ký đảm bảo chất lượng được một cơ quan kỹ thuật độc lập chứng nhận. Thủ tục do các cơ quan kỹ thuật độc lập như vậy tiến hành đánh giá và công nhận chính thức năng lực chuyên môn của các cơ quan đánh giá sự phù hợp đã đề cập ở trên được coi là “các thủ tục chứng nhận năng lực”. Những đơn vị chứng nhận nhìn chung là các cơ quan chuyên môn hay các hiệp hội của các ngành công nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, tại một số nước, quyền chứng nhận là thuộc một cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc gia hay một đơn vị độc lập cùng hợp tác cấp. Điều 2.1 Hiệp định TBT đưa ra một số nguyên tắc và quy tắc, theo đó yêu cầu các cơ quan quản lý đảm bảo là những tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật gồm các yêu cầu bao bì, ký mã hiệu và dán nhãn, và các thủ tục được tiến hành để đánh giá tính phù hợp với các quy định và tiêu chuẩn đó được áp dụng sao cho không phân biệt đối xử giữa các sản phẩm nhập khẩu theo xuất xứ (nguyên tắc MFN), không dành cho các sản phẩm các sản phẩm nhập khẩu đối xử kém ưu đãi hơn các sản phẩm được sản xuất trong nước (nguyên tắc NT). Đồng thời, Điều 2.2 quy định rằng các tiêu chuẩn bắt buộc đối với các sản phẩm cần phải được các nước áp dụng sao cho không tạo ra các cản trở không cần thiết cho thương mại quốc tế. Hơn thế nữa, các tiêu chuẩn bắt buộc này phải được dựa trên các thông tin và chứng cớ khoa học. Hiệp định cho rằng mục đích này có thể đạt được nếu các nước áp dụng, khi có thể và thích hợp, các tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình xây dựng các quy định kỹ thuật của họ hay trong quá trình hình thành và phát triển các tiêu chuẩn quốc gia tự nguyện. Hiệp định (Điều 2.5 và 2.6) kêu gọi các nước thành viên sử dụng những chỉ dẫn và khuyến nghị do các tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế xây dựng nên như một cơ sở cho các thủ tục đánh giá sự phù hợp của các nước. 1.2.5. Những quy định về các lĩnh vực cụ thể khác của WTO 1.2.5.1. Định giá hải quan Điều 1 Hiệp định trị giá tính thuế hải quan của WTO (Customs Value Agreement - Hiệp định CVA) quy định “trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu phải là trị giá giao dịch, tức là giá thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hoá được bán từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu” (ví dụ: giá hoá đơn). Trị giá giao dịch này có thể được điều chỉnh, khi cần thiết, bao gồm một số khoản thanh toán mà người mua phải trả như chi phí bao bì đóng gói và container, giá trị hàng hoá hoặc dịch vụ hỗ trợ, phí bản quyền và xin phép sử dụng bằng sáng chế. Các quy tắc này cũng quy định sẽ không đưa vào trị giá tính thuế tiền hoa hồng mua hàng hoặc chiết khấu đặc biệt dành cho đại lý độc quyền (Điều 8 Hiệp định CVA). Tuy nhiên, hải quan có quyền không công nhận trị giá giao dịch nếu họ có lý do để nghi ngờ tính chân thực và tính chính xác của trị giá mà người nhập khẩu kê khai hoặc của hồ sơ mà người nhập khẩu xuất trình. Để bảo vệ lợi ích của người nhập khẩu trong những trường hợp như vậy, hải quan phải cho người nhập khẩu cơ hội biện minh giá của họ. Nếu hải quan không chấp nhận sự biện minh của người nhập khẩu thì buộc phải đưa ra những lý lẽ bằng văn bản giải thích việc hải quan không chấp nhận trị giá giao dịch mà người nhập khẩu đã kê khai. Khi trị giá giao dịch không được hải quan chấp nhận, Hiệp định CVA đưa ra bốn tiêu chuẩn định giá hải quan khác. Hiệp định còn nhấn mạnh rằng các tiêu chuẩn này cần phải được áp dụng theo thứ tự nêu ra trong văn bản Hiệp định này và chỉ khi hải quan thấy rằng tiêu chuẩn thứ nhất không thể áp dụng được thì mới áp dụng lần lượt các tiêu chuẩn tiếp theo, cụ thể: (1) Trị giá giao dịch của các hàng hoá giống hệt: Khi trị giá hàng hoá không thể xác định trên cơ sở trị giá giao dịch, nó cần phải được xác định trên cơ sở trị giá giao dịch đã được xác định trước đó của một loại hàng hoá giống hệt như vậy (Điều 2 Hiệp định CVA). (2) Trị giá giao dịch của hàng hoá tương tự: Khi không thể xác định trị giá hàng hoá trên cơ sở phương pháp nói trên, cần phải xác định trị giá trên cơ sở trị giá giao dịch của loại hàng tương tự (Điều 3 Hiệp định CVA). (3) Trị giá khấu trừ: Trị giá khấu trừ được xác định trên cơ sở đơn giá bán trên thị trường nội địa của hàng nhập khẩu đang cần xác định trị giá hoặc của loại hàng hoá giống hệt hoặc tương tự sau khi đã trừ đi các như lợi nhuận, thuế nhập khẩu, thuế khác, phí vận tải, bảo hiểm và các chi phí phát sinh khác trong lãnh thổ nước nhập khẩu (Điều 5 Hiệp định CVA). (4) Trị giá tính toán: Trị giá tính toán được xác định bằng cách cộng thêm vào giá thành mặt hàng đang được định giá “một khoản lợi nhuận và các chi phí chung tương đương với khoản lợi nhuận và chi phí chung thường tính trong giá bán của các mặt hàng cùng loại với hàng cần xác định trị giá được sản xuất bởi nhà sản xuất ở nước xuất khẩu với mục đích xuất khẩu sang nước nhập khẩu” (Điều 6 Hiệp định CVA). Khi xác định trị giá trên cơ sở những phương pháp này, hải quan phải tham khảo và lưu tâm đến ý kiến của người nhập khẩu. 1.2.5.2. Giám định trước khi gửi hàng Việc giám định trực tiếp hàng hoá là một phần quan trọng trọng hoạt động xuất khẩu. Nó bảo đảm giá mà người xuất khẩu đưa ra trong hoá đơn phản ánh đúng giá trị thực của hàng hoá và không có sự khai vượt hoặc khai thấp đi giá hoá đơn. Việc giám định như vậy đảm bảo cho người nhập khẩu rằng hàng hoá mà họ đặt hàng đáp ứng đúng các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng nêu trong hợp đồng, do đó sẽ góp phần làm giảm tranh chấp sau khi hàng hoá đã đến đích. Việc giám định này cũng góp phần tránh được việc nhập khẩu những hàng hoá được coi là có hại cho sức khoẻ do đó không được phép bán ở lãnh thổ nhập khẩu (ví dụ: hoá chất và dược phẩm bị cấm, các sản phẩm thực phẩm không đạt