Khóa luận Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) nuôi tại huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế

Tài liệu Khóa luận Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) nuôi tại huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế: PHẦN 1 MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, song song với việc phát triển các ngành kinh tế khác, nghề nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần nâng cao đời sống và tạo việc làm cho người dân lao động. Trong đó tôm là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, được ưa chuộng trên thế giới. Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ châu Mỹ. Tôm chân trắng là đối tượng mới có triển vọng phát triển rộng rãi ở nhiều nước châu Á. Ưu điểm của nó là thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, mau lớn, thích nghi được với biên độ nhiệt độ nước và độ mặn rộng.[4]. Trong thời gian qua, Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản III đã nghiên cứu sản xuất giống và nuôi khảo nghiệm tôm chân trắng, nhìn chung quản lý và phát triển đúng hướng, cơ bản đảm bảo an toàn sinh học, trình độ kỹ thuật nhiều nơi được cải thiện đã mở đường cho sự phát triển của tôm chân trắng. Tôm chân trắng là loài có thể nuôi...

doc45 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) nuôi tại huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1 MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, song song với việc phát triển các ngành kinh tế khác, nghề nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần nâng cao đời sống và tạo việc làm cho người dân lao động. Trong đó tôm là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, được ưa chuộng trên thế giới. Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ châu Mỹ. Tôm chân trắng là đối tượng mới có triển vọng phát triển rộng rãi ở nhiều nước châu Á. Ưu điểm của nó là thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, mau lớn, thích nghi được với biên độ nhiệt độ nước và độ mặn rộng.[4]. Trong thời gian qua, Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản III đã nghiên cứu sản xuất giống và nuôi khảo nghiệm tôm chân trắng, nhìn chung quản lý và phát triển đúng hướng, cơ bản đảm bảo an toàn sinh học, trình độ kỹ thuật nhiều nơi được cải thiện đã mở đường cho sự phát triển của tôm chân trắng. Tôm chân trắng là loài có thể nuôi với mật độ cao, điều này đòi hỏi người nuôi phải đầu tư đồng bộ về nhân lực cũng như khoa học kỹ thuật. Để nâng cao năng suất và lợi nhuận, cần phải lựa chọn nguồn giống sạch bệnh, chế độ chăm sóc quản lý chặt chẽ, kiểm soát tốt các yếu tố môi truờng và quan trọng là phải sử dụng loại thức ăn phù hợp nhất. Chi phí thức ăn trong quá trình nuôi tôm chiếm khoảng 40 – 70 % chi phí của vụ nuôi. Tuy nhiên trong nuôi tôm, chi phí cho một kg thức ăn chưa quan trọng mà vấn đề người nuôi tôm cần quan tâm nhất đó là chi phí cho một kg tôm tăng trọng là bao nhiêu? Vì vậy ngoài việc sử dụng loại thức ăn nào có chất lượng tốt để cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho tôm, giúp tôm tăng trưởng nhanh, có sức khỏe tốt mà còn giảm được hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) đến mức thấp nhất để góp phần hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay ở thị trường Thừa Thiên Huế có nhiều loại thức ăn của nhiều công ty trong và ngoài nước với chất lượng và giá cả khác nhau. Do vậy nghiên cứu để tìm ra loại thức ăn phù hợp là một trong những khâu quyết định đến hiệu quả kinh tế cả vụ nuôi. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn kết hợp với nguyện vọng của bản thân. Được sự đồng ý của trường Đại học Nông lâm Huế, khoa Thủy Sản và giáo viên hướng dẫn, tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) nuôi tại huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế” Mục tiêu của đề tài: - Đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn thí nghiệm đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng. Trên cơ sở đó khuyến cáo với người nuôi loại thức ăn tôm chân trắng mang lại hiệu quả kinh tế cao trong nuôi tôm thâm canh PHẦN 2 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1 Đặc điểm sinh học tôm chân trắng 2.1.1 Hệ thống phân loại Tôm chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp) được định loại là: Ngành: Arthropoda Lớp: Crustacea Bộ: Decapoda Họ: Penaeidea Giống: Litopenaeus Loài: Litopenaeus vannamei, Boone 1931. 2.1.2 Đặc điểm phân bố và nguồn gốc. Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ yếu ở ven biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền trung Pêru, nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm thẻ chân trắng đã có mặt hầu hết ở các khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc và các nước ven biển thuộc khu vực Đông Nam Á[4]. 2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng Cũng như các loài tôm he khác, tôm chân trắng phát triển qua 4 giai đoạn ấu trùng chính là Nauplius, Zoea, Mysis, Postlarvae Giai đoạn Nauplius: Nauplius không cử động được trong khoảng 30 phút, sau đó bắt đầu bơi và rất dễ bị lôi cuốn bởi ánh sáng. Nauplius thay vỏ cả thảy 4 lần ( N1 đến N5 ) mỗi lần kéo dài 7 giờ ( theo các nhà sinh học Đài Loan thì có đến 6 giai đoạn ). Trong thời kỳ này ấu trùng cứ bơi một đoạn rất ngắn rồi lại nghỉ và lại tiếp tục bơi. Không cần cho Nauplius ăn, chúng tự nuôi sống bằng noãn hoàng có sẵn. Giai đoạn Zoea: sau N5 ấu trùng chuyển sang giai đoạn Zoea, giai đoạn này ấu trùng bơi liên tục, bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài, chủ yếu là thực vật phù du. Zoea thay vỏ hai lần từ Z1 tới Z3 trong 5 ngày, mỗi lần kéo dài 36 giờ Giai đoạn Mysis: thời kỳ này ấu trùng qua 3 giai đoạn (M1, M2, M3). Mỗi giai đoạn kéo dài 24 giờ. Mysis ăn cả thực vật phù du lẫn động vật phù du. Trong khi Nauplius có khuynh hướng bơi gần mặt nước thì Mysis bơi hướng xuống sâu và bơi ngược, đuôi đi trước, đầu đi sau. Giai đoạn Postlarvae: sau thời kỳ này thì tôm con đã có đủ các bộ phận, chúng dần dần hướng ra biển, rời xa các cửa sông và trở thành Juvenile. Từ đây tôm trưởng thành Tôm nhỏ thay vỏ cần vài giờ, tôm lớn cần 1 - 2 ngày. Tốc độ lớn thời gian đầu 3g/tuần lễ (mật độ nuôi 100 con/m2), tới cỡ 30g tôm lớn chậm dần (1g/tuần lễ). Tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực. [4] 2.1.4. Tập tính sống Tôm chân trắng sống ở vùng biển tự nhiên có các đặc điểm: đáy cát, độ sâu 0 - 72m; nhiệt độ nước ổn định từ 25 - 320C , độ mặn từ 28 - 340/00, pH 7,7 - 8,3 Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển gần bờ, tôm con ưa sống ở các khu vực cửa sông giàu sinh vật thức ăn. Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban đêm mới bò đi kiếm ăn. Tôm chân trắng có sự thích nghi rất mạnh đối với sự thay đổi đột ngột của môi truờng sống. [4] 2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng Tôm chân trắng là loài tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm he khác, thức ăn của nó cũng cần thành phần: protid, lipid, vitamin và muối khoáng...thiếu hay không cân đối đều ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Khả năng tiêu tốn thức ăn của tôm chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn bình thường, lượng cho ăn chỉ cần bằng 5% thể trọng tôm (thức ăn uớt). Trong thời kỳ tôm sinh sản đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn phát dục của buồng trứng thì nhu cầu về lượng thức ăn hằng ngày tăng lên gấp 3 - 5 lần. Thức ăn cần hàm lượng protein 35% là thích hợp, (tôm sú cần 40%, tôm he Nhật Bản cần 60% protein). [4] 2.1.6 Đặc điểm sinh sản Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28oC, độ mặn khá cao (35‰). Trứng nở ra ấu trùng và vẫn sinh sống ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Postlarvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Nơi đây điều kiện môi trường rất khác biệt: thức ăn nhiều hơn, độ mặn thấp hơn, nhiệt độ cao hơn ... Sau một vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm trọn chu kỳ. * Cơ quan sinh dục. Tôm chân trắng Litopenaeus vannmei trưởng thành phân biệt rõ đực cái thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài. Con đực: Giữa đôi mái chèo thứ nhất có một cơ quan gọi là petasmata. Trong khi giao hợp petasmata sẽ chuyển tinh trùng sang thelycum của con cái. Con cái: Con cái có một cơ quan gọi là thelycum để tiếp nhận tinh trùng của con đực. Thelycum nằm ở phía bụng của phần ức, giữa cặp chân đi thứ 4 và thứ 5. Tôm chân trắng có thelycum mở khác với loại hình túi chứa tinh kín như ở tôm sú và tôm he Nhật Bản. Trình tự của sinh sản mở là: (tôm mẹ) lột vỏ→ thành thục→ giao phối→ đẻ trứng→ ấp nở. Tôm cái sau khi thành thục sẽ đẻ trứng trực tiếp vào trong môi trường nước, trong điều kiện nhiệt độ và độ mặn thích hợp trứng sẽ nở thành ấu trùng.[13], [4] 2.