Tài liệu Khóa luận Bảo hiểm Việt Nam trước thềm hội nhập và giải pháp đẩy mạnh sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam đến 2010: chương I
KháI quát chung về thị trường bảo hiểm
I. sự RA Đời Và Phát Triển Của Bảo Hiềm.
l. Nguồn gốc ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới.
Bất cứ ngành nghề nào đều ra đời từ nhu cầu đòi hỏi khách quan trong những điều kiện nhất định.
Cho đến nay, chưa ai có thể xác định chính xác nguồn gốc của bảo hiểm bắt đầu từ bao giờ, nhưng mọi người công nhận các hoạt động sơ khai, mang tính bảo hiểm đã có từ rất lâu. Các hoạt động đó đáp ứng nhu cầu bảo vệ cuộc sống con người ở mọi nơi, mọi lúc trước những rủi ro trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cả về quy mô, mức độ và thời hạn. Theo đó, các hoạt động để đáp ứng nhu cầu ấy cũng phát triển một cách tương ứng. Các hoạt động này dần dần được quy định lại một cách chính thức, hợp pháp theo các tiêu chuẩn khác nhau và có tên gọi chung là bảo hiểm.
Những nghiên cứu về lịch sử phát triển của hoạt động bảo hiểm cho thấy hoạt động bảo hiểm trong quá trình phát triển đã trả...
109 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 953 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Bảo hiểm Việt Nam trước thềm hội nhập và giải pháp đẩy mạnh sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam đến 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chương I
KháI quát chung về thị trường bảo hiểm
I. sự RA Đời Và Phát Triển Của Bảo Hiềm.
l. Nguồn gốc ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới.
Bất cứ ngành nghề nào đều ra đời từ nhu cầu đòi hỏi khách quan trong những điều kiện nhất định.
Cho đến nay, chưa ai có thể xác định chính xác nguồn gốc của bảo hiểm bắt đầu từ bao giờ, nhưng mọi người công nhận các hoạt động sơ khai, mang tính bảo hiểm đã có từ rất lâu. Các hoạt động đó đáp ứng nhu cầu bảo vệ cuộc sống con người ở mọi nơi, mọi lúc trước những rủi ro trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cả về quy mô, mức độ và thời hạn. Theo đó, các hoạt động để đáp ứng nhu cầu ấy cũng phát triển một cách tương ứng. Các hoạt động này dần dần được quy định lại một cách chính thức, hợp pháp theo các tiêu chuẩn khác nhau và có tên gọi chung là bảo hiểm.
Những nghiên cứu về lịch sử phát triển của hoạt động bảo hiểm cho thấy hoạt động bảo hiểm trong quá trình phát triển đã trải qua 3 hình thái: dự trữ thuần túy, cho vay nặng lãi và cuối cùng là hình thức thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm các bên.
1.l. Dự trữ thuần túy.
Những bằng chứng lịch sử cho thấy từ rất xa xưa cho đến nay con người đã ý thức được việc tự bảo vệ để tồn tại, trong đó vấn đề đầu tiên là dự trữ thức ăn kiếm được hàng ngày phòng khi đói kém.
Ví dụ: vào những năm 2.500 trước công nguyên (TCN) - hơn 4.000 năm trước đây, ở Ai Cập những người thợ đẽo đá đã biết thiết lập quỹ để giúp đỡ nạn nhân của các vụ tai nạn.
1.2. Cho vay nặng lãi.
Hệ thống cho vay phát triển cùng với sự mở rộng thương mại và buôn bán giữa các quốc gia, các vùng, các châu lục. Dấu ấn đáng chú ý là: hệ thống vay mượn lãi suất cao để mua và vận chuyển hàng hóa ở Babylon (khoảng l.700 năm TCN) và AThen (khoảng 500 năm TCN). Khi hàng hóa bị mất trong quá trình vận chuyển thì người đi vay sẽ không phải trả khoản tiền đã vay. Khiếm khuyết của hệ thống này là lãi suất hà khắc, có khi lên đến 40% và phải trả trước (Nghiên cứu lịch sử phát triển bảo hiểm cho thấy phần lãi suất cho vay được khấu trừ trước nay là dấu hiệu của phí bảo hiểm ngày nay). Do vậy, nhà thờ và các hội tôn giáo đã can thiệp bằng các sắc lệnh để chấm dứt hoạt động cho vay nặng lãi. (Trích: Đại cương về BH và BH nhân thọ - Tổng công ty BHVN)
Vì nhu cầu cần tiền và cần sự đảm bảo cho chuyến hàng của các nhà buôn vẫn rất lớn, đặc biệt khi thông thương buôn bán đang phát triển và mang lại lãi suất rất cao, các hình thức khác đã ra đời.
1.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên.
Để giải quyết nhu cầu tiền vốn và nhu cầu giảm các thiệt hại lớn cho các nhà buôn, có 2 phương pháp khả thi. Đó là:
a. Hình thức cổ phần.
Chuyến hàng được tạo lập bằng sự đóng góp của nhiều người. Mỗi người góp một phần nào đó (bằng tiền hoặc hàng hóa) vào chuyến hàng và cùng chịu trách nhiệm theo phần đóng góp đó. Khi chuyến hàng về đến đích, lợi nhuận sẽ được chia cho mọi người theo tỷ lệ đóng góp cổ phần. Nếu chuyến hàng chẳng may gặp rui ro thì hậu quả thiệt hại cũng được chia sẻ cho nhiều người. Hình thức này giảm được gánh nặng tổn thất cho nhiều người cùng gánh chịu. Nhưng nó vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: kêu gọi cho đủ người tham gia góp cổ phần sẽ mất nhiều thời gian, phải dàn xếp thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi...
b. Hình thức bảo hiểm.
Những thỏa thuận bảo hiểm đầu tiên xuất hiện gắn liền với hoạt động giao lưu buôn bán hàng hóa bằng đường biển. Những thỏa thuận bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải có nội dung cơ bản như sau:
Một bên là nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng hóa, tàu thuyền không đến được nơi giao hàng do một số nguyên nhân nhất định thì bên thứ hai (Người bảo hiểm) sẽ trả bên thứ nhất một khoản tiền nhằm bù đắp cho những thiệt hại đã xảy ra. Như vậy, có thể coi bảo hiểm hàng hải là sự khởi đầu của ngành bảo hiểm. Bản hợp đồng bảo hiểm cổ nhất còn lưu lại được phát hành tại thành phố cảng Genoa - Italia, vào năm 1347. Sau đó, cùng với cuộc cách mạng thương mại vào thế kỷ 14, 15 thúc đẩy sự mở rộng vận tải hàng hải, bảo hiểm hàng hải cũng phát triển mạnh mẽ.
Hoạt động bảo hiểm ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội xoài người. Hoạt động này đã đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết về an toàn của con người trong cuộc sông và sinh hoạt. Bảo hiểm hàng hải là loại bảo hiểm đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm. Sau đó, lần lượt là bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm nhân thọ và các loại bảo hiểm khác.[8]
b1. Bảo hiểm hỏa hoạn:
Vụ cháy lớn ở Anh vào năm 1666 đã thiêu hủy trên 13.000 tòa nhà, là thảm họa lớn nhất từ trước cho đến thời điểm đó. Nhu cầu về cơ chế bảo hiểm cho tài sản trước rủi ro cháy dẫn tới sự ra đời của các công ty bản hiểm trong lĩnh vực hỏa hoạn. Năm 1667, công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên đã ra đời ở nước Anh. [8]
b2. Bảo hiểm nhân thọ:
Công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable là công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được thành lập ở Anh vào năm 1762. Có thể nói rằng nước Anh là chiếc nôi của ngành dịch vụ bảo hiểm thế giới. Cho đến ngày nay, đây vẫn là trung tâm của các hoạt động bảo hiểm.
b3. Các loại bảo hiểm khác.
Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện và phát triển rất nhanh: bảo hiểm ô ô, bảo hiểm máy bay, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Ngày nay, bảo hiểm đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Ngành bảo hiểm thương mại đang giữ một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển.
2. Sự phát tiền của ngành bảo hiểm thế giới.
Ngày nay ngành bảo hiểm trên thế giới đã trở thành một ngành rất lớn mạnh. Các hoạt động bảo hiểm bao trùm lên mọi lĩnh vực đời sống xã hội và thị trường bảo hiểm rộng lớn cũng tác động mạnh mẽ lên các thị trường khác.
2.1. Các thị trường bảo hiểm Châu Âu.
Châu Âu là cái nôi của bảo hiểm hiện đại và vẫn là một thị trường chủ yếu tầm thế giới với tốc độ phát triển nhanh, nhất là ngành bảo hiểm Nhân thọ và Tiết kiệm.
Dưới ảnh hưởng của ủy ban Châu Âu, các nước thuộc Liên minh Châu Âu (có 15 nước từ năm 1995) triển khai dần dần một thị trường bảo hiểm chung, nhưng vẫn chưa thống nhất về mặt pháp lý (hợp đồng, trách nhiệm dân sự), cũng như vấn đề thuế.Ba thị trường chính của Châu Âu là Đức, Anh và Pháp. Thị trường bảo hiểm của một số nước Tây Âu khác từ lâu có sự năng động vượt qua ban giới quốc gia như: Thụy Sĩ, Hà Lan, ý, Thụy điển, Luxembourg. Thị trường các nước Nam Âu, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, có tốc độ phát triển nhanh nhất. Các nước Đông Âu, đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế nhà nước sang nền kinh tế tự do hơn, có những chuyển biến sâu sắc, tăng trưởng mạnh và rất sôi động.
ủy ban Bảo hiểm Châu Âu công bố các số liệu thống kê về thị trường của 25 Hiệp hội quốc gia là thành viên của ủy ban này. Năm 2001, các số liệu tổng thể như sau:
Bảng1: Các chỉ tiêu về Bảo hiểm của 25 quốc gia Châu Âu năm 2001
Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ
251.577 triệu ECU
51,3%
Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ
238.669 triệu ECU
48,7%
Tổng doanh thu của hai ngành bảo hiểm trên
490.246 triệu ECU
Số lượng nhân viên của các công ty này
5.303
Phí bảo hiểm nhân thọ theo bình quân đầu người
977.256
Phí bảo hiểm phi nhân thọ theo bình quân đầu người
492 ECU
Tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ theo BQ đầu người
659 ECU
Tỉ lệ: phí bảo hiểm/ Tổng sản phẩm quốc dân
6,9%
Đầu tư của các công ty bảo hiểm
2.585.506 triệu ECU
Tỉ lệ: đầu tư tài chính/ Tổng sản phẩm quốc dân
37,05%
37,05%
Phí bảo hiểm bình quân mỗi công ty
92 triệu ECU
Số lượng nhân viên trung bình mỗi công ty
184
(Nguồn: Giáo khoa Quốc tế về Bảo hiểm)
Năm 1999, doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm Châu Âu tăng gần 7%, trong đó 5,9% trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và 7,5% là bảo hiểm nhân thọ. Mặc dù bị giảm so với những năm trước, nhưng việc này vẫn khẳng định xu hướng tăng được duy trì từ nhiều năm nay.
- Doanh thu bảo hiểm Châu Âu tăng nhanh hơn Tổng sản phẩm quốc nội một cách rõ rệt, năm 1980 chiếm 4% GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) lên tới 6,9% năm 1999
- Ngành bảo hiểm Nhân thọ tăng nhanh hơn ngành bảo hiểm Thiệt hại, gán đạt đến sự chín muồi, trừ ở các nước Nam Âu nơi mà nhu cầu còn rất lớn. Trong 15 năm gần đây, bảo hiểm Nhân thọ đã tăng nhanh hơn GDP 2,5 lần, điều này thể hiện một phần tiết kiệm của các hộ gia đình chuyển hướng sang sản phẩm bảo hiểm và nỗi lo lắng của một phần công chúng về tương lai của các chế độ bảo hiểm và hưu trí của Nhà nước.
Phần lớn các tập đoàn bảo hiểm Châu Âu hoạt động mạnh ở nước ngoài và đã trở thành những công ty đa quốc gia thực sự. Trong vòng 30 năm gần đây, thị trường bảo hiểm Châu Âu đã có những tiến triển sâu sắc. Không những chỉ phát triển rất ổn định mà tất cả các luật bảo hiểm quốc gia cũng biến đổi sâu sắc dưới tác động bền bỉ của giới lãnh đạo Liên minh Châu Âu (EU). Thậm chí những nước không nằm trong số 15 nước thành viên của EU cũng hầu như thông qua luật bảo hiểm được soạn thảo dựa trên các nguyên tắc của ủy ban bảo hiểm Châu Âu liên quan đến thị trường bảo hiểm.
- Thị trường bảo hiểm Anh:
Chúng ta đã thấy các hoạt động bảo hiểm hiện nay được biết đã ra đời chính tại ý, sau đó là ở các nước thuộc vùng Địa Trung Hải và vịnh Ban Tích. Tuy nhiên, một điều không thể chối cãi được là các hình thức bảo hiểm hiện đại lại phát triển chính tại Anh, từ thế kỷ XVII. Sự bành trướng phi thường về kinh tế và chính trị của Anh vào thế kỷ XIX đã làm cho các doanh nghiệp Anh quốc, trong đó có các công ty bảo hiểm phát triển rực rỡ trên thế giới và có ảnh hưởng rất lớn trong một thời gian dài. Rất nhiều ngành bảo hiểm đã được hình thành bởi những
Công ty bảo hiểm Anh và giữ được vai trò ngự trị lâu dài nhờ vào năng lực cao, khả năng bảo hiểm và mạng lưới rộng khắp thế giới của các chuyên gia, công ty tài chính và môi giới bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm Anh có 926 công ty, năm 2001, đạt doanh thu bảo hiểm trực tiếp là 227904 triệu USD, bằng 5,97% thị trường thế giới. Như vậy, phí bảo hiểm bình quân đầu người là 2.964,2 USD, trong đó 64% là bảo hiểm nhân thọ. Tỉ trọng bảo hiểm trong GDP đạt l4,33%, cao nhất ở Châu Âu, sau Thụy Sỹ. [16]
- Các thị trường bảo hiểm Châu á.
ở Châu á, bảo hiểm bành trướng rất nhanh, cùng với sự phát triển kinh tế của lục địa này và quá trình tự do hóa kinh tế đang diễn ra tại phần lớn các nước có nền kinh tế tập trung. Trong thập kỷ qua, doanh thu bảo hiểm hàng năm tăng trung bình 15%.
Bảng 2: Các thị trường bảo hiểm chính ở Châu á năm 1999.
