Tài liệu Khó khăn của học viên lào tại Học viện Kỹ thuật quân sự trong việc nghe hiểu tiếng Việt và một số biện pháp khắc phục: 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
NGUYỄN THỊ THANH THỦY*
*Học viện Kỹ thuật Quân sự, thuytiengviet@gmail.com
Ngày nhận bài: 27/02/2019; ngày sửa chữa: 22/5/2019; ngày duyệt đăng: 30/5/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ kinh nghiệm hơn 10 năm giảng dạy tiếng
Việt cho học viên quân sự Lào trình độ đại học tại
Học viện Kỹ thuật Quân sự (HVKTQS), chúng tôi
nhận thấy có một số khó khăn cơ bản của học viên
Lào khi học tiếng Việt như: trình độ, lứa tuổi học
viên trong một lớp không đồng đều, không được
sinh hoạt cùng học viên Việt Nam, điểm khác biệt
giữa hai ngôn ngữ Tất cả những điều này là rào
cản khiến học viên Lào nghe hiểu chưa tốt. Mặc
dù đối tượng khảo sát của chúng tôi mới chỉ dừng
lại ở học viên Lào đang học tại HVKTQS, nhưng
tính phổ quát của vấn đề nghiên cứu theo chúng tôi
không chỉ giới hạn trong môi trường HVKTQS mà
nó mang tính chất chung đối với tất cả học viên,
KHÓ KHĂN CỦA HỌC VIÊN LÀO
TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
TRONG VIỆC N...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khó khăn của học viên lào tại Học viện Kỹ thuật quân sự trong việc nghe hiểu tiếng Việt và một số biện pháp khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
NGUYỄN THỊ THANH THỦY*
*Học viện Kỹ thuật Quân sự, thuytiengviet@gmail.com
Ngày nhận bài: 27/02/2019; ngày sửa chữa: 22/5/2019; ngày duyệt đăng: 30/5/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ kinh nghiệm hơn 10 năm giảng dạy tiếng
Việt cho học viên quân sự Lào trình độ đại học tại
Học viện Kỹ thuật Quân sự (HVKTQS), chúng tôi
nhận thấy có một số khó khăn cơ bản của học viên
Lào khi học tiếng Việt như: trình độ, lứa tuổi học
viên trong một lớp không đồng đều, không được
sinh hoạt cùng học viên Việt Nam, điểm khác biệt
giữa hai ngôn ngữ Tất cả những điều này là rào
cản khiến học viên Lào nghe hiểu chưa tốt. Mặc
dù đối tượng khảo sát của chúng tôi mới chỉ dừng
lại ở học viên Lào đang học tại HVKTQS, nhưng
tính phổ quát của vấn đề nghiên cứu theo chúng tôi
không chỉ giới hạn trong môi trường HVKTQS mà
nó mang tính chất chung đối với tất cả học viên,
KHÓ KHĂN CỦA HỌC VIÊN LÀO
TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
TRONG VIỆC NGHE HIỂU TIẾNG VIỆT
VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
TÓM TẮT
Trong bốn kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng nghe hiểu được coi là một trong những kỹ năng khó nhất.
Do đó, việc rèn luyện và phát triển kỹ năng nghe hiểu phải đi trước một bước. Bài viết sẽ tìm
hiểu những khó khăn của học viên Lào khi nghe hiểu tiếng Việt thông qua phương pháp so sánh,
đối chiếu một số điểm cơ bản giữa hai ngôn ngữ Việt-Lào, từ đó đề xuất một số phương pháp
giảng dạy phù hợp nhằm khắc phục phần nào những khó khăn trong kỹ năng nghe-hiểu của học
viên. Các biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng nghe hiểu được trình bày thông qua một số biện pháp
chung như trau dồi kỹ năng nghe tích cực, nghe nắm ý chính, nghe kết hợp với hình ảnh, nghe
giữa chuyên sâu và mở rộng Bài viết cũng giới thiệu một số dạng bài nghe ở những cấp độ
khác nhau, giúp giảng viên chủ động hơn trong việc thiết kế bài giảng sao cho phù hợp với trình
độ của học viên.