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến khả năng sinh trưởng và phát triển tôm chân trắng 2.2.1. Nhiệt độ Tôm cũng như hầu hết các loài động vật sống dưới nước thuộc loại máu lạnh, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường, vì vậy nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của tôm. Nhiệt độ ảnh hưởng tới nhiều phương diện trong đời sống của tôm: hô hấp, tiêu thụ thức ăn, đồng hoá thức ăn, miễn nhiễm đối với bệnh tật, sự tăng trưởng... [13] Nhiệt độ thường thay đổi theo mùa, ngày đêm và mỗi vùng miền khác nhau. Thông thường nhiệt độ nước trong ngày thấp nhất vào lúc 2 đến 5 giờ sáng, cao nhất vào buổi chiều lúc 14 giờ đến 16 giờ chiều. Tôm có thể chịu đựng sự thay đổi nhiệt độ 0,2oC/phút, nhưng khi nhiệt độ thay đổi đột ngột 3 – 4oC hoặc vượt quá sẽ gây sốc thậm chí còn gây chết. Nhiệt độ thích hợp cho tôm loại Penaeus spp tại các ao hồ nhiệt đới khoảng 28 – 30oC. Các thí nghiệm ở Hawaii cho thấy tôm chân trắng sẽ chết nếu nhiệt độ môi trường nước thấp hơn 15oC, cao hơn 33oC trong 24 giờ hoặc lâu hơn nữa, tôm sẽ ngạt nếu nhiệt độ khoảng 15 – 22oC và 30 – 33oC. Với tôm chân trắng nhiệt độ chấp nhận được là 23 – 30oC, trong khoảng nhiệt độ này độ lớn của tôm cũng tuỳ giai đoạn tăng trưởng của tôm. Thí nghiệm cho biết, lúc còn nhỏ (1gr) tôm lớn nhanh hơn ở 30oC, khi tôm lớn hơn(12 – 18gr) tôm lại lớn nhanh nhất ở nhiệt độ 27oC thay vì 30oC như lúc còn nhỏ. Khi tôm lớn hơn nữa mà nhiệt độ lại cao hơn 27oC thì môi trưòng nước này hoàn toàn bất lợi cho sự tăng trưởng[14][13]. 2.2.2. Độ mặn Đây là yếu tố mà chúng ta có thể điều chỉnh được nếu có nguồn nước ngọt và nước mặn dự trữ. Độ mặn có thể nuôi tôm chân trắng từ 10 – 30 ppt, tuy nhiên nếu độ mặn cao quá hoặc thấp quá cũng không tốt, nếu độ mặn cao (>30ppt) thì tôm rất chậm lớn, vì độ mặn cao hàm lượng các khoáng cũng rất cao, do đó sẽ làm cho quá trình lột xác của tôm gặp nhiều khó khăn, nếu tôm đã tới chu kỳ lột xác mà không lột được thì sẽ không phát triển và chậm lớn. Hơn nữa nước mặn là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các bệnh do vi khuẩn vibrio gây ra, đặc biệt là bệnh phát sáng. Độ mặn tốt nhất cho sự phát triển của tôm chân trắng từ 10 – 25 ppt Nếu độ mặn thấp (< 10 ppt) cũng không tốt, dễ phát sinh bệnh, vì trong nước ngọt thiếu các khoáng (Na, Ca, Cl, Fe, Cu, P, Mn…). Đây là những khoáng chất cần thiết cho sự tạo vỏ của tôm, nếu thiếu chúng tôm sẽ không tạo được vỏ.[7] 2.2.3. pH pH của nước ao rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tôm nuôi và phiêu sinh vật. pH là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng nuớc ao nuôi. Khi pH biến động thì sẽ ảnh hưởng tới các quá trình sinh lý, sinh hoá trong cơ thể tôm, làm ảnh hưởng các yếu tố khác trong ao như tảo, khí độc…pH phù hợp cho ao nuôi là 7.5 – 8.5, khoảng dao động trong một ngày không được quá 0.5. [7] Một vài chức năng của cơ thể tôm có thể bị ảnh hưởng trực tiếp do pH quá cao hay quá thấp hay do sự biến động của nó, và như vậy, dĩ nhiên sẽ có hại đến tôm. pH thấp thường làm tổn thương phụ bộ và mang cũng như gây trở ngại cho việc lôt xác và làm cho tôm bị mềm vỏ NH3 và H2S là hai loại khí độc hoà tan trong nước. Các loại khí độc này hiện diện trong ao dưới hai dạng: dạng khí có tính độc cao và dang ion thì ít độc hơn. Tỷ lệ giữa dạng khí và dạng ion bị ảnh hưởng bởi độ pH. Khi pH cao, NH3 dạng khí sẽ nhiều và ít H2S hơn. Khi pH thấp thì H2S dạng khí nhiều và ít NH3 dạng khí.[5] 2.2.4. Độ kiềm Độ kiềm là số đo tổng của carbonate và bicarbonate. Chúng có tác dụng quan trọng trong nước thông qua khả năng làm giảm sự biến động của pH, hạn chế các chất độc có sẵn trong ao nhằm không gây sốc cho tôm. Độ kiềm ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lột xác của tôm, độ kiềm cao làm cho tôm khó lột xác nhưng nếu độ kiềm nước ao thấp làm cho tôm khó cứng vỏ mỗi khi lột xác. Trong nuôi tôm chân trắng, độ kiềm rất quan trọng vì chu kỳ lột xác của chúng rất ngắn và thường xuyên, sau mỗi lần lột xác chúng sẽ hấp thụ một lượng lớn độ kiềm trong nước để sử dụng trong việc kiến tạo vỏ mới, do đó việc kiểm tra độ kiềm thường xuyên trong ao là rất cần thiết nhất là khi tôm lớn. Độ kiềm thích hợp trong ao nuôi tôm từ 80 – 130 mg/l. [7], [14] 2.2.5. Oxy hòa tan (DO) Hàm lượng oxy thích hợp là rất cần thiết cho một ao nuôi tốt ở cả hai hệ thống nuôi năng suất thấp và cao. Tác hại do hàm lượng oxy thấp tuỳ thuộc vào hàm lượng oxy có trong ao, thời gian và số lần tôm phải chịu đựng tình trạng đó. Ở nồng độ oxy nhỏ hơn 4mg/l tôm vẫn bắt mồi bình thường nhưng chúng tiêu hóa thức ăn không hiệu quả. Hàm lượng oxy thấp như thế có thể ảnh hưởng đến tôm và dẫn đến tăng tính cảm nhiễm bệnh. Tỷ lệ chuyển hoá thức ăn giảm và khả năng cảm nhiễm bệnh tăng sẽ làm giảm lợi nhuận. Nếu hàm lượng oxy giảm thấp hơn nữa (2 – 3 mg/l) thì tôm sẽ ngừng bắt mồi và yếu đi nhiều. Hàm lượng oxy thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển là lớn hơn 5mg/l. [5], [14] 2.2.6. Độ trong Độ trong của nước ở các ao nuôi chủ yếu phụ thuộc vào số lượng và đặc tính khối chất cái bao gồm các sinh vật sống trong tầng nước và thể vẩn lơ lửng. Giới hạn cho phép về độ trong từ 25 – 50 cm, nó thay đổi theo tuổi tôm, khi mới thả tôm vào thì yêu cầu độ trong cao 40 – 50 cm, nhưng khi tôm lớn độ trong sẽ thấp 25 – 30 cm. Độ trong quá lớn sẽ lập tức ảnh hưởng tới tôm, khi đó tôm rất dễ bị sốc, tôm chậm lớn, phân đàn, ít ăn và dễ nhiễm bệnh, đồng thời đáy ao dễ sinh lab lab. Nếu độ trong quá thấp (nước có màu đậm) thì rất dễ ảnh hưởng đến hoạt động hô hấp của tôm nhất là vào ban đêm, nguyên nhân chính là do tảo về ban ngày sẽ quang hợp nhưng về ban đêm chúng sẽ hô hấp và làm giảm oxy trong nước. Độ trong thấp thì mang tôm rất dễ bị tổn thương (đen mang, vàng mang) hay nhớt thân. Màu tảo đậm là nguyên nhân làm dao động pH giữa ngày và đêm rất lớn. [7] 2.2.7. Các khí hoà tan 2.2.7.1. CO2 Khí CO2 đóng vai trò quan trọng trong đời sống của vùng nước. CO2 là bộ phận cơ bản tham gia vào sự tạo thành chất hữu cơ trong quá trình quang hợp. Nếu CO2 tồn tại dưới dạng khí tự do ở nồng độ cao sẽ không có lợi cho tôm. Do chênh lệch giữa áp suất trong nước và trong máu tôm. [14] 2.2.7.2. Hợp chất của Nitơ Gồm 3 chất chính: amonia (NH4+), nitrite (NO2) và nitrate (NO3-). Amonia: Trong ao hồ, amonia xuất hiện như một sản phẩm do sự biến dưỡng của động vật trong nước cũng như từ sự phân huỷ các chất hữu cơ với tác dụng của vi khuẩn. Trong nước amonia được phân chia làm 2 nhóm: nhóm NH3 (khí hoà tan) và nhóm NH4+ (ion hoá). Chỉ có dạng NH3 của amonia là gây độc cho tôm, NH3 có tính độc cao hơn NH4+ từ 300 đến 400 lần. Sự phân chia này chịu ảnh hưởng của pH, nhiệt độ và độ mặn nhưng pH ảnh hưởng quan trọng hơn cả. Nếu tăng 1 đơn vị pH thì sẽ tăng 10 lần tỷ lệ của NH3. Độ độc của amonia gây ra không đáng ngại lắm trong ao tôm vì thực vật phiêu sinh (phytoplankton) sẽ giữ cho độ độc này ở mức thấp, tuy nhiên nếu ao hồ có mật độ cao quá thì mức NH3 vẫn có thể xuất hiện. Mức độ NH3 thay đổi về ban đêm đáp ứng sự thay đổi của pH và nhiệt độ. Dưới tác dụng của vi khuẩn, amonia sẽ bị biến đổi thành nitrite (NO2) (bởi Nitrosomonas bacteria) rồi nitrate (NO3-) (bởi Nitrobacter bacteria) Hình thức nitrate thường vô hại, nhưng trong môi trường nước mà lượng chlorinity thấp thì nitrite sẽ gây độc cho tôm. Nitrite gây độc chính yếu là tạo thành chất methemoglobin và giảm sự chuyển oxygen tới tế bào.[14] 2.2.7.3. Hydro sulfide (H2S) Hydro sulfide là một chất khí, được tạo thành dưới điều kiện kỵ khí (anaerobic condition). Cũng tương tự như amoni, hydro sulfide chia làm 2 nhóm: nhóm H2S (khí) và HS- (ion). Chỉ có dạng H2S là chất độc. pH rất có ảnh hưởng tới độ độc của H2S, ví dụ: Với ao hồ có pH = 5 và ở 240C người ta thấy 99,1% Hydro sulfide dưới dạng H2S, trong khi đó ở độ pH=8 với cùng nhiệt độ 240C lại chỉ có 8% lượng Hydro sulfide dưới dạng chất độc. [14] 2.3. Những nghiên cứu về dinh dưỡng tôm chân trắng 2.3.1. Protein Protein là vật chất hữu cơ quan trọng, là nguyên liệu tạo các mô và các sản phẩm khác trong cơ thể. Protein là chất xúc tác, thực hiện chức năng vận chuyển, bảo vệ. Trong tình trạng suy dinh dưỡng protein đóng vai trò quyết định, nếu cơ thể tôm thiếu sẽ kéo theo thiếu các chất dinh dưỡng khác, thiếu protein kéo dài sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm. Để thoả mãn nhu cầu protein ở tôm, ta có thể sử dụng các acid amin tổng hợp để cân đối nhu cầu acid amin hoặc phối hợp các nguyên liệu. Tôm chân trắng không cần khẩu phần ăn có lượng protein cao như tôm sú. Theo nghiên cứu của Colvin and Brand (1977) là 30%, Kureshy and Davis (2002) là 32%. Trong đó, thức ăn có lượng protein 35% được coi như là thích hợp hơn cả, trong đó khẩu phần ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng. Men tiêu hoá protein của tôm chủ yếu ở dạng trypsine, không có pepsine (Vonk, 1970). Ngoài ra trong dạ dày tôm có 85% số vi khuẩn tạo thành chitinase. Ngoài việc cung cấp dinh dưỡng, quan trọng nhất là giúp tôm có khả năng tiêu hoá chitinase một phức hợp của protein. [2] 2.3.2 Lipid Trong thành phần thức ăn của tôm thì lipid chứa năng lượng cao nhất, nó không chỉ là chất dự trữ mà còn là thành phần