Nước
Doanh thu bảo hiểm năm 1999 (tr. USD)
Tỷ trọng bảo hiểm nhân thọ (%)
Phí bảo hiểm bình quân đầu người USD
Tỷ trọng bảo hiểm trong GDP
Nhật Bản
637.256
80,1
5.088
12,78
Hàn Quốc
59.989
77,9
1.337
13,16
Đài Loan
14.397
67,7
678
5,53
Trung Quốc (không kể Hồng Kông)
7.368
31,6
6
1,17
ấn Độ
6.026
70,0
6
2,01
Hồng Kông
5.037
60,9
813
3,51
Israel
5.010
45,5
904
5,78
Thái Lan
4.076
47,6
67
2,43
Singapor
3.678
67,2
1.190
4,25
Malaixia
3.651
49,3
181
4,28
Indonesia
2.380
38,8
12
1,40
Phillipines
1.123
43,4
16
1,52
A rập xê út
712
3,7
40
0,57
Các tiểu vương quốc ả Rập thống nhất
645
12,7
220
1,69
I ran
507
6,9
7
0,48
Pakistan
478
43,3
4
0,81
Cô oét
188
12,5
111
0,71
Oman
119
17,4
55
0,99
Jordanie
117
19,5
22
1,78
Ba – ranh
101
15,8
180
2,24
(Nguồn: Bảo hiểm quốc tế - Trường Quốc gia Bảo hiểm Paris)
2.2. Tình hình thị trường bảo hiểm toàn cầu.
Thị trường bảo hiểm trên thế giới hiện nay đang có những biến đổi sâu sắc.. Những người có trên 25 năm thâm niên công tác trong ngành bảo hiểm đã bình luận rằng, họ chưa từng thấy tình hình thị trường bảo hiểm toàn cầu như hiện nay:
Khả năng tài chính của thị trường là khổng lồ, cạnh tranh gay gắt và không lành mạnh mà hậu quả là phí bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm xấu đi một cách ghê gớm. Quan điểm chung hiện nay là các nhà bảo hiểm và các nhà n.hận tái bảo hiểm không còn bảo hiểm rủi ro nữa mà chỉ đơn thuần là chạy theo những tỉ lệ phí và những điều kiện bảo hiểm mà người ta cho là "điên rồ" và "không thể chịu đựng được". Sự thực là khái niệm "định giá đúng" đã bị lấn át bởi "các lí do thương mại", và ngày nay bảo hiểm giống như một thị trường hàng hóa thông thường, nơi mà chất lượng phục vụ và giá trị gia tăng, những nét đặc trưng cơ bản trong hoạt động kinh doanh của bảo hiểm không còn mấy ý nghĩa so với giá cả (phí bảo hiểm). Đối với một ngành kinh doanh như ngành bảo hiểm thì đó ít nhất cũng là điều đáng tiếc, đó là điều cực kỳ nguy hiểm xét về lâu dài đối với cả hai bên: người bán bảo hiểm và khách hàng của họ.
Mặt khác, tình trạng "thị trường mềm" không phải là mới. Nó đã từng xảy ra trước đây, nhưng có lẽ không phải với mức độ nghiêm trọng như hiện nay và với rất ít triển vọng sẽ được cải thiện trong những năm tới. Đương nhiên, không ai hoài nghi là trong mấy năm qua, các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm đã thu được khá nhiều lợi nhuận. Xét trên góc độ thị trường bảo hiểm toàn cầu thì vụ động đất ở Kobe Nhật Bản chỉ là một chấn động nhẹ. Lloydss of London có vẻ như vừa mới bình phục sau trận ốm "thập tử nhất sinh" đầu những năm 90 (Mặc dù bản báo cáo đầu tiên mới công bố gần đây của Equitas, một cơ quan đóng vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch xây dựng lại và cải cách của Lloyd's, chắc là đã làm chấn động toàn thị trường, bởi lẽ theo báo cáo đó thì những khiếu nại đòi bồi thường sẽ phải giải quyết trong tương lai tỏ ra khác xa một cách nguy hiểm so với dự kiến ban đầu).
Bảo hiểm thế giới đã được chứng kiến sự tăng lên chưa từng thấy của các khả năng tài chính mới ở Hoa Kỳ, Bermuda và các nơi khác, đặc biệt là trong lĩnh vực tái bảo hiểm. Ai nấy đều muốn chia phần và cạnh tranh ác liệt, hông chỉ làm cho phí bảo hiểm giảm xuống một cách đáng kể, mà còn làm giảm cả chất lượng sản phẩm bảo hiểm. Trước tình hình đó, tất cả đều buộc phải tập trung mọi sức lực bảo vệ công việc làm ăn của mình khỏi bị tấn công, cố gắng đạt được sự tăng trưởng và thực hiện được các mục tiêu chiến lược về lợi nhuận trước sự hiện diện của một "thị trường mềm", do đó còn đâu thời gian và cảm hứng để làm những việc như: tập trung nghiên cứu để cung cấp những sản phẩm mới có chất lượng cao nhằm đáp ứng các nhu cầu thay đổi hàng ngày, để hành động một cách chủ động sáng tạo chứ không phải phản ứng một cách thụ động; để ngẩng cao đầu và nhìn về tương lai.
Cũng cần nói thêm rằng ngành bảo hiểm đang trải qua những thay đổi cực kỳ sâu sắc. Một nhóm các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp đang thực hiện những thay đổi quan trọng về cơ cấu. Việc sáp nhập và mua lại các hãng môi giới và các công ty bảo hiểm đang diễn ra trên khắp thế giới. Ngày càng có nhiều công ty tái bảo hiểm được thành lập để cung cấp các giải pháp mới về bảo hiểm mức vượt trội cho những công ty muốn chọn mức giữ lại cao. Các giải pháp bảo hiểm trực tiếp không qua trung gian đang trở nên ngày càng phổ biến.
Cái mà người ta đang tập trung phê phán là ngành bảo hiểm đã tỏ ra không đủ hiệu quả một cách đáng ngại. Những vấn đề về vai trò tương lai của môi giới và của tái bảo hiểm vẫn chưa được giải đáp mặc dù ngày càng có nhiều người muốn bỏ hẳn hoặc giảm bớt khâu trung gian, tiết kiệm chi phí và đơn giản hóa toàn bộ quá trình dịch chuyển từ người bán đến người mua. Trong khi đó thì bộ phận còn lại của giới tài chính quốc tế nhảy vào thị trường, chào bán các giải pháp cung cấp tài chính mà khách hàng có thể lựa chọn để xử lý rủi ro như các phương tiện phòng chống và các sản phẩm phát sinh vượt ra ngoài phạm vi các phương pháp chuyển giao rủi ro truyền thống thông qua bảo hiểm. Đối với các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp quốc tế thì cũng chẳng có gì là chắc chắn: chỉ có sự thay đổi là chắc chắn mà thôi.
Còn đối với khách hàng thì trước mắt họ có thể mở tiệc ăn mừng. Họ giảm được nhiều chi phí để mua những sản phẩm văn hóa có điều kiện hời hơn, họ cảm thấy họ có được sự lựa chọn tự do hơn. Một số công ty lớn và công ty siêu quốc gia đã tiến đến giai đoạn mà sự lựa chọn ưa thích của họ là hạn chế tối đa việc sử dụng thị trường bảo hiểm trong chừng mực có thể. Đó là cách đáp lại tính không hiệu quả của quá trình bảo hiểm và tái bảo hiểm, một quá trình dẫn đến trên 40% phí bảo hiểm được dùng để chi trả cho quá nhiều bên tham gia vào một thương vụ bình thường, đặc biệt là dưới hình thức phụ phí và hoa hồng, chỉ có phần không lớn còn lại được chi cho chức năng bảo vệ thực sự của bảo hiểm. Đối với một số công ty lớn thì đó cũng là sự đáp lại nguyện vọng của họ muốn kiểm soát số phận của chính mình và muốn được ăn chia một phần thành quả tài chính mà ngành bảo hiểm giành được. Có mấy cách để họ thực hiện nguyện vọng đó. Đó là thành lập các công ty bảo hiểm "trong nhà" hay các công ty bảo hiểm nội bộ; săn tìm các giải pháp tài chính mới mà họ có thể lựa chọn để khắc phục rủi ro; lập ra các nhóm giữ lại rủi ro và các quỹ điều hòa. Tất cả những cái đó làm giảm quy mô của thị trường bảo hiểm và góp phần làm cho cạnh tranh ác liệt hơn.
II. Khái niệm và đặc điểm của thị trường bảo hiểm.
1. Các khái niệm cơ bản về bảo hiểm - tái bảo hiểm.
1.1. Bảo hiểm.
1.1.1. Khái niệm:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm:
- Theo giáo trình bảo hiểm trường Đại học Kế toán Hà Nội: Hoạt động bảo hiểm là việc người bảo hiểm nhận trách nhiệm trước rủi ro, trên cơ sở người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng, đóng phí bảo hiểm để người bảo hiểm bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm theo luật thống kê[9]. Khái niệm này mới chỉ nói lên được quy trình bảo hiểm, mà chưa nói lên được bản chất của bảo hiểm.
- Giai đoạn ban đầu phát triển của bảo hiểm thì bảo hiểm đã được định nghĩa là : "Bảo hiểm là tổ chức hợp lý một nhóm người có cùng chung một loại rủi ro có thể xảy ra. Các khoản đóng góp về tài chính của họ cho phép bồi thường những thiệt hại mà một số người trong nhóm phải gánh chịu khi tổn thất xảy ra [5]. Khái niệm trên chưa đầy đủ, không phải bất cứ thiệt hại nào cũng được bồi thường, mà chỉ một số những tổn thất đã được thoả thuận gây ra.
Nữ hoàng Anh Elisabeth đệ nhất đã từng khẳng định: Nhờ có bảo hiểm "tổn thất sẽ nhẹ đi nếu được chia sẻ cho nhiều người và sẽ rất nặng nếu để một ít người gánh chịu" [16]. Những người có nhà cửa, khi mua bảo hiểm hoả hoạn, hàng năm đều phải trả một khoản tiền nhỏ (tương đương 0,5%o giá trị ngôi nhà) để những người bất hạnh trong số họ, bị mất nơi ở do cháy, nhận được một khoản tiền bồi thường cho phép tái thiết lại nhà cửa.
- Còn trong giáo trình bảo hiểm - Trường Đại học Ngoại thương: Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của Người bảo hiểm đối với Người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một số rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Khái niệm này khá đầy đủ nhưng chưa đề cập đến bản chất của hoạt động bảo hiểm. [7]
- Định nghĩa về bảo hiểm do giáo sư Hémard (Pháp) đưa ra có tính pháp lý hơn và đầy đủ hơn cả: ''Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bản hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra sẽ được trả một khoản bồi thường từ một bên khác là người bảo hiểm, người trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật thống kê [16].
1.1.2. Các nguyên tắc bảo hiểm cơ bản của bảo hiểm :
a) Bảo hiểm một rủi ro chứ không bảo hiểm một sự chắc chắn.
b) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
c) Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm.
d) Nguyên tắc bồi thường.
e) Nguyên tắc thế quyền. [7]
1.1.3. Phương pháp phân tán rủi ro của các công ty bảo hiểm.
Rủi ro không chỉ xảy ra đối với những khách hàng mua bản hiểm mà còn xảy ra cả đối với các công ty bảo hiểm. Khi xảy ra những rủi ro tổn thất quá lớn thì cộng ty bảo hiểm cũng không đủ khả năng chi trả bồi thường và sẽ rơi vào tình trạng phá sản. Do vậy đối với những rủi ro quá lớn các nhà bảo hiểm sẽ tìm cách phân tán rủi ro để đảm bảo khả năng tài chính và ổn định hoạt động kinh doanh của chính mình. Từ khi bảo hiểm ra đời rất nhiều các phương pháp đã được áp dụng để phân chia rủi ro và phân tán các rủi ro cho nhiều nhà bảo hiểm để trong trường hợp tổn thất xảy ra, cam kết tối đa của mỗi một nhà bảo hiểm tương ứng với khả năng tài chính của họ và không làm phương hại đến khả năng thanh toán của họ.
Hiện nay có 3 phương pháp chính được áp dụng để phân chia rủi ro. Đó là: Đồng bảo hiểm, ký kết bảo hiểm theo lớp, tái bảo hiểm.
- Đồng bảo hiểm là sự phân chia theo tỉ lệ cùng một rủi ro giữa nhiều nhà bảo hiểm, những người được gọi là các nhà đồng bản hiểm. Mỗi một nhà đồng bảo hiểm trong số đó chấp nhận một tỉ lệ nào đó của rủi ro tùy thuộc vào mức chấp nhận riêng của anh ta và sẽ nhận được một tỉ lệ tương ứng như vậy về phí bảo hiểm do người được bảo hiểm và trong trường hợp tổn thất xảy ra toàn bộ hay từng phán thì anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường theo chính tỉ lệ đó. Thị trường thường xuyên áp dụng hình thức bảo hiểm này là thị trường Luân Đôn.
- Phân chia rủi ro theo lớp:
Khi một nhà bảo hiểm có khả năng bảo hiểm ở mức thấp hơn so với toàn bộ số tiền phải bảo hiểm, anh ta có thể đề nghị bảo hiểm cho rủi ro đầu tiên tương ứng với mức chấp nhận của anh ta và đề nghị một nhà bảo hiểm khác bảo hiểm mức còn lại của lớp đầu tiên này. Đối với các tập đoàn có tầm cỡ quốc tế, có thể quyết định bảo hiểm các lớp thấp ở các nhà bảo hiểm của nước nơi mà tập đoàn đó hoạt động (điều đó là một quy định bắt buộc của pháp luật) và có thể quyết định bảo hiểm các tổn thất thảm họa hoặc bảo hiểm các khoản tiền lớn nhất ờ các nhà bảo hiểm quốc tế được chấp nhận hoạt động tại nước mà tập đoàn này đặt trụ sở, đôi khi người ta gọi hợp đồng cuối cùng này là một hợp đồng ''cái ô'' (Umbrella Cover).
- Tái bảo hiểm:
Tái bảo hiểm là phương pháp thứ ba được áp dụng để phân tán các rủi ro và phân chia tốt hơn các rủi ro giữa các nhà bảo hiểm theo khả năng tài chính sẵn có của họ để bảo hiểm cho các rủi ro đó.
Người ta có thể nói người tái bảo hiểm là người bản hiểm của các nhà bảo hiểm. Thật vậy, tái bảo hiểm là một hợp đồng mà qua đó người bảo hiểm gốc trút bỏ tất cả hoặc một phần các rủi ro mà anh ta đã chấp nhận bảo hiểm sang một người khác, đó là người tái bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm nhượng tái bảo hiểm, nhượng lại một phần các rủi ro đã chấp nhận và các khoản phí tương ứng. Chính vì vậy, trong một hợp đồng tái bảo hiểm, người bảo hiểm gốc được gọi là công ty nhượng, hoặc ngắn gọn hơn ''bên nhượng'' và người tái bảo hiểm được gọi là ''bên được nhượng''. Như vậy trong đồng bảo hiểm, có một mối quan hệ hợp đồng trực tiếp giữa người được bảo hiểm với mỗi một nhà đồng bảo hiểm, người được bảo hiểm không hề có một mối quan hệ nào với các nhà tái bảo hiểm. Ngay cả sau khi đã ký một hợp đồng tái bảo hiểm, người bảo hiểm gốc vẫn giữ toàn bộ các rủi ro mà người đó đã chấp nhận bảo hiểm. Trong trường hợp tổn thất xảy ra, chính người bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm và sau đó sẽ thu về phần mà nhà tái bảo hiểm phải trả cho mình (trên thực tế chúng ta sẽ thấy là trong trường hợp tổn thất xảy ra nghiêm trọng thì nhà tái bảo hiểm có thể ứng trước cho người bảo hiểm số tiền cần thiết để bồi thường cho người được bảo hiểm).
