Tài liệu Khoa học - Công nghệ với triển vọng của văn minh nhân loại - Nguyễn Thành Dũng: 100
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
[14]. www.most.gov.vn
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VỚI TRIỂN VỌNG CỦA
VĂN MINH NHÂN LOẠI
Nguyễn Thành Dũng*
tiến của nhân loại. Chính vì vậy để có được
một cái nhìn tổng thể và rõ ràng về ý nghĩa
của khoa học và công nghệ trong xã hội loài
người và từ đó để hoạch định được chính sách
khoa học và công nghệ thích hợp, chúng ta
cần đưa ra một bức tranh khái quát về vai trò
của “khoa học – công nghệ” trong bản thân
lịch sử văn minh nhân loại và triển vọng của
nó. Đây cũng chính là mục đích được tác giả
đặt ra trong bài viết này.
Từ khóa: khoa học, công nghệ, triển vọng,
TÓM TẮT
Có thể khẳng định, diện mạo của xã hội
loài người, địa vị của mỗi quốc gia trên diễn
đàn chính trị thế giới hiện đại đang được quyết
định bởi khoa học và công nghệ. Do vậy, khoa
học và công nghệ biến thành lĩnh vực cạnh
tranh gay gắt. Quốc gia nào sở hữu khoa học
và công nghệ hiện đại nhất sẽ có cơ hội bá
chủ thế giới. Phát triển của mỗi quốc gia phụ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khoa học - Công nghệ với triển vọng của văn minh nhân loại - Nguyễn Thành Dũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
[14]. www.most.gov.vn
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VỚI TRIỂN VỌNG CỦA
VĂN MINH NHÂN LOẠI
Nguyễn Thành Dũng*
tiến của nhân loại. Chính vì vậy để có được
một cái nhìn tổng thể và rõ ràng về ý nghĩa
của khoa học và công nghệ trong xã hội loài
người và từ đó để hoạch định được chính sách
khoa học và công nghệ thích hợp, chúng ta
cần đưa ra một bức tranh khái quát về vai trò
của “khoa học – công nghệ” trong bản thân
lịch sử văn minh nhân loại và triển vọng của
nó. Đây cũng chính là mục đích được tác giả
đặt ra trong bài viết này.
Từ khóa: khoa học, công nghệ, triển vọng,
TÓM TẮT
Có thể khẳng định, diện mạo của xã hội
loài người, địa vị của mỗi quốc gia trên diễn
đàn chính trị thế giới hiện đại đang được quyết
định bởi khoa học và công nghệ. Do vậy, khoa
học và công nghệ biến thành lĩnh vực cạnh
tranh gay gắt. Quốc gia nào sở hữu khoa học
và công nghệ hiện đại nhất sẽ có cơ hội bá
chủ thế giới. Phát triển của mỗi quốc gia phụ
thuộc đáng kể vào khả năng và thực tế sử dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ tiên
nền văn minh, nhân loại.
SCIENCE - TECHNOLOGY WITH PROSPECTS
HUMAN CIVILIZATION
ABSTRACT
It can be said, the appearance of human
society, the status of each nation on the
modern world political forum is determined
by science and technology. As a result,
science and technology have turned into
fierce competition. Which country possesses
the most modern science and technology
will have the opportunity to dominate the
world. Each country’s development depends
significantly on its ability and reality to use
the advances of science and technology in
mankind. Therefore, in order to have a holistic
and clear view of the meaning of science and
technology in human society and to develop
appropriate science and technology policy,
we need to put forward an overview of the role
of “science and technology” in the history of
human civilization itself and its prospects.
This is also the purpose set by the author in
this article.
Keywords: Science, technology, perspective,
civilization, humanity.