thiết yếu của các tổ chức trong cơ thể. Nếu năng lượng của thức ăn quá thấp thì tôm sẽ sử dụng nguồn năng lượng từ các dưỡng chất khác, như protein để thoả mãn nhu cầu về năng lượng, làm nâng cao chi phí thức ăn. Nếu năng lượng trong thức ăn quá cao thì sẽ làm giảm sự hấp thu thức ăn và chất đạm tiêu hoá không đủ để tôm phát triển. Tỷ lệ lipid trong thành phần thức ăn của tôm không thể vượt quá 10%, tốt nhất là 5-7%. [2] 2.3.3. Hydratcacbon. Hydratcacbon là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể (khoảng 60% năng lượng cho hoạt động sống của động vật). Tuy khả năng sản sinh ra nhiệt lượng của hydratcacbon kém hơn so với lipid, song hydratcacbon lại có ưu thế hoà tan được, vì vậy quá trình tiêu hoá hấp thu dễ dàng. Ở giáp xác có nhiều men tiêu hoá hydratcacbon như: amylaza, maltaza, kitinaza, cellulaza (Kooiman, 1964), nhờ đó giáp xác có thể tiêu hoá một thành phần cellulose nên chúng có thể ăn thực vật và rong tảo. Thức ăn nhiều xơ sẽ đưa kết quả xấu vì cơ quan ruột, dạ dày của tôm ngắn, thức ăn nhanh chóng đi qua và thời gian tiêu hoá bị hạn chế. Nhưng chất xơ đóng vai trò là chất nền cho quá trình lên men của vi sinh vật sống trong ống tiêu hoá, vì vậy trong thức ăn tôm người ta thường bổ sung khoảng 5% bột cỏ hoặc rong biển. Ngoài vai trò là chất nền trong chất xơ tồn tại một lượng nước nhất định, chính lượng nước này có tác dụng duy trì dịch ruột làm tăng quá trình hấp thu chất dinh dưỡng. [2] 2.3.4. Vitamin. Vitamin là những chất hữu cơ có bản chất hoá học khác nhau, cơ thể động vật có nhu cầu một lượng nhỏ trong thức ăn để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường. Vitamin nhóm B, C và E được cho là cần thiết phải cho vào thức ăn. Vitamin D, C khi dùng với số lượng nhiều đã cho thấy phản ứng đối kháng, dẫn đến bệnh thừa vitamin. Trong thành phần các premix vitamin dùng cho tôm luôn có vitamin A và K. [2] 2.3.5. Khoáng. Khoáng là những nguyên tố hoá học cần thiết để xây dựng nên cơ thể và tham gia vào quá trình trao đổi chất của động vật. Tôm có khả năng hấp thụ muối khoáng từ môi trường nước nên nhu cầu muối khoáng của tôm thấp và khác với động vật trên cạn. Shewbartetal (1973) cho rằng nhu cầu Ca, K, Na và Cl của tôm có thể thoả mãn do áp suất thẩm thấu. Photpho trong nước biển thấp nhưng trong thịt tôm lại có nhiều, nên cần thêm photpho vào trong khẩu phần thức ăn tôm hỗn hợp khoáng từ 2-5%. [2] 2.4. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới và Việt Nam 2.4.1. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới Trên thế giới, sản lượng tôm chân trắng đứng hàng thứ hai sau tôm sú nhưng ở châu Mỹ sản lượng tôm chân trắng đứng hàng đầu, đạt 86.000 tấn (1990), 132.000 tấn (1992), 191.000 tấn (1998) và đạt gần 200.000 tấn năm 1999.[4] Ecuador coi nuôi tôm chân trắng là ngành sản xuất lớn, sản lượng tôm nuôi chiếm 95% tổng sản lượng của khu vực châu Mỹ, năm 1991 là 103.000 tấn. Năm 1993, do gặp dịch bệnh hội chứng Taura (Taura Symdrome Virus) sản lượng giảm còn 1/3, sau 2-3 năm khôi phục lại đạt 120.000 tấn (1998), 130.000 tấn (1999) rồi lại gặp đại dịch bệnh đốm trắng còn 35.000 tấn (2000).[4] Một số nước như Mexico, Panama, Eelize,  Peru, Colombia… cũng có tình hình phát triển tương tự Ecuador. Sau khi được nhiều nước Châu Mỹ nuôi nhân tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm chân trắng được di giống sang Hawaii . Từ đây tôm chân trắng lan sang Châu Á, Đông Nam Á. Nhiều nước Đông Nam Á đã nhập tôm chân trắng để nuôi như: Philippin, Inđônêsia, Malaixia, Thái Lan, Việt Nam... với hy vọng đa dạng hóa các sản phẩm tôm xuất khẩu để nhằm tránh tình trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú hiện nay. Tôm chân trắng được nhập khẩu vào Châu Á vì người ta nhận thấy một số loại tôm bản địa chủ yếu hiện đang được nuôi cho năng suất thấp, mức độ tăng trưởng chậm  và có khả năng mang bệnh, việc khoanh vùng nuôi tôm chân trắng khép kín và sự phát triển của các dòng giống tôm chân trắng chọn lọc và thuần hóa đã đưa tôm chân trắng trở thành đối tượng quan tâm lớn của ngành nuôi tôm thời kỳ hiện nay. Trên phạm vi toàn cầu, tôm chân trắng đang chiếm tới 2/3 tổng sản lượng tôm nuôi toàn thế giới. Ở châu Á, trong giai đoạn từ 2001-2006, tôm sú chỉ duy trì ở một sản lượng nhất định, thì tôm chân trắng nhảy vọt lên 1,5-1,6 triệu tấn (năm 2006) và ước đạt 1,8 triệu tấn (2009). Đặc biệt, việc gia tăng nhanh sản lượng tôm chân trắng là do các nước đã sản xuất được tôm bố mẹ sạch bệnh và áp dụng các biện pháp khoa học công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng tôm. Đặc biệt ở Thái Lan  trong năm  2004 sản lượng tôm chân trắng đã đạt tới 300.000 tấn, chiếm tỷ lệ cao trong sản xuất tôm biển với sản lượng chiếm  xấp xỉ 80%. Khảo sát tại Thái Lan cho thấy, nước này đã chuyển sang nuôi tôm chân trắng đời thứ 7, sạch bệnh. Người nuôi tôm ở Thái Lan đã nuôi thành công tôm chân trắng cỡ lớn (vượt tôm sú), có ưu thế vượt trội về năng suất, đạt 25-30 tấn/ha/vụ; lợi nhuận thu được cao gấp 2-3 lần so với tôm sú. Dự báo sản lượng tôm nuôi của Thái Lan năm 2008 sẽ đạt 533.000 tấn, gồm 160.000 tấn tôm sú và 373.000 tấn tôm chân trắng. Còn tại Philippines, Bộ Nông nghiệp nước này cũng đã dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu và nuôi tôm chân trắng ở nước này sau những nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy việc nuôi tôm chân trắng hiệu quả cao, lại không đe dọa môi trường, góp phần đa dạng sinh học. Tôm chân trắng được thế giới công nhận là một trong ba loài tôm he nuôi có nhiều ưu điểm và sản lượng cao nhất với nhiệt độ và độ mặn rất rộng, có thể nuôi theo nhiều hình thức bán thâm canh, thâm canh và nuôi công nghiệp trong các ao đầm nước mặn lợ. [18]. 2.4.2 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Việt Nam Tại Việt Nam, tháng 9/2001 đơn vị đầu tiên được Bộ Thủy sản cho phép đưa tôm chân trắng vào sinh sản nhân tạo để bán ra thị trường là công ty Duyên Hải ở tỉnh Bạc Liêu. Tiếp đến tôm chân trắng được nuôi thử nghiệm ở một số tỉnh miền Bắc và miền Trung. Nguồn tôm giống nhập ngoại chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, trong đó nhiều nhất là Trung Quốc, chủ yếu nhập qua đường tiểu ngạch, rất khó kiểm soát. Tôm chân trắng được nuôi phổ biến trên cả nước tập trung tại các tỉnh Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Thừa Thiên - Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh… Nuôi tôm trên cát phát triển mạnh đến mức các Bộ, ngành và chính quyền các cấp không thể kiểm soát được. Nếu như năm 2002, cả nước có 593,8 ha nuôi tôm trên cát thì đến năm 2003 tăng lên 1131 ha; đến hết năm 2005 diện tích nuôi tôm trên cát được các tỉnh miền trung đưa vào quy hoạch hơn 20.000 ha.Theo thống kê của ngành Thủy sản, năm 2008 cả nước đạt sản lượng 50.000 tấn tôm chân trắng. Năm 2009 sản lượng tăng lên gấp 10 lần. Miền trung là khu vực có các điều kiện thích hợp cho tôm chân trắng phát triển. Vùng sản xuất tôm giống lớn nhất ở miền Trung và cũng lớn nhất cả nước là Tuy Phong tỉnh Bình Thuận, Cà Ná, Cam Ranh, Phan Rang, Ninh Tịnh, Ninh Hòa, Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa. [17] Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là tôm nuôi đều phát triển tự phát. Dân các tỉnh nuôi rải rác ở các vùng cát cao triều, xen lẫn trong các đồng tôm sú ở ven biển. Hầu hết các hồ nuôi nhỏ lẻ ở nhiều khu vực khác nhau và không có bể xử lý nước, nên nguồn nước thải xả ra kênh, ra biển gây ô nhiễm môi trường. Theo Cục Nuôi trồng Thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì việc quản lý chất lượng giống tại các trại đang bị buông lỏng, tôm giống kém chất lượng, không qua kiểm soát vẫn được lưu hành trên thị trường. Bên cạnh đó, một lượng rất lớn giống tôm chân trắng đang tràn qua biên giới Quảng Ninh vào Việt Nam bằng nhiều con đường nhưng không được cơ quan có trách nhiệm ngăn chặn. Thời gian gần đây tình hình dịch bệnh đã xảy ra trên các vùng nuôi tôm chân trắng ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long 2.4.3 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Thừa Thiên Huế 2.4.3.1 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở Thừa Thiên Huế Thừa Thiên Huế là một trong những tỉnh có diện tích nuôi tôm chân rắng lớn trên cả nước. Phong trào nuôi tôm diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh đặc biệt là các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Lộc, Phú Vang. Theo báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2009, huyện Phong Điền là đơn vị có diện tích nuôi lớn nhất với 226ha, sản lượng đạt 2307,2 tấn. Vùng nuôi tôm trên cát ven biển huyện Phong Điền đã được quy hoạch với quy mô trên 1000 ha. Đến nay đã có 4 doanh nghiệp và 5 nhóm hộ dân đã được cấp 351,38 ha đất để tổ chức sản xuất nuôi trồng thủy sản. Trong đó, Công ty Trường Sơn: 133,5 ha, Công ty Đông Phương: 45,5 ha; Công ty Trường Phú: 92,88 ha; Công ty Hawaii: 49 ha; các nhóm hộ dân: 30,5 ha. Tuy nhiên việc nuôi tôm chân trắng trên đất cát ven biển đang phát triển tự phát. Tất cả diện tích nuôi ở đây đều lấy nước từ biển rồi thải nước đã sử dụng ra biển. Khi tôm bị dịch bệnh, người dân vẫn xả nước mà không xử lý khiến mầm bệnh phát tán nhanh chóng. Nuôi tôm chân trắng không theo quy hoạch đã phá hủy một diện tích lớn rừng phòng hộ tại các vùng ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế, đây là điều đáng lo ngại vì nó dẫn đến những hậu quả xấu cho chính những người dân nuôi tôm, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.