Như vậy, các hợp đồng tái bảo hiểm luôn luôn do các công ty bảo hiểm chuyên nghiệp ký. Các hợp đồng tái bảo hiểm không bị sự kiểm tra chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước như sự kiểm tra đối với các hợp đồng bảo hiểm nhằm bảo vệ những người được bảo hiểm. Vì vậy, nếu bắt buộc phải có các thủ tục chấp nhận đối với các nhà tái bảo hiểm thì thủ tục đó thường đơn giản hơn rất nhiều so với thủ tục của các nhà bảo hiểm gốc.
Tóm lại. Tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử dụng để chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một phần phí bảo hiểm thông qua hợp đồng tái bảo hiểm. Nếu như bảo hiểm là hình thức dàn trải tổn thất của một ít người cho nhiều người cùng chịu thì tái bảo hiểm là hình thức dàn trải một lần nữa những tổn thất mà các công ty bảo hiểm phải gánh chịu. Nói một cách ngắn gọn: tái bảo hiểm là bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm.
Ưu nhược điểm của tái bảo hiểm
+ Ưu điểm: Tạo tâm lý an toàn cho các công ty bảo hiểm bằng các dịch vụ bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm, đảm bảo tài chính cho các công ty bản hiểm.
+ Nhưng nhược điểm là: Tái bảo hiểm có thể làm tăng hoặc giảm một cách đáng kể các chi tiêu tài chính của công ty bảo hiểm.
2. Thị trường bảo hiểm
2.l - Khái niệm về thị trường bảo hiểm
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Có rất nhiều quan điểm về thị trường và cũng đã có nhiều tài liệu bàn về thị trường. Có thể nói quan điểm chung nhất về thị trường là ''thị trường bao gồm toàn bộ các hoạt động trao đổi hàng hóa được diễn ra trong sự thống nhất hữu cơ với các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn liền với một không gian nhất định''. [3]
Theo thuật ngữ bảo hiểm, thì trường bảo hiểm là nơi mua và bán các sản phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt; là loại sản phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu sắc v.v.. sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền, là sản phẩm mà người mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với mình để được bồi thường hay trả tiền bảo hiểm (trừ bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm nhân thọ )...
2.2. Các yếu tố cấu thành nên thị trường bảo hiểm.
2.2. l. Chủ thể của thị trường bảo hiểm.
Người mua hay khách hàng là những cá nhân hay tổ chức có tài sản, trách nhiệm dân sự trước pháp luật, tính mạng hoặc thân thể gặp rủi ro cần bảo hiểm thì mua các dịch vụ ( sản phẩm ) bảo hiểm hoặc trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức trung gian. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng của một loại sản phẩm. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng của một loại sản phẩm. Khách hàng hiện tại là khách hàng đang tham gia quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó, khách hàng tiềm năng là khách hàng có thể tham gia vào quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó trong tương lai.
Mục tiêu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng là lợi nhuận. Muốn vậy phải tiêu thụ được sản phẩm của mình qua các kênh phân phối sản phẩm. Do đặc điểm hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm thường sử dụng kênh phân phối là đại lý và môi giới bảo hiểm.
Theo thuật ngữ Bảo hiểm, Đại lý bảo hiểm là người làm việc cho doanh nghiệp bảo hiểm thay mặt doanh nghiệp bán các sản phẩm bảo hiểm cho người mua. Còn Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam: ''Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan".(Điều 84, chương IV). Như vậy Đại lý Bảo hiểm là những người hoặc tổ chức trung gian giữa và người tham gia bảo hiểm, đại diện cho doanh nghiệp và hoạt động vì quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Đại lý có thể là các tổ chức ngân hàng hay luật sư. Những người này làm Đại lý bảo hiểm rất thuận lợi do có sự tiếp xúc và hiểu biết nhiều khách hàng Trung gian phổ biến trên thị trường bảo hiểm nhân thọ là Đại lý bảo hiểm thường là các cá nhân chuyên hoạt động đại lý. Họ hoạt động tại văn phòng hoặc đi đến từng nhà, từng doanh nghiệp để bán bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và đàm phán những thay đổi về nhu cầu bảo hiểm của khách hàng thực tế và tiềm năng.
Cũng là một trong 2 kênh phân phối qua trung gian, nhưng môi giới bảo hiểm lại là hình thức phổ biến của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Môi giới bảo hiểm là người trung gian giữa DNBH với khách hàng. Môi giới bảo hiểm khác với đại lý bảo hiểm một cách cơ bản là nếu Đại lý bảo hiểm đứng về phía quyền lợi của công ty bảo hiểm thì ngược lại môi giới bảo hiểm lại đứng về phía quyền lợi của khách hàng. Họ có nhiệm vụ tham mưu, tư vân, thu xẹp các hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng. Môi giới là người được khách hàng ủy quyền và luôn luôn hành động vì lợi ích của khách hàng.
Môi giới bảo hiểm thường nắm rất vững về kỹ thuật nghiệp vụ, đặc biệt là những thông tin về thị trường. Về lý thuyết, người môi giới sau khi đáp ứng nhu cầu của khách hàng sẽ tìm kiếm DNBH có thể đáp ứng nhu cầu tốt nhất với chi phí thấp nhất. Thực tế, môi giới thường lựa chọn trên thị trường một doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều ưu đãi, sau đó giới thiệu cho khách hàng. Môi giới bảo hiểm làm cho cung và cầu về sản phẩm bảo hiểm được chắp nối với nhau, đồng thời góp phần làm tăng uy tín của sản phẩm và doanh nghiệp bảo hiểm. Ngày nay kênh phân phối bằng môi giới được sử dụng nhiều đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm hàng hóa XNK...
Thông thường trên thị trường bảo hiểm có 2 loại môi giới bảo hiểm. Đó là môi giới bảo hiểm gốc và môi giới tái bảo hiểm. Môi giới bảo hiểm gốc sẽ giúp những người cần mua bảo hiểm nhưng không biết phải mua như thế nào và mua ở đâu tìm và kí được hợp đồng bảo hiểm phù hợp. Khách hàng có thể trực tiếp hoặc qua môi giới để mua bảo hiểm. Nhưng trong những trường hợp tái bảo hiểm thì môi giới tái bảo hiểm lại đặc biệt quan trọng, là người không thể thiếu khi tái bảo hiểm. Hầu hết các DNBH trên thế giới đều yêu cầu môi giới tái bảo hiểm tư vấn, giúp đỡ khi các rủi ro được bảo hiểm quá lớn so với khả năng tài chính của họ trong việc thanh toán bồi thường tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm ẩn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp DNBH phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần thiết. Thông qua môi giới tái bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có được sự an toàn về tài chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định cao hơn cho xã hội.
2.2.2. Khách thể của thị trường bảo hiểm.
Khách thể của thị trường bản hiểm chính là sản phẩm bảo hiểm. Từ các góc độ khác nhau, có thể đưa ra các định nghĩa khác nhau về sản phẩm bảo hiểm. Xét trên góc độ những thứ cơ bản nhất mà khách hàng nhận được khi mua sản phẩm thì sản phẩm bảo hiểm có thể được định nghĩa là: Sự cam kết của DNBH đối với bên mua bảo hiểm về việc bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Định nghĩa này xuất phát từ việc khi mua bảo hiểm, bằng việc trả một khoản tiền nhất định - nộp phí bảo hiểm, bên mua bảo hiểm (các tổ chức, các cá nhân sẽ được DNBH cấp cho Hợp đồng bảo hiểm (giấy chứng nhận bảo hiểm) xác nhận rằng DNBH sẽ bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho họ khi xảy ra các sự kiện như đã thỏa thuận. Thông thường khi nói tới ''Sản phẩm bảo hiểm", người ta thường đồng nghĩa với nghĩa với ''nghiệp vụ bảo hiểm". Cách nói này thường được sử dụng khi phân loại DNBH theo sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp.
Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm:
Bảo hiểm là một loại hình dịch vụ, do đó sản phẩm bảo hiểm cũng có các đặc điểm chung của các sản phẩm dịch vụ như tính vô hình, tính không thể tách rời và không thể cất trữ được, tính không đồng nhất với tính không được bảo hộ bản quyền. Ngoài ra, sản phẩm bảo hiểm còn có các đặc điểm riêng đó là: Sản phẩm ''không mong đợi", sản phẩm của "chu trình kinh doanh đảo ngược'' và sản phẩm có hiệu quả ''xê dịch''. Chính vì có những đặc điểm chung và đặc điểm riêng này nên sản phẩm bảo hiểm được xếp vào loại sản phẩm dịch vụ ''đặc biệt''
a) Đặc điểm chung:
Bảo hiểm là sản phẩm vô hình. Khi mua bảo hiểm, mặc dù khách hàng nhận được các yếu tố hữu hình đó là những tờ giấy trên đó có in biểu tượng của doanh nghiệp, in tên gọi của sản phẩm, in những nội dung thỏa thuận... Nhưng khách hàng không thể chỉ ra được màu sắc, kích thước, hình dáng hay mùi vị của sản phẩm. Nói một cách khác, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ''vô hình!" người mua không thể cảm nhận được sản phẩm bảo hiểm thông qua các giác quan của mình.
Tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên khó khăn hơn. Khi mua sản phẩm bảo hiểm, người mua chỉ nhận được những lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trước các rủi ro.
Sản phẩm bảo hiểm không thể tách rời - tức là việc tạo ra sản phẩm dịch vụ bảo hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó (quá trình cung ứng và quá trình tiêu thụ là một thể thống nhất). Thêm vào đó, sản phẩm bảo hiểm cũng không thể cất trữ được - có nghĩa là khả năng thực hiện dịch vụ bảo hiểm vào một thời điểm nào đó sẽ không thể cất vào kho dự trữ để sử dụng vào một thời điểm khác trong tương lai. Điều này hoàn toàn khác biệt với sản phẩm hữu hình.
Đa số các sản phẩm hữu hình có thể được sản xuất với số lượng lớn sau đó được lưu trữ trong kho bán dần. Còn các sản phẩm dịch vụ thì không thể cất trữ được.
Các nhân viên của doanh nghiệp cũng như các đại lý bảo hiểm chỉ có một số giờ nhất định trong một ngày để gặp gỡ khách hàng và số giờ sẵn có trong ngày không thể mang sang ngày khác. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng không thể "sản xuất'' trước một lượng lớn các cuộc kiểm tra các khiếu nại hay các dịch vụ khách hàng khác và gửi chúng cho các khách hàng có yêu cầu.
Tính không đồng nhất của dịch vụ bảo hiểm, cũng như các dịch vụ khác, chủ yếu được thực hiện bởi con người. Nhưng cho dù là người có kỹ năng đến đâu đi chăng nữa thì dịch vụ họ thực hiện không phải lúc nào cũng nhất quán. Ví dụ, các địa lý khi bán sản phẩm có thể quên các chi tiết, có thể chậm trễ hoặc mất kiên nhẫn... Nhìn chung chất lượng phục vụ của một cá nhân nào đó tại các thời điểm khác nhau, với các khách hàng khác nhau là khác nhau. Chất lượng phục vụ này phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, các yếu tố xung quanh. Ngoài ra, giữa các cá nhân khác nhau, chất lượng phục vụ cũng khác nhau.
b) Đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ''không mong đợi". Một trong những đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi. Điều này thể hiện ở chỗ, đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần túy, mặc dù đã mua sản phẩm - nhưng khách hàng đều không mong muốn rủi ro xảy ra để được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Bởi vì rủi ro một khi đã xảy ra thì đồng nghĩa với thương tích, thiệt hại thậm chí là mất mát, do đó số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, chi trả khó có thể bù đắp được. Đặc tính này cũng làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên vô cùng khó khăn, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của ''chu trình kinh doanh đảo ngược''.
Nếu như trong các lĩnh vực kinh doanh khác, giá cả sản phẩm được xác định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh thì trong lĩnh vực bản hiểm, phí bảo hiểm - giá cả của sản phẩm bản hiểm được xác định dựa trên những số liệu ước tính về các chi phí có thể phát sinh trong tương lai như chi bồi thường (trả tiền bảo hiểm), chi hoa hồng, chi tái bảo hiểm... Trong đó, khoản chi chiếm tỉ trọng lớn nhất là chi bồi thường (trả tiền bảo hiểm). Khoản chi này được xác định chủ yếu dựa trên số liệu thống kê quá khứ và các ước tính tương lai về tần suất và quy mô tổn thất.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí của người tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm; sau đó nếu có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm mới phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường hay chi trả. Do vậy, với việc thu phí trước, nếu không có hoặc có ít rủi ro xảy ra, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn dự kiến. Ngược lại, nếu rủi ro xảy ra với tần suất hoặc với quy mô lớn hơn dự kiến, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thua lỗ.
Về phía khách hàng, hiệu quả từ việc mua sản phẩm cũng mang tính ''xê dịch'' - không xác định. Điều này xuất phát từ việc không phải khách hàng nào tham gia bảo hiểm cũng '' được nhận" một số tiền chi trả của doanh nghiệp bảo hiểm (trừ trường hợp mua các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm).
Người bán là các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo tính chất sở hữu, doanh nghiệp bảo hiểm có thể chia ra: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, công ty liên doanh v.v... Theo quy mô tổ chức có thể chia ra tổng công ty, công ty chia theo loại hình kinh doanh thì có công ty bảo hiểm nhân thọ hoặc phi nhân thọ; bán hàng trực tiếp cho khách hàng hoặc thông qua các tổ chức trung gian.
2.2.3 Các qui định pháp luật
Bất kì một thị trường nào hoạt động cũng đều phải tuân thủ theo hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.Thị trường bảo hiểm cũng không nằm ngoài qui luật đó ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển như các nước Châu Âu, hệ thống pháp luật thị trường bảo hiểm rất đầy đủ và chặt chẽ. Đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam, gần đây luật kinh danh bảo hiểm đã ra đời giúp cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thuận lợi hơn. Ngoài luật kinh doanh bảo hiểm, rất nhiều luật khác ảnh hưởng như luật Dân sự , luật Đầu tư nước ngoài.v.v.