* GV. Trường Đại học Ngô Quyền (Trường Sĩ quan Công binh). ĐT:0978220655;
Email: Dung_10_11@yahoo.com.vn
101
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội cổ, các hệ thống công nghệ
lúc đầu đã xuất hiện trong khuôn khổ của các
công xã riêng biệt. Chúng mang tính thô sơ,
tương đối giống nhau, được sử dụng cho mục
đích săn bắt, hái lượm, sau đó - sản xuất sản
phẩm nông nghiệp, chăn nuôi và chế biến nó,
cũng giống như để chế tạo công cụ sản xuất,
xây dựng làng mạc và đô thị. Song, ngay trong
xã hội có giai cấp sơ kỳ (thiên niên kỷ IV - II
tr.CN.) đã xuất hiện các hệ thống công nghệ
cấp cao hơn trong khuôn khổ của các quốc gia,
cũng như của các nền văn minh khu vực cổ thế
hệ thứ nhất. Thí dụ có thể là các hệ thống công
trình thủy lợi rất phức tạp trên sông Neva,
Tigre, Eucrate, Indre, Giang Tô, là các chu
trình hoạt động sản xuất nông nghiệp gắn liền
với chúng, v.v... J.Bernal viết về sự phát triển
mạnh mẽ của sáng tạo kỹ thuật xuất hiện cùng
với sự bắt đầu cuộc sống đô thị tại các lưu
vực sông rộng lớn ở Metropotamie, Ai Cập,
Ấn Độ và Trung Quốc và kéo dài khoảng từ
năm 3200 đến năm 2700 tr.CN 1. Chính điều
đó đã trở thành xung lượng, cơ sở vật chất cho
sự xuất hiện các nền văn minh khu vực thế hệ
thứ nhất được phân bổ trên một dải đất hẹp
nhưng kéo dài từ Bắc xuống Nam. Các nền
văn minh này có cảm tưởng là đã phát triển
biệt lập, song các công nghệ chúng sử dụng
lại có nhiều điểm chung, điều này là do chúng
có các điều kiện tự nhiên giống nhau, có giai
đoạn phát triển giống nhau của ý thức và văn
hoá, cũng như có sự tích cực trao đổi những
thành tựu công nghệ giữa các nền văn minh
khu vực. Mặc dù vậy, việc nói tới một không
gian công nghệ toàn cầu là còn sớm, vì phần
lớn lãnh thổ có người ở trên trái đất đã sử dụng
công nghệ thời đồ đá mới, còn các nền văn
minh tiên phong đã đứng biệt lập, xuất hiện
theo chu kỳ và dường như biến mất không
để lại dấu vết gì (các nền văn minh Sumere,
Mine), chúng chỉ được các nhà khảo cổ phát
hiện ra sau vài thiên niên kỷ.
2. SỰ TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC – KĨ
THUẬT TRONG LỊCH SỬ
Thời kỳ đồ sắt (nền văn minh cổ đại) đã
sinh ra các xu hướng mâu thuẫn: một mặt, sự
phân hoá các công nghệ căn cứ trên việc sử
dụng có hiệu quả công cụ làm bằng sắt trong
khuôn khổ của vô số nhà nước - thị thành cùng
với nền kinh tế biệt lập; mặt khác, quy cách
hoá các công nghệ và phổ biến rộng rãi chúng
trong không gian của các đế chế thế giới -
từ Đế chế tồn tại ngắn ngủi của Alếcxanđrơ
Makêđônxky cho đến Đế chế La Mã chinh
phục phần lớn thế giới có người sinh sống.
Các đế chế cũng đã xuất hiện cả trong các nền
văn minh khu vực khác thuộc thế hệ thứ hai -
đó là các nền văn minh Atxiry, Babilon, Batư,
Acximinite, Meaure (ở Ấn Độ), Chu và Hán
(ở Trung Quốc) 2. Ngành thuỷ vận phát triển,
chiến tranh giữa các nền văn minh, ngành
thương mại, sự giao lưu văn hoá, việc thành
lập các thuộc địa, việc cướp bóc nô lệ đã góp
phần hợp nhất các hệ thống công nghệ trong
khuôn khổ của phương thức sản xuất công
nghệ cổ đại. Nhưng cả ở đây cũng không có
dấu hiệu của tính toàn cầu.
Bước chuyển sang các phương thức sản
xuất công nghệ của xã hội trung cổ, sau đó là
của xã hội tiền công nghiệp lúc đầu được đặc
trưng bởi một sự thoái bộ (ít nhất là ở châu
Âu) so với các công nghệ thời Đế chế La Mã,
bởi việc dịch chuyển trung tâm của không gian
công nghệ thế giới sang phương Đông, sang
Trung Quốc và Ấn Độ, sang Vidantie, các
nước Arab mà đã kế thừa nhiều thành tựu kỹ
1 Gi.Bernal. Khoa học trong lịch sử xã hội. M., 1956.
2 Yu.V.Yakovets. Lịch sử các nền văn minh. M., 1997.
Khoa học - công nghệ với triển vọng của văn minh nhân loại
102
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
thuật thời cổ đại. Song sau đó đã xuất hiện liên
tục các làn sóng hoàn thiện công nghệ được
thực hiện thông qua sự cách tân cơ bản. Theo
đánh giá của P.Sorokin, nếu có 243 phát minh
khoa học tự nhiên được thực hiện ở phương
Tây sau 1300 năm của nền văn minh cổ đại
(trong số đó thì 113 phát minh - ở thế kỷ V- III
tr. cn. và 62 - ở thế kỷ I -II sau cn., còn 3 thế
kỷ tiếp theo có từ 2 - 4 phát minh ở mỗi thế
kỷ) và có khoảng 107 sáng chế kỹ thuật (trong
số đó thì 28 sáng chế - ở thế kỷ I tr. cn. - thế
kỷ I sau cn.) được thực hiện, thì trong xã hội
trung cổ, làn sóng này đã suy giảm: có 31 phát
minh và 49 sáng chế kỹ thuật - sau 850 năm.