tiêu chuẩn). Hiệp định về Giám định trước khi gửi hàng (Ageement on Preshipment Inspection - Hiệp định PSI) thừa nhận rằng một số nước đang phát triển sử dụng dịch vụ PSI, và cho phép họ sử dụng dịch vụ này cho tới khi nào “việc giám định số lượng, chất lượng và giá cả của hàng hoá nhập khẩu còn cần thiết” (Lời mở đầu Hiệp định). Mục tiêu cơ bản của Hiệp định là đưa ra một tập hợp các nguyên tắc và quy tắc mà các nước sử dụng dịch vụ PSI và các nước xuất khẩu phải tuân theo nhằm đảm bảo hoạt động của họ không tạo ra các rào cản đối với hoạt động thương mại, tức là không đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của WTO về tự do hoá mậu dịch. Các nghĩa vụ mà Hiệp định PSI đặt ra đối với các nước đang sử dụng dịch vụ PSI là nhằm mục đích giảm thiểu hoặc xoá bỏ các vấn đề trong thực tiễn người xuất khẩu thường gặp phải, do việc các công ty PSI trì hoãn trong việc giám định kỹ thuật và xác minh giá, sự thiếu rõ ràng trong quy trình mà họ tuân theo và và việc xử lý các thông tin mật. Với mục đích này, Hiệp định PSI bao gồm các quy định: - Không phân biệt đối xử: Các quy trình và tiêu chí phải được áp dụng trên cơ sở bình đẳng đối với tất cả những người xuất khẩu. Phải có một sự thực hiện thống nhất về giám định giữa những người giám định (Điều 2.1 Hiệp định PSI). - Đối xử quốc gia: Các nước sử dụng dịch vụ PSI không được áp dụng những quy định của quốc gia theo cách thức dẫn đến sự đối xử kém thuận lợi đối với hàng hoá đang được giám định so với các hàng hoá tương tự sản xuất trong nước (Điều 2.2). - Địa điểm giám định: Việc giám định về mặt kỹ thuật sẽ được tiến hành ở nước xuất khẩu, và chỉ khi điều đó không có tính khả thi thì sẽ được tiến hành ở nước sản xuất (Điều 2.3). - Các tiêu chuẩn: Việc giám định chất lượng và số lượng hàng hoá phải được thực hiện theo đúng các tiêu chuẩn thống nhất giữa người mua và người bán, và nếu không có, thì sẽ được thực hiện theo tiêu chuẩn quốc tế (Điều 2.4). - Tính minh bạch: Tính minh bạch phải được đảm bảo bằng cách cung cấp cho người xuất khẩu những thông tin về luật và các quy định của nước sử dụng dịch vụ PSI, quy trình và các tiêu chí sử dụng trong khi giám định hàng hoá (Điều 2.5 đến 2.8). - Việc bảo vệ các thông tin mật: Thông tin mật sẽ không được phép để lộ cho bên thứ ba (Điều 2.5 đến 2.13). - Việc trì hoãn: Phải tránh những trì hoãn vô lý (Điều 2.15 đến 2.19). - Xác minh giá: Để xác định giá xuất khẩu có phán ánh trị giá thực của hàng hoá hay không, các công ty PSI phải so sánh giá này với giá của hàng hoá giống hệt hoặc tương tự được chào bán xuất khẩu từ cùng một nước xuất khẩu tới (i) nước nhập khẩu hoặc (ii) các thị trường khác. 1.2.5.3. Quy tắc xuất xứ Mục đích áp dụng những quy tắc để xác định nước xuất xứ Vì sao chính phủ lại cần phải xác định xuất xứ của hàng nhập khẩu? Có 3 tình huống cần thiết: Thứ nhất, đối với những hàng nhập khẩu theo những hiệp định ưu đãi: Nước nhập khẩu phải đảm bảo áp dụng thuế suất thấp hoặc ưu đãi đối với sản phẩm xuất xứ từ những nước được hưởng ưu đãi. Do đó họ cần bằng chứng chứng minh rằng hàng nhập khẩu nếu không phải toàn bộ thì ít nhất cũng là phần chủ yếu được chế tạo hay chuyển dạng tại nước được hưởng ưu đãi. Thứ hai, đối với hàng nhập khẩu theo biểu thuế Tối huệ quốc, việc xác định xuất xứ thường là không cần thiết, vì thuế nhập khẩu đó được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử đối với hàng nhập từ mọi nguồn. Thứ ba, việc xác định xuất xứ cũng còn cần thiết để thu thập số liệu thống kê thương mại. Phạm vi và mục tiêu áp dụng Các điều khoản của Hiệp định về Quy tắc xuất xứ hàng hoá (Agreement on Rules of Origin - Hiệp định ROA) áp dụng cho “luật lệ, quy định và quyết định hành chính của việc áp dụng chung do bất cứ thành viên nào áp dụng để xác định nước xuất xứ của hàng hoá” nhập khẩu trên cơ sở Tối huệ quốc. Hiệp định ROA nêu cụ thể rằng những điều khoản Hiệp định không áp dụng cho việc nhập khẩu theo thoả thuận ưu đãi. Mục tiêu cơ bản của Hiệp định là đòi hỏi các nước vận dụng một hệ thống quy tắc thống nhất hài hoà để xác định xuất xứ hàng hoá nhập khẩu trên cơ sở Tối huệ quốc. Vì công tác kỹ thuật để triển khai các quy tắc này cần phải có thời gian, Hiệp định đưa ra 2 hệ thống điều khoản (Điều 2 và Điều 3 - Hiệp định ROA): Hệ thống thứ nhất đưa ra những quy định các nước phải tuân thủ trong thời kỳ chuyển đổi, tức là cho tới khi các quy tắc mới hài hoà hoá có hiệu lực. Trong thời kỳ chuyển đổi, các nước có quyền lựa chọn áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau tuỳ theo mục đích hay mục tiêu áp dụng các quy tắc này. Hệ thống thứ hai được áp dụng sau thời kỳ chuyển đổi. Hệ thống này đề ra những nguyên tắc và hướng dẫn về công tác kỹ thuật cho quá trình hài hoà hoá các quy tắc xuất xứ. Sau thời kỳ chuyển đổi, các tiêu chuẩn hài hoà hoá được nghiên cứu trên cơ sở từng sản phẩm một đều áp dụng thống nhất bất kể mục đích sử dụng của chúng. Nói cách khác, một nước không có quyền lựa chọn áp dụng một hệ thống tiêu chuẩn để xác định xuất xứ vì mục đích quản lý hạn chế số lượng và một bộ tiêu chuẩn khác để thể hiện xuất xứ qua việc dán nhãn. 1.2.5.4. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Các chính phủ thường hay đặt ra các điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài để khuyến khích đầu tư theo một số ưu tiên quốc gia nhất định. Những điều kiện có thể tác động đến thương mại được gọi là các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs). Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Agreement on Trade-Related Investment Measures - Hiệp định TRIMS) được đàm phán tại Vòng Uruguay đòi hỏi các quốc gia phải huỷ bỏ TRIMs từng bước vì chúng được coi là không nhất quán đối với các quy tắc GATT. Thời kỳ huỷ bỏ từng bước đối với các nước phát triển là 2 năm kể từ ngày 1/1/1995. Các nước đang phát triển thời kỳ chuyển đổi là 5 năm, các nước chậm phát triển là 7 năm. TRIMs là gì? Đó là những biện pháp được các chính phủ chấp thuận để thu hút và điều tiết đầu tư nước ngoài gồm các khuyến khích về tài chính, ưu đãi thuế, các điều khoản về đất đai và các dịch vụ khác mang tính chất ưu đãi hơn. Hơn nữa, các chính phủ còn đặt ra các điều kiện để khuyến khích hoặc bắt buộc đầu tư theo một số ưu tiên quốc gia nhất định, ví dụ như những đòi hỏi về hàm lượng nội địa yêu cầu nhà đầu tư phải đảm nhận sử dụng đầu vào của địa phương sản xuất hay những đòi hỏi về xuất khẩu, buộc nhà đầu tư phải xuất khẩu một tỷ lệ nhất định sản lượng. Những điều kiện như vậy có thể tác động bất lợi đối với thương mại, được coi là những biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, còn gọi là TRIMs. Mục đích của TRIMs Những biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại được chủ yếu áp dụng (thường là các nước đang phát triển) nhằm thúc đẩy những mục tiêu phát triển kinh tế. Chẳng hạn, sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước được thực hiện thông qua việc áp đặt những đòi hỏi về hàm lượng nội địa và mở rộng xuất khẩu thông qua những đòi hỏi về thực hiện xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp, hạn chế TRIMs được thiết kế để đối phó với những tập quán hạn chế thương mại của những công ty đa quốc gia và các hành vi chống cạnh tranh của các công ty này. Dưới đây là danh mục minh hoạ về TRIMs (nhưng không phải tất cả các TRIMs đều bị cấm sử dụng theo Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO): (1) Những yêu cầu về hàm lượng nội địa (tiếng Anh viết tắt là LCRs): Đặt ra việc sử dụng một số lượng nhất định đầu vào của địa phương trong sản xuất. (2) Những yêu cầu về cân đối thương mại: Buộc nhập khẩu phải có một tỷ lệ tương đương với xuất khẩu. (3) Những yêu cầu về cân đối ngoại hối: Quy định ngoại hối cần cho nhập khẩu phải giữ tỷ lệ nhất định với giá trị ngoại hối của công ty thu được từ xuất khẩu và các nguồn khác. (4) Những hạn chế về ngoại hối: Hạn chế khả năng tiếp cận nguồn ngoại hối và do đó hạn chế nhập khẩu. (5) Những yêu cầu về tiêu thụ trong nước: yêu cầu công ty phải bán tại chỗ một tỷ lệ nhất định trong sản lượng để hạn chế xuất khẩu. (6) Những yêu cầu về sản xuất: yêu cầu một số sản phẩm phải được chế tạo tại chỗ. (7) Những yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu (tiếng Anh viết tắt là EPRs): quy định rằng một tỷ lệ nhất định trong sản lượng phải dành cho xuất khẩu. (8) Những yêu cầu bắt buộc về loại sản phẩm: buộc nhà đầu tư cung cấp sản phẩm nhất định cho thị trường nhất định hoặc chỉ định những sản phẩm được chế tạo từ một cơ sở hay một hoạt động sản xuất. (9) Những hạn chế về sản xuất: không cho phép các công ty được chế tạo một số sản phẩm hay một nhóm sản phẩm nhất định tại nước nhận đầu tư. (10) Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ: yêu cầu những công nghệ cụ thể phải được chuyển giao trên cơ sở theo điều kiện phi thương mại và/hoặc những mức độ và loại hình thái nhất định nghiên cứu và phát triển (R&D) phải được tiến hành tại địa phương. (11) Những yêu cầu về cho phép sử dụng phát minh sáng chế: buộc nhà đầu tư cấp phép cho những công nghệ tương tự hoặc không liên quan đến những công nghệ họ sử dụng tại nước chủ đầu tư cho các công ty của nước nhận đầu tư. (12) Những hạn chế về chuyển lợi nhuận: Giới hạn quyền của nhà đầu tư nước ngoài chuyển lợi nhuận đầu tư ra nước ngoài. (13) Những yêu cầu về tỷ lệ góp vốn của công ty trong nước: quy định rằng một tỷ lệ nhất định trong tài sản của công ty phải do chủ đầu tư trong nước sở hữu. Các biện pháp TRIMs bị cấm sử dụng: Điều 2 và Phụ lục Hiệp định TRIMS được đàm phán tại Vòng Uruguay cấm các nước sử dụng 5 biện pháp TRIMs đầu tiên nêu trong danh mục trên. Những bảo đảm đó được xem như là không nhất quán với các Điều III và Điều IX của GATT về đối xử quốc gia và chống lại việc sử dụng những hạn chế về số lượng: - Hai biện pháp TRIMs bị cấm do muốn dành ưu đãi hơn nữa cho các sản phẩm nội địa so với nhập khẩu, do đó vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia bao gồm: (i) Doanh nghiệp mua và sử dụng những sản phẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ những nguồn trong nước (những đòi hỏi về hàm lượng nội địa); hoặc (ii) Việc doanh nghiệp mua hay sử dụng những sản phẩm nhập khẩu phải hạn chế ở mức tương ứng với khối lượng hay giá trị của sản phẩm địa phương mà doanh nghiệp đó xuất khẩu (những đòi hỏi về cân đối thương mại). - Ba biện pháp TRIMs bị coi là sử dụng những hạn chế số lượng nhập khẩu và xuất khẩu không nhất quán với GATT 1994 bao gồm: (iii) Hạn chế nhập khẩu ở mức tương ứng với số lượng hoặc trị giá của sản phẩm xuất khẩu (tức là những đòi hỏi cân đối thương mại tạo nên những hạn chế nhập khẩu). (iv) Hạn chế khả năng tiếp cận ngoại hối của doanh nghiệp (tức là hạn chế ngoại hối để tạo nên hạn chế nhập khẩu). (v) Quy định tỷ lệ xuất khẩu tương đối ngang với khối lượng hay trị giá sản xuất tại địa phương (nghĩa là đòi hỏi tiêu thụ ở địa phương do vậy hạn chế xuất khẩu). 