2.3. Những đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác đều có những đặc trưng chung là:
2.3.1. Cung - cầu về bảo hiểm luôn luôn biến động
Cung về bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện. Các doanh nghiệp ngày một nhiều và luôn đưa ra thị trường những sản phẩm mới thích ứng với thị trường. Sản phẩm bảo hiểm ngày một nhiều và luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học kĩ thuật của nền kinh tế, của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Điều đó chứng tỏ sản phẩm bảo hiểm không dừng lại ở con số ban đầu mà luôn được cải tiến, hoàn thiện và sáng chế, phát minh ra cái mới.
Cầu về bản hiểm của dân cư, của các tổ chức xã hội, của doanh nghiệp cũng không ngừng tăng lên. Khi nền kinh tế phát triển thì các tổ chức kinh tế cũng phát triển theo, đời sống vật chất tinh thần của dân cư cũng được cải thiện.
Do đó, nhu cầu về đa dạng về các dịch vụ bảo hiểm cũng tăng lên. Với thời kỳ khởi nguyên của bảo hiểm và thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé, các lĩnh vực bảo hiểm cũng hạn chế.Bạn đầu chỉ xuất hiện bảo hiểm hàng hải vì đây là lĩnh vực thường xuyên xảy ra rủi ro và tổn thất lại vô cùng lớn. Rồi sau đó đến bảo hiểm cháy vì nó mang tính chất thảm họa tổn thất lớn. Còn bây giờ bảo hiểm đã quá quen thuộc với mọi người từ bảo hiểm cho những tài sản công trình lớn cho đến ô tô xe máy. Thậm chí chúng ta có thể mua bản hiểm cho đôi chân, cho khuôn mặt, cho đôi mắt của chính mình nếu chúng ta muốn. Rất nhiều diễn viên, người mẫu, ca sĩ đã mua những sản phẩm bảo hiểm mà chúng ta tưởng như không thể có như bảo hiểm giọng hát. v.v.. ...
Những năm đầu thế kỉ XX, dịch vụ bảo hiểm chỉ có trên dưới vài chục sản phẩm nhưng đến nay đã tăng lên hàng trăm, hàng nghìn loại.
Cung và cầu về sản phẩm bảo hiểm phát triển song hành. Cầu tăng thì cung tăng và ngược lại.
2.3.2 - Giá bảo hiểm phụ thuộc nhiều nhân tố.
Trong thị trường hàng hóa, chúng ta đã quá quen với khái niệm giá cả của hàng hóa. Đó là giá mà hai bên mua và bán đồng ý để trao đổi giữa hàng và tiền hoặc một thứ khác (tùy vào mục đích trao đổi). Và thông thường nó dựa trên quy luật ngang bằng về giá trị. Quy luật ngang bằng về giá trị do hao phí lao động bình quân xã hội quyết định. Khi một người mua bỏ ra một số tiền X để mua hàng Y thì có nghĩa là giá cả của Y là X. Thế nhưng trong thị trường bảo hiểm, người ta không hoặc rất hiếm khi sử dụng giá cả bảo hiểm mặc dù về bản chất nó hoàn toàn giống nhau.
Phí bảo hiểm là số tiền mà người mua - khách hàng phải trả cho doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở thỏa thuận giữa người mua và người bán về một dịch vụ bảo hiểm nào đó. Phí bảo hiểm được thỏa thuận giữa người mua và người bán cũng có thể xem đó là giá chấp nhận của thị trường về dịch vụ (hay sản phẩm) bảo hiểm.
Phí bảo hiểm bao gồm: phí thuần và phụ phí (hoặc phí hoạt động trong bảo hiểm nhân thọ). Phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở số tiền bảo hiểm (số tiền người mua chấp nhận với người bán - người bảo hiểm đưa ra) với tỉ lệ phí bác hiểm (R).
Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm bảo hiểm.
* Mục tiêu định giá của từng doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp đưa ra những mức giá cho sản phẩm, thì những mức giá đó nhằm giúp doanh nghiệp đại được những mục tiêu nhất định. Nói một cách khác, mục tiêu định giá chính là cơ sở cho các quyết định liên quan đến giá cả. Và mục tiêu định giá phải đưa (xác định dựa trên những mục tiêu chung của doanh nghiệp. Ví dụ, khi mục tiêu chung của doanh nghiệp là duy trì chất lượng dịch vụ hàng đầu vượt hẳn đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn hẳn đối thủ cạnh tranh nhằm trang trải được các chi phí cao hơn phát sinh do cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn. Ngoài ra các mục tiêu định giá của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với các mục tiêu marketing cụ thể của doanh nghiệp.
- Các mục tiêu hướng theo lợi nhuận.
- Mục tiêu hướng theo số lượng hợp đồng khai thác.
- Mục tiêu hướng theo cạnh tranh.
Quá trình định phí có thể được gọi là quá trình dự đoán tổn thất và chi phí trong tương lai, phân bổ các chi phí này giữa những người tham gia bảo hiểm. ở các quốc gia có ngành bảo hiểm phát triển, trong các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, việc định phí được thực hiện bởi bộ phận định phí hoặc đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ quy mô nhỏ hơn thì việc định phí do các công ty tư vấn định phí thực hiện. Còn trong lĩnh vực bảo hiểm tài sản và trách nhiệm, giá cả sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên số liệu thống kê về khuynh hướng tổn thất do các tổ chức tư vấn cung cấp hoặc do từng doanh nghiệp bảo hiểm tự thu thập.
* Cầu về sản phẩm của khách hàng là nhân tố quyết định giới hạn trên của giá cả sản phẩm. Kinh nghiệm marketing thực tế đều cho thấy, cầu của hầu hết các sản phẩm (trong đó có sản phẩm bảo hiểm) có quan hệ tỉ lệ nghịch với giá cả của sản phẩm (với điều kiện là các nhân tố khác - điều kiện kinh tế nói chung, sự sẵn có của sản phẩm, khả năng mua của khách hàng... không thay đổi). Khi phân tích cầu về sản phẩm phải xác định sự thay đổi của nó khi giá cả sản phẩm thay đổi. Để đo lường mức độ thay đổi này (tỉ lệ % thay đổi trong lượng cầu khi có tỉ lệ % thay đổi trong giá cả), kinh tế học vi mô đã đưa ra khái niệm ''độ co dãn của cầu theo giá''.
2.3.3. Canh tranh và liên kết diễn ra liên tục
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để tranh giành khách hàng, để thu nhiều lợi nhuận diễn ra liên tục, gay go, quyết liệt. Cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh, thủ thuật. Do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm là dễ bắt chước, không bảo hộ bản quyền, nên các doanh nghiệp bảo hiểm "đổ xô'' vào những sản phẩm được thị trường chấp nhận (ngoài việc tung vào thị trường những sản phẩm mới) bằng cách cải tiến để hoàn thiện sản phẩm đó hơn các doanh nghiệp khác; bằng cách tuyên truyền quảng cáo sâu rộng, hấp dẫn để thu hút khách hàng và đặc biệt giảm phí và tăng tỉ lệ hoa hồng để giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trường v.v... Thực tế sôi động đó đã được chứng minh khi thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế tham gia...
Cùng với cạnh tranh là liên kết. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. Liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp mới, còn yếu về tiềm lực để tạo ra sức mạnh cạnh tranh; liên kết giữa các doanh nghiệp có thế mạnh để hòa hoãn, cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau v.v.. liên kết còn diễn ra giữa các doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn để tăng sức mạnh doanh nghiệp nhỏ đảm bảo an toàn trong cạnh tranh và cũng để tăng thêm đồng minh cho doanh nghiệp lớn.
Liên kết còn là nhu cầu của thị trường bản hiểm mới hình thành và phát triển trong điều kiện'thị trường thế giới đã ổn định, có tiềm lực. Liên kết cũng là xu hướng chung của hội nhập và toàn cầu hóa.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy mới hình thành và phát triển, nhưng cạnh tranh cũng diễn ra gay gắt giữa các doanh nghiệp với đủ thủ thuật và mánh khóe. Cạnh tranh cũng gây thiệt hại đáng kể cho một số doanh nghiệp, nhưng cũng mang lại thành công cho các doanh nghiệp có lợi thế, v.v... Để đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp liên kết lại trong tổ chức '' Hiệp hội bảo hiểm" để điều hòa và giữ thế cân bằng trong kinh doanh trước hiện tượng giảm phí và tăng tỉ lệ hoa hồng tùy tiện; đồng thời tiến hành liên kết dưới hình thức liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để tăng tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm kinh doanh để mở rộng thị trường v.v
2.3.4 - Thành phần các doanh nghiệp bảo hiểm luôn thay đổi
Thị phần bảo hiểm là tỉ lệ phần trăm (%) của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chiếm trong thị trường bảo hiểm. Thị phần càng lớn chứng tỏ vị thế của doanh nghiệp càng cao; kết quả kinh doanh của doanh nghiệp càng phát triển.
Nói đến thị phần là nói đến thị trường phát triển không còn mang tính độc quyền. ở đây, các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội như nhau; song doanh nghiệp nào dành được thị phần nhiều hơn là doanh nghiệp đó làm tốt công tác quảng cáo, tiếp thị; do chất lượng phục vụ tốt hơn, phí bảo hiểm có thể thấp hơn v.v..
Như vậy, thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm luôn thay đổi do số lượng doanh nghiệp tham gia vào thị trường thay đổi; do chiến lược maketing, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả v.v... của các doanh nghiệp thay đổi không những giữ được thị phần của mình mà còn giành giật được thị phần của các doanh nghiệp khác.
Ngoài việc cạnh tranh để giành giật thị trường của nhau, các doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh hợp lý để thu hút bộ phận khách hàng tiềm năng. Đây là bộ phận dân cư có nhu cầu bảo hiểm, nhưng chưa có thông tin chính xác về dịch vụ bảo hiểm trên thị trường. Doanh nghiệp nào có chiến lược tuyên truyền, quảng cáo, phục vụ tốt... sẽ thu hút thêm khách hàng ở bộ phận này góp phần tăng thị trường doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải tung ra thị trường những sản phẩm mới để thu hút dân cư trong bộ phận không tiêu dùng tuyệt đối bộ phận không có nhu cầu tuyệt đối với dịch vụ bảo hiểm có trên thị trường.
Ngoài ra, thị trường bảo hiểm còn có những đặc điểm riêng như:
- Thị trường bảo hiểm có đối tượng khách hàng rất rộng vì đối tượng bảo hiểm đa dạng, bao gồm tài sản, trách nhiệm dân sự, con người.
- Thị trường bảo hiểm là thị trường tài chính, do đó chịu sự kiểm tra, kiểm soát rất chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp khá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Nhà nước không những xét duyệt biểu phí, xác định giới hạn trách nhiệm dân sự mà còn quyết định hình thức triển khai-bắt buộc hay tự nguyện. Chỉ có trong thị trường bảo hiểm mới có hình thức bắt buộc với người tham gia.
- Thị trường bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các thị trường khác. Sự ra đời lại phụ thuộc vào nhiều điều kiện. Chẳng hạn, bảo hiểm nhân thọ triển khai được trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển đến mức độ nhất định; thu nhập của người dân được nâng cao, trình độ học vấn được cải thiện, môi trường pháp lý tương đối phát triển ổn định; các loại thị trường khác đã hình thành (thị trường tài chính, đầu tư v.v...).
3. Các loại bảo hiểm
3.l - Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội giữ một vai trò nòng cốt chính trong hệ thống bảo trợ xã hội. Bất cứ nhà nước nào cũng đều thừa nhận rằng, sự nghèo khổ vì thất nghiệp, ốm đau, không chỉ là trách nhiệm của cá nhân, mà còn là trách nhiệm của xã hội. Do đó, giải quyết những vấn đề này là trách nhiệm của nhà nước và công dân. Những đối tượng được bảo trợ xã hội là những người không đạt tiêu chuẩn '' mức sống bình thường về kinh tế '', nên mức bảo trợ cũng chỉ hạn chế trong phạm vi nhu cầu của mức sống cơ bản. Do đó, bảo hiểm xã hội cũng là một loại bảo hiểm của nhà nước thực hiện bắt buộc theo pháp luật và được coi là trách nhiệm chung của xã hội, nhằm bảo vệ quyền lợi cơ bản của nhân dân và thực hiện chính sách xã hội do nhà nước quy định.
Bảo hiểm xã hội thường có những đặc trưng sau đây:
* Đối tượng bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội thể hiện chính sách xã hội của nhà nước, chủ yếu là giải quyết vấn đề đời sống cơ bản của những người lao động trong xã hội, thực hiện trách nhiệm của xã hội đối với từng người lao động, vì vậy đối tượng bảo hiểm phải là đại đa số người dân trong xã hội.
* Phương pháp thực hiện bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội phần lớn có tính chất bắt buộc. Đối tượng của bảo hiểm xã hội là đa số người dân trong xã hội, những người làm công ăn lương, những người có quan hệ hợp đồng lao động. Thông thường bảo hiểm xã hội do nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật bắt buộc những người có đủ điều kiện đều phải tham gia bảo hiểm một cách bắt buộc.
* Đóng góp phí bảo hiểm
Bảo hiểm xã hội nhằm mục đích tạo điều kiện ổn định đời sống kinh tế của đa số người lao động trong xã hội.
* Tinh thần giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội
Trong quá trình điều hòa sử dụng thực tế quỹ bảo hiểm xã hội thường có lợi cho những người có thu nhập thấp, nên trong xã hội đã có tình trạng "người có mức lương cao nộp phí bảo hiểm nhiều lại được lợi ít, còn người có mức lương thấp nộp phí bảo hiểm ít lại được lợi hơn''. Số cán bộ, công nhân viên đang làm việc tại các cơ quan, doanh nghiệp lâu đời ít hơn so với các cơ quan, doanh nghiệp mới, nhưng số cán bộ, công nhân viên đã về hưu mà các cơ quan, doanh nghiệp lâu đời cần phải chăm sóc lại nhiều hơn so với các cơ quan, doanh nghiệp mới. Vì vậy, các doanh nghiệp lâu đời nộp phí bảo hiểm ít lại được hưởng lợi nhiều, còn các doanh nghiệp mới phải nộp phí bảo hiểm nhiều lại được hưởng lợi ít một cách tương đối.
3.2. Bảo hiểm thương mại
a. Bảo hiểm nhân thọ:
Là bảo hiểm đời sống hoặc tuổi thọ của con người nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Bao gồm các loại hình như bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ...
* Bảo hiểm phi nhân thọ là tính chất phân tán rủi ro và các công ty bảo hiểm có thể có mà cũng có thể không phải trả tiền bồi thường phụ thuộc vào tổn thất có xảy ra hay không.
* Bảo hiểm nhân thọ mang tính chất tiết kiệm, lâu dài và các công ty bảo hiểm nhân thọ chắc chắn phải trả tiền bảo hiểm khi đến hạn ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
b. Bảo hiểm phi nhân thọ gồm:
Bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người (Health and Person alaccident Insurance):
+ Bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ Bảo hiểm tai nạn lao động.
+ Bảo hiểm khách du lịch.
+ Bảo hiểm tai nạn học sinh, sinh viên.
+ Bảo hiểm tai nạn con người.
+ Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
+ Bảo hiểm sinh mạng.
- Bảo hiểm xe cơ giới (Motor Vehlcle Insurance)
+ Bảo hiểm thân xe (hay còn gọi là bảo hiểm vật chất xe.
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
- Bảo hiểm cháy nổ (Fire Insurance)
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh (Business Interuption)
- Bảo hiểm vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt, đường hàng không (cargo Inssurance) .
+ Bảo hiểm hàng hàng hóa xuất nhập khẩu
+ Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa
- Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu (Hull and P & I Insurance):
+ Bảo hiểm thân tàu biển, tàu pha sông biển.
+ Bảo hiểm vật chất tàu sông, tàu cá.
- Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại khác (Other property and Casualty Irlsuarance):
+ Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt (Car, Ear)
+ Bảo hiểm dầu khí (Oil and gaz insuarance)
- Bảo hiểm tín dụng và rủi ro hành chính: bảo hiểm quỹ tín dụng nhân dân.
- Bảo hiểm nông nghiệp:
+ Bảo hiểm vật nuôi, cây trồng.
- Bảo hiểm trách nhiệm của người giao nhận.
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
- Bảo hiểm du lịch.
II. vai trò của thị trường bảo hiểm
1. Vai trò của thị trường bảo hiểm trong nền kinh tế
1.1 Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm và tập trung vào một số đầu mối để đầu tư vào những lĩnh vực khác để phát tnển nền kinh tế quốc dân.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc gia tỉ lệ thuận với tốc độ gia tăng về đấu tư Đặc biệt với các khoản tiền lớn vô cùng cần thiết cho các lĩnh vực đầu tư lâu dài, yêu cầu vốn nhiều.
Ngày nay, ở các nước phát triển, số tiền do nhà bảo hiểm đang quản lý rất lớn: 2000 tỉ USD ở Hoa Kỳ, 1719 tỉ Bảng Anh, 2.967 tỉ Frăng ở Pháp. Nhờ khả năng đầu tư, giờ đây thị trường bảo hiểm đóng một vai trò chủ lực trong nền kinh tế ở Pháp nơi có truyền thống đầu tư vào trái phiếu, nhà bản hiểm đã nắm 60% số lượng trái phiếu của nhà nước và trong lĩnh vực bất động sản cũng giữ một vị trí quan trọng.
ở Anh, các nhà bảo hiểm đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu nhất là qua Quỹ hưu trí (Fonds de pension), quỹ này thu về các khoản tiền đóng góp dài hạn để sau này trả lương hưu cho những người làm công ăn lương. ở đây thị trường bảo hiểm ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán và tài trợ cho các hoạt động đầu tư. Còn ở Việt Nam tính đến cuối năm 2002 Bảo Việt đã đầu tư và góp vốn vào tổng số 22 công ty và tập đoàn cả trong nước và nước ngoài, các ngân hàng, công ty cổ phần chứng khoán...(Nguồn:Báo cáo hàng năm của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam)
1.2. Bổ sung vào ngân sách của Nhà nước bằng lãi bảo hiểm.
Doanh thu của ngành bảo hiểm càng cao thì nguồn thu cho ngân sách càng lớn. Đó là điều tất yếu Thị trường bảo hiểm, đặc biệt là thị trường bảo hiểm nhân thọ. Với tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao, năm 1999 tăng 142,4% (gấp 2,5 lần phí năm trước), năm 2000 là162,6%, 2001:l 15,6% và năm 2002 tăng 89,7% thì vai trò của nghành bảo hiểm trong GDP càng lớn. ở các nước phát triển thì thị trường bảo hiểm đóng góp trung bình là 8,3% GDP.
1.3. Tăng thu và giảm chi cho cán cân thanh toán quốc gia.
Nếu những nhà xuất khẩu và nhập khẩu lựa chọn mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều ngoại tệ. Trước đây thị trường bảo hiểm chưa phát triển cộng với nghiệp vụ xuất nhập khẩu còn yếu, chúng ta thường xuất khẩu theo điều kiện FOB và nhập khẩu theo điều kiện CIF chung của doanh nghiệp là duy trì chất lượng dịch vụ hàng đầu vượt hẳn đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn hẳn đối thủ cạnh tranh nhằm trang trải được các chi phí cao hơn phát sinh do cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn''.
Như vậy thì hoàn toàn các công ty của Việt Nam không thể mua bảo hiểm trong nước được. Nếu thị trường bảo hiểm trong nước lớn mạnh thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước hoàn toàn có thể tin tưởng mua bảo hiểm trong nước, vừa đảm bảo yếu tố tin cậy vừa tiết kiệm được ngoại tệ. Hơn nữa, nếu các doanh nghiệp xuất khẩu tự mua bảo hiểm ở thị trường trong nước họ sẽ được tư vấn kĩ lưỡng về các loại, các hình thức bảo hiểm phù hợp nhất để tránh được rủi ro mà lại tiết kiệm chi phí. Các công ty bảo hiểm với những nhân viên tư vấn của mình sẽ còn góp phần tư vấn, tiếp thị khách hàng và có thể làm thay đổi tập quán bán FOB, nhập CIF, tư vấn thêm các nghiệp vụ mua bán cũng như các cách thức khiếu nại bồi thường một cách tỉ mỉ và dễ hiểu hơn.
1.4. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế nhanh chóng hơn.
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp trở thành tổ chức kinh tế tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Sau khi thực hiện chế độ trách nhiệm kinh doanh, trách nhiệm và rủi ro kinh tế thuộc về các tổ chức này phải đảm nhận ngày càng nhiều hơn: thiên tai và tai nạn bất ngờ hay xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh và khai thác kĩ thuật mới, sản phẩm mới, còn những rủi ro về tín dụng hay xảy ra trong quá trình kinh doanh giữa các bên. Nhà nước không thể bao cấp cho những tổn thất do những rủi ro này gây ra như thời kì chưa đổi mới cơ chế kinh tế, những nhà sản xuất, kinh doanh phải tự đảm nhận giải quyết. Chỉ có tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp có thể chuyển rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, tức là chuyển những yếu tố không ổn định và những tổn thất không lường trước được trong quá trình kinh doanh, nhằm đảm bản cho những hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thuận lợi.
Đồng thời, chế độ phá sản doanh nghiệp được thực hiện trong quá trình đổi mới kinh tế hiện nay cũng phải được thực hiện đồng bộ với chế độ bản hiểm xã hội tương ứng, nhằm đảm bảo một phần nhất định đời sống công nhân viên chức của doanh nghiệp bị phá sản trong thời gian chờ việc lành. Nếu không, việc thực hiện luật phá sản doanh nghiệp sẽ gây ra những yếu tố không ổn định về trật tự xã hội.
1.5. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện, bảo toàn vốn vay của các ngân hàng thương mại một cách thuận lợi.
Đảm bảo cho việc luân chuyển vốn cho vay. Trong thời kì đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta, một phần lớn vốn cần dùng cho doanh nghiệp được cung cấp từ khoản tiền vay của ngân hàng, những doanh nghiệp bị tai nạn rủi ro, việc đó chẳng những ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả khoản tiền vay đã hết hạn, mà còn yêu cầu ngân hàng tiếp tục cho vay, nhằm đáp ứng đầy đủ số tiền vốn cần dùng ngay để doanh nghiệp khôi phục sản xuất. Nếu doanh nghiệp bị tai nạn rủi ro đã kịp thời nhận được tiền bồi thường bảo hiểm, đã nhanh chóng khôi phục sản xuất và kinh doanh thì cũng có thể hoàn trả vốn vay ngân hàng.
1.6. Thị trường bảo hiểm có lợi cho sự phát triển và củng cố nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn.
Nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế quốc dân. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nông nghiệp và kinh tế hàng hóa ờ nông thôn nước ta đều có những bước phát triển rất lớn. Nhưng vì nền sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên rất nhiều, còn có những đặc điểm như tính chất thời vụ, tính chất khu vực và tính chất không ổn định, nên kinh tế hàng hóa ở nông thôn phần lớn là kinh tế tập thể nhỏ và cá thể, vốn ít, sức mạnh về kinh tế tương đối non yếu. Do đó, trong sản xuất nông nghiệp và trao đổi buôn bán các mặt hàng nông nghiệp nếu bị thiên tai và tai nạn bất ngờ, sẽ càng thêm nhiều khó khăn cho các đơn vị sản xuất và kinh doanh, nên lại càng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ đắc lực của các loại bảo hiểm nông nghiệp như bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng...
1.7. Thị trường bảo hiểm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc họp tác kinh tế, kĩ thuật, thương mại với nước ngoài và cho việc thu hút đầu tư của nước ngoài.
Đi đôi với việc thực hiện chính sách mở cửa ở nước ta hiện nay, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến kinh tế đối ngoại càng trở nên quan trọng. Những rủi ro trong quá trình trao đổi kinh tế, thương mại, kĩ thuật với nước ngoài thường lớn hơn trong nước, vì vậy càng đòi hỏi phải có sự đảm bảo kinh tế dưới hình thức bảo hiểm. Thực hiện các loại nghiệp vụ bảo hiểm có thể tăng thêm mức độ an toàn đối với những nhà đầu tư đối với việc hợp tác hoặc đầu tư vào nước ta. Trong những năm gần đây, ngoài việc phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường biển và nghiệp vụ bảo hiểm tàu biển phục vụ cho thương mại xuất nhập khẩu, ở nước ta các loại nghiệp vụ bảo hiểm công trình thăm dò, khai thác dầu khí, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt đã được triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu thu hút kĩ thuật tiên tiến và gọi vốn đầu tư của nước ngoài. Đồng thời, hoạt động bảo hiểm còn thu về cho Nhà nước một khoản ngoại tệ phi mậu dịch rất lớn.
1.8. Thị trường Bảo hiểm có thể tăng cường đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro, giảm bớt tổn thất của cải của xã hội.
Trong thị trường bảo hiểm người bảo hiểm chính là người sẽ bồi thường những tổn thất khi có rủi ro xảy ra cho những người mua bảo hiểm. Điều này không có nghĩa là trong thị trường bảo hiểm đơn thuần chỉ có sự chuyển giao rủi ro giữa người bảo hiểm và người mua bảo hiểm. Thực tế, nếu rủi ro không xảy ra thì người bảo hiểm sẽ không phải bồi thường và họ sẽ có thu nhập khoản tiền ấy.
Do đó rủi ro càng ít, họ càng có lợi. Chính vì vậy mà chính những công ty bảo hiểm sẽ tăng cường việc đề phòng, hạn chế tổn thất. Doanh nghiệp bảo hiểm các nước trên thế giới thường tìm kiếm những người tài giỏi có đủ trình độ khoa học kĩ thuật cao, tổ chức những cuộc nghiên cứu ứng dụng thực tế, cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng tham gia bảo hiểm về việc đề phòng tổn thất.
2. Vai trò của thị trường bảo hiểm đối với các thị trường khác.
Trong nền kinh tế quốc dân có các kênh dẫn vốn sau:
NH
A
TTBH
B
NS
TTCK
Có vốn Cần vốn
Trong mô hình các kênh dẫn vốn trên thị trường bảo hiểm cũng là một kênh dẫn vốn lớn trong 4 kênh đó thì 3 kênh là kênh trực tiếp và chỉ có một kênh gián tiếp, Kênh gián tiếp đó là cách huy động vốn qua ngân hàng.
Kênh dẫn vốn qua ngân hàng có điểm yếu là chi phí sử dụng vốn cao (lãi suất cao) do phải trả một phần lãi cho ngân hàng. Hơn nữa các thủ tục cho vay phức tạp cần nhiều điều kiện, mặt khác các khoản tiền quá nhỏ người dân cũng ngại gửi ngân hàng. Ngoài ra còn một nỗi lo lạm phát nên nhiều người có vốn chỉ tự giữ chứ không gửi ngân hàng.
Trong 3 kênh dẫn vốn trực tiếp là. Ngân sách, thị trường chứng khoán tiền tệ bảo hiểm thì kênh thông qua ngân sách không phổ biến vì nó thường chỉ cung cấp cho các dự án quốc gia hay các doanh nghiệp nhà nước. Còn thị trường chứng khoán ngày nay đang được coi là kênh dẫn vốn rất hiệu quả nó là thị trường trực tiếp để mua bán vốn, chi phí sử dụng vốn thấp do không qua trung gian. Kênh này ngày càng phát triển. Nhưng sự phát triển của thị trường này rất khó khăn vì nó đòi hỏi các điều kiện về kinh tế phải phát triển tới một mức độ nhất định, cơ sở pháp lý chặt chẽ để nó có thể hoạt động một cách hiệu quả. Hơn nữa một điểm yếu của thị trường chứng khoán là không phải ai có vốn cũng tham gia được vào thị trường chứng khoán mà họ phải có kiến thức, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán, kinh doanh chứng khoán và các thông tin khác. Kinh doanh vào chứng khoán đối với một số người là khá mạo hiểm. Trong khi đó thị trường bảo hiểm ngày càng mạnh lên do nó đã khắc phục được một số điểm yếu của các thị trường khác. Với thị trường bảo hiểm đặc biệt thị trường bảo hiểm Nhân thọ nhà bảo hiểm có thể chủ động được những nguồn vốn rất nhỏ lẻ trong xã hội một cách thường xuyên. Vì nó không giới hạn giá trị nên có thể huy động được mọi khoản tiền nhàn rỗi có thể. Hơn nữa người tham gia có thể được mức lãi sút cao hơn ngân hàng lại không phải lo lắng và rủi ro mạo hiểm như kinh doanh chứng khoán. Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư của nhà bảo hiểm họ có thể cung cấp vốn cho ngân hàng hoặc thị trường chứng khoán. ở Pháp đầu tư của thị trường bảo hiểm trên thị trường chứng khoán tới 60% (năm 1998). Hoặc họ có thể trực tiếp đầu tư vào các công trình, dự án của chính họ.
Thị trường bảo hiểm cung cấp vốn cho thị trường ngân hàng, góp phần lớn trong ngân sách nhà nước (trung bình toàn Châu Âu thị trường bảo hiểm đóng góp 8,3% GDP) và là nguồn chủ yếu cho thị trường chứng khoán. Thị trường BH với nguồn vốn lớn mà họ huy động được sẽ ảnh hưởng mạnh đến thị trường tiền tệ làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ nhanh hơn, thị trường đầu tư cũng được đẩy mạnh.
IV. KINH Nghiệm XÂY dựng Và Phát Triển Của Một Số Thị TRƯờNG TRÊN Thế Giới
l. Thị trường bảo hiểm Anh
Thị trường Anh được đặc trưng bởi một số nét đặc thù riêng so với các thị trường Châu Âu khác:
- Thị trường nội địa đã đạt đến độ chín muồi. Tổng doanh thu bảo hiểm Phi nhân thọ phụ thuộc vào biểu phí nhiều hơn là sự phát triển của sản phẩm được bảo hiểm và bản thân biểu phí cũng tương đối mang tính chu kỳ và biến động trên cơ sở tỷ lệ tổn thất, khả năng cung cầu biến đổi theo kết quả kinh doanh) và sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm ''trực tiếp'' đã làm giảm biểu phí bảo hiểm xe cơ giới). thị trường bảo hiểm Nhân thọ, có vị trí rất quan trọng, chịu ảnh hưởng các quyết định của Chính phủ về mặt thuế và sự cạnh tranh của các sản phẩm bảo hiểm tương tự trong đầu tư vào tiết kiệm.