Tuy nhiên, sau 400 năm của nền văn minh tiền
công nghiệp, tốc độ tiến bộ đã tăng đáng kể -
1153 phát minh và 489 sáng chế 1. Thực ra,
yếu tố thời gian cũng có ảnh hưởng ở đây -
nhiều phát minh và sáng chế kỹ thuật của thời
cổ đại và thời trung cổ đã không hiện thực hoá
và bị lãng quên.
Tất cả các nền văn minh thế hệ thứ hai đều
có những hình thức tổ chức công nghệ giống
nhau trong sản xuất thủ công nghiệp, phân
xưởng, công trường, cũng như nông nghiệp.
Sự chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các
nền văn minh là không đáng kể. Nếu xét theo
khối lượng sản xuất sản phẩm công nghiệp
tính theo đầu người, thì vào năm 1750, châu
Âu (toàn bộ) và Trung Quốc là ngang nhau,
Nhật Bản và Ấn Độ kém hơn khoảng 12%,
còn nước Nga - 25% 2. Mặc dù vẫn chưa có
không gian công nghệ toàn cầu, nhưng những
khác biệt giữa các nền văn minh riêng biệt,
phát triển độc lập là không quá lớn (ngoài các
nền văn minh Tân lục địa bị lạc hậu do biệt
lập, bị thực dân châu Âu thủ tiêu), sự trao đổi
tích cực những thành tựu kỹ thuật đã diễn ra,
đặc biệt là sau các khám phá địa lý vĩ đại, các
cuộc thập tự chinh, sau việc tạo ra các đế chế
thuộc địa và phát triển tăng tốc thương mại
quốc tế.
Bức tranh đã thay đổi đáng kể khi bắt đầu
diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp - làn
sóng thứ Hai, theo A.Toffler: “300 năm trước,
người ta nghe thấy tiếng nổ của làn sóng có
sức mạnh khổng lồ, đã lan rộng ra khắp thế
giới, đã huỷ diệt xã hội cũ và tạo ra một nền
văn minh hoàn toàn mới. Tiếng nổ này đương
nhiên là do cuộc cách mạng công nghiệp gây
ra. Và sức mạnh khổng lồ của cơn sóng đã
trút lên thế giới, - làn sóng thứ Hai, - đã xung
đột với mọi quy định của quá khứ và đã làm
thay đổi lối sống của hàng triệu người” 3. Nó
đã dẫn tới thắng lợi của phương thức sản xuất
công nghiệp. “Làn sóng thứ Hai đã nâng công
nghệ lên một trình độ hoàn toàn mới... Nó hợp
nhất vô số máy móc có liên hệ với nhau dưới
một mái nhà, tạo ra các xí nghiệp và các nhà
máy... Vô số loại hình sản xuất công nghiệp
đã tăng lên nhanh chóng trên cơ sở công nghệ
này, chúng dứt khoát quy định bộ mặt của nền
văn minh làn sóng thứ Hai.. Do hệ thống năng
lượng mới nuôi dưỡng, công nghệ mới đã mở
cửa cho sản xuất đại trà” 4.
Giống như con lăn khổng lồ, các công
nghệ máy móc đã lan ra các nước và các nền
văn minh, đã thay thế các hình thái phân xưởng
và công trường không có khả năng chống lại
nền sản xuất máy móc đại trà. Trong vòng nửa
thế kỷ đã diễn ra quá trình cải tổ không gian
công nghệ giữa các nền văn minh (mặc dù khi
đó gọi nó là không gian toàn cầu là còn sớm).
Từ nước Anh mà chỉ đem lại 2,9% khối lượng
sản xuất công nghiệp thế giới ở năm 1750, làn
sóng công nghiệp đã lan sang đầu tiên là Tây
1, 2 Yu.V.Yakovets. Các chu kỳ. Các cuộc khủng hoảng. Các dự báo. M., 1999.
3 A. Toffler. Làn sóng thứ ba. M., 1999.
4 Sđd. Tr.60-61
103
Âu (tỷ trọng của Anh đã tăng lên tới 22,9%
vào năm 1880, của châu Âu không kể Nga
- từ 18,2% vào năm 1750 lên tới 53,2% vào
năm 1900), đã đạt tới đỉnh điểm ở Bắc Mỹ
bị người châu Âu khai thác (tỷ trọng của Mỹ
đã tăng từ 0,1% vào năm 1750 lên tới 23,6%
vào năm 1900), đã bỏ qua và để lại đằng sau
Trung Quốc và Ấn Độ bị lạc hậu một cách vô
vọng trong cách mạng công nghệ, tỷ trọng của
chúng tương ứng đã giảm từ 23,8 xuống còn
6,2% và từ 24,5 xuống còn 1,7%. Chậm trễ
trong việc khai thác thành tựu của cuộc cách
mạng công nghiệp, nước Nga trụ vững một
cách khó khăn, tỷ trọng của nó thậm chí đã
tăng chút ít - từ 5 lên 8,8%. Tỷ trọng của Nhật
Bản đã giảm từ 3,5 xuống còn 2,4% 1.