1.2.5.5. Trợ cấp và các biện pháp đối kháng Theo Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (Agreement on Subsidies and Countervailing Measures - Hiệp định SCM), một ngành sản xuất được coi là hưởng trợ cấp khi lợi ích được dành cho ngành đó dưới hình thức: (i) Giao vốn trực tiếp của chính phủ (chẳng hạn cấp vốn, các khoản cho vay hoặc góp vốn cổ phần) hoặc chính phủ bảo lãnh các khoản vay; (ii) Chính phủ miễn những khoản thu lẽ ra phải đóng; và (iii) Chính phủ cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ, hay mua hàng. Khái niệm lợi ích là rất quan trọng để xác định xem một biện pháp có phải là biện pháp trợ cấp hay không. Mặc dù Hiệp định chỉ đưa ra hướng dẫn sơ lược về điểm này, song theo quy tắc chung có thể nói rằng một hành động của chính phủ không nhất quán với những tính toán mang tính thương mại được xem như là ban cho một lợi ích. Do đó, việc góp vốn theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân không thể chấp nhận hay một khoản vay theo điều kiện có lợi hơn do ngân hàng thương mại đưa ra, hay những điều khoản về hàng hoá hoặc dịch vụ do chính phủ đưa ra thấp hơn giá phổ biến trên thị trường, được xem như việc ban cho một lợi ích, do đó có thể coi là khoản trợ cấp. Mục tiêu của Hiệp định SCM là không hạn chế quá mức quyền hạn của chính phủ phê duyệt trợ cấp nhưng cấm hoặc không khuyến khích họ dùng trợ cấp có tác động bất lợi về thương mại đối với nước khác. Để đạt được mục tiêu này, Hiệp định phân định trợ cấp thành loại bị cấm và loại được chấp nhận. Trợ cấp bị cấm (trợ cấp đèn đỏ) Theo Điều 3 - Hiệp định SCM, các khoản trợ cấp sau đây bị cấm: (i) Trợ cấp xuất khẩu, tức là những khoản trợ cấp căn cứ kết quả xuất khẩu, bao gồm: Những khoản trợ cấp trực tiếp dựa vào kết quả thực hiện xuất khẩu; Chương trình giữ lại tiền liên quan đến thưởng xuất khẩu; Cung cấp đầu vào được trợ cấp để sản xuất hàng xuất khẩu; Miễn thuế trực thu (chẳng hạn thuế thu nhập liên quan đến xuất khẩu; Miễn hoặc hoàn thuế gián thu (chẳng hạn VAT) đối với sản phẩm xuất khẩu vượt quá mức thuế đánh vào sản phẩm tương tự bán trong nước; Giảm hoặc hoàn thuế nhập khẩu (chẳng hạn thuế quan và các khoản thuế khác) vượt quá mức thu đối với đầu vào tiêu hao cho sản xuất hàng xuất khẩu; Chương trình bảo hiểm xuất khẩu với bảo hiểm phí không đủ trang trải chi phí dài hạn của chương trình bảo hiểm; Tín dụng xuất khẩu dưới mức phí đi vay của chính phủ, khi sử dụng mức phí đó để bảo đảm lợi thế vật chất trong các khoản tín dụng xuất khẩu. (ii) Những khoản trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu. Các khoản trợ cấp được chấp nhận (1) Các khoản trợ cấp được chấp nhận có thể bị khiếu kiện (trợ cấp đèn vàng) (Điều 2, Điều 5 - Hiệp định SCM) Hiệp định SCM sử dụng khái niệm về tính cá biệt (đặc thù) để phân loại trợ cấp có thể khiếu kiện và trợ cấp không thể khiếu kiện. Một khoản trợ cấp được xem là cá biệt nếu được giới hạn trong: một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp; một ngành hoặc một nhóm ngành; hoặc một khu vực địa lý được định rõ nằm trong phạm vi quyền hạn của cơ quan thẩm quyền cấp phép. Tất cả các khoản trợ cấp cá biệt (khác với những khoản được xác định trong phần sau) là có thể khiếu kiện nếu chúng gây ra cái mà Hiệp định gọi là “tác động bất lợi cho lợi ích của các nước thành viên khác”. Những tác động bnất lợi thể hiện ở dạng: ảnh hưởng nghiêm trọng tơí các ngành sản xuất trong nước; tổn thất tới các ngành sản xuất của nước nhập khẩu; làm vô hiệu và suy yếu lợi ích của thuế suất đã cam kết. (2) Trợ cấp được chấp nhận không thể khiếu kiện (trợ cấp đèn xanh) (Điều 2, Điều 8 - Hiệp định SCM) Trừ một số ngoại lệ, tất cả các khoản trợ cấp được chấp nhận song mang tính cá biệt đều có thể bị khiếu kiện. Còn khoản trợ cấp không cá biệt sẽ không bị khiếu kiện. Những chương trình trợ cấp dựa trên những tiêu chí kinh tế khách quan phổ cập và “không ưu đãi riêng ngành nào”coi là không mang tính cá biệt. Vì vậy, những khoản trợ cấp không bị khiếu kiện là những khoản trợ cấp chính phủ dành cho: các doanh nghiệp vừa và nhỏ, được xác định theo quy mô hay số lượng nhân viên; những hoạt động nghiên cứu do các công ty tiến hành, miễn là đáp ứng một số điều kiện nhất định; điều chỉnh những phương tiện sản xuất hiện có thích nghi với những đòi hỏi về môi trường mới, miễn là trợ cấp thực hiện một lần, không lặp lại và giới hạn ở mức 20% chi phí cho việc thích nghi đó; và hỗ trợ phát triển những ngành sản xuất nằm trong khu vực khó khăn, miễn là đáp ứng một số điều kiện nhất định. Biện pháp chế tài Biện pháp chế tài dành cho ngành sản xuất bị tác động và chính phủ các nước có lợi ích bị thiệt hại do nhập khẩu được trợ cấp là như thế nào? Hiệp định quy định hai biện pháp (theo các Điều 4,7,9 - Hiệp định SCM). Thứ nhất, một nước nếu thấy có trợ cấp xuất khẩu bị cấm đang được sử dụng hoặc bị tác động bất lợi do việc ban hành trợ cấp được chấp nhận, có thể đưa vấn đề đó ra trưóc Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) của WTO để đòi bồi thường. Khi những tác độn bất lợi ở dạng “thiệt hại nghiêm trọng” cho ngành sản xuất trong nước, thay vì đưa ra Cơ quan giải quyết tranh chấp, nước nhập khẩu có thể đánh thuế đối kháng (thuế chống trợ cấp) vào các sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp. Tuy nhiên, những khoản thuế như vậy chỉ có thể được áp dụng khi thực hiện thẩm tra ở cấp độ quốc gia và dựa trên cơ sở kiến nghị từ ngành sản xuất bị tác động xác định rằng phần nhập khẩu được trợ cấp đang gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Các khoản thuế đối kháng không được đánh vào sản phẩm hưởng trợ cấp không được khiếu kiện. 1.2.5.6. Quy định về chống bán phá giá Khái niệm về bán phá giá thể hiện trong luật GATT Thông thường, người ta định nghĩa mọi loại hàng nhập khẩu với giá quá rẻ coi là hàng nhập khẩu được bán phá giá. Tuy nhiên, Hiệp định về Chống bán phá giá (Agreement on Implementation of Article VI of the General Agreement on Tariffs and Trade 1994 “Anti-Dumping Code” - Hiệp định ADP) đề ra những tiêu chí chặt chẽ để xác định khi nào một sản phẩm nhập khẩu được coi là bán phá giá. Đặc biệt, Hiệp định ADP (Điều 2.1) nêu rằng “một sản phẩm được coi là phá giá” nếu giá xuất khẩu thấp hơn mức giá mà một sản phẩm tương tự được tiêu thụ tại nước xuất khẩu. Nói cách khác, nếu căn cứ vào sự so sánh giá xuất khẩu và giá tiêu thụ nội địa tại nước xuất khẩu mà giá tiêu thụ nội địa cao hơn thì coi sản phẩm đó bán phá giá. Tuy nhiên, Hiệp định ADP (Điều 2.2) cho rằng việc xác định phá giá dựa theo cơ sở trên có thể