Bảo hiểm nhân thọ chiếm gần 2/3 thị trường từ nhiều năm nay, đến nỗi các khoản dự phòng kỹ thuật được các công ty bảo hiểm tích lũy đạt đến một mức đặc biệt cả về số tuyệt đối cũng như so với GDP.
- Người Anh có truyền thống khá tự do về hoạt động giám sát bảo hiểm và không theo chủ nghĩa giáo điều. Chính vì vậy mà những người đại diện kiểm tra của bảo hiểm Anh luôn ngạc nhiên tại những cuộc bàn luận giữa họ với các đồng nghiệp thuộc các thị trường Châu Âu khác khi nghe nhấn mạnh rằng luật pháp Châu Âu phải cấm một công ty bảo hiểm hoạt động đồng thời trong cả hai ngành bảo hiểm Nhân thọ và Phi nhân thọ.
Ngược lại, trong công tác giám sát, người Anh không phân biệt giữa bảo hiểm trực tiếp và tái bảo hiểm. Và ở nước Anh, các công ty tái bảo hiểm luôn phải tuân thủ một cách đầy đủ các nghĩa vụ giống như các công ty bảo hiểm gốc. Điểm này khác với nhiều thị trường khác: các công ty tái bảo hiểm không phải chịu sự kiểm soát.
Tính năng động của hoạt động môi giới là một khía cạnh cơ bản của thị trường bảo hiểm Anh. Nó tạo nên phương thức phân phối chính của thị trường này. Mạng lưới các công ty môi giới rát rộng, từ môi giới địa phương nhỏ bé (high street broker), hoạt động đơn lẻ chỉ với một thư ký và đáp ứng nhu cầu của một số cá nhân hoặc doanh nghiệp nhỏ, đến công ty mới giới quốc tế (Me ga broker), hoạt động trên cả năm lục địa, có trong tay hàng tỷ bảng Anh về doanh thu bảo hiểm và sử dụng hàng nghìn cộng sự, qua các nhà môi giới chuyên biệt trong những lĩnh vực đặc thù (bản hiểm tín dụng, đua ngựa, ôtô đặc biệt hoặc vật nuôi , v.v...).
Hoạt động mạnh mẽ của bảo hiểm Anh trên thị trường quốc tế nhờ vào mạng lưới đại lý, chi nhánh và công ty con từ lâu đặt tại nước ngoài, đồng thời cũng nhờ rất nhiều vào tính năng động của các công ty môi giới. Những công ty môi giới năng động nhất coi thị trường quốc tế như địa bàn hoạt động đương nhiên của mình.
Tuy nhiên, hoạt động môi giới bị cạnh tranh bởi các phương thức phân phối khác. Các công ty bảo hiểm Nhân thọ bán sản phẩm của mình thông qua các công ty tư vấn tài chính chuyên nhất hoặc đa chức năng ''multicartes''. Công ty bảo hiểm Thiệt hại sử dụng mạng lưới không chuyên nghiệp như các hãng du lịch hoặc đại lý bất động sản và các công ty cho vay bất động sản cầm cố (Building societies).
Không tách rời các tiến triển mới đây của ngành, các công ty bảo hiểm Anh đã phát triển hai lãnh địa hoạt động cho các công ty tự bảo hiểm và tự tái bản hiểm: Guemesey ở vùng đảo thuộc phía Nam nước Anh, nơi có các công ty tự bảo hiểm của một số tập đoàn công nghiệp hàng đầu Châu Âu và tại đảo Man, nơi các công ty tự bảo hiểm được hưởng những điều kiện ưu đãi về thuế, và do lãnh thổ này không là thành viên của EU nên có thể tự xây dựng luật một cách hoàn toàn độc lập. Các công ty BHNT chính của Anh hiện nay: Prudential, Standard Life,Equitable Life, Norwich Union, Scottsh Window.
2. Các thị trường bảo hiểm Châu á.
Nhật Bản là thị trường lớn nhất trong ngành bảo hiểm nhân thọ và ngay cả trong tất cả các ngành bảo hiểm khác, khi đồng Yên lên giá so với đồng Đô la cho phép thị trường này vượt thị trường Hoa Kỳ. Đó là một thị trường tập trung và được bảo hộ. Sức mạnh tài chính làm cho thị trường bảo hiểm đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước.
Hàn quốc và Đài Loan có thị trường bảo hiểm rất phát triển, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
Các nước khác ở Châu á vẫn là những thị trường mới nổi trong lĩnh vực bảo hiểm, tuy nhiên, có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Tại hai nước đông dân nhất thế giới, Trung Quốc và ấn Độ, thị trường bảo hiểm vẫn do Nhà nước quản lý và thuộc trong số nhân nước có tỉ trọng của bao hiểm trong GDP thấp nhất thế giới. Quá trình phát triển hiện nay cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này sớm khắc phục sự tụt hậu tương đối của họ.
Nhật Bản là thị trường đứng đầu thế giới, cách xa hẳn các nước khác về bảo hiểm nhân thọ. Về tổng doanh thu (Nhân thọ và Phi nhân thọ), Nhật Bản và Hoa Kỳ gần bằng nhau và vị trí thị trường đứng đầu thế giới lúc thì thuộc về Nhật Bản, lúc thì thuộc về Hoa Kỳ, tùy theo sự biến động của tỉ giá hối đoái giữa đồng Yên và đồng Đô la. Năm 1995, Nhật Bản chiếm vị trí đứng đầu, tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm, với thị phần trên thế giới là 29,73%.
Nếu như doanh thu bảo hiểm của Châu á vượt doanh thu bảo hiểm của Hoa Kỳ và mặt khác, của Châu Âu, thì cơ bản là nhờ có Nhật Bản. Chỉ riêng nước này chiếm 85% thị trường Châu á. Điều này có nghĩa là các thị trường khác vẫn còn hạn chế, mặc dù nhiều thị trường trong số này cũng tỏ ra năng động gần như của Nhật Bản. Tuy nhiên, không phải ở Nhật Bản mà chính ở Hàn Quốc, người ta thấy tỉ trọng của bảo hiểm trong GDP đạt mức cao nhất. 13,16% GDP. Nhiều nước Châu á, nhất là một số nước đông dân nhất, tỉ trọng của bảo hiểm trong GDP vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình trên thế giới:
Trung Quốc (l,17%), ấn Độ (2,Ol%), Pakistan (O,8%), Indonêxia (l,40%). Như vậy các thị trường Châu á có tiềm năng phát triển đáng kể và trong tương lai có lẽ sẽ tiếp tục đạt nhịp độ tăng trưởng nhanh đã được ghi nhận trong vài năm gần đây Nhìn chung, các thị trường Châu á tương đối tập trung. Nhiều trở ngại về chính trị hay văn hóa, luật pháp hay hành chính, hạn chế vai trò của các công ty này được phép hoạt động thì chúng cũng chỉ đóng vai trò thứ yếu. Đó là trường hợp ở Nhật Bản, thị trường bảo hiểm lớn nhất thế giới, có 27 công ty bảo hiểm Nhân thọ và 25 công ty bảo hiểm Phi nhân thọ, tất cả các công ty này đều có vốn Nhà nước. Chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài (3 Nhân thọ, 25 Phi nhân thọ) bị giảm xuống còn 3% thị trường. Chỉ riêng Nippin Life, tập đoàn bảo hiểm đứng đầu thế giới, chiếm 20% thị trường bảo hiểm Nhân thọ, trong khi đó Tokyo Marine & Fire chiếm 20% thị trường bảo hiểm Phi nền thọ.
Tại Malaysia, với một thị trường trong thời gian dài đã bị khống chế bởi các tập đoàn bảo hiểm Anh, Chính phủ buộc các công ty bảo hiểm được chấp nhận ở nước này phải có đa số vốn nằm trong tay các cổ đông Malaysia. Tại Trung Quốc, PICC bị các công ty lớn cạnh tranh như Ping An, thành lập ở Thân Quyến năm 1988 và Pacific Insurance ở Thượng Hải năm 1992.
Năm 1992, lĩnh vực bảo hiểm Nhân thọ của công ty PICC tách ra thành công ty riêng, công ty Alina Life. Tại nước này, số lượng các công ty trong nước ngày càng nhiều. ở ấn Độ, Chính phủ đang có ý định tư nhân hóa các công ty quốc doanh và dần dần mở cửa thị trường cho các công ty mới có vốn trong nước, thậm chí cả của nước ngoài, cạnh tranh với nhau, mặc dù có sự phản đổi của công đoàn và một bộ phận quần chúng. Hiện nay, các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới và sức ép của Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy các nước đang thực hiện chế độ thuế quan bảo hộ và nền kinh tế chỉ huy như Nhật Bản, Indonesia, Đài Loan hay Hàn Quốc, giảm nhẹ chính sách cấp giấy phép và mở cửa thị trường độc quyền cho các công ty mới trong nước và nước ngoài cạnh tranh.
Tóm lại, sự tìm hiểu khái quát về thị trường bảo hiểm, đặc điểm của thị trường bảo hiểm cũng như lịch sử ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới sẽ cho chúng ta cái nhìn khái quát về thị trường bảo hiểm. Hơn nữa trong bối cảnh phát triển thị trường bảo hiểm thế giới và kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm của một số nước trên thế giới sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn và đánh giá chính xác hơn tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam và có thể đưa ra những giải pháp phát triển thị trường ở những chương sau.
Chương II
tình hình thị trường bảo hiểm Việt Nam
trong những năm qua
I. Đánh giá tình hình phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam
Đứng trước nhu cầu đổi mới về nền kinh tế nói chung và hoạt động bảo hiểm nói riêng, để bảo hiểm thương mại phát triển hơn, ngày 18/12/1993 Nhà nước ta ban hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, cho phép các thành phần kinh tế khác và các nhà đầu tư nước ngoài được phép kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, đặt dấu mốc quan trọng cho sự hình thành thị trường bảo hiểm ở Việt Nam với sự đa dạng hóa về lĩnh vực hoạt động và sở hữu. Năm 1995, sau khi Nghị định 100/CP được ban hành 1 năm, các công ty bảo hiểm khác ngoài hệ thống Bảo Việt lần lượt ra đời. Trước tiên là công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam, Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng, Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex và năm sau là Công ty bảo hiểm Dầu khí và Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế Việt Nam ra đời. Năm 1995 có thể được coi là năm khởi đầu thật sự của thị trường bảo hiểm Việt Nam với đầy đủ ý nghĩa của từ đó.
Sự ra đời của một loạt các công ty bảo hiểm mới đã thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển một cách mạnh mẽ, cũng đồng thời với việc người có nhu cầu bảo hiểm có sự lựa chọn doanh nghiệp phục vụ cho mình, dẫu ban đầu chỉ là sự lựa chọn về sản phẩm và mức phí. Ngay trong năm 1995, doanh thu phí bảo hiểm đã tăng trên 30%. Mặc dù mức tăng trưởng chậm hơn so với trước đó (những năm 1992, 1994, 1994 mức tăng trưởng bình quân 55%/năm) nhưng trong bối cảnh có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động, thị trường cạnh tranh thì đó là mức tăng trưởng cao. Bên cạnh đó, với sự ra đời của Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia, phí bảo hiểm giữ lại ở trong nước và doanh thu nhận tái bảo hiểm ở nước ngoài cũng tăng lên.
Tháng 8/1996, thêm một bước phát triển mới của thị trường bảo hiểm Việt Nam với việc Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam đưa ra thị trường những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của một nhánh mới trong ngành kinh doanh bảo hiểm - nhánh bảo hiểm Nhân thọ.
Sự ra đời của Công ty liên doanh bảo hiểm Liên hiệp UIC, tiếp theo là Công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài Chinfon Manulife (nay là Manulife), Prudential, rồi đến công ty bảo hiểm cũng 100% vốn nước ngoài nhưng trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Allianz, Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - úc, liên doanh bảo hiểm trong lĩnh vực nhân thọ Bảo Minh -CMG rồi Groupama là một bước chuyển hết sức mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm Nhân thọ và Phi nhân thọ. Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm được cấp giấy phép tính đến năm 2002 đã lên tới 18 công ty, trong đó có 2 công ty chưa khai trương (không kể 2 công ty môi giới bảo hiểm).
Theo thành phần kinh tế thì có 3 công ty bảo hiểm sở hữu Nhà nước, 3 công ty bảo hiểm cổ phần, 4 công ty 100% vốn nước ngoài và 7 công ty bảo hiểm liên doanh, trong đó có 4 công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Sự góp mặt của các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp bảo hiểm một bên là đối tác Việt Nam và một bên là đối tác từ các nước có nền tài chính và dịch vụ phát triển, đã tạo cho thị trường bảo hiểm Việt Nam một sắc thái mới, diện mạo mới, năng động hơn, cạnh tranh đã là động lực thúc đẩy sự năng động của mọi công ty; đôi lúc, sự cạnh tranh trong một số lĩnh vực lên tới đỉnh cao và không khoan nhượng.
Nhưng đó cũng là đặc điểm của thị trường mới, và đây cũng là bối cảnh cần có sự ra đời của Hiệp hội các nhà bảo hiểm Việt Nam. Ngày 03/5/1999 Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ đã có quyết định phê duyệt Điều lệ của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (Hội nghề nghiệp), cầu nối giữa các doanh nghiệp Hội viên với nhau, giữa các doanh nghiệp hội viên với cơ quan quản lý của Nhà nước về bảo hiểm, tiếng nói đại diện của các doanh nghiệp bảo hiểm với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Công nhận sự cần thiết phối hợp hành động vì một ngành dịch vụ phát triển lành mạnh, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã lấy ngày 3/5 làm ngày hội truyền thống hàng năm của những người làm bảo hiểm tại Việt Nam.
Chỉ trong vòng 8 năm, từ năm 1995 tới năm 2002, doanh thu phí bảo hiểm Phi nhân thọ tăng gần 6 lần, đạt 3.062 tỉ đồng. Nếu như doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ năm đầu tiên (1996) chỉ là gần một tỉ đồng thì tới cuối năm 2002, doanh thu bảo hiểm nhân thọ của toàn thị trường đã đạt 4.645 tỉ đồng, đã có gần 3 triệu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có hiệu lực, trên 15.000 khách hàng đã nhận những khoản tiền bảo hiểm nhân thọ đầu tiên với số tiền bảo hiểm gần 200 tỉ đồng chủ yếu từ Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam. Đây là minh chứng cho sự thành công trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ của các nhà bảo hiểm Việt Nam.