Các công nghệ công nghiệp đã làm thay
đổi bộ mặt sản xuất và lối sống của hàng tỷ
người. Nhờ các công nghệ đó mà năng suất
lao động đã tăng lên nhiều lần, mặt hàng hoá
và dịch vụ đã được mở rộng, khối lượng tiêu
dùng và chất lượng cuộc sống của phần lớn
các gia đình đã tăng lên, các khoảng không
gian thông tin mới đã mở ra cho khoa học,
giáo dục và văn hoá. Nhưng cuộc cách mạng
công nghiệp cũng tạo ra những mâu thuẫn
nguy hiểm mới mà các thời đại trước đó chưa
từng biết đến. Thứ nhất, địa vị của con người
trong quá trình công nghệ đã thay đổi. Nguồn
gốc và người sáng tạo ra kỹ thuật máy móc đã
phục tùng nhịp điệu máy móc, đã trở thành
một bộ phận của quá trình công nghệ có cường
độ lớn, bộ phận bổ sung cho máy móc, đặc
biệt là cùng với sự phát triển của sản xuất dây
chuyền và hàng loạt. Thứ hai, sự chênh lệch
về công nghệ và kinh tế đã tăng lên đáng kể
giữa các ngành, các khu vực, các nước và các
nền văn minh vượt lên trước và tụt hậu trong
việc nắm bắt các công nghệ máy móc, các hệ
thống công nghệ mới. Sự chênh lệch này được
sử dụng làm nguồn gốc cho doanh thu sai biệt
về công nghệ, cho sự bóc lột các nước, các
nền văn minh lạc hậu, hơn nữa là sự chênh
lệch đó không giảm, mà lại tăng lên cùng với
thời gian. Thứ ba, sức mạnh của khoa học và
hiệu quả của các công nghệ công nghiệp trước
hết được hướng vào việc tạo ra vũ khí hủy diệt
con người và phương tiện bảo vệ khỏi chúng,
vào việc phát triển tổ hợp công nghiệp quân
sự, điều này đã làm suy tàn nền kinh tế và xã
hội, đã tạo ra vô số xung đột quân sự, hai cuộc
chiến tranh thế giới huỷ diệt và “chiến tranh
lạnh” đặt nhân loại bên bờ của sự tự huỷ diệt.
Thứ tư, các công nghệ công nghiệp đã đưa tới
chỗ thu hút ngày một nhiều tài nguyên thiên
nhiên vào sản xuất và làm tăng nhiều lần mức
gây ô nhiễm môi trường xung quanh, do vậy
sinh quyển dần dần đánh mất khả năng tự tái
sản xuất, đã xuất hiện nguy cơ hiện thực của
thảm hoạ sinh thái toàn cầu. Thứ năm, sự toàn
cầu hoá tiến bộ công nghệ, sự phổ biến nhanh
chóng những công nghệ thông tin hiện đại
nhất và Internet đã tạo ra kéo dài xã hội công
nghệ trị sang thế kỷ tới, nhưng dưới các hình
thức mới mở ra khả năng tác động đến tâm lý
của con người.
Song, sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật, sự đột
phá công nghệ hiện đại cũng mở ra triển vọng
hình thành quan hệ mới về nguyên tắc giữa
con người với hệ thống máy móc, với phương
thức sản xuất công nghệ hậu công nghiệp, khả
năng sáng tạo tự do của con người được giải
phóng khỏi sự tham gia trực tiếp vào các hệ
thống công nghệ với tư cách phần phụ của
máy móc. Đó là nội dung cơ bản của làn sóng
thứ Ba trong lịch sử, của nền văn minh mới mà
A.Toffler tiên đoán ngay từ năm 1980. Ông mô
tả quá trình tiêu vong của nền văn minh công
nghiệp nhờ sử dụng các thuật ngữ “công nghệ
quyển”, “xã hội quyển”, “thông tin quyển” và
1 Yu.V.Yakovets. Các chu kỳ. Các cuộc khủng hoảng. Các dự báo. M., 1999. Tr.405
Khoa học - công nghệ với triển vọng của văn minh nhân loại
104
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
“quyền lực quyển”, và đã chỉ ra lĩnh vực nào
trong số đó sẽ trải qua những biến đổi mang
tính cách mạng 1. Nền văn minh đang xuất
hiện “đồng thời cũng là nền văn minh chống
công nghiệp, công nghệ cao”. Đánh giá các
đặc điểm cơ bản của công nghệ trong nền văn
minh đang ra đời, A.Toffler nhận xét rằng nó
sẽ sử dụng các nguồn năng lượng vô cùng đa
dạng (năng lượng hyđrô, mặt trời, thuỷ triều,
nước ngầm, v.v.), sẽ dựa vào cơ sở công nghệ
phân hoá lớn hơn nhiều (kể cả các kết quả của
sinh học, di truyền học, điện tử, vật liệu học,
các nghiên cứu sâu dưới nước, công việc trong
vũ trụ). Nguồn nguyên liệu quan trọng nhất
và không cạn kiệt của nó là thông tin, kể cả
trí tưởng tượng (mà bây giờ gọi là “ảo”); con
người sẽ sống trong môi trường điện tử, làm
việc trong “căn hộ điện tử” mà sẽ trở thành
đơn vị sinh sống trung tâm của tương lai 2.