Từ khóa: nghe-hiểu, nghe tích cực, nghe mở rộng, nghe qua hình ảnh, nghe nhận biết
học viên Lào nói chung đang theo học tiếng Việt
tại Việt Nam.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin
tập trung tìm hiểu về một số điểm khác biệt giữa
hai ngôn ngữ Việt-Lào gây nên những cản trở
trong quá trình nghe hiểu của học viên, từ đó đưa
ra một số biện pháp khắc phục nhằm nâng cao kỹ
năng nghe hiểu.
2. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NGÔN
NGỮ VIỆT-LÀO
2.1. Khác biệt về thanh và dấu thanh
Đặc điểm đầu tiên dẫn đến những khó khăn
của học viên Lào khi nghe hiểu tiếng Việt là khó
98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
khăn trong việc phân biệt dấu thanh. Điều này xuất
phát từ sự khác nhau về dấu thanh giữa tiếng Lào
và tiếng Việt.
Tiếng Lào có 4 dấu (mạy ệc, mạy thô, mạy t-ri,
mạy chặt-ta-wa) nhưng lại có 6 thanh (cao thường;
trung bình – thấp thường; trung bình – thấp thô;
thấp ệc; cao – trung bình ệc; cao thô). Người Lào
gọi tên thanh tiếng Lào theo phụ âm đầu vần là phụ
âm cao, phụ âm trung bình hay phụ âm thấp kết
hợp với dấu hoặc không kết hợp với dấu. Nghĩa là
người Lào phát âm ra một tiếng có dấu không chỉ
phụ thuộc vào việc dấu thanh được hiển thị trên từ
mà còn phụ thuộc vào quy tắc kết hợp phụ âm đầu,
nguyên âm và âm chắn cuối (Ví dụ: Phụ âm đầu
+ nguyên âm ngắn + âm chắn cuối là ກ, ດ, ບ thì
dấu phát ra sẽ là thanh sắc; Phụ âm đầu + nguyên
âm dài + âm chắn cuối là ກ, ດ, ບ thì dấu phát ra
sẽ là thanh nặng, ). Điểm khác biệt nữa là trong
6 thanh nói trên được sử dụng trong từ có âm tiết
vang và trong từ có âm tiết tắc lại phát thành những
dạng tương ứng khác nhau. Các thanh trong tiếng
Lào đôi khi tương ứng với các thanh trong tiếng
Việt, nhưng đôi khi không có thanh tương đương
trong tiếng Việt. Sự tương ứng của dấu thanh giữa
hai ngôn ngữ thể hiện như bảng 1.
Bảng 1. Sự tương ứng của dấu thanh giữa hai
ngôn ngữ
Dấu thanh tiếng Lào
Sự tương ứng
trong tiếng
Việt
Thanh cao: được tạo bởi “mạy t-ri’ và được viết là
“ ໊” như trong từ ກ໊າ và được phát âm là “cá”
Thanh sắc
Thanh thấp: được tạo bởi “mạy ệc” và được viết
là “ ”่ tức là một dấu nháy như thanh sắc ở phía
trên, ví dụ trong từ ກ່າ được phát âm là “cà”
Thanh huyền
Thanh luyến lên: được tạo bởi “mạy chặt-ta-wa”
và được viết là “๋” tức là một dấu cộng ở phía trên
đầu như từ ກ໋າ và được phát âm là “cả”
Thanh hỏi
Thanh luyến xuống: được gọi là “mạy thô” và
được viết là “ ้” giống như dấu ngã của tiếng
Việt ở phía trên nhưng nó phát âm gần giống
thanh nặng trong tiếng Việt như từ này ກ້າ và
được phát âm là “cạ”
Thanh nặng
Thanh bằng: nghĩa là không có dấu gì ở trên
hoặc dưới như từ ກາ này được phát âm là “ca”
Thanh không
Tuy nhiên, trên thực tế, người Lào thường
chỉ sử dụng hai thanh là “mạy ệc” và “mạy thô”.
Chính vì lẽ đó, khi nói, đọc, và nhất là khi nghe
tiếng Việt, học viên Lào luôn cảm thấy lúng túng
với dấu thanh, đặc biệt là các dấu ngã, nặng, hỏi
trong tiếng Việt.