[16]. 2.4.3.2 Tình hình nuôi tôm chân trắng ở công ty Trường Sơn Công ty cổ phần Trường Sơn là một trong những doanh nghiệp đầu tiên nuôi tôm chân trắng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 2003, công ty tiến hành đầu tư xây dựng khu nuôi tôm công nghiệp trên cát với 9 ha diện tích mặt nước tại xã Điền Lộc, huyện Phong Điền. Đến năm 2009, diện tích nuôi của công ty đã tăng lên 33 ha. Năm 2010 công ty triển khai xây dựng khu nuôi tôm Điền Môn , nâng tổng diện tích nuôi lên tới 72 ha. Hiện nay, công ty sử dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và đang triển khai xây dựng phiên bản mới ISO 9001: 2008. Trong năm 2008, công ty được Tổng cục Tiêu chuẩn chất lượng chọn là một trong số 20 doanh nghiệp trên toàn quốc áp dụng thí điểm mô hình Quản lý chất lượng toàn diện (TQM). Tất cả diện tích ao hồ đều được nuôi tôm chân trắng theo phương thức nuôi công nghiệp, mật độ nuôi có thể lên tới 180con/m2, sử dụng thức ăn công nghiệp 100%. Tuy nhiên trong những vụ nuôi gần đây sản lượng nuôi có phần giảm do thời tiết không ổn định, môi trường ngày càng xấu đi, dịch bệnh xuất hiện trên một số ao nuôi. Hiện nay công ty đã xây dựng quy trình kiểm soát quá trình nuôi tôm mới được quản lý chặt chẽ. Lựa chon con giống sạch bệnh, cải thiện môi trường nước và lựa chọn loại thức ăn phù hợp là những việc cần làm nhằm cải thiện năng suất, nâng cao lợi nhuận cho công ty. Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và huyện Phong Điền nói riêng người dân đang sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau để nuôi tôm chân trắng, chủ yếu là thức ăn công nghiệp của các công ty trong và ngoài nước. Hiện nay công ty Trường Sơn đang sử dụng hai loại thức ăn chính là Hipo của công ty CP và thức ăn Nuri của công ty Uni - president. Trong khi đó một số hộ dân tại địa phương lại sử dụng thức ăn Winner của công ty Grobest. Cho đến nay, hiệu quả sử dụng các loại thức ăn này vẫn chưa được kiểm chứng rõ ràng. Việc nghiên cứu để tìm ra loại thức ăn phù hợp là rất cần thiết cho công ty cũng như người nuôi tôm trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là 3 loại thức ăn khác nhau: 1. Thức ăn Hipo của công ty CP Việt Nam 2. Thưc ăn Nuri của công ty TNHH Uni – President 3. Thức ăn Winner của công ty TNHH Grobest & I-Mei Industrial Việt Nam Khách thể nghiên cứu: tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) 3.2. Thời gian nghiên cứu Từ ngày 6 tháng 1 năm 2010 đến ngày 9 tháng 5 năm 2010 3.3. Địa điểm nghiên cứu Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản, công ty cổ phần Trường Sơn nằm trên 4 xã Điền Hương, Điền Môn, Điền Lộc và Điền Hòa huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là các xã ven biển có điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi để phát triển nuôi tôm chân trắng 3.4. Nội dung nghiên cứu và chỉ tiêu theo dõi 3.4.1. Các yếu tố môi trường ao nuôi Các chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm : - Nhiệt độ - Độ mặn - Độ kiềm - pH - Oxy - Độ trong 3.4.2. So sánh khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau Các chỉ tiêu theo dõi : - Tăng trưởng tương đối và tuyệt đối về chiều dài - Tăng trưởng tương đối và tuyệt đối về khối lượng - Tỷ lệ sống 3.4.3. Hệ số tiêu tốn thức ăn ( FCR ) - Tổng khối lượng tôm - Lượng thức ăn sử dụng - So sánh FCR giữa 3 công thức thí nghiệm 3.4.4 Hiệu quả kinh tế Chỉ tiêu theo dõi: - Tổng thu - Tổng chi: con giống, thức ăn, hóa chất… - Lợi nhuận - Hiệu quả đầu tư - So sánh hiệu quả kinh tế giữa 3 công thức thí nghiệm 3.5. Phương pháp nghiên cứu 3.5.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên trên 9 ao, chia 3 nghiệm thức và lặp lại 3 lần Nghiệm thức 1 (thí nghiệm): sử dụng thức ăn Hipo của công ty CP, các ao A1, A2,A3 Nghiệm thức 2 (thí nghiệm): sử dụng thức ăn Nuri của công ty TNHH Uni – President các ao A4, A5, A6 Nghiệm thức 3 (đối chứng): sử dụng thức ăn Winner, của công ty TNHH Grobest & I-Mei Industrial Việt Nam , các ao A7, A8, A9 Sơ đồ thí nghiệm : A3 A8 A4 A6 A2 A9 A7 A5 A1 - Diện tích mỗi ao là 5000 m2, mật độ 100 con/m2 - Nguồn giống CP, khối lượng khoảng 0,01gr/con, chiều dài khoảng 1cm Thức ăn CP sử dụng các loại: HI-PO 7701: dùng cho tôm từ 0,01 – 1gr/con HI-PO 7702: dùng cho tôm từ 1- 5gr/con HI-PO 7703: dùng cho tôm từ 5 - 7gr/con HI-PO 7703P: dùng cho tôm từ 7 - 10gr/con HI-PO 7704S: dùng cho tôm từ 10 – 20gr/con Thành phần dinh dưỡng như bảng sau: Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng thức ăn Hipo Mã thức ăn Thành phần HI-PO 7701 HI-PO 7702 HI-PO 7703 HI-PO 7703P HI-PO 7704S Độ ẩm (%), không lớn hơn 11 11 11 11 11 Protein thô (%), không nhỏ hơn 41 41 40 40 39 Béo thô (%), trong khoảng 6-8 6-8 6-8 5-7 5-7 Xơ thô (%), không lớn hơn 3 3 3 4 5 Tro (%), không lớn hơn 14 14 14 15 15 Bao gói ( kg ) 10 25 25 25 25 Thức ăn Nuri của công ty TNHH Uni – President, hướng dẫn sử dụng và thành phần dinh dưỡng như sau: - Hướng dẫn sử dụng: N310: dùng cho tôm 1 - 4 ngày tuổi, P10 - P15 N311: dùng cho tôm 5 - 14 ngày tuổi, P15 - P25 N312, N312A: dùng cho tôm 15 - 20 ngày tuổi, P25 - 1g N313: dùng cho tôm 21 - 40 ngày tuổi, khối lượng 1 - 3g N314: dùng cho tôm 41 - 60 ngày tuổi, khối lượng 3 - 7g N315: dùng cho tôm 61 - 75 ngày tuổi, khối lượng 7 - 15g N316: dùng cho tôm trên 75 ngày tuổi, khối lượng trên 15g Bảng 2:Thành phần dinh dưỡng thức ăn Nuri Mã số thức ăn N310 N311 N312 N312A N313 N314 N315 N316 Độ ẩm , ≤(%) 11 11 11 11 11 11 11 11 Protein thô ≥(%), 42 40 40 40 40 37 37 36 Béo thô, ≥(%) 4 4 4 4 4 5 5 5 Xơ thô, ≤(%) 3 3 3 3 3 4 4 4 Tro, ≤(%) 13 13 13 13 13 13 13 13 Hình dạng Hạt Hạt Hạt Viên Viên Viên Viên Viên Kích thước (mm) 40#↓ 18-40# 14-18# Ф1.2L2-4 Ф1.4L2-4 Ф1.7L2-4 Ф2.0L3-5 Ф2.3L4-6 Bao gói (kg) 10 10 10 20 20 20 20 20 Thức ăn Winner của công ty Grobest & I-Mei Industrial các mã số No.1, No.2, No.2L, No.3, No.4, No.5, No.6. Hướng dẫn sử dụng và thành phần dinh dưỡng như sau: - Hướng dẫn sử dụng: No.1: dùng cho tôm 1- 4 ngày tuổi No.2: dùng cho tôm 5 - 22 ngày tuổi No.2L: dùng cho tôm 23 - 31 ngày tuổi No.3: dùng cho tôm 32 - 60 ngày tuổi No.4: dùng cho tôm 61 - 80 ngày tuổi No.5: dùng cho tôm 80 - 90 ngày tuổi No.6: dùng cho tôm trên 90 ngày tuổi Bảng 3: Thành phần dinh dưỡng thức ăn Winner Thành phần Mã số thức ăn Protein thô ≥ (%) Béo thô ≥ (%) Xơ thô ≤(%) Tro thô ≤(%) Độ ẩm ≤(%) Ca ≤(%) P ≥ (%) Ca/P Bio - Pro Organic Se No.1 40 6,0 3,0 14 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + + No.2 40 6,0 3,0 14 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + + No.2L 38 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + + No.3 37 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + + No.4 37 5,0 4,0 15 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + + No.5 35 4,5 5,0 16 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + + No.6 35 4,5 5,0 16 11 2,3 1,0 1 - 1,5 + + Định kỳ xác định số lượng tôm và khối lượng tôm trong ao. Theo dõi cường độ bắt mồi của tôm hàng ngày và hàng cử cho ăn để điều chỉnh kịp thời. Theo dõi sự lột xác của tôm để điều chỉnh giảm trong giai đoạn lột xác và tăng sau khi tôm lột xong. Theo dõi sự biến động của thời tiết và môi trường để điều chỉnh tăng giảm thức ăn. - Theo dõi sức ăn của tôm, tình trạng sức khỏe, phát hiện kịp thời các dấu hiệu bệnh lý. Cách cho ăn và số lần cho ăn theo từng giai đoạn phát triển của tôm (xem chi tiết về quy trình nuôi tôm chân trắng ở phần phụ lục) 3.5.2. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường - Nhiệt độ : đo bằng nhiệt kế thủy ngân - Độ mặn: đo bằng khúc xạ kế - Độ kiềm: đo bằng Ankality test kit - Độ trong: đo bằng đĩa secchi - pH: đo bằng pH test kit - Oxy đo bằng DO test kit Các thông số cần đo hằng ngày là nhiệt độ, pH, oxy. Ngày đo 2 lần, lần 1 khoảng 6-7 giờ sáng, lần 2 khoảng 15-16 giờ chiều. Độ kiềm, độ mặn, độ trong 3 ngày đo một lần - Các chỉ tiêu cần đo ở đáy ao nơi cho tôm ăn, đo 3 điểm khác nhau sau đó lấy kết quả trung bình, các mẫu được phân tích ngay tại chỗ đảm bảo độ chính xác cao. Số liệu được tập hợp và xử lý theo từng đợt, mỗi đợt 15 ngày. 3.5.3. Phương pháp theo dõi khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm chân trắng nuôi bằng các loại thức ăn khác nhau Sau 20 ngày kể từ khi thả giống, dùng sàng ăn, sau 30 ngày kết hợp giữa sàng ăn và chài tôm để xác định tỷ lế sống và lấy mẫu để xác định khối lượng và chiều dài. Định kỳ 10 ngày lấy mẫu kiểm tra tăng trưởng một lần 3.5.3.1. Theo dõi khối lượng - Chài tôm, đếm số tôm trong chài, cân tổng khối lượng tôm chài được từ đó xác định khối lượng trung bình của tôm, chài 3 điểm bất kỳ trong ao rồi lấy kết quả trung bình - Khối lượng được cân bằng cân bàn (g) - Tốc độ tăng trưởng khối lượng (g/con/ngày) là khối lượng trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai T1, T2 là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai Gw là tốc độ tăng trưởng về khối lượng 3.5.3.2. Theo dõi chiều dài - Dùng thước có chia vạch (mm) đo chiều dài của 30 con tôm sau đó lấy kết quả trung bình - Tốc độ tăng trưởng chiều dài (cm/con/ngày). - là chiều dài trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai - T1, T2 là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai - GL là tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài 3.5.3.3 Tỷ lệ sống. Xác định tỷ lệ sống dựa vào sàng ăn và số tôm thu được trong mỗi lần chài tôm. Công thức tính tỷ lệ sống theo số tôm chài được như sau: TLS (%) = Số tôm trong chài x diện tích ao x 100 Diện tích chài x số tôm ban đầu 3.5.4. Phương pháp tính toán và so sánh hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) - Theo dõi, tính toán lượng thức ăn sử dụng và khối lượng tôm theo từng thời gian nuôi khác nhau từ đó so sánh FCR giữa 3 công thức thí nghiệm theo từng tháng và cả vụ nuôi 3.5.4.1. Khối lượng tôm Công thức tính khối lượng tôm trong ao như sau: Khối lượng đàn tôm (g) = Tỷ lệ sống x Số lượng tôm giống thả ban đầu x Khối lượng trung bình (g/con) 3.5.1.2 Lượng thức ăn sử dụng: Lượng thức ăn sử dụng(kg/ngày) = % cho ăn x khối lượng đàn tôm (g) 1000 3.5..1.3. Hệ số tiêu tốn thức ăn Công thức tính hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) như sau: FCR tháng 1 = Lượng thức ăn sử dụng tháng 1 Tổng khối lượng tôm sau tháng đầu tiên FCR tháng 2 = Lượng thức ăn sử dụng tháng 2 Tổng khối lượng tăng lên từ tháng 1 đến hết tháng 2 FCR tháng 3 = Tổng lượng thức ăn sử dụng tháng 3 Tổng khối lượng tôm tăng lên từ tháng 2 đến hết tháng 3 FCR cả vụ = Tổng tượng thức ăn sử dụng cả vụ nuôi Tổng khối lượng tôm khi thu hoạch 3.5.5. Hiệu quả kinh tế Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi Tổng thu = Tổng khối lượng tôm x đơn giá tại thời điểm thu hoạch Tổng chi = Tiền con giống + thức ăn + thuốc, hóa chất + nhân công + khấu hao tài sản + chi phí khác Lợi nhuận Hiệu quả đầu tư = Tổng chi 3.5.6. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel 2003 với các hàm: - Average (n1:ni): tính trung bình (X) của các chỉ tiêu theo dõi về yếu tố môi trường, tăng trọng, chiều dài, hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) - Stdev (n1:ni): tính độ lệch chuẩn (δ) của các chỉ tiêu theo dõi về yếu tố môi trường, tăng trọng, chiều dài. - Min (n1:ni) : tính giá trị nhỏ nhất của các yếu tố môi trường - Max (n1:ni) : tính giá trị lớn nhất của các yếu tố môi trường - Phân tích ANOVA một yếu tố để so sánh mức độ sai khác giữa các công thức thí nghiệm đối với các chỉ tiêu nghiên cứu về tăng trọng, tăng trưởng chiều dài và hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Kết quả theo dõi các yếu tố môi trường Kiểm soát các yếu tố môi trường là một trong những việc quan trọng không thể thiếu trong quá trình nuôi tôm. Điều kiện cần thiết cho một ao nuôi có thể đạt năng suất cao đó là môi trường nước phải phù hợp với sự phát triển của tôm nuôi. Sự thay đổi đột ngột của một yếu tố môi trường có thể làm thay đổi các yếu tố khác. Môi trường xấu tôm sinh trưởng chậm và nếu vượt quá sức chịu đựng thì sẽ gây sốc, đây là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất tôm nuôi. Trong thời gian thí nghiệm, chúng tôi cố gắng điều chỉnh môi trường ao nuôi ở mức phù hợp nhất. Các ao trong các nghiệm thức được chuẩn bị giống nhau về mọi khía cạnh như diện tích, độ sâu, chất đất, nguồn nước…cùng với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, chế độ chăm sóc quản lý như nhau đối với tất cả các ao nuôi. Điều này rất quan trọng và cần thiết để điều chỉnh môi trường ao nuôi ở các nghiệm thức đến mức đồng đều nhất có thể nhằm đảm bảo mức độ chính xác của thí nghiệm khi so sánh các loại thức ăn với nhau. Lịch trình theo dõi, kiểm soát môi trường phụ thuộc vào từng yếu tố nhất định. Các yếu tố quan trọng và có mức độ biến động lớn như nhiệt độ, oxy, pH được đo 2 lần hằng ngày trong suốt quá trình nuôi tôm. Độ mặn, độ kiềm và độ trong được đo 3 ngày một lần. Kết quả theo dõi môi trường được tổng hợp theo từng yếu tố và có những biến động khác nhau 4.1.1. Nhiệt độ Nhiệt độ là yếu tố rất quan trọng, có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của động vật thủy sản nói chung và của tôm nói riêng. Sự biến động nhiệt độ trong các ao nuôi được trình bày ở bảng 4 Bảng 4: Sự biến động của nhiệt độ ở các nghiệm thức (oC) Nghiệm thức Đợt theo dõi HIPO NURI WINNER Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Đợt 1 17-21 19,6±1,3 19-24 22,3±1,4 17-22 19,7±1,4 20-24 22,5±1,3 17-21 19,6±1,2 20-24 22,3±1,4 Đợt 2 17-21 24±2,2 23-31 26,9±2,4 20-28 24±2,3 20-30 26,8±2,4 20-27 24±2,2 23-31 27±2,3 Đợt 3 21-28 25,3±2,1 25-31 28,2 1,9 22-28 25,3±2 25-31 28,2±2 22-28 25,3±2 23-31 28±2,3 Đợt 4 27-30 28,7±1,3 29-33 31,4±0,8 26-30 28,6±0,8 30-33 31,5±1 27-30 28,5±0,8 30-33 31,3±0,7 Đợt 5 27-33 28,7±1,3 29-33 31,5±1 27-34 28,8±1,3 29-33 31,4±1 27-30 28,5±0,9 30-34 31,7±0,9 Đợt 6 27-32 29,1±1 30-34 32,6±0,9 27-31 29,3±0,9 31-34 32,9±0,8 28-31 29±0,8 30-34 32,8±0,9 Ghi chú: mỗi đợt theo dõi 15 ngày Min: giá nhỏ trị nhất Max: giá trị lớn nhất X: giá trị trung bình δ: độ lệch chuẩn Qua bảng cho thấy nhiệt độ trong các ao nuôi ở các nghiệm thức thay đổi theo thời gian, ban đầu nhiệt độ thấp hơn và có sự chênh lệch khá lớn, về sau nhiệt độ tăng dần và ổn định hơn. Tuy nhiên nhiệt độ ao nuôi trong các nghiệm thức tương đối đồng đều, sự chênh lệch về nhiệt độ trung bình giữa các nghiệm thức không lớn (<1oC). Sự biến động nhiệt độ chủ yếu phụ thuộc vào thời tiêt vì các ao nuôi có diện tích và độ sâu giống nhau. Nhiệt độ ban đầu vụ nuôi có khi xuống thấp và một số ngày cuối vụ nuôi có cao hơn ngưỡng thích hợp nhưng vẫn không ảnh hưởng nhiều đến khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm. Nhìn chung nhiệt độ trong suốt vụ nuôi tương đối thuận lợi, không trở ngại cho sự sống và sức khỏe của tôm. 4.1.2. Độ mặn Độ mặn là yếu tố đặc trưng theo từng vùng nuôi, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nước cấp và điều kiện thời tiết. Kết quả theo dõi độ mặn được trình bày ở bảng 5 Bảng 5: Kết quả theo dõi độ mặn ở các nghiệm thức (‰) Nghiệm thức Đợt theo dõi Hipo Nuri Winner Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Đợt 1 18-20 18,8±0,5 18-20 18,6±0,6 18-20 18,6±0,6 Đợt 2 18-19 18,7±0,4 18-20 18,5±0,6 18-20 18,9±0,7 Đợt 3 18-21 19,2±0,6 19-20 19,1±0,3 18-20 18,8±0,6 Đợt 4 19-22 20,4±0,7 19-22 20,2±1 18-22 19,8±1 Đợt 5 20-23 21,3±0,8 19-23 21,4±0,9 19-23 21,5±0,9 Đợt 6 21-25 22,9±1 21-25 22,7±1 22-25 23±1 Độ mặn tại khu vực thí nghiệm luôn nằm trong khoảng thích hợp (18 - 25‰) do chủ động được nguồn nước biển và nước ngọt. Đây là điều kiện rất tốt cho sự phát triển của tôm. Ban đầu độ mặn được điều chỉnh ở mức phù hợp, tháng đầu tiên dao động từ 18 – 20‰, dao động về độ mặn giữa các ngày trong tháng là không lớn. Độ mặn tăng dần theo thời gian và kết thúc vụ nuôi độ mặn cao nhất đo được là 25‰. Sự tăng độ mặn như vậy là do càng về sau nhiệt độ tăng làm lượng nước bốc hơi nhiều, các ao nuôi được cấp thêm nước biển nhiều hơn. Độ mặn ao nuôi ở các nghiệm thức thí nghiệm được điều chỉnh đồng đều trong suốt vụ nuôi, sự chênh lệch là rất nhỏ do các ao đều có chế độ cấp và thay nước như nhau. 4.1.3. pH pH được xem là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng môi trường nước do sự biến động của pH ảnh hưởng đến những chỉ tiêu khác, sự thay đối bất thường của pH có thể gây những tác hại cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm. pH được theo dõi 2 lần hằng ngày từ đầu đến cuối vụ nuôi. Kết quả theo dõi pH được trình bày ở bảng 6 Bảng 6: Sự biến động của pH trong các nghiệm thức Nghiệm thức Đợt theo dõi HIPO NURI WINNER Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Đợt 1 7,5-8,1 7,78 ± 1,67 7,7-8,4 8,04 ± 0,17 7,5-8,1 7,76± 0,18 7,7-8,4 8,03 ± 0,17 7,5-8,1 7,76 ± 0,16 7,7-8,4 8,04 ± 0,17 Đợt 2 7,7-8,4 8,04 ± 0,17 7,7-8,4 8,04 ± 0,17 7,7-8,1 7,95 ± 0,1 8-8,4 8,2 ± 0,11 7,7-8,1 7,96 ± 0,09 8-8,4 8,24 ± 0,11 Đợt 3 7,7-8,1 7,95 ± 0,09 8-8,4 8,23 ± 0,09 7,7-8,1 7,94 ± 0,1 8-8,4 8,24 ± 0,1 7,7-8,1 7,93 ± 0,09 8-8,4 8,22 ± 0,11 Đợt 4 7,7-8,1 7,92 ± 0,1 8-8,4 8,17 ± 0,11 7,7-8,2 7,88 ± 0,12 8-8,4 8,21 ± 0,13 7,7-8,1 7,9 ± 0,12 8-8,4 8,17 ± 0,12 Đợt 5 7,8-8,2 8,01 ± 0,08 8,1-8,5 8,29 ± 0,1 7,8-8,2 8 ±0,09 8,1-8,5 8,32 ± 0,1 7,9-8,2 8 ± 0,07 8,1-8,5 8,3 ± 0,1 Đợt 6 8-8,4 8,1 ± 0,11 8,3-8,7 8,5 ± 0,11 8-8,4 8,16 ± 0,12 8,3-8,6 8,47 ± 0,08 8-8,3 8,17 ± 0,1 8,3-8,7 8,5 ± 0,1 Qua bảng cho thấy mặc dù có sự biến động theo thời gian nuôi tuy nhiên khoảng dao động của pH trong ngày không lớn, pH vẫn ở mức độ phù hợp. pH trong ao nuôi ở các nghiệm thức thí nghiệm tương đối đồng đều, chênh lệch rất ít