không thích hợp khi: (i) Việc bán sản phẩm trong thị trường nội địa của nước xuất khẩu không phải là quá trình kinh doanh diễn ra trong điều kiện thương mại bình thường (chẳng hạn: bán hàng thấp hơn giá thành sản xuất); và (ii) Lượng hàng bán tại thị trường nội địa thấp. Trong những trường hợp đó, Hiệp định cho phép xác định việc bán phá giá bằng cách so sánh giá xuất khẩu với: (1) Giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự khi xuất khẩu sang nước thứ ba; hoặc (2) Giá trị cấu thành, tính trên cơ sở giá thành sản xuất của sản phẩm nhập khẩu cộng thêm các chi phí chung, bán hàng, hành chính và lợi nhuận. So sánh giá: những nguyên tắc chung Như nêu trên, một sản phẩm chỉ được xem là bán phá giá khi giá xuất khẩu của nhà sản xuất nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu. Cho nên biên độ chống phá giá trước tiên được xác định bằng so sánh hai loại giá này. Hiệp định ADP đề ra những chỉ dẫn để đảm bảo so sánh công bằng giữa giá nội địa và giá xuất khẩu. Trên thực tế, Hiệp định này khẳng định rằng việc so sánh như vậy phải được thực hiện “ ở cùng một cấp độ kinh doanh, thông thường ở khởi điểm xuất xưởng và liên quan đến doanh số tính hầu như cùng một thời điểm. Cũng có thể cho rằng có “sự khác biệt về điều kiện và khối lượng doanh số bán, thuế, cấp độ kinh doanh, số lượng, thuộc tính vật lý” và các yếu tố khác ảnh hưởng đến so sánh giá cả (xem Điều 2.4 - Hiệp định ADP). Giá bình quân Để đạt biên độ phá giá bằng cách so sánh giá trong nước và giá xuất khẩu của nhà xuất khẩu, cơ quan điều tra thường sử dụng một hệ thống lấy mức bình quân, nhất là khi bao gồm một số lượng lớn những giao dịch nhỏ. Để đảm bảo rằng trong những trường hợp như vậy, giá cả được so sánh trên cơ sở từng sản phẩm một, Hiệp định ADP (Điều 2.4.2) yêu cầu việc so sánh thường dựa trên cơ sở dưới đây: (i) Hoặc là giá tiêu thụ nội địa bình quân gia quyền và giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch xuất khẩu; (ii) Hoặc là giá tiêu thụ nội địa và giá xuất khẩu dựa trên cơ sở từng cuộc giao dịch. Chuyển đổi tiền tệ So sánh giá tiêu thụ nội địa và giá xuất khẩu thường liên quan đến việc chuyển đổi giá xuất khẩu sang đồng tiền của nước xuất khẩu. Do có những biến động, tỷ giá dùng chuyển đổi đồng tiền có thể ảnh hưởng lớn đến biên độ phá giá. Để đảm bảo sự nhất quán trong phương pháp do các nhà điều tra sử dụng, Hiệp định ADP (Điều 2.4.1) nêu rằng tỷ giá hối đoái hiện hành ngày bán hàng được áp dụng. Tuy nhiên, nếu giao dịch dựa trên tỷ giá đã nêu trong hợp đồng kỳ hạn thì áp dụng tỷ giá đó. Trị giá cấu thành Hiệp định ADP thừa nhận rằng, ở đâu khối lượng tiêu thụ nội địa “thấp”, giá tiêu thụ tại nước xuất khẩu không thể làm cơ sở thích hợp để so sánh giá. Trong những trường hợp đó, Hiệp định (Điều 2.2 và Điều 2.3) cho phép cơ quan điều tra sử dụng giá trị cấu thành thay cho giá tiêu thụ nội địa để so sánh giá. Trị giá cấu thành được tính theo giá thành của ngành sản xuất ra sản phẩm. 1.2.5.7. Các biện pháp tự vệ trong thương mại Nội dung Hiệp định về Các biện pháp tự vệ (Agreement on Safeguards - Hiệp định AS) cho phép nước nhập khẩu hạn chế nhập khẩu trong giai đoạn tạm thời, nếu sau khi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, xác định rằng nhập khẩu đang diễn ra với số lượng tăng lên (hoặc tuyệt đối hoặc tương đối so với sản xuất trong nước) gây tổn hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước sản xuất mặt hàng tương tự hoặc sản phẩm trực tiếp cạnh tranh. Hơn nữa Hiệp định còn quy định rằng những biện pháp ấy có thể ở dạng tăng thuế hơn mức thuế suất ràng buộc hoặc đặt ra những hạn chế định lượng thông thường được áp dụng trên cơ sở MFN đối với nhập khẩu từ mọi nguồn (theo Điều 2 Hiệp định AS). áp dụng các biện pháp tự vệ Hiệp định AS nhấn mạnh rằng khi tiến hành biện pháp tự vệ, mục tiêu của chính phủ phải nhằm thúc đẩy “điều chỉnh cơ cấu” và “khuyến khích chứ không hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế”. Để đạt được mục đích đó, Hiệp định nêu rằng những biện pháp tự vệ như trên chỉ được áp dụng trong giai đoạn tạm thời để ngành sản xuất bị tác động tiến hành những bước tự điều chỉnh đối với sự cạnh tranh nảy sinh sau khi huỷ bỏ những biện pháp ấy. Việc điều chỉnh diễn ra dưới dạng áp dụng công nghệ mới hoặc hợp lý hoá cơ cấu sản xuất. Điều 5 Hiệp định AS quy định những biện pháp tự vệ sẽ chỉ áp dụng “ở mức độ cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng và tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh” và trên “cơ sở không phân biệt đối xử đối với nhập khẩu từ mọi nguồn”. Loại hành động tự vệ được tiến hành - tăng thuế hay đặt ra những hạn chế về định lượng nhập khẩu - sẽ do cơ quan điều tra quyết định. Khi sử dụng những hạn chế định lượng thì hạn ngạch có thể được phân bổ giữa các nước cung cấp. Trong trường hợp đó, từng hạn ngạch riêng được phân bổ có tham khảo ý kiến các nước cung cấp trên cơ sở phần nhập khẩu của họ trong thời kỳ tiêu biểu trước đây. Trong việc phân bổ từng phần dựa trên cơ sở này, cũng sẽ xem xét thoả đáng lợi ích của các nhà cung cấp mới. Bồi thường về tổn thất thương mại Theo Điều 8 Hiệp định AS, một nước thành viên đề nghị áp dụng biện pháp tự vệ phải dự kiến đền bù thương mại thoả đáng cho các nước bị biện pháp tự vệ đó tác động bất lợi đối với lợi ích thương mại của họ. Bồi thường thông thường là một sự nhượng bộ dưới dạng giảm thuế quan của nước muốn thực hiện hành động bảo hộ sang những nước hạn chế thương mại đối với sản phẩm xuất khẩu khác có lợi cho họ. Nếu nước áp dụng biện pháp tự vệ và nước thành viên xuất khẩu bị tác động không đạt được thoả thuận đền bù thương mại thoả đáng, thì nước thành viên xuất khẩu có thể hành động trả đũa. Hành động trả đũa thông thường là rút sự nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác cho nước được quyền áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, quyền hành động trả đũa không được thực hiện trong 3 năm đầu khi biện pháp có hiệu lực, một khi biện pháp tự vệ được tiến hành phù hợp với những điều khoản của Hiệp định và do kết quả của việc tăng nhập khẩu một cách tuyệt đối (và không tương quan với sản xuất nội địa). 