Đ.Bell cho rằng cơ sở để hình thành xã hội
hậu công nghiệp là cuộc cách mạng công nghệ
toàn cầu lần thứ ba (lần thứ nhất - cuộc cách
mạng công nghiệp, gắn liền với việc chế tạo ra
máy hơi nước, lần thứ hai - ở cuối thế kỷ XIX,
nhờ có những thành tựu trong lĩnh vực điện
và hoá học). Cơ sở của cuộc cách mạng công
nghệ hiện đại là:
– Thay đổi các hệ thống cơ giới, điện và
cơ điện bằng hệ thống điện tử;
– Vi hình hoá kỹ thuật nhờ phổ biến con
chíp điện tử - máy móc điện tử cấu thành từ
hàng chục nghìn transito và dây dẫn hợp nhất
chúng;
– Cải biến thông tin thành dạng số;
– Lập trình - cơ sở sử dụng vi tính của cá
nhân;
– Quang học - công nghệ chuyển tải then
chốt.
Tuy nhiên, khi đánh giá những chuyển
biến trong lĩnh vực vi điện tử và tin học, Đ.Bell
đã bỏ qua một khuynh hướng quan trọng bậc
nhất của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại -
công nghệ sinh học dựa trên cơ sở công nghệ
gen, cải biến cơ cấu của chất di truyền.
Đ.Bell nhận xét rằng, nhờ hàng loạt
chuyển biến công nghệ, chỉ có Mỹ và Nhật
Bản đã bước vào kỷ nguyên hậu công nghiệp,
hay là kỷ nguyên thông tin. Ông sử dụng khái
niệm «chiếc thang công nghệ”, các nước khác
nhau (có thể bổ sung - và các nền văn minh)
leo lên chiếc thang đó trên con đường dẫn tới
xã hội hậu công nghiệp. Chiếc thang này bao
gồm những bậc sau đây3:
1) Cơ sở dự trữ (nông nghiệp và công
nghiệp khai thác);
2) Công nghiệp nhẹ (dệt may, giầy, v.v.);
3) Công nghiệp nặng (luyện kim, đóng
tàu, sản xuất ô tô, cơ khí);
4) Các công nghệ cao (thiết bị đo lường,
quang học, vi điện tử, vi tính, viễn thông);
5) Các ngành dựa trên thành tựu khoa học
của tương lai - công nghệ sinh học, vật liệu
học, nghiên cứu vũ trụ, v.v..
Đ.Bell coi Nhật Bản là minh họa tuyệt vời
cho sự tiến lên theo chiếc thang công nghệ.
Mỹ, Tây Âu (đặc biệt là Đức) cũng ở các
thang bậc cao nhất. Liên Xô đã có bước đột
phá trong công nghiệp hoá, nhưng hiện nay,
như Đ.Bell mô tả, nước Nga đang tụt xuống
trên chiếc thang công nghệ.
Có thể tách biệt các xu hướng như vậy từ
kịch bản có thể về sự cải biến cơ sở công nghệ
của xã hội. Nhưng đó là một triển vọng xa vời,
tạo ra sự kinh ngạc và chỉ ra kết quả có thể
của việc thực hiện kịch bản lạc quan. Những
1 A. Toffler. Làn sóng thứ ba. M., 1999.
2 Sđd., tr. 559 - 564
3 Sđd., tr. 29
105
quá trình hiện thực và phức tạp hơn nhiều, là
mâu thuẫn và không nhất quán xét về hậu quả
của mình. Thêm vào đó, cả A.Toffler cũng đã
cảnh báo điều đó: “Thời kỳ quá độ sẽ được
đánh dấu bởi những chấn động xã hội to lớn,
những bước chuyển biến mạnh mẽ trong kinh
tế, những thất bại và thảm họa về công nghệ,
tính bất ổn về chính trị, chiến tranh và nguy
cơ chiến tranh” 1. Lời tiên đoán này bắt đầu
trở thành hiện thực với một độ chính xác đáng
kinh ngạc. Thời kỳ quá độ sẽ kéo dài không
phải một thập niên, cái đang chờ đợi chúng
ta là những chấn động và thảm hoạ mới, kể
cả nguy cơ tự huỷ diệt của nhân loại do xung
đột toàn cầu giữa các nền văn minh khu vực,
hay vì một nguyên nhân khác - con thuyền kỹ
thuật quân sự mang tính huỷ diệt vượt ra khỏi
sự kiểm soát của lý tính.
Song, theo chúng tôi, cái chờ đợi loài
người ở bên ngoài khuôn khổ của phương thức
sản xuất công nghệ công nghiệp, nếu tránh
được kết cục bi đát? Là không nên tạo ra ảo
tưởng, cần đánh giá các xu hướng mâu thuẫn
hiện thực và lựa chọn xu hướng có cơ hội trở
nên chiếm ưu thế trong tương lai.