do các ao có cùng chất đất, nguồn nước cấp và chế độ bón vôi. Càng về cuối vụ nuôi chất dinh dưỡng nhiều, mật độ mật độ tảo ngày càng dày kết hợp với sự gia tăng về nhiệt độ làm cho pH tăng lên. pH cao nhất đo được vào buổi chiều là 8,7, hơi cao hơn so với ngưỡng thích hợp nhưng cũng không ảnh hưởng nhiều đến sự sinh trưởng và phát triển của tôm 4.1.4 Oxy Oxy là yếu tố hưởng trực tiếp đến đời sống của tôm cũng như các sinh vật khác. Một ao nuôi ở hệ thống nuôi năng suất cao thì việc duy trì hàm lượng oxy thích hợp là rất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển tốt nhất cho tôm. Oxy được đo hằng ngày nhằm theo dõi, đánh giá khả năng hô hấp, tình trạng sức khỏe và việc sử dụng thức ăn của tôm. Kết quả theo dõi oxy được trình bày ở bảng 7 Bảng 7: Hàm lượng oxy ở các nghiệm thức (mg/l) Nghiệm thức Đợt theo dõi HIPO NURI WINNER Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Đợt 1 4,5-6,5 5,1 ± 0,3 5-8 7,2 ± 0,5 4,5-7 5,1 ± 0,4 6,5-8 7,2 ± 0,4 4,5-6,5 5 ± 0,3 6,5-8 7,3 ± 0,4 Đợt 2 4,5-5,5 5 ± 0,3 5-7,5 6,9 ± 0,4 4,5-5,5 4,9 ± 0,3 6,5-7,5 7 ± 0,3 4,5-5,5 4,9 ± 0,3 6,5-7,5 7,1 ± 0,2 Đợt 3 4-5,5 4,7 ± 0,3 5,5-7 6,6 ± 0,4 4,5-5,5 4,8 ± 0,3 6-7,5 6,7 ±0,4 4-5,5 4,8 ± 0,3 5,5-7 6,5 ±0,5 Đợt 4 4-5 4,4 ± 0,3 5,5-7 6 ± 0,4 4-5,5 4,6 ± 0,3 5-7 6,1 ± 0,3 4-5 4,5 ± 0,4 5-7 5,8 ± 0,4 Đợt 5 3,5-4,5 4 ± 0,2 5-6 5,4 ± 0,3 3,5-5 4,1 ± 0,4 5-6 5,3 ± 0,3 3,5-5 4,1 ± 0,3 5-6 5,4 ± 0,3 Đợt 6 3,5-4 3,8 ± 0,2 4-5,5 4,7 ± 0,3 3,5-4 3,7 ± 0,2 4-5 4,8 ± 0,2 3,5-4 3,8 ± 0,2 4-5 4,8 ± 0,2 Ban đầu hàm lượng oxy được duy trì ở mức thích hợp (4,5 – 8 mg/l trong tháng đầu tiên) vì ở thời điểm này vật chất tiêu hao oxy trong nước vẫn còn ít, ao nghèo dinh dưỡng. Do các ao nuôi với mật độ tương đối cao (100con/m2) nên hàm lượng oxy ở giai đoạn cuối vụ nuôi là tương đối thấp, buổi sáng thấp nhất là 3,5mg/l và cao nhất vào buổi chiều cũng chỉ đạt ở mức 6 mg/l. Điều này có thể gây ảnh hưởng ít nhiều đến tốc độ tăng trưởng của tôm ở giai đoạn cuối vụ nuôi. Thay nước và tăng cường thời gian chạy quạt là biện pháp tốt nhất đã được sử dụng để giữ hàm lượng oxy không quá thấp nhằm tránh gây sốc và vẫn đảm bảo cho sự phát triển bình thường của tôm. Hàm lượng oxy ở các nghiệm thức thí nghiệm vẫn được điều chỉnh đồng đều từ đầu đến cuối vụ nuôi, mức độ dao động oxy trong ngày cũng không đáng kể 4.1.5. Độ kiềm Độ kiềm có vai trò quan trọng trong việc làm giảm sự biến động pH, hạn chế các chất độc trong ao nuôi. Duy trì độ kiềm thích hợp trong suốt vụ nuôi là rất cần thiết cho sự ổn định của ao nuôi và sự phát triển bình thường của tôm. Trong quá trình thí nghiệm độ kiềm được đo theo chu kỳ 3 ngày một lần. Kết quả theo dõi độ kiềm được trình bày ở bảng 8 Bảng 8 Độ kiềm ở các nghiệm thức (mg/l) Nghiệm thức Đợt theo dõi Hipo Nuri Winner Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Đợt 1 80-120 105±10,5 90-120 103,8±10,3 80-120 105,5± 11,9 Đợt 2 90-120 100±9,3 90-120 102,6±7,9 90-120 100± 9,3 Đợt 3 80-110 94,6±8,3 80-110 96±7,3 80-110 94,6±7,4 Đợt 4 80-120 92±12,07 80-120 93,3±11.1 80-120 94±12,4 Đợt 5 80-110 86,6±6,1 80-100 86,6±6,4 80-100 88±5,6 Đợt 6 80-100 90,6±7 80-100 92±6,7 80-100 91,3±6,3 Quá trình theo dõi chúng tôi nhận thấy rằng độ kiềm thay đổi phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, chế độ thay nước và bón vôi. Độ kiềm luôn được điều chỉnh ở mức thích hợp, dao động từ 80 – 120 mg/l và giảm dần theo thời gian nuôi do tôm càng lớn hấp thụ càng nhiều các ion carbonate, đồng thời một lượng ion bicarbonate được phân giải để cung cấp CO2 cho quá trình quang hợp của tảo. Độ kiềm trong các ao thí nghiệm luôn được điều chỉnh trong suốt vụ nuôi thông qua việc đánh vôi định kỳ 7 - 10 ngày một lần, lượng vôi bón tùy thuộc vào từng ao trong khoảng từ 100 – 200kg/5000m2. Ngoài ra còn bón vôi vào những thời điểm bất kỳ nếu độ kiềm trong ao xuống thấp, đặc biệt là sau mỗi lần tôm lột xác nhằm duy trì độ kiềm phù hợp và sự đồng đều giữa các ao thí nghiệm, kết quả thu được cho thấy sự chênh lệch về độ kiềm giữa các ao là không lớn trong suốt thời gian nuôi. Loại vôi thường sử dụng để tăng độ kiềm là vôi nông nghiệp (CaCO3) và vôi Dolomite (CaMg(CO3)2) 4.1.6. Độ trong Độ trong biểu hiện hàm lượng vật chất vô cơ và hữu cơ trong ao vì vậy đây là chỉ tiêu để đánh giá mức độ dinh dưỡng và tình trạng ao nuôi. Độ trong được đo 3 ngày một lần, kết quả thu được như bảng sau: Bảng 9: Biến động về độ trong ở các nghiệm thức (cm) Nghiệm thức Đợt theo dõi Hipo Nuri Winner Min – max X ± δ Min – max X ± δ Min – max X ± δ Đợt 1 42-52 46±3,4 42-53 46,4±3,6 42-52 46,2±3,7 Đợt 2 32-41 36,8±3 31-42 37±3,3 33-41 36,8±2,9 Đợt 3 27-32 29,8±1,6 27-34 30,4±1,9 27-34 30,3±1,9 Đợt 4 23-27 25,2±1,3 23-28 25,2±1,7 23-27 25,4±1,5 Đợt 5 21-26 23,5±1,5 22-27 23,5±1,3 21-27 23,5±1,8 Đợt 6 18-22 19,9±1 18-21 19,8±1,1 18-22 20±1,2 Từ bảng 11 ta thấy, độ trong ở các ao nuôi trong các nghiệm thức có sự biến động tương đương nhau và độ chênh lệch là không lớn. Độ trong có xu hướng giảm dần theo thời gian nuôi do mật độ tảo tăng lên, ao chứa nhiều chất hữu cơ. Độ trong cao nhất đo được khi mới thả giống đạt 53cm, đến cuối vụ nuôi độ trong giảm xuống thấp chỉ còn 18cm, đây là nguyên nhân làm giảm hàm lượng oxy trong ao nuôi. Qua quá trình theo dõi và tổng hợp kết quả về diễn biến các yếu tố môi trường, chúng tôi nhận thấy rằng môi trường ao nuôi trong các nghiệm thức tương đối phù hợp với ngưỡng phát triển của tôm theo đúng với những nghiên cứu đã có trước đây. Các yếu tố môi trường đều có sự biến động theo thời gian, phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, nguồn nước, chế độ chăm sóc và quản lý. Tùy thuộc vào tình trạng của từng ao nuôi và những số liệu thu thập được, chúng tôi đã có những biện pháp tác động cụ thể và đã điều chỉnh môi trường ao nuôi ở các nghiệm thức luôn đồng đều nhau trong suốt thời gian nuôi. Kết quả thu được về các yếu tố môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển của tôm và không ảnh hưởng đến kết quả của thí nghiệm 4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tăng trưởng tôm chân trắng 4.2.1. Tăng trưởng về khối lượng 4.2.1.1. Tăng trưởng về khối lượng Kết quả theo dõi tăng trưởng của tôm ở các nghiệm thức được trình bày qua bảng 10 và đồ thị 1 Bảng 10: Khối lượng trung bình của tôm ở các nghiệm thức (g/con) Nghiệm thức Ngày tuổi Hipo Nuri Winner X ± δ X ± δ X ± δ 30 2,11a ± 0,01 2,14a ± 0,04 1,97b ± 0,03 40 3,78a ± 0,02 3,8a ± 0,03 3,57b ± 0,02 50 5,76a ± 0,03 5,81a ± 0,01 5,52b ± 0,03 60 7,96 a ± 0,04 8,08b ± 0,03 7,5c ± 0,02 70 9,9a ± 0,04 10,01b ± 0,04 9,33c ± 0,03 80 11,3a ± 0,02 11,42b ± 0,02 10,58c ± 0,02 90 12,38a ± 0,02 12,5b ± 0,02 11,54c ± 0,04 Qua bảng 10 và đồ thị 1 ta thấy rằng tốc độ tăng trưởng của tôm rất tốt trong suốt quá trình nuôi và có sự chênh lệch giữa các nghiệm thức, sự khác nhau này thay đổi theo thời gian nuôi. Ở 30 ngày đầu tiên sự chênh lệch về khối lượng tôm là không nhiều, đặc biệt hai loại thức ăn Hipo và Nuri thì tốc độ tăng trưởng gần như tương đương nhau. Khối lượng trung bình ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Hipo trong 30 ngày đầu tiên là 2,11± 0,01 (g/con); thức ăn Nuri 2,14 ± 0,04 (g/con); thức ăn Winner 1,97 ± 0,03 (g/con). Khối lượng bình quân của tôm tăng dần theo thời gian nuôi và càng về sau thì sự khác nhau giữa các nghiệm thức ngày càng thể hiện rõ ràng hơn. Tôm sử dụng thức ăn Nuri có tốc độ tăng trọng lớn nhất, tiếp đến là thức ăn Hipo và thấp nhất là thức ăn Winner. Cuối vụ nuôi khối lượng bình quân của tôm thu được ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Nuri là 12,5 ± 0,02 (g/con); thức ăn Hipo 12,38 ± 0,02 (g/con); thức ăn Winner 11,54 ± 0,04 (g/con). Kết quả tăng trưởng của tôm thu được hơi thấp hơn so với một số nghiên cứu đã co trước đây nhưng nó lại phù hợp với những kết quả đã thu thập được từ những vụ nuôi trước của công ty và của những người nuôi tôm tại địa phương Kết quả phân tích thống kê cho thấy giai đoạn ban đầu không có sự khác nhau về khối lượng của tôm nuôi bằng hai loại thức ăn Hipo và Nuri. Từ ngày 60 trở đi đã có sự sai khác về khối lượng giữa tôm nuôi bằng thức ăn Hipo và Nuri với mức ý nghĩa p < 0,05. Có sự khác nhau giữa hai loại thức ăn này đối với thức ăn Winner trong tất cả các giai đoạn. 4.2.1.2. Tốc độ tăng trưởng về khối lượng tôm Theo dõi tốc độ tăng trưởng về khối lượng (g/con/ngày) nhằm đánh giá khả năng sinh trưởng của tôm trong từng giai đoạn khác nhau. Kết quả tốc độ tăng trưởng về khối lượng được trình bày qua bảng 11 và đồ thị 2 Bảng 11: Tốc độ tăng trưởng về khối lượng (g/con/ngày) Ngày tuổi Nghiệm thức Hipo Nuri Winner 30 0,07a 0,07a 0,06b 30-40 0,17a 0,17a 0,16b 40-50 0,20a 0,20a 0,19b 50-60 0,22a 0,22a 0,20b 60-70 0,19a 0,19a 0,18b 70-80 0,14a 0,14a 0,12b 80-90 0,10a 0,10a 0,09b Nhìn vào đồ thị 2 có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của tôm khác nhau theo từng giai đoạn. Trong cùng một khoảng thời gian như nhau nhưng ở những thời điểm khac nhau thì tốc độ tăng trưởng của tôm cũng khác nhau. Tôm tăng trưởng nhanh dần từ đầu đến giai đoạn 60 ngày tuổi và chậm hơn cho đến hết vụ nuôi, tốc độ tăng trưởng lớn nhất là ở giai đoạn từ 50 – 60 ngày tuổi. Ở giai đoạn này nghiệm thức sử dụng thức ăn Nuri và thức ăn Hipo 0,22 g/con/ngày và thức ăn Winner 0,20 g/con/ngày. Tôm sinh trưởng chậm nhất vào cuối vụ nuôi, chỉ đạt 0,10 g/con/ngày ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Hipo và Nuri; 0,09 g/con/ngày ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Winner. Kết quả thu được phản ánh đúng quy luật sinh trưởng của tôm chân trắng. Khi so sánh tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng giữa các nghiệm thức cũng cho kết quả khác nhau, sử dụng thức ăn Hipo và Nuri cho tăng trưởng cao hơn thức ăn Winner trong tất cả các giai đoạn với mức ý nghĩa p < 0,05. 