Thời gian hình thành một thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa dài, nhưng những đóng góp của ngành bảo hiểm cho nền kinh tế xã hội rất đáng ghi nhận: Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, việc các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các loại hình bảo hiểm đầu tư - kỹ thuật, góp phần không nhỏ vào việc gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, đổi mới và phát triển nền kinh tế, đưa nước ta từng bước thoát khỏi khủng hoảng.
Hầu hết, các công trình xây dựng trọng điểm như các nhà máy điện, xi măng, cầu cống, đường sá, những tài sản có giá trị lớn như các công trình thăm dò khai thác dầu khí, máy bay, tàu biển, kho tàng, bến bãi, trị giá hàng trăm tỉ Đôla đã được bảo hiểm tại Việt Nam.
Mỗi năm, có gần 15 triệu học sinh được bảo hiểm tai nạn, trên 20 triệu lượt người tham gia bảo hiểm tai nạn hành khách, tai nạn người ngồi trên xe, tai nạn khách du lịch và các loại hình bảo hiểm con người khác.
Với khả năng tài chính của Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm, khả năng giữ lại của thị trường trong nước ngày càng được nâng lên, tiết kiệm được một khoản ngoại tệ không nhỏ cho đất nước.
Mỗi năm, trung bình cách doanh nghiệp bảo hiểm đã chi 1.200 tỉ để bồi thường cho các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm không may bị thiên tai, tai nạn bất ngờ gây thiệt hại. Nhiều tổ chức, đơn vị nếu không nhận được tiền bồi thường bảo hiểm sẽ lâm vào tình trạng phá sản, thua lỗ hoặc sa sút. Nhiều vụ bồi thường lớn trị giá hàng chục tỉ đồng như việc bồi thường cho ngư dân các tỉnh phía Nam bị thiệt hại trong cơn bão Linda 52 tỉ đồng; vụ bồi thường tổn thất máy bay của hãng Hàng không quốc gia Việt Nam tại Campuchia; vụ bồi thường tổn thất của các hãng thăm dò và khai thác dầu khí, tổn thất đắm tàu Lục Nam 1,0 triệu Đôla, cháy tàu Phú Xuân 3,3 triệu Đôla, tổn thất hàng hóa của các công ty XNK hàng hóa trên tàu Brilliant trị giá 8,1 triệu Đôla, Fidelity 1,4 triệu Đôla, cháy kho xăng B12. Mỗi năm có hàng triệu người tham gia bảo hiểm tai nạn con người không may bị tai nạn đã nhân tiền bảo hiểm từ các doanh nghiệp bảo hiểm.
Mặc dù đặc thù của bảo hiểm phi nhân thọ là phí bảo hiểm nhỏ, chi dùng bồi thường thường xuyên, nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn đầu tư trở lại cho nền kinh tế trung bình 2.000 tỉ mỗi năm trong 5 năm qua.
Kết quả các hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ không chỉ dừng lại ở số lượng người, tài sản và trách nhiệm được bảo hiểm mà chính là sự ổn định về sản xuất kinh doanh mà hoạt động này mang lại cho đời sống kinh tế, xã hội. Trong rất nhiều trường hợp, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã trở thành lá chắn về kinh tế cho các tổ chức đơn vị, giúp cho ngân sách không bị động, không phải chi hoặc giảm chi những khoản bất ngờ như trong các trường hợp lũ lụt trên diện rộng. Việc phát triển các loại hình bảo hiểm cũng thu hút được 15.392 lao động trong lĩnh vực này trong đó có 4.742 cán bộ nhân viên và 10.548 đại lý chuyên nghiệp có thu nhập ổn định.
Đối với hoạt động bảo hiểm nhân thọ, chỉ trong một thời gian rất ngắn hoạt động bảo hiểm nhân thọ được đánh giá là phát triển nhanh tại thị trường Việt Nam. Có thể nói đây là một lĩnh vực hoạt động tạo ra thói quen mới trong dân cư - thói quen kế hoạch hóa tài chính dài hạn của mỗi gia đình, là một kênh huy động vốn dài hạn để đầu tư trở lại cho nền kinh tế rất có hiệu quả, bên cạnh các hình thức tiết kiệm khác tại Việt Nam. Nếu nhìn vào mức thu nhập bình quân tính theo đầu người ở một số tỉnh, đặc biệt là các tỉnh miền núi, không ai có thể nghĩ rằng bảo hiểm Nhân thọ có thể triển khai ở những khu vực này. Nhưng với những sản phẩm bảo hiểm phù hợp, phương thức khai thác và thu phí bảo hiểm thích ứng, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã thành công. Năm 2002, gần 6000 tỉ đồng đã được đầu tư trở lại cho nền kinh tế từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ, làm cho ngành kinh doanh bảo hiểm trở thành một tác nhân quan trọng của việc hình thành và phát triển của thị trường vốn ở Việt Nam.
Một điểm không kém phần quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với xã hội đó là chỉ trong một thời gian rất ngắn, số việc làm mà bảo hiểm nhân thọ tạo ra lên tới trên 74.494 người, trong đó trên 70.568 đại lý chuyên nghiệp, có hàng nghìn người đại lý giỏi có thu nhập trên 10 triệu đồng/tháng. Đay là đóng góp hữu hiệu của ngành bảo hiểm trong bối cảnh số lượng người chưa có việc làm ở nước ta đang có xu hướng tăng lên. Với sự phát triển đó, nghề tư vấn bảo hiểm có tên trong danh mục nghề nghiệp ở nước ta.
Những đóng góp của doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ dừng lại ở công tác bảo hiểm, đóng góp của doanh nghiệp bảo hiểm cho ngân sách không ngừng tăng lên. Nếu như năm 1995 đóng góp của các doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ là 85 tỉ thì tới năm 2002 đã là 391,852 tỉ.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Nhiều tỉ đồng được các doanh nghiệp bảo hiểm cùng Bộ giao thông vận tải xây dựng các đường lánh nạn, đường phòng hộ trên các đèo dốc cao, ủng hộ đồng bào lũ lụt, người nghèo; lập các quỹ học bổng dành cho học sinh, nuôi dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Bảo hiểm thương mại đã trở thành một ngành độc lập có những đóng góp nhất định cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cũng chỉ trong một khoảng thời gian không dài, tỉ trọng doanh thu phí bảo hiểm trong GDP đã từ 0,3% GDP - năm 1995 tăng lên gần 1,4% năm 2002 (các nước trong khu vực - không kể Campuchia và Lào, khoảng 2,5% - 3,3% GDP). Những thành công bước đầu của ngành bảo hiểm Việt Nam, một mặt do bước đi mạnh mẽ trong mở cửa đổi mới của Chính phủ Việt Nam, mặt khác do sự năng động sáng tạo của các doanh nghiệp và những người làm bảo hiểm, còn có sự ủng hộ, tin tưởng của các tầng lớp dân cư, sự cải thiện đáng kể môi trường pháp lý trong những năm qua. Các sản phẩm bảo hiểm trở nên đa dạng hơn, phù hợp với sức mua và nhu cầu bảo hiểm của các tổ chức kinh tế và dân cư. Trong lĩnh vực phi nhân thọ, gần 100 sản phẩm bảo hiểm cho cả 3 loại hình bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Trong bảo hiểm nhân thọ có trên 10 loại sản phẩm chính và nhiều sản phẩm bổ trợ phục vụ các nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm Nhân Thọ và bảo hiểm phi nhân thọ tuy cùng chung nghiệp vụ bảo hiểm song chúng lại có sự khác biệt khá lớn Bảo hiểm Nhân Thọ chủ yếu mang tính chất tiết kiệm - tích lũy còn Bảo hiểm Phi nhân thọ lại hoàn toàn không. Trong bảo hiểm phi nhân thọ khi người tham gia đóng bảo hiểm và đóng phí thì chỉ khi có rủi ro nằm trong những điều kiện được bảo hiểm thì mới được bồi thường, còn nếu không họ sẽ không nhận được số phí đó. Về bản chất chúng khác hẳn nhau. Do đó các hoạt động kinh doanh và khai thác bảo hiểm của mỗi lĩnh vực cũng khác nhau. Người mua bảo hiểm và các công ty bảo hiểm cũng khác nhau. Chẳng thế mà trong luật của rất nhiều nước kể cả những nước phát triển không cho phép một công ty được kinh doanh cả trong hai lĩnh vực Bảo hiểm Nhân Thọ và phi nhân thọ vì các chế độ giám sát tài chính và luật quy định khác nhau như Pháp, Đức. Ngay trong luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam 2001 cũng không cho phép một công ty hoạt động trong cả 2 lĩnh vực. Cũng chính vì sự khác biệt này nên dưới đây tôi xin phân tích tình hình của từng thị trường.
1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ.
1.1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ từ khi thành lập đến 2002
Tháng 8/1996, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được Bảo Việt phát hành, đánh dấu sự ra đời của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam kể từ ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. Nhìn một cách tổng quan, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam thời gian qua có những điểm nổi bật sau:
+ Thị trường sôi động, vận động ngày một "trơn tru", cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Cạnh tranh có nhiều tác động tích cực, tuy nhiên những hạn chế cũng đã xuất hiện. Đến nay. các doanh nghiệp vẫn đặt trọng tâm vào mục tiêu tăng trưởng, mở rộng thị trường.
+ Thị trường đạt tốc độ tăng trưởng "siêu mã", mạng lưới kinh doanh đã phủ kín toàn quốc, lực lượng đại lý, cán bộ ngày càng đông đảo, mô hình tổ chức và quản lý, các quy trình nghiệp vụ ngày một hoàn thiện, chất lượng khai thác bảo hiểm từng bước được nâng lên.
+ Sản phẩm ngày càng đa dạng, dịch vụ khách hàng phong phú, chất lượng dịch vụ bảo hiểm nhân thọ ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, đến nay thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vẫn là thị trường "ưa tiết kiệm" với tỉ trọng sản phẩm mang tính tiết kiệm chiếm phần lớn.
+ Thông qua hoạt động của mình, các doanh nghiệp góp phần tạo lập cuộc sống ổn định, đầy đủ, huy động và cung cấp nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao vai trò, uy tín và hình ảnh của ngành.
+ Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, đại lý và coi việc, đây là giải pháp chiến lược để nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh.
+ Nhận thức của công chúng về bảo hiểm nhân thọ ngày càng tăng, tập quán bảo hiểm nhân thọ dần dần được hình thành; các phương tiện thông tin đại chúng đóng góp vai trò khá tích cực trong thông tin và giáo dục thị trường, tuy nhiên đôi khi lại có tác động ngược lại.
+ Mặc dù có những điểm khác biệt về loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế, xuất xứ, kinh nghiệm... nhưng các doanh nghiệp ngày càng tiến tới sự tương đồng trên nhiều mặt, như là hệ quả của việc học hỏi lẫn nhau và nỗ lực thích ứng với thị trường Việt Nam.
+ Môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, từng bước thiết lập và duy trì thị trường cạnh tranh lành mạnh, tăng cường quản lý nhà nước. Nhà nước cũng đã có những chính sách ưu đãi, thúc đẩy thị trường phát triển.
Sau đây chúng ta cùng xem xét kỹ hơn những điểm nêu trên.
1. Thị trường sôi động, cạnh tranh ngày càng gay gắt và toàn diện:
Từ năm 1996 đến giữa năm 1999 chỉ có Bảo Việt "một mình một chợ", đến nay trên thị trường đã có 5 doanh nghiệp: Bảo Việt, Bảo Minh - CMG, Manulife, Prudential và AIA. Từ khi có sự góp mặt thêm của 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - những tên tuổi lớn, đã có kinh nghiệm hoạt động ở nước ngoài kèm theo cơ chế tài chính, thù lao linh hoạt, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã thực sự bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn sôi động, cạnh tranh toàn diện và phát triển với tốc độ cao. Tình hình cạnh tranh càng gay gắt có thể thấy rõ ở các thị trường lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... Sự cạnh tranh thể hiện trên tất cả các mặt như thu hút khách hàng, thu hút đại lý (qua chính sách thù lao, sản phẩm, dịch vụ, địa bàn hoạt động, quảng cáo, khuyến mãi... Nếu như khi mới bắt đầu hoạt động, Prudential, AIA, Manulife chỉ tập trung triển khai ở hai "đại bản doanh" là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và chủ yếu hướng vào các khách hàng có thu nhập trung bình khá trở lên, thì đến nay các công ty này đã tích cực mở rộng phạm vi hoạt động sang các địa bàn còn lại và hướng tới cả những khách hàng có thu nhập trung bình. Đến thời điểm này, các doanh nghiệp đều lấy mục tiêu tăng trưởng, mở rộng thị trường là mục tiêu hàng đầu.
Xét về mặt tích cực, cạnh tranh thực sự trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường phát triển. Chính nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của các doanh nghiệp, đã giúp dân chúng nhận thức rõ hơn về BHNT, giúp đưa dịch vụ BHNT đến tận nhà khách hàng. Cũng nhờ cạnh tranh, các doanh nghiệp đã nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, chất lượng khai thác, đa dạng hóa sản phẩm, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện điều khoản, quy trình nghiệp vụ (bảo hiểm tạm thời, đánh giá rủi ro...), bổ sung các dịch vụ gia tăng giá trị (cho vay phí tự động, cho vay theo hợp đồng, khôi phục hiệu lực hoạt động...), hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động, trong đó đáng chú ý là mô hình đại lý, chế độ thù lao cho đại lý theo hướng hiệu quả hơn, phù hợp hơn với đặc điểm của kinh doanh BHNT. Cạnh tranh cùng thôi thúc các doanh nghiệp tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh như ứng dụng tin học, đa dạng các kênh phân phối (dưới đây sẽ nêu rõ hơn). Thời gian qua, các doanh nghiệp BHNT rất tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào hầu hết các công việc như phát hành và quản lý hợp đồng, in hóa đơn, kế toán, thống kê, quảng cáo giới thiệu sản phẩm... Tuy vậy, hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh (như tung tin thất thiệt), kinh doanh theo kiểu "chộp giật" đã xuất hiện, gây tác động xấu đến thị trường, làm tổn hại đến hình ảnh của ngành mặc dù các doanh nghiệp đã đạt được thỏa thuận hợp động tác chung tại Bản ghi nhớ chung ngày 10/7/2000 nhằm thiết lập một thị trường cạnh tranh lành mạnh.