1.2.6. Những quy định về một số lĩnh vực riêng biệt của WTO 1.2.6.1. Lĩnh vực dệt may Cơ sở phương pháp luận để hợp nhất thương mại hàng dệt may vào các quy tắc của GATT là bản danh mục sản phẩm dệt may ghi trong phụ lục kèm theo ATC. Danh mục đó bao gồm tất cả sản phẩm hàng dệt, sợi và vải, hàng dệt và quần áo may sẵn, không kể chúng có lệ thuộc vào những hạn chế hay không (Điều 1 - Phụ lục Hiệp định ATC). Mục đích cơ bản của Hiệp định dệt may nhằm xoá bỏ hạn chế hiện đang được một số nước phát triển áp dụng để nhập khẩu hàng dệt may. Nhằm mục đích đó, Hiệp định đề ra những thủ tục để đưa toàn bộ thương mại về hàng dệt may vào khuôn khổ hệ thống GATT bằng cách yêu cầu các nước xoá bỏ những hạn chế qua 4 giai đoạn trong thời hạn 10 năm kết thúc vào 1-1-2005. Trong mỗi giai đoạn, sản phẩm có số lượng lên tới một tỷ lệ phần trăm tối thiểu của khối lượng nước đó nhập khẩu năm 1990 thì phải gộp vào quá trình hợp nhất, nghĩa là đưa ra khỏi phạm vi điều chỉnh của ATC, chuyển sang phạm vi điều chỉnh của các quy tắc chung của WTO. Theo Điều 2.6 và Điều 2.8 - Hiệp định ATC, những tỷ lệ phần trăm đó là: 16% khối lượng nhập khẩu sản phẩm của một nước trên danh mục, vào ngày bắt đầu có hiệu lực của Hiệp định (tức là ngày 1/1/1995); Thêm 17% nữa vào cuối năm thứ ba (tức là 1/1/1998); Thêm 18% nữa vào cuối năm thứ bảy (tức là 1/1/2002); và Phần còn lại, tới 49% vào cuối năm thứ 10 (tức là ngày 1/1/2005). Trong việc quyết định sản phẩm nào đưa vào quá trình hợp nhất, các nước không có nghĩa vụ tự giới hạn vào các sản phẩm bị hạn chế. Thật vậy, các nước bắt đầu bằng những mặt hàng ít nhạy cảm nhất và chỉ đưa vào hạn ngạch một số ít sản phẩm. Hạn chế duy nhất mà Hiệp định dệt may gây ra là danh mục hợp nhất phải có những sản phẩm của một trong 4 công đoạn, tức là sơ và sợi, vải, sản phẩm dệt sẵn và quần áo. Hợp nhất hạn chế không thuộc MFA (Hiệp định đa sợi trước đó) Điều 3 - Hiệp định dệt may cũng yêu cầu các nước áp dụng những hạn chế về lượng không thuộc MFA mà không được phép theo quy định của GATT hoặc là xoá bỏ dần trong thời kỳ 10 năm hoặc phải thực hiện đúng như GATT. Chương trình xoá bỏ dần những hạn chế đó phải do các nước nhập khẩu chuẩn bị và trình cho Cơ quan Giám sát hàng dệt may (TMB), một tổ chức được thành lập theo Hiệp định ATC để giám sát việc thi hành. Những biện pháp tự vệ quá độ Điều lý thú cần ghi nhận là ngay cả mục đích của Hiệp định dệt may tuy là tạo thuận lợi cho việc xoá bỏ những hạn chế về hàng dệt, nhưng Hiệp định lại cho phép các nước thực hiện những hành động bảo hộ trong suốt thời kỳ chuyển đổi theo những quy tắc rất chặt chẽ (xem Điều 6 - Hiệp định ATC). Những hành động bảo hộ quá độ đó chỉ có thể thực hiện đối với hàng dệt và sản phẩm may là những thứ không lệ thuộc vào hạn ngạch và không hợp nhất vào GATT, và nếu các nước nhập khẩu xác định rằng: (i) Sản phẩm được nhập khẩu theo số lượng tăng lên như vậy sẽ gây ra tổn hại nghiêm trọng hoặc thực tế đe doạ ngành sản xuất trong nước chế tạo cùng một sản phẩm như thế, và (ii) Có mối quan hệ nhân quả giữa tổn hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước với mức tăng vọt và lớn trong lượng nhập khẩu từ nước xuất khẩu hoặc những nước xuất khẩu cần phải hạn chế. Quyền sử dụng những biện pháp bảo hộ quá độ áp dụng cho mọi thành viên WTO, tức là không chỉ với các nước trong quá khứ đã áp dụng những hạn chế về số lượng theo Hiệp định đa sợi (MFA) mà còn áp dụng cho cả những nước kiểm soát (bao gồm các nước đang phát triển và chậm phát triển), phụ thuộc vào những điều kiện chặt chẽ mô tả dưới đây (theo Điều 6.1 - Hiệp định dệt may): Thứ nhất, để có thể áp dụng rõ ràng những biện pháp đó, các nước cần phải thông báo cho WTO ý định của họ bảo lưu quyền sử dụng các điều khoản trong một thời kỳ cụ thể sau khi Hiệp định ATC bắt đầu có hiệu lực thi hành. Để phù hợp với những điều khoản này, 55 nước đã thông báo ý muốn của họ giữ quyền trong khi có 9 nước thông báo họ không muốn bảo lưu quyền đó. Thứ hai, các nước thông báo ý định bảo lưu quyền đều có nghĩa vụ hợp nhất thương mại hàng dệt vào GATT theo 4 giai đoạn, tuân thủ những thủ tục áp dụng cho các nước đặt ra những hạn chế MFA. Thứ ba, một quốc gia đề nghị đặt ra những biện pháp bảo hộ, trước nhất cần phải tham khảo nước hoặc các nước xuất khẩu có liên quan và chứng minh tình trạng có tổn hại nghiêm trọng hoặc thực tế đe doạ có tổn hại. Việc tham khảo có thể dẫn đến thoả thuận rằng tình hình thực sự cần có sự hạn chế đối với sản phẩm liên quan, trong trường hợp như vậy, mức độ hạn chế và thời kỳ áp dụng được nêu cụ thể theo Hiệp định ATC. Thành viên nhập khẩu cũng có thể đặt ra những hạn chế kể cả khi việc tham khảo không thành công. Nhưng trong những trường hợp như vậy, phải đưa vấn đề ra trước Cơ quan Giám sát hàng dệt (TMB) để nhanh chóng xem xét và có khuyến nghị thích hợp. Hơn nữa, để đảm bảo rằng ngay cả những hạn chế được thoả thuận trong tham khảo song biên cũng phải phù hợp chặt chẽ với các điều khoản ATC, Cơ quan Giám sát hàng dệt cần phải xác định xem việc đặt ra những hạn chế như vậy có chính đáng theo quy định của Hiệp định dệt may hay không. 