Thứ nhất, tính chất nhân đạo - sáng tạo
của nền văn minh hậu công nghiệp thể hiện
trước hết trong các hệ thống công nghệ. Con
người thoát ra khỏi nhịp điệu mang tính cưỡng
bức của chúng, giữ địa vị vốn có của nó - cả
sáng tạo ra các công nghệ mới và chỉ đạo việc
sử dụng chúng vì lợi ích của mình. Điều đó
không có nghĩa là chuyển sang nền sản xuất
không có con người, nơi mà con người chỉ có
đóng vai trò kẻ ăn bám béo đẫy và ngu đần -
kẻ tiêu thụ những mặt hàng, dịch vụ và khoái
lạc đa dạng được thế giới máy móc đem lại
cho nó. Không thể chặn đứng và khuất phục
được động thái phổ biến theo chu kỳ của các
công nghệ, sự thay thế của các thế hệ kỹ thuật,
các hình thái công nghệ, các phương thức sản
xuất công nghệ là gắn liền các cuộc khủng
hoảng theo chu kỳ, sẽ tiếp diễn cả trong tương
lai, sinh ra những mối nguy hiểm mới. Con
người sẽ phải thường xuyên tìm kiếm lời giải
đáp cho những vấn đề nan giải mới, kiến tạo
và xây dựng các hệ thống kỹ thuật hoàn hảo
hơn, giám sát sự hoạt động của chúng, duy trì
chúng trong trạng thái có khả năng làm việc,
đổi mới và thay thế chúng kịp thời. Sự tiến
bộ kỹ thuật - đó không đơn giản là niềm vui
của những phát minh và những chiến thắng
mà còn là những thất bại. Điều đó đã, đang và
sẽ là như vậy, điều đó là sự kích thích cho lao
động sáng tạo căng thẳng.
Thứ hai, được N.N.Moiseev chứng minh
một cách thuyết phục, mệnh lệnh sinh thái
quyết định sự cần thiết cải biến về nguyên tắc
mối quan hệ qua lại giữa các công nghệ và tự
nhiên. Từ kẻ thiêu sạch tài nguyên thiên nhiên
và chủ yếu gây ô nhiễm môi trường bao quanh,
phá hủy khả năng tự phục hồi của sinh quyển
và làm cho nó suy thoái, các công nghệ cần
phải biến thành nguồn gốc chủ yếu và công cụ
hùng mạnh để cứu thoát sinh quyển, phục hồi
môi trường bao quanh, làm cho nó trong sạch
khỏi những cái gây ô nhiễm nó đã được tích
luỹ sau hàng trăm năm thống trị của các công
nghệ công nghiệp. Đó là con đường chủ đạo,
là nền tảng để hình thành phương án tích cực
của trí quyển được V.I.Vernadsky luận chứng
và cụ thể hoá 2
Điều đó đòi hỏi phải chuyển sang các
công nghệ sạch về mặt sinh thái, tiết kiệm
năng lượng và tài nguyên, ít và không có chất
thải. Chúng đã tồn tại, song chưa được phổ
biến rộng rãi, toàn cầu. Cũng cần phải sử dụng
khắp nơi các công nghệ bảo đảm sự giám sát
1 A. Toffler. Làn sóng thứ ba. M., 1999. Tr.558
2 Yu.V.Yakovets. Các chu kỳ. Các cuộc khủng hoảng. Các dự báo. M., 1999.
Khoa học - công nghệ với triển vọng của văn minh nhân loại
106
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
sinh thái khu vực và toàn cầu và sự dự báo các
thảm hoạ tự nhiên và sinh thái, sự loại bỏ chất
thải, sự phục hồi khả năng tự tái sản xuất của
sinh quyển, sự duy trì tính đa dạng sinh học.
Khoa học tiến cử các công nghệ như vậy và có
thể tăng chúng lên gấp bội. Vấn đề là ở nhu
cầu của xã hội, là ở các khoản vốn đầu tư có
quy mô lớn, là ở ý thức sinh thái của các chính
khách và các doanh nhân, những người thông
qua quyết định về các ưu tiên của hoạt động
đầu tư và đổi mới.
Thứ ba, phải hạn chế các xu hướng khuôn
sáo hoá, chuyên môn hoá hẹp và đồ sộ hoá
vốn đặc trưng cho phương thức sản xuất công
nghiệp. Cái sẽ chiếm ưu thế là xu hướng phân
hoá sản phẩm đối với nhu cầu cá biệt của các
nhóm người tiêu dùng ít ỏi; là xu hướng làm
thay đổi các ngành sản xuất linh động, nhanh
chóng được tổ chức lại cùng với sự biến đổi
của tình hình thị trường và nhu cầu của người
tiêu dùng; là xu hướng phi tập trung hoá sản
xuất, phục hồi vai trò của các xí nghiệp nhỏ và
vừa nằm gần với người tiêu dùng và có phản
ứng linh hoạt đối với biến đổi nhu cầu của
họ (các xí nghiệp và các hệ thống công nghệ
lớn hơn vẫn được duy trì, nhưng có các hình
thức đa dạng và linh hoạt hơn). Đương nhiên,
những cải tạo về công nghệ và về tổ chức sản
xuất đó là nan giải và kéo dài, là không đồng
đều trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau,
trong các nước và các nền văn minh khác
nhau, song chúng mở ra triển vọng mới, kể
cả cho các nước trước kia lạc hậu, bây giờ có
thể bỏ qua giai đoạn công nghiệp hoá có quy
mô lớn (như kinh nghiệm của các nước công
nghiệp mới cho thấy).