Hình 1: Thị phần bảo hiểm nhân thọ qua các năm
(theo doanh thu phí)
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Dẫn đầu trên thị trường hiện nay vẫn là Bảo Việt - doanh nghiệp nhà nước và là doanh nghiệp duy nhất không có vốn đầu tư nước ngoài với thị phần trên 54%, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đạt 64,8% trong năm 2001 và cũng là doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới khai thác phủ khắp các tỉnh thành. Các doanh nghiệp khác cũng đã đạt được những kết quả rất tốt, đặc biệt Prudential đã đạt được kết quả khá ngoạn mục - chỉ trong vòng hơn 2 năm Prudential đã vươn lên vị trí thứ 2 với gần 30% thị phần, trở thành một đối trọng lớn đối với Bảo Việt trên thị trường. AIA, Manulife, Bảo Minh-CMG trong năm 2001 cũng gia tăng thị phần, tuy nhiên tính đến thời điểm này thì các công ty này còn chiếm thị trường khá nhỏ. Với đặc điểm khách hàng chủ yếu là các cá nhân, số lượng các doanh nghiệp ngày càng tăng, có thể nhận định được rằng trong thời gian tới, thị trường BHNT Việt Nam sẽ thêm sôi động, cạnh tranh thêm sâu sắc trên tất cả các mặt theo hướng có lợi cho khách hàng, đồng thời cùng chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ.
Sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường BHNT thời gian qua còn tạo ra sự cạnh tranh liên ngành, trong đó rõ rệt nhất là cạnh tranh giữa hệ thống Ngân hàng, bưu điện với ngành BHNT trong việc thu hút tiền vốn nhàn rỗi từ công chúng. Gần đây, ngành Ngân hàng (điển hình như Ngân hàng đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Sài Gòn Thương tín...) đã đưa ra những công cụ cạnh tranh trực tiếp với BHNT như tiết kiệm trả góp (cho phép gửi tiền tiết kiệm định kỳ với những khoản tiền nhỏ), tiết kiệm dài hạn (thời hạn tối đa có thể tới 15 năm).
Mặc dù là lĩnh vực kinh doanh chậm có lãi (đến thời điểm này tất cả các doanh nghiệp BHNT Việt Nam đều chưa có lãi) nhưng BHNT là một lĩnh vực kinh doanh màu mỡ và bền vững, hấp dẫn các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể nhận định rằng, cùng với chính sách hội nhập của Việt Nam cũng như việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, trong thời gian tới chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều gương mặt mới trên thị trường BHNT Việt Nam, làm cho thị trường thêm sôi động. Việc tăng vốn của các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường như Prudential cũng khẳng định điều này.
Mặc dù mới có hơn 7 năm nhưng thị trường BHNT Việt Nam đã đạt được những kết quả khá cao. Cụ thể:
+ Đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu phí và số hợp đồng:
Nếu như năm 1996 Bảo Việt mới triển khai thí điểm BHNT tại một số tỉnh thành và đạt được kết quả khá khiêm tốn với trên 1.200 hợp đồng và doanh thu phí chưa đến 1 tỉ đồng thì đến năm 2000 doanh thu phí BHNT toàn thị trường đã đạt gần 1.300 tỉ đồng và gần một triệu hợp đồng có hiệu lực. Đặc biệt, năm 2001 là năm đáng ghi nhớ của thị trường BHNT Việt Nam với doanh thu phí đạt 2.786 tỉ đồng (tương đương 0,55% GDP), vượt khá xa so với tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của toàn thị trường, số hợp đồng có hiệu lực đến cuối năm 2001 đạt khoảng 1,6 triệu (tương đương 2% dân số). So với năm 2000, tốc độ tăng doanh thu phí năm 2001 đạt 115,6%, trong đó tốc độ tăng doanh thu phí của các hợp đồng mới đạt trên 89%. Nếu tính từ khi mới bắt đầu triển khai, tốc độ tăng doanh thu BHNT bình quân trong những năm qua đạt trên 250%/năm; còn nếu tính từ năm 1999 - năm bắt đầu có sự gia nhập của các doanh nghiệp BHNT khác ngoài Bảo Việt, tốc độ tăng doanh thu phí bình quân đạt trên 135%/năm (cao hơn tốc độ tăng GDP rất nhiều). Đây là tốc độ tăng trưởng rất cao, phản ánh sự trưởng thành nhanh chóng của thị trường BHNT Việt Nam. Thêm vào đó, chất lượng khai thác cũng được nâng lên đáng kể, biểu hiện qua số tiền bảo hiểm trung bình/hợp đồng, số phí bảo hiểm bình quân/hợp đồng ngày càng cao, công tác đánh giá rủi ro được chú trọng hơn (thông qua việc áp dụng đánh giá rủi ro sức khỏe, tài chính, mục đích tham gia, quyền lợi có thể được bảo hiểm), tỉ lệ hủy hợp đồng của thị trường dưới 6%/năm (thấp hơn rất nhiều so với các thị trường khác).
+ Thiết lập được mạng lưới kinh doanh phủ khắp cả nước, mô hình tổ chức và quản lý ngày càng hoàn thiện.
+ Sản phẩm đa dạng, dịch vụ phong phú, khách hàng thuộc nhiều tầng lớp.
Khi Bảo Việt triển khai thí điểm BHNT, chỉ có 3 sản phẩm được đưa ra thị trường là BHNT Hỗn hợp thời hạn 5 năm, thời hạn 10 năm và An sinh giáo dục. Cùng với sự phát triển của thị trường, số lượng sản phẩm đưa ra thị trường đã tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng.
Hình 2. Doanh thu phí BHNT toàn thị trường qua các năm (tỉ đồng)
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tốc độ tăng doanh thu phí (So với năm trước)
1.742,1%
1.060,0%
142,4%
162,6%
115,6%
89,7%
[Nguồn: Báo cáo củaHiệp hội bảo hiểm Việt Nam]
Tác động của thị trường bảo hiểm đến các thị trường khác:
Trên thị trường vốn, BHNT đã tỏ ra là một kênh huy động vốn rất hiệu quả. Kết quả triển khai thời gian qua cho thấy, khách hàng tham gia BHNT rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, nghề nghiệp và thu nhập rất khác nhau. Xét theo yếu tố thu nhập, có khách hàng thuộc tầng lớp có thu nhập cao, thu nhập khá, thu nhập trung bình, do vậy có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm chỉ 5 triệu đồng nhưng cũng có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm tới vài tỉ đồng. Nếu xét theo nghề nghiệp, những người làm công ăn lương, kinh doanh (có thu nhập ổn định) chiếm phần lớn, khách hàng là nông dân còn chiếm tỉ trọng khá nhỏ.
+ Tạo kênh huy động và cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Với chức năng gom nhặt và tập trung những khoản tiền nhỏ, nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư, BHNT đã hình thành một quỹ đầu tư lớn, cung cấp vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ đắc lực
cho
công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. So với ngành Ngân hàng, BHNT Việt Nam tuy mới có thâm niên hoạt động còn rất ngắn nhưng đã thực sự trở thành một kênh huy động và phân phối vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Với số tài sản quản lý được tích lũy (dưới hình thức quỹ dự phòng) ngày càng lớn, cho phép các doanh nghiệp BHNT thực hiện những khoản đầu tư lớn dưới các hình thức như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu, cho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, gửi tiết kiệm Ngân hàng... lấy năm 2001 làm ví dụ, như đã nêu trên, tổng số phí BHNT toàn thị trường đạt 2.786 tỉ đồng, chiến 0,55% GDP và như vậy tính đến thời điểm này, tổng số vốn mà các doanh nghiệp BHNT có thể cung cấp cho nền kinh tế lên tới trên 4.000 tỉ đồng (chủ yếu là quỹ dự phòng được tích tụ qua các năm). Hoạt động đầu tư tài chính cũng trở thành xương sống nâng đỡ cho hoạt động kinh doanh BHNT, tạo tiền đề và điều kiện để các doanh nghiệp BHNT tham gia vào thị trường tài chính, tạo lập các quỹ đầu tư. Trên thực tế, các doanh nghiệp BHNT đã tham gia vào rất nhiều dự án đầu tư, là cổ đông lớn trong nhiều công ty cổ phần đồng thời cũng là thành viên thường xuyên trong các cuộc đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Kho bạc và cũng là những "người chơi" lớn trên thị trường chứng khoán. Năm 1999, Bảo Việt thành lập Công ty Chứng khoán Bảo Việt - công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam, tạo tiền đề để trở thành tập đoàn bảo hiểm - tài chính tổng hợp hàng đầu ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy, cho đến nay thị trường đầu tư của Việt Nam mới trong giai đoạn hình thành, còn thiếu các công cụ đầu tư, nhất là các công cụ đầu tư dài hạn, do vậy hạn chế rất lớn hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Đối với thị trường tài chính, thị trường bảo hiểm đang dần xâm nhập và ngày càng có những sự liên kết chặt chẽ hơn. Để đưa sản phẩm BHNT ra thị trường, đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đều sử dụng kênh phân phối truyền thống - đội ngũ đại lý chuyên nghiệp. Gần đây, các doanh nghiệp BHNT đã bắt đầu hợp tác với Ngân hàng trong khai thác và thu phí bảo hiểm, điển hình là sự hợp tác giữa Bảo Việt và Ngân hàng công thương, Ngân hàng á châu (ACB), giữa AIA và Ngân hàng Hongkong & Thượng Hải (HSBC), Prudential với ACB. Đến nay, sự hợp tác này đã thu được những kết quả nhất định. Sự hợp tác bước đầu giữa Ngân hàng và BHNT cũng cho thấy dấu hiệu của sự thâm nhập lẫn nhau giữa hai ngành đồng thời cũng là tín hiệu báo hiệu sự hình thành Ngân hàng bảo hiểm (bancas surance) ở Việt Nam trong tương lai không xa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp BHNT cũng đã có ý tưởng về internet, với việc giới thiệu sản phẩm qua mạng.
Đối với toàn xã hội , thị trường bảo hiểm góp phần tạo lập cuộc sống ổn định, thịnh vượng, nâng cao nhận thức về BHNT. Qua việc giải quyết đầy đủ và kịp thời quyền lợi của khách hàng, các doanh nghiệp BHNT đã giúp khách hàng chẳng may gặp rủi ro nhanh chóng khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống đồng thời cũng giúp cho khách hàng thực hiện tiết kiệm dài hạn và đều đặn nhằm đạt những kế hoạch đã đề ra, tạo lập một cuộc sống đầy đủ về tài chính, hạnh phúc, thịnh vượng. Đây cũng chính là một trong những lý do cơ bản giúp dân chúng ngày càng hiểu rõ hơn về vai trò, ý nghĩa của BHNt, từng bước hình thành tập quán tham gia BHNT ở Việt Nam và cũng là một trong những lý do cơ bản đem lại sự thành công của thị trường thời gian qua. Đồng thời, với cơ chế bù đắp tài chính, khắc phục hậu quả của rủi ro, hỗ trợ tài chính khi không còn khả năng lao động (qua các sản phẩm hưu trí), chúng ta có thể nhận định một cách lôgic rằng, BHNT đã, đang và sẽ góp phần tích cực xóa bỏ bao cấp, giảm nhẹ các khoản trợ cấp của nhà nước, của xã hội đối với các cá nhân gặp rủi ro đồng thời thực hiện xã hội hóa các đảm bảo xã hội. Thêm vào đó, các doanh nghiệp BHNT cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện, tài trợ các chương trình văn hóa thể thao, tư vấn y tế, hỗ trợ đào tạo, an toàn giao thông và các hoạt động xã hội khác, góp phần xây dựng một xã hội an bình, thịnh vượng, nâng cao uy tín và hình ảnh của ngành BHNT.
Thị trường lao động có lẽ là thị trường nhận được sự tác động lớn nhất. Thời gian qua ngành BHNT đã thu hút, tạo công ăn việc làm cho một lực lượng đông đảo lao động dưới hình thức đại lý chuyên nghiệp, đại lý bán chuyên nghiệp và cộng tác viên. Đến cuối năm 2001, tổng số đại lý chuyên nghiệp của toàn thị trường đã tới con số 40.000 người (trong đó, Bảo Việt có trên 12.000 người). Với những đặc trưng nổi bật: hoàn toàn độc lập, tự chủ về thời gian, đòi hỏi tính tự giác cao, hưởng thù lao theo kết quả hoạt động, tự hạch toán độc lập (có thể coi mỗi đại lý là một "doanh nghiệp", trên thực tế có nhiều đại lý là một "doanh nghiệp" thực thụ), không yêu cầu quá cao về bằng cấp, nghề đại lý (tư vấn) BHNT đã thực sự trở thành một nghề có tính chuyên nghiệp, được xã hội thừa nhận và là nghề có thu nhập khá cao ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, BHNT cũng đã tạo ra chỗ làm việc cho hàng nghìn người với tư cách là cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp BHNT, ngoài ra còn tạo thêm việc làm cho các ngành khác có liên quan như công nghệ thông tin, Ngân hàng, in ấn, quảng cáo...
1.2. Thị trường bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2003
Sự phát triển kinh tế và sự ổn định về chính trị xã hội đã tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh Bảo hiểm phát triển.
Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm thị trường bảo hiểm nhân thọ nước ta vẫn hoạt động khá sôi động và tiếp tục phát triển theo chiều hướng tốt. Toàn thị trường đạt tốc độ tăng trưởng 46% về doanh thu phí bảo hiểm. Các doanh nghiệp đều có tốc độ tăng dương về doanh thu phí bảo hiểm so với cùng kỳ năm trước. Dẫn đầu về doanh thu là Bảo Việt với 1.249.234 triệu đồng, tiếp đến là Prudential với doanh thu phí đạt 1.142.044 triệu đồng tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2002 (686.790 triệu đồng). Các công ty còn lại cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt là Bảo Minh CMG là AIA với tốc độ tăng trưởng lần lượt là 78,47% và 70,39%.
Về thị phần: Dẫn đầu thị trường vẫn là Bảo Việt chiếm 42,36% thị trường (cùng kỳ năm 2002 là 48,42%) nhưng thị phần của công ty đang ngày càng bị thu hẹp lại với sự lớn mạnh của Prudential và các công ty bảo hiểm nhân thọ khác. Nếu như cùng kỳ 2002, thị phần của Prudential là 34,05% thì năm nay thị phần của họ đã là 38,72%, kém đôi chút so với Bảo Việt.
Về số hợp đồng khai thác mới: toàn thị trường đạt tốc độ tăng trưởng 24,02%, nâng tổng số các hợp đồng khai thác mới của toàn thị trường lên gần 1.000.000 hợp đồng (chính xác là 933.425 hợp đồng). Prudential là doanh nghiệp dẫn đầu thị trường với 440.261 hợp đồng tăng 35,63% so với cùng kỳ năm trước, tiếp đến là Bảo Việt với 328.080 hợp đồng đạt tốc độ tăng 4,3% so với cùng kỳ. Mặc dù số hợp đồng khai thác mới của AIA chỉ đạt có 71.351 hợp đồng nhưng vẫn là doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng hợp đồng khai thác mới cao nhất với 100,68%, tiếp đến là Baominh CMG với 85,64% tương đương với 28.987 hợp đồng. Manulife là doanh nghiệp có tốc độ tăng thấp nhất 2,72%.
Về số các hợp đồng đang có hiệu lực: Bảo Việt với ưu thế là công ty đầu tiên khai thác bảo hiểm n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luanvan BH Huong Lan.doc