1.2.6.2. Lĩnh vực nông nghiệp Chương trình cải cách áp dụng theo Hiệp định nông nghiệp đàm phán tại Vòng Uruguay cố gắng đưa thương mại trong nông nghiệp vào quy chế điều tiết của GATT, một lĩnh vực mà tất cả các nước thành viên thường không tuân thủ đầy đủ. Theo chương trình cải cách, ngoài biện pháp thuế quan, các nước áp dụng những biện pháp như hạn chế số lượng và những loại thuế khác, cần phải xoá bỏ bằng cách bổ sung những sắc thuế tương ứng với những biện pháp tự vệ hiện hành. Các nước còn buộc phải giảm thuế quan áp dụng cho nhập khẩu nông phẩm thuế quan hoá theo tỷ lệ cam kết, kể cả những thuế suất đưa ra từ việc các nước đang phát triển được phép cam kết tỷ lệ phần trăm thấp hơn thuế suất đặt ra đối với các nước phát triển và trong lịch trình dài hơn. Các nước chậm phát triển được miễn trừ nghĩa vụ giảm thuế. Tất cả các nước phát triển, đang phát triển và kém phát triển nhất đều cần phải cam kết không tăng thuế quan của mình lên trên mức ràng buộc ở lịch trình nhượng bộ. Tuy nhiên, các nước đang phát triển và chậm phát triển được linh hoạt đưa ra trần thuế suất cao hơn mức thuế hiện đang áp dụng đã có giảm bớt. Theo chương trình cải cách, các nước sử dụng trợ giá đồng ý giảm tỷ lệ phần trăm cụ thể của trợ giá xuất khẩu và trợ giá hỗ trợ trong nước bị coi là làm biến dạng thương mại. Hiệp định quy định rằng các cuộc đàm phán để tự do hoá thương mại hơn nữa và hoàn thiện các quy tắc áp dụng theo chương trình cải cách phải được bắt đầu triển khai trước cuối năm 1999. Thuế hoá: Điểm quan trọng của Hiệp định nông nghiệp là những quy tắc mới, đòi hỏi những nước áp dụng biện pháp phi thuế quan (như hạn chế số lượng nhập khẩu, cấp phép nhập khẩu tuỳ tiện và các khoản thu khác) phải xoá bỏ chúng bằng cách tính quy ra mức thuế quan tương đương và cộng vào mức thuế quan cố định (theo Điều 4 và Ghi chú 1 - Hiệp định nông nghiệp). Kết quả là các nước đặt thuế suất mới cho các sản phẩm (chủ yếu thuộc vùng ôn đới) mà trước đây họ đã áp dụng những biện pháp phi thuế quan. Mức thuế quan tương đương của các biện pháp phi thuế quan được tính trên cơ sở trung bình giữa giá thế giới của sản phẩm (là đối tượng của những biện pháp phi thuế quan) và giá sản phẩm trong nước của nước nhập khẩu. Những cam kết tiếp cận hiện thời và tối thiểu: Các nước xuất khẩu đều lo lắng rằng việc nhập khẩu một số sản phẩm chịu hạn chế về số lượng hay các khoản thu khác, có một nguy cơ là nếu chỉ dựa vào quá trình thuế hoá thôi thì sẽ không đem lại tác dụng tự do hoá mạnh mẽ. Do đó, việc sử dụng những cam kết tiếp cận hiện thời và tối thiểu được sử dụng để bổ khuyết cho quá trình thuế hoá. Những biện pháp tự vệ đặc biệt: Hiệp định nông nghiệp đáp ứng mối quan tâm của những nước nhập khẩu là việc xoá bỏ những hạn chế về số lượng có thể dẫn đến tăng nhập khẩu đột ngột mặc dù có mức thuế quan tương đương bằng việc cho phép họ đặt ra những biện pháp tự vệ đối với sản phẩm được thuế hoá (theo Điều 5 - Hiệp định nông nghiệp). Giảm thuế quan theo tỷ lệ phần trăm: Trong Vòng Uruguay, các nước thoả thuận giảm thuế quan (cả thuế suất hoá mới và các thuế khác) bằng tỷ lệ phần trăm cố định. Các nước phát triển và đang chuyển đổi kinh tế nhận giảm bớt thuế quan trung bình 36%, các nước đang phát triển giảm 24%. Mức giảm đó đối với các nước phát triển thực hiện trong thời kỳ 6 năm kể từ 1/1/1995, các nước đang phát triển trong 10 năm. Các nước chậm phát triển, dù có mức thuế quan cao sát trần thuế suất, cũng không phải giảm. Các quy tắc còn yêu cầu thuế suất đối với từng sản phẩm phải được giảm ít nhất 15% đối với các nước phát triển và 10% đối với các nước đang phát triển. Ràng buộc thuế quan: Một trong những đặc điểm của chương trình cải cách thuế quan (và cả thuế suất hoá) áp dụng đối với nông phẩm là phải áp dụng đối với tất cả các quốc gia (phát triển, đang phát triển, chậm phát triển và chuyển đổi kinh tế) chống việc tăng trên mức quy định nêu trong chương trình nhượng bộ của các nước. Cùng với việc xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan bằng thuế quan hoá được xem như là những kết quả chủ yếu của chương trình cải cách. Trước khi áp dụng, chỉ có rất ít thuế quan ràng buộc các nước phát triển và nước đang phát triển. Trợ cấp xuất khẩu và những biện pháp hỗ trợ của chính phủ Trong lĩnh vực nông nghiệp, người ta thừa nhận rằng một số nước dựa vào việc sử dụng trợ cấp để đẩy sản phẩm dư thừa ra thị trường quốc tế. Hiệp định nông nghiệp đòi hỏi các nước thực hiện những cam kết giảm sử dụng trợ cấp. Điều 9 Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước sử dụng 6 loại trợ cấp miễn là họ đồng ý thực hiện cam kết giảm cả khối lượng trợ cấp (thể hiện trong kinh phí ngân sách) lẫn cả số lượng mặt hàng xuất khẩu được trợ cấp. Sáu loại trợ cấp xuất khẩu mà các nước thành viên phải cắt giảm (các nước đang phát triển không cần phải thực hiện cam kết về trợ cấp xuất khẩu mục 4, 5), đó là: (1) Khoản trợ cấp trực tiếp của chính phủ phụ thuộc vào chỉ tiêu thực hiện xuất khẩu; (2) Việc bán dự trữ nông phẩm phi thương mại của chính phủ với giá thấp hơn giá có thể so sánh với sản phẩm tương tự cho người tiêu dùng thị trường trong nước; (3) Thanh toán về nhập khẩu nông phẩm được tài trợ của chính phủ, có hoặc không tính vào tài khoản công, bao gồm cả việc thanh toán được tài trợ bởi các thủ tục áp dụng thuế đối với sản phẩm liên quan hay một nguồn nông phẩm từ đó tạo ra sản phẩm xuất khẩu; (4) Khoản trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu nông phẩm (khác với trợ cấp thúc đẩy xuất khẩu và dịch vụ tư vấn có sẵn rộng rãi), kể cả chi phí vận chuyển, nâng phẩm cấp và các chi phí chế biến khác, cùng các chi phí giao nhận vận tải quốc tế; (5) Chi phí về giao nhận vận tải quốc tế đối với hàng xuất khẩu được ưu đãi hơn các chuyến hàng nội địa; (6) Trợ cấp cho nông phẩm với điều kiện tham gia vào sản phẩm xuất khẩu. Cần phải lưu ý rằng các nước sử dụng trợ cấp như trên đã thực hiện cam kết một cách rộng rãi trong đàm phán. Những cam kết đó đã được tiến hành trên cơ sở từng sản phẩm trong chương trình nhượng bộ của họ theo WTO. Các nước này có nghĩa vụ không được vượt quá mức cam kết nêu trong lịch trình kể cả về chi tiêu ngân sách