Thứ tư, sự quân phiệt hoá các công nghệ
đã đạt tới đỉnh điểm, đang thay đổi phương
hướng và hình thức. Cuộc chạy đua vũ khí
nguyên tử đang mất đi ý nghĩa. Sự tiến bộ
công nghệ đã góp phần tạo ra vũ khí huỷ diệt
và chính xác hơn, đã được thử nghiệm trong
xung đột ở vùng vịnh Pếcxích và ở Balkan.
Nhưng cả ở đây thì giới hạn cũng đang dần
hiện ra. Nếu nhân loại muốn sống sót, họ phải
giám sát việc sản xuất vũ khí, sau đó là chuyển
sang việc phi quân phiệt hóa dần dần các công
nghệ và nền kinh tế, điều này cho phép sử
dụng tiềm năng trí tuệ và sáng tạo tốt nhất vì
lợi ích của dân cư, để khắc phục sự lạc hậu về
công nghệ của các nước và các nền văn minh
nghèo nhất. Hiện nay các thủ lĩnh chính trị vẫn
chưa ý thức được điều này.
Thứ năm, cùng với sự xuất hiện mạng lưới
công ty xuyên quốc gia bao trùm khắp thế
giới, đã đến lúc phải hình thành không gian
công nghệ toàn cầu như là cơ sở vật chất của
nền kinh tế. Vấn đề không phải đơn giản là
tăng cường chuyển giao công nghệ giữa các
nước và trao đổi sản phẩm công nghệ cao, mà
là ở chỗ các hệ thống công nghệ công nghiệp
hậu kỳ và hậu công nghiệp không những đã
vượt ra khỏi khuôn khổ dân tộc mà còn đạt
tới mức độ xã hội hoá cao nhất - toàn cầu hoá.
Hiện nay không một hệ thống công nghệ, dân
tộc nào có thể tồn tại và phát triển độc lập,
tách biệt với thế giới. Ngay khi nó cố gắng làm
điều đó, thì quá trình suy thoái và tự phá huỷ
sẽ bắt đầu. Hơn nữa, những quá trình diễn ra
trong các hệ thống, dân tộc được quy định bởi
những chuyển biến trong hệ thống toàn cầu;
các chu kỳ công nghệ quốc gia, khu vực và
toàn cầu được đồng bộ hoá trong động thái
của mình.
Việc hình thành không gian công nghệ toàn
cầu không xoá bỏ sự chênh lệch về công nghệ
giữa các mức và các nền văn minh khu vực,
nhưng chuyển nó sang một bình diện mới. Bây
giờ chúng là các bộ phận của một chỉnh thể
thống nhất. Để giảm bớt sự chênh lệch, khát
vọng và nỗ lực của một nước riêng biệt là chưa
đủ, cần phải thay đổi các nguyên tắc và cơ chế
107
hoạt động của toàn bộ hệ thống công nghệ toàn
cầu, phải tự giác định hướng nó vào các mục
đích phù hợp với tính chất của xã hội hậu công
nghiệp. Điều này đòi hỏi một mức độ hiểu biết
lẫn nhau và tương tác khác giữa các nền văn
minh khu vực và các nước, chuyển dần dần
sang sự hợp tác cùng có lợi, bình quyền trong
lĩnh vực công nghệ. Con đường dẫn tới đó là
nan giải, nó có đầy rẫy đá ngầm và trở ngại, gắn
liền với sự cần thiết khắc phục ý định của các
nền văn minh, các nước và các công ty xuyên
quốc gia riêng biệt nhằm chiếm độc quyền và
sử dụng những thành tựu của thiên tài nhân loại
và các kênh toàn cầu hóa công nghệ cho mục
đích ích kỷ của mình.
Cơ cấu của không gian công nghệ toàn
cầu là gì, cái gì bảo đảm tính nhất cho sự hoạt
động và động thái có chu kỳ của nó?
Đó trước hết là tính toàn cầu của không
gian khoa học. Vốn là cơ sở của các thế hệ kỹ
thuật và công nghệ mới, của các hình thái công
nghệ mới, những phát minh căn bản. Không
thể được thực hiện trên một quy mô lớn và
thể hiện ưu thế của mình trong khuôn khổ của
một nước. Làm điều đó trong khuôn khổ của
một nền văn minh riêng biệt là dễ hơn, song
tính hoàn vốn của đại hệ thống công nghệ sẽ
đạt được khi thực hiện nó với đầy đủ quy mô
trong nền kinh tế toàn cầu.