4.2.2. Tốc độ tăng trưởng về chiều dài 4.2.2.1. Tăng trưởng về chiều dài Tốc độ tăng trưởng về chiều dài của tôm được trình bày qua bảng 12 và đồ thị 3 Bảng 12: Tăng trưởng về chiều dài tôm ở các nghiệm thức (g/con) Nghiệm thức Ngày tuổi Hipo Nuri Winner X ± δ X ± δ X ± δ 30 4.45a ± 0,03 4,5a ± 0,02 4,38b± 0,02 40 5,76a ± 0,05 5,85a ± 0,02 5,55b± 0,05 50 7,54a ± 0,04 7,6a ± 0,05 7,07b± 0,08 60 8,9a± 0,03 9,08b ± 0,03 8,29c± 0,03 70 10,1a ± 0,01 10,21b± 0,03 9,27c± 0,02 80 11,07a ± 0,02 11,14b ± 0,02 10,04c ± 0,03 90 11,78a ± 0,02 12,07b ± 0,04 10,83c ± 0,02 Chiều dài và khối lượng tôm có sự tương quan chặt chẽ với nhau. Sự tăng trưởng của chiều dài kéo theo sự tăng trưởng về khối lượng và ngược lại. Vì vậy kết quả theo dõi tốc dộ tăng trưởng về chiều dài cũng tương tự như khối lượng tôm. Chiều dài tôm tăng dần theo thời gian nuôi và có sự khác biệt giữa các nghiệm thức. Các ao sử dụng thức ăn Hipo và Nuri có tốc độ tăng trưởng về chiều dài lớn hơn ao sử dụng thức ăn Winner. Tôm càng lớn thì sự khác biệt ngày càng rõ ràng hơn. Tháng đầu tiên, chiều dài trung bình của tôm sử dụng thức ăn Hipo là 4,45 ± 0,03 cm/con, thức ăn Nuri 4,5 ± 0,02 cm/con, thức ăn Winner 4,38 ± 0,02 cm/con. Đến cuối vụ nuôi các ao sử dụng thức ăn Hipo và Nuri có chiều dài trung bình tương ứng 11,78 ± 0,02; 12,07 ± 0,04 cm/con và thức ăn Winner chỉ đạt 10,83 ± 0,02 cm/con. Tốc độ tăng trưởng về chiều dài của tôm không mang nhiều ý nghĩa trong việc xác định năng suất và sản lượng nhưng đây là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm. Sự khác nhau về chiều dài giữa các ao trong các nghiệm thức thí nghiệm phản ánh đúng chất lượng của các loại thức ăn được sử dụng. Phân tích thống kê cho thấy ở giai đoạn dưới 50 ngày tuổi không có sự khác nhau giữa chiều dài trung bình của tôm nuôi ở hai nghiệm thức sử dụng thức ăn Hipo và Winner. Càng về sau thì có sự khác nhau hơn, tuy nhiên sự khác nhau cũng không nhiều. Có sự khác nhau về chiều dài của tôm ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Winner so với hai loại thức ăn còn lại với mức ý nghĩa p < 0.05 trong tất cả các giai đoạn. 4.2.2.2. Tốc độ tăng trưởng về chiều dài Tốc độ tăng trưởng về chiều dài (cm/con/ngày) là chỉ tiêu để đánh giá mức độ tăng lên về chiều dài của tôm trong từng khoảng thời gian khác nhau, đồng thời cũng cho thấy sự khác nhau trong các nghiệm thức thí nghiệm. Tốc độ tăng trưởng chiều dài được trình bày qua bảng 13 và đồ thị 4 Bảng 13: Tốc độ tăng trưởng về chiều dài (cm/con/ngày) Ngày tuổi Nghiệm thức Hipo Nuri Winner 30 0,12a 0,12a 0,11b 30-40 0,13a 0,13a 0,12b 40-50 0,18a 0,18a 0,15b 50-60 0,14a 0,15b 0,12c 60-70 0,12a 0,11b 0,09c 70-80 0,10a 0,09b 0,07c 80-90 0,07a 0,09b 0,07a Đồ thị 4 thể hiện sự tốc độ tăng trưởng về chiều dài theo đúng với quy luật phát triển của tôm chân trắng. Chiều dài tôm tăng nhanh nhất trong giai đoạn từ 40 – 50 ngày tuổi đạt 0,18 cm/con/ngày ở các ao sử dụng thức ăn Hipo và thức ăn Nuri; đạt 0,152 ở thức ăn Winner. Càng về cuối vụ nuôi thì tốc độ tăng trưởng giảm chậm hơn. Khi so sánh tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của tôm giữa các nghiệm thức cũng cho thấy sự khác biệt. Tuy nhiên sự khác nhau này thay đổi theo từng thời gian nuôi. Giai đoạn tôm 40 - 50 ngày tuổi có sự chênh lệch lớn giữa nghiệm thức Hipo và Nuri đối với nghiệm thức Winner. Các giai đoạn tiếp theo đều có sự khác nhau giữa các nghiệm thức với mức ý nghĩa p < 0,05. Giai đoạn cuối cùng lại không có sự khác nhau giữa hai nghiệm thức sử dụng thức ăn Hipo và Winner. Trong giai đoạn này tôm sử dụng thức ăn Nuri có tốc độ tăng trưởng về chiều dài cao nhất đạt 0,09 g/con/ngày; hai nghiệm thức còn lại chỉ đạt 0,07g/con/ngày. 4.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tỷ lệ sống tôm chân trắng Xác định tỷ lệ sống nhằm đánh giá khả năng phát triển của tôm, đây là việc làm quan trọng và cần thiết để đánh giá hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật được áp dụng và quan trọng hơn là xác định được lượng thức ăn phù hợp cho mỗi ao nuôi. Việc xác định tỷ lệ sống có nhiều biến động do áp dụng phương thức chài ngẫu nhiên, chúng phụ thuộc rất nhiều vào sự phân bố của tôm. Vì vậy để xác định tỷ lệ sống chính xác cần phải nắm rõ quy luật phân bố của tôm trong ao nuôi, lựa chọn vị trí chài phù hợp, chài nhiều điểm khác nhau sau đó lấy kết quả trung bình. Xác định tỷ lệ sống kết hợp với việc kiểm tra tăng trọng theo lịch trình 10 ngày một lần nhằm giảm thiểu số lần chài tôm. Kết quả theo dõi tỷ lệ sống ở các nghiệm thức được trình bày qua bảng 14 và đồ thị 5 Bảng 14: Tỷ lệ sống của tôm ở các nghiệm thức Ngày tuổi Nghiệm thức Hipo Nuri Winner 30 92a 92a 90a 40 90a 90a 88a 50 88a 88a 87a 60 86a 87a 85a 70 86a 86a 84a 80 85a 86a 83b 90 85a 85a 82b Tỷ lế sống của tôm giảm dần và khác nhau theo từng thời gian nuôi. Tháng đầu tiên tỷ lế sống của tôm giảm mạnh và giảm chậm lại ở các giai đoạn tiếp theo. Phân tích thống kê cho thấy ban đầu không có sự khác nhau về tỷ lệ sống của tôm ở các nghiệm thức, chỉ đến giai đoạn 80 ngày tuổi mới có sự khác nhau giữa nghiệm thức sử dụng thức ăn Winner với hai loại thức ăn còn lại. Cuối vụ không có sự khác nhau về tỷ lệ sống của tôm nuôi bằng thức ăn Hipo và Nuri (85%), còn thức ăn Winner cho tỷ lệ sống thấp hơn (82%). Sự khác nhau về tỷ lệ sống của tôm ở các nghiệm thức là do tôm sử dụng thức ăn Hipo và Nuri tăng trưởng nhanh hơn, sức đề kháng cao, khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường tốt hơn đặc biệt là về cuối vụ nuôi khi môi trường ngày càng xấu đi. 4.4. Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) là tỷ lệ giữa tổng lượng thức ăn sử dụng và tổng khối khối lượng tôm thu được. Việc tính toán FCR có ý nghĩa lớn trong việc xác định hiệu quả sử dụng thức ăn đối với khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm. Trong quá trình thí nghiệm, từ những số liệu đã thu được về tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và lượng thức ăn sử dụng trong các giai đoạn, chúng tôi tính FCR theo từng tháng và cả vụ nuôi để so sánh, đánh giá chính xác ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau trong thí nghiệm 4.4.1. Tổng khối lượng tôm Thông qua việc xác định tốc độ tăng trưởng về khối lượng và tỷ lệ sống của tôm trong từng thời điểm, có thể tính toán được tổng khối lượng tôm tăng trưởng như sau: Bảng 15: Khối lượng tôm tăng trưởng ở các nghiệm thức Khối lượng tôm (kg) Thời gian Nghiệm thức Hipo Nuri1 Winner Tháng 1 970a ± 5,5 984a ± 4,3 887b ± 2,9 Tháng 2 2452a ± 9 2530b ± 9,4 2304c ± 5,1 Tháng 3 1839a ± 3,5 1798b ± 2,6 1540c ± 4 90 ngày 5261a ± 10,5 5312b ± 8,9 4731c ± 9,1 Bảng 17 cho thấy khối lượng tôm tăng lên mạnh nhất vào tháng thứ hai và giảm chậm lại vào tháng thứ ba. Tháng thứ nhất không có sự khác nhau về tổng khối lượng tôm giữa hai nghiệm thức Hipo và Nuri. Từ tháng thứ hai trở đi tổng khối lượng tôm ở các nghiệm thức có sự khác nhau với mức ý nghĩa p < 0,05. Kết thúc 90 ngày nuôi tôm sử dụng thức ăn Nuri có tổng khối lượng tôm cao nhất (5312 kg), tiếp theo là thức ăn Hipo (5261) và thấp nhất là tôm sử dụng thức ăn Winner đạt 4731kg 4.4.1. Lượng thức ăn sử dụng Lượng thức ăn sử dụng cho từng giai đoạn được tổng hợp qua bảng sau: Bảng 16: Lượng thức ăn sử dụng ở các nghiệm thức Thức ăn sử dụng (kg) Thời gian Nghiệm thức Hipo Nuri Winner Tháng 1 1129a ± 1 1129a ± 1,1 1129a ± 1 Tháng 2 2628a ± 3 2650b ± 3,7 2594c ± 6 Tháng 3 2470a ± 3 2506b ± 7,9 2415c ± 1,7 90 ngày 6227a ± 5,5 6285b ± 10,9 6138c ± 6,3 Lượng thức ăn sử dụng khác nhau theo từng giai đoạn. Tháng thứ hai thức ăn được sử dụng nhiều nhất và sau đó thì giảm dần. Trong tháng đầu tiên chúng tôi cho ăn với một lượng đồng đều theo bảng hướng dẫn của các loại thức ăn. Tổng lượng thức ăn sử dụng trong tháng đầu tiên ở 3 nghiệm thức là như nhau vì thời gian này chưa xác định được tỷ lệ sống cũng như tốc độ tăng trưởng của tôm. Các tháng tiếp theo đã có sự khác nhau về lượng thức ăn sử dụng do sự điều chỉnh lượng thức ăn hằng ngày theo khối lượng tôm trong ao nuôi. Nghiệm thức sử dụng thức ăn Nuri có tỷ lệ sống cao và tôm tăng trưởng nhanh nên lượng thức ăn tiêu tốn nhiều nhất (6285kg), tiếp đến là thức ăn Hipo (6227kg), ít nhất là thức ăn Winner (6138kg). Phân tích thống kê ANOVA cho thấy lượng thức ăn sử dụng từ tháng thứ hai trở đi và kết thúc vụ nuôi có sự khác nhau giữa các nghiệm thức. Lượng thức ăn sử dụng có liên quan chặt chẽ với khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm trong từng giai đoạn 4.4.3. Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) Từ bảng 15 và 16, ta có thể tính được hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) như bảng sau: Bảng 17: Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) ở các nghiệm thức FCR Thời gian Nghiệm thức Hipo Nuri Winner Tháng 1 1,16a ± 0,01 1,14a ± 0,01 1,27b ± 0 Tháng 2 1,07a ± 0,005 1,04b ± 0 1,12c ± 0,01 Tháng 3 1,34a ± 0,01 1,39b ± 0,005 1,56c ± 0,01 90 ngày 1,18a ± 0,01 1,18a ± 0 1,29b ± 0,005 Kết quả thu được cho thấy hệ số FCR thay đổi theo từng giai đoạn nuôi. Tháng thứ hai hệ số FCR nhỏ nhất do thời điểm này tôm tăng trưởng nhanh nhất. Trong đó tôm sử dụng thức ăn Nuri có hệ số FCR là 1,04; thức ăn Hipo 1,07 và thức ăn Winner 1,12. Sang tháng thứ 3 tôm bắt đầu tăng trưởng chậm lại, lượng thức ăn sử dụng cũng giảm xuống nhưng hệ số FCR vẫn ở mức cao nhất. Hệ số FCR của các ao nuôi bằng thức ăn Winner là 1,56; thức ăn Hipo và Nuri lần lượt là 1,34 và 1,39. Qua từng giai đoạn và kết thúc vụ nuôi, thức ăn Hipo và Nuri cho hệ số FCR thấp hơn thức ăn Winner. Kết thúc 90 ngày nuôi, hệ số FCR của hai nghiệm thức Nuri và Hipo là tương đương nhau đạt 1,18; thức ăn Winner đạt 1,29. Phân tích thống kê cho thấy tháng thứ hai và ba có sự khác nhau về hệ số FCR của hai nghiệm thức Hipo và Nuri, nhưng sự khác nhau này là không nhiều. Qua 90 ngày nuôi hệ số FCR của hai nghiệm thức này lại ngang nhau. Thức ăn Winner luôn có hệ số FCR cao hơn hai loại còn lại với mức ý nghĩa p < 0,05. Từ kết quả so sánh hệ số FCR của 3 nghiệm thức có thể kết luận rằng hệ số FCR phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi, lượng thức ăn sử dụng cũng chỉ mang tính chất tương đối do việc xác định lượng thức ăn thừa trong ao nuôi gặp nhiều khó khăn. Như vậy việc lựa chọn loại thức ăn có chất lượng tốt, giúp tôm tăng trưởng nhanh là rất quan trọng nhằm giảm hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR), từ đó nâng cao lợi nhuận nuôi tôm. 4.5. Hạch toán kinh tế Hạch toán kinh tế là công việc cuối cùng với mục đích quan trọng nhất là tính toán lợi nhuận thu được, đánh giá hiệu quả kinh tế cho cả vụ nuôi. Lợi nhuận được tính dựa trên hai chỉ tiêu chính là tổng thu và tổng chi. Hai chỉ tiêu này cụ thể hóa cho mức độ đầu tư, khả năng sinh trưởng và phát triển của tôm cũng như tổng sản lượng tôm thu được. Kết thúc thời gian thí nghiệm chúng tôi tiến hành hạch toán kinh tế nhằm so sánh lợi nhuận giữa các nghiệm thức, trên cơ sở đó xác định được sự ảnh hưởng của các loại thức ăn trong thí nghiệm đến hiệu quả kinh tế. Kết quả hạch toán kinh tế được tổng hợp trung bình cho mỗi ao nuôi có diện tích 5000m2, mật độ 100con/m2. Giá thành các loại thức ăn như nhau là 18.000 đồng/kg, con giống 40 đồng/con, giá bán tôm tại thời điểm thu hoạch 60.000 đồng/kg. Bảng 18: Hạch toán kinh tế ở các nghiệm thức Yếu tố Nghiệm thức Hipo Nuri Winner Thức ăn 112.086.000 113.130.000 110.484.000 Con giống 20.000.000 20.000.000 20.000.000 Thuốc, hóa chất 25.000.000 25.000.000 25.000.000 Nhân công 5.000.000 5.000.000 5.000.000 Khấu hao tài sản 20.000.000 20.000.000 20.000.000 Chi phí khác 10.000.000 10.000.000 10.000.000 Tổng chi 192.086.000 193.130.000 190.484.000 Tổng thu 315.660.000 318.720.000 283.860.000 Lợi nhuận 123.574.000 125.590.000 93.376.000 Hiệu quả đầu tư 64,3% 65% 49% Các ao nuôi trong thí nghiệm được bố trí đồng đều, cùng chế độ chăm sóc quản lý nên các chi phí là như nhau, chỉ khác nhau về tiền thức ăn, tuy nhiên sự chênh lệch này là không lớn. Vì vậy lợi nhuận mỗi ao nuôi phụ thuộc nhiều vào tổng sản lượng tôm thu được. Kết quả là lợi nhuận của ao nuôi bằng thức ăn Hipo và Nuri (123.574.000 và 125.590.000) cao hơn so với thức ăn Winner (93.376.000). Như vậy, việc so sánh lợi nhuận đã phản ánh đúng sự sinh trưởng và phát triển của tôm trong các nghiệm thức, nó chịu ảnh hưởng rất lớn từ các loại thức ăn khác nhau. Sử dụng thức ăn Hipo và Nuri mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Từ những kết quả đã thu được sau khi kết thúc thí nghiệm, có thể rút ra một số kết luận về các nội dung nghiên cứu như sau: 5.1.1. Các yếu tố môi trường Môi truờng ao nuôi trong suốt quá trình thí nghiệm được điều chỉnh tương đối phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của tôm. Sự biến động của các yếu tố môi trường không lớn và nằm trong ngưỡng chịu đựng của tôm, không xảy ra hiện tượng tôm bị sốc hay chết do môi trường. Giữa các nghiệm thức, môi trường ao nuôi tương đối đồng đều trong suốt thời gian thí nghiệm, sự chênh lệch là rất nhỏ, không ảnh hưởng nhiều đến kết quả thí nghiệm khi so sánh các loại thức ăn với nhau. 5.1.2. Tốc độ tăng trưởng Tôm nuôi sử dụng thức ăn Hipo và Nuri có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với thức ăn Winner. Sau 90 ngày nuôi, khối lượng trung bình của tôm sử dụng thức ăn Hipo và Nuri tương ứng là 12,38g/con và 12,5g/con, chiều dài đạt 11,78cm và 12,07cm; sử dụng thức ăn Winner đạt 11,54g/con, chiều dài 10,83cm/con. Không có sự sai khác về khối lượng và chiều dài giữa hai nghiệm thức sử dụng thức ăn Hipo và Nuri 5.1.3. Tỷ lệ sống Tôm sử dụng thức ăn Hipo và Nuri có tỷ lệ sống cao hơn thức ăn Winner. Sau 90 ngày nuôi, tỷ lệ sống của tôm ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Hipo và Nuri cùng đạt 85%; thức ăn Winner đạt 82%. 5.1.4. Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) Hệ số FCR thay đổi theo từng giai đoạn, thấp nhất vào tháng thứ hai (đạt 1,04 ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Nuri) và cao nhất vào tháng thứ ba (đạt 1,56 ở nghiệm thức sử dụng thức ăn Winner). Sau 90 ngày nuôi, sử dụng thức ăn Hipo và Nuri có hệ số FCR (1,18) thấp hơn so với thức ăn Winner (1,29) 5.1.5. Hiệu quả kinh tế Sử dụng thức ăn Hipo và Nuri mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, lợi nhuận cho mỗi ao sau 90 ngày nuôi là 123.574.000 đồng và 125.590.000 đồng. Sử dụng thức ăn Winner có lợi nhuận thấp hơn đạt 93.376.000 đồng. Hiệu quả đầu tư của hai loại thức ăn Hipo và Nuri cũng cao hơn tương ứng đạt 64% và 65%; thức ăn Winner chỉ đạt 49% 5.2. Kiến nghị Qua quá trình tìm hiểu tại địa bàn thực tập, theo dõi thí nghiệm và tổng hợp kết quả, chúng tôi có một số ý kiến đề xuất sau: Nên sử dụng thức ăn Hipo của công ty CP và thức ăn Nuri của công ty Uni-President trong nuôi tôm chân trắng để đạt năng suất và lợi nhuận cao nhất Cần phải có quy hoạch cụ thể cho từng vùng nuôi tôm chân trắng, phải đảm bảo diện tích nuôi tôm chân trắng không xâm hại đến hệ thống rừng phòng hộ, không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và cuộc sống của người dân tại địa phương Trước khi nuôi tôm chân trắng phải lựa chọn địa điểm phù hợp, giao thông thuận tiện, chủ động nguồn nước ngọt và nước mặn Cải tạo ao kỹ, nước cần phải lọc và xử lý trước khi cấp vào ao nuôi, sử dụng tôm giống có sức khỏe tốt và sạch bệnh Cần phải xây dựng một quy trình kiểm soát quá trình nuôi tôm phù hợp với điều kiện của từng địa phương và từng thời điểm khác nhau TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Minh Anh. Đặc điểm sinh học và kỹ thuật nuôi tôm he. Nxb Nông nghiệp Tp Hồ Chí Minh, 1989 [2]. Tôn Thất Chất. Bài giảng kỹ thuật nuôi giáp xác, Trường Đại học Nông Lâm Huế, 2006 [3]. Nguyễn Minh Hoàn. Giáo trình thống kê sinh vật học và phương pháp nghiên cứu. Trường Đại học Nông Lâm Huế, 2000 [4]. Thái Bá Hồ, Ngô Trọng Lư. Kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng. Nxb Nông nghiệp Hà Nội, 2004 [5]. Hợp phần hỗ trợ nuôi trồng thủy sản biển và nước lợ (SUMA). Quản lý sức khỏe tôm trong ao nuôi. Bộ thủy sản, 2003 [6]. Lại Văn Hùng. Dinh dưỡng và thức ăn trong nuôi trồng thủy sản. Nxb Nông nghiệp, 2004 [7]. Trần Văn Huỳnh. Kỹ thuật nuôi và biện pháp phòng trị bệnh tôm chân trắng. Công ty Bayer Vietnam Ltd [8]. PGS.TS. Lê Đức Ngoan, GS.TS. Vũ Duy Giảng, TS. Ngô Hữu Toàn. Giáo trình dinh dưỡng và thức ăn thuỷ sản. Nxb Nông nghiệp. [9] Sổ tay nuôi tôm chân trắng. Công ty CP việt nam [10]. Sổ tay nuôi tôm chân trắng. Công ty Uni – president [11]. Tạp chí thủy sản số 4/2006 [12]. Phạm Văn Trang, Nguyễn Diệu Phương, Nguyễn Trung Thành. Kỹ thuật nuôi một số loài tôm phổ biến ở Việt Nam. Nxb Nông nghiệp Hà Nội, 2004 [13]. Vũ Thế Trụ. Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Nxb Nông nghiệp Tp Hồ Chí Minh, 1999 [14]. Nguyễn Đình Trung. Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi thủy sản.Nxb Nông nghiệp Tp HCM, 2004 [15]. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh Phương, Đặng Thị Hoàng Oanh, Trần Thị Ngọc Hải. Quản lý sức khỏe tôm trong ao nuôi. Nxb Nông nghiệp Tp Hồ Chí Minh, 2003 [16]. [17].  [18].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa_luan_hoan_chinh_phong_9441.doc
Tài liệu liên quan