lẫn khối lượng. Họ cũng thực hiện nghĩa vụ không mở rộng phạm vi sản phẩm hưởng trợ cấp ngoài tiến trình quy định (theo Điều 10 - Hiệp định nông nghiệp). Hỗ trợ trong nước: Về việc hỗ trợ trong nước, quan điểm của Hiệp định nông nghiệp (Điều 1a, Điều 6) là đòi hỏi các nước chấp nhận cam kết phải giảm các hỗ trợ làm biến dạng thương mại. Vì mục đích đó, Hiệp định chia hỗ trợ thành ba loại: Hỗ trợ trong hộp xanh lá cây: Tất cả những hỗ trợ “không có, có rất ít tác động làm biến dạng thương mại hoặc tác động đến sản xuất” và không có “tác động hỗ trợ giá đối với người sản xuất” được xem là những hỗ trợ trong hộp màu xanh lá cây và được cam kết cắt giảm (Phụ lục 2:1 - Hiệp định nông nghiệp). Hiệp định cũng không hạn chế quá mức quyền của chính phủ phê chuẩn những hỗ trợ nhằm cải tiến năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Dưới đây là một số ví dụ về hỗ trợ trong hộp xanh lá cây trích từ Phụ lục 2 của Hiệp định: (i) Chi phí của chính phủ về nghiên cứu, kiểm soát dịch bệnh giám định, phân cấp những sản phẩm riêng biệt trong nông nghiệp, dịch vụ tiếp thị và xúc tiến; (ii) Sự đóng góp của chính phủ trong các chương trình bảo hiểm thu nhập và chế độ bảo hiểm thu nhập; (iii) Các khoản trợ cấp về thiên tai; (iv) Các khoản trợ cấp theo chương trình bảo vệ môi trường, chương trình hỗ trợ cho điạ phương, hỗ trợ trong điều chỉnh cơ cấu lao động, tài nguyên… Hỗ trợ trong hộp màu xanh da trời: Cùng với những liệt kê trên, “việc thanh toán trực tiếp theo chương trình hạn chế xuất khẩu” cũng được miễn thực hiện cam kết cắt giảm, miễn là: (i) Những khoản trợ cấp đó dựa trên những khu vực hay sản lượng quy định; (ii) Những khoản trợ cấp đó được thực hiện nếu 85% hoặc thấp hơn của mức sản lượng cơ bản; (iii) Những khoản trợ cấp chăn nuôi được tính theo đầu gia súc. Những tập quán trợ cấp này thường được dẫn chiếu thuộc các biện pháp cảu hộp màu xanh da trời. Hỗ trợ màu hổ phách: Hỗ trợ màu hổ phách chủ yếu bao gồm những hình thức hỗ trợ trong nước được xem là biến dạng thương mại. Hiệp định nông nghiệp đề ra mức trần cho tổng mức hỗ trợ trong nước (lượng trợ cấp tính gộp - AMS) mà chính phủ có thể cấp cho các nhà sản xuất nội địa. Hơn nữa, mức trần đó đòi hỏi AMS phải giảm theo tỷ lệ phần trăm theo thoả thuận. Lượng trợ cấp tính gộp - AMS được tính trên cơ sở từng sản phẩm bằng cách sử dụng chênh lệch giữa giá tham khảo bên ngoài trung bình cho một sản phẩm với giá thực tế áp dụng nhân lên theo số lượng sản xuất. Để đạt được AMS, các trợ giá trong nước không dành cho một sản phẩm cụ thể được tính vào tổng số trợ giá đã tính trên cơ sở từng sản phẩm. Các trợ giá mô tả trong hộp màu xanh lá cây và xanh da trời nói trên được miễn trừ không gộp vào AMS. Hơn nữa, trong trường hợp sự hỗ trợ cho một sản phẩm cụ thể lại dưới mức 5%, thì khoản trợ giá đối với sản phẩm đó được loại trừ ra khỏi cam kết cắt giảm. Tương tự như vậy, một hỗ trợ trong nước không dành riêng cho một sản phẩm cụ thể được loại trừ nếu không vượt quá 5% giá trị của sản lượng nông nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, mức phần trăm tối thiểu là 10%. Để khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn, các nước đang phát triển còn được phép loại trừ nhiều hơn khỏi cách tính AMS và do đó không phải cam kết cắt giảm như sau: (i) Trợ cấp đầu tư thông thường cho nông nghiệp; (ii) Trợ cấp đầu vào thông thường cho những vùng sản xuất nghèo tài nguyên, thu nhập thấp; (iii) Trợ cấp để khuyến khích đa dạng hoá cây trồng và phá huỷ cây có chất ma tuý. Chương 2 so sánh pháp luật về thương mại hàng hoá của Việt Nam với các quy định về thương mại hàng hoá của WTO 2.1. Sự khác biệt cơ bản giữa Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 với các chế định của WTO Thứ nhất, mức độ khác biệt giữa Luật Thương mại Việt Nam với các chế định của WTO nói chung và chế định thương mại hàng hoá nói riêng là khá lớn do mục đích và phạm vi điều chỉnh của chúng rất khác nhau: - Xét về mặt mục đích, Luật Thương mại Việt Nam được ban hành nhằm tạo ra cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân; phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thương mại trên các vùng đất nước; mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài; góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân, góp phần tích luỹ nhằm thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân chủ văn minh Xem lời nói đầu của Luật Thương mại Việt Nam 1997 . Trong khi đó, các chế định của WTO nói chung và chế định thương mại hàng hoá nói riêng được xây dựng nhằm hỗ trợ cho dòng thương mại càng tự do được nhiều hơn bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, bảo đảm cho các cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ các nước hiểu rằng các quy tắc thương mại quốc tế là thống nhất trên toàn thế giới và không một nước nào được đột ngột thay đổi pháp luật pháp luật và chính sách thương mại mà không một cá nhân, tổ chức nào của nước khác được biết trước. Các chế định của WTO cũng còn được thiết lập nhằm thực hiện chức năng của các căn cứ pháp lý vững chắc để các nước thương lượng, dàn xếp, thoả thuận các chính sách, quy tắc thương mại đa biên, giải quyết các bất đồng, tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động thương mại quốc tế Xem Hoàng Phước Hiệp, Tổ chức Thương mại Thế giới và một số vấn đề pháp lý đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập tổ chức này. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3 (2/2000) tr. 35 - 36, số 4 (4/2000) tr. 34 - 44 . - Xét về mặt phạm vi điều chỉnh, Luật Thương mại Việt Nam chủ yếu điều chỉnh các hành vi thương mại, xác định địa vị pháp lý của thương nhân và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoan thien phap luat ve TM hang hoa cua VN truoc yeu cau gia nhap to chuc TMTG.doc
Tài liệu liên quan