Việc toàn cầu hoá các công nghệ vĩ mô,
sản xuất và hoạt động của các hệ thống công
nghệ cao mới đang tăng lên. Theo số liệu của
O.S. Sirotkin 1, thị trường công nghệ cao hiện
nay của thế giới do 50 công nghệ vĩ mô cấu
thành, trong đó tỷ trọng của 7 nước phát triển
cao là 80-90% sản phẩm có hàm lượng khoa
học cao và toàn bộ lượng xuất khẩu của nó,
chúng sở hữu 46 công nghệ vĩ mô và quyết
định mức độ có khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường thế giới. Các nền văn
minh Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản và các
công ty xuyên quốc gia đóng ở chúng dường
như sở hữu tất cả các công nghệ vĩ mô và bòn
rút một lượng lợi tức công nghệ khổng lồ, độc
quyền thực hiện sản phẩm có hàm lượng khoa
học cao trong toàn bộ không gian công nghệ
toàn cầu.
3. KẾT LUẬN
Ở thế kỷ XXI có thể đã có hai phương án
phát triển cực đoan của không gian công nghệ
toàn cầu. Một trong số đó - tiếp tục các xu
hướng hiện nay trong việc một nhóm các nền
văn minh phát triển và các công ty xuyên quốc
gia độc chiếm nó cùng với việc đào sâu hố
ngăn cách về công nghệ giữa các nước và các
nền văn minh tiên phong và lạc hậu (đôi khi
là thoái bộ). Con đường này sẽ dẫn tới thảm
hoạ toàn cầu mà sớm hay muộn sẽ bùng nổ.
Phương án khác - chuyển dần dần sang quan
hệ hợp tác nhằm làm giảm bớt sự chênh lệch
về công nghệ, nâng đỡ các nước lạc hậu, bảo
đảm cho chúng địa vị xứng đáng trong không
gian thế giới, các khả năng nắm bắt có quy
mô lớn những công nghệ tiên tiến, có hiệu quả
cao. Phương án (kịch bản) này trở nên nhẹ
nhàng hơn vì ở những năm 10 -20 thế kỷ XXI,
sau cuộc khủng hoảng công nghệ toàn cầu
của các công nghệ hình thái thứ năm đang tận
dụng hết tiềm năng của mình, sẽ diễn ra bước
chuyển sang hình thái thứ sáu, và những công
nghệ vĩ mô thế hệ thứ năm tích luỹ được ở
các nước phát triển sẽ mất gần hết giá trị. Một
số nền văn minh hiện nay lạc hậu sẽ có được
khả năng để đột phá đến với các công nghệ
hình thái thứ sáu phù hợp với xã hội hậu công
nghiệp mà không cần phải lặp lại con đường
đau đớn và cần nhiều vốn đầu tư của chu kỳ
tồn tại của hình thái thứ năm. Điều đó sẽ có
nghĩa là thực hiện kịch bản lạc quan về sự phát
triển của không gian công nghệ toàn cầu.
1 Con đường đi vào thế kỷ XXI: Các vấn đề chiến lược và triển vọng của nền kinh tế Nga. M., 1999.
Khoa học - công nghệ với triển vọng của văn minh nhân loại
108
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Gi.Bernal. Khoa học trong lịch sử xã hội.
M., 1956.
[2]. V.A.Kirilin. Các trang lịch sử của khoa học
và kỹ thuật. M., 1986..
[3]. Yu.V.Yakovets. Lịch sử các nền văn minh.
M., 1997.
[4]. Yu.V.Yakovets. Các chu kỳ. Các cuộc
khủng hoảng. Các dự báo. M., 1999.
[5]. A. Toffler. Làn sóng thứ ba. M., 1999.
[6]. Đ.Bell. Xã hội hậu công nghiệp tương lai.
Kinh nghiệm dự báo xã hội. M., 1999.
[7]. N.N.Moisseev. Chia tay với sự đơn giản.
M., 1998.
[8]. Con đường đi vào thế kỷ XXI: các vấn đề
chiến lược và triển vọng của nền kinh tế
Nga. M., 1999.
[9]. L.B.Kaphenhays. Sự tiến hoá của sản xuất
công nghiệp Nga. M., 1989.
[10]. Nước Nga qua các con số. M., 1999.
[11]. Yu.V.Yakovets. Kinh tế Nga: biến đổi và
triển vọng. M., 1996.
[12]. Tương lai công nghệ của nước Nga: vai trò
của khoa học cơ bản và của khoa học ứng
dụng. M., 1999.
[13]. Yu.V.Yakovets. Kịch bản về tương lai
công nghệ của nước Nga và các ưu tiên về
chính sách khoa học - kỹ thuật và sáng chế.
M., 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 65_3641_2136195.pdf