2.2. Khác biệt về cấu trúc từ vựng
“Tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết, không có
biến hóa hình thái” (Nguyễn Tài Cẩn, 1999, tr.44-
45). Về cơ bản, tiếng Việt và tiếng Lào đều là
ngôn ngữ đơn lập, đơn âm tiết, không chia động
từ, giống, số, cách mà chỉ thêm các phụ từ để chỉ
thì của hành động. Đây được coi là điểm giống
nhau cơ bản giữa hai ngôn ngữ Việt và Lào. Điều
này vừa là một thuận lợi cho học viên Lào khi học
tiếng Việt nói chung và luyện kỹ năng nghe nói
riêng, song đôi khi nó cũng là một cản trở. Bởi
vì, học viên Lào thường nghĩ cứ ráp các từ vào
là có thể tạo thành một câu do đó khi nghe, học
viên thường không có ý thức nghe cả câu/cả đoạn
để hiểu đại ý mà có xu hướng nghe từng từ, hiểu
nghĩa của các từ đơn lẻ trong một đoạn âm thanh
rồi suy ra nghĩa của câu. Điều này rất dễ dẫn đến
hai sai lầm mà học viên Lào thường mắc phải.
Thứ nhất, nếu học viên nghe không tốt sẽ dẫn
đến việc phân xuất từ trong câu sai. Ví dụ câu
“Vàng phải thử trong lửa mới biết vàng thật hay
giả”, được học viên nghe thành các “từ”: Vàng
phải / thử trong / lửa mới / biết vàng / thật hay /
giả” rồi sau đó dùng từ điển để tra các “từ” này.
Thứ hai, nếu học viên có thói quen nghe chuỗi
âm thanh trên sự phân xuất từng âm tiết cũng sẽ
dẫn đến việc học viên tra nghĩa của từng âm tiết,
song “nghĩa của cả câu thậm chí nghĩa của từ đa
âm tiết không phải lúc nào cũng là nghĩa của “tổng
số” các âm tiết trong cụm từ” (Nguyễn Ngọc Ân,
2011, tr.130). Tôi đã gặp trường hợp một học viên
Lào tra nghĩa của hai từ “giáo” và từ “sư” một
cách tách rời khi nghe được từ “giáo sư” sẽ khiến
cho nghĩa của từ bị làm méo mó, thậm chí sai lệch
hẳn so với ý nghĩa thực của từ. Tóm lại, nếu học
viên giữ thói quen hiểu nghĩa theo cách ghép các
từ lại với nhau, hiểu theo cách phân xuất từng từ/
âm tiết một thì sẽ rất khó để nghe và hiểu được
chính xác nội dung của lời nói.
99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
2.3. Khác biệt về từ mang ý nghĩa ngữ pháp
Ngôn ngữ Lào khá đơn giản, ít tồn tại các từ
mang ý nghĩa ngữ pháp đa nghĩa, trong khi tiếng
Việt thì ngược lại. Các từ biểu thị ý nghĩa ngữ pháp
trong tiếng Việt đa dạng và phụ thuộc rất nhiều vào
bối cảnh giao tiếp. Tính đa nghĩa này gây ra nhiều
khó khăn cho học viên nói chung và khó khăn
trong kỹ năng nghe hiểu nói riêng. Cụ thể, trong
giao tiếp, học viên thường cảm thấy lúng túng để
hiểu chính xác nghĩa của từ. Ví dụ thử khảo sát
một từ “đã” trong chức năng là từ mang ý nghĩa
ngữ pháp chúng ta sẽ thấy, ở những vị trí khác
nhau, từ này sẽ làm cho ý nghĩa của câu được hiểu
theo nghĩa khác nhau:
- Chỉ thời gian trong quá khứ: Anh ấy đã về
nước rồi.
- Chỉ thời gian trong tương lai gần, mang ý
nghĩa tình thái, ý nói thời gian đi quá nhanh: Ngày
mai đã là thứ hai rồi à?
- Chỉ thời gian xảy ra trong quá khứ nhưng còn
tiếp diễn đến hiện tại: Nó đã nghỉ suốt một tuần rồi.
- Chỉ mức độ hoàn toàn đầy đủ: Bác cứ ăn đi
cho đã.
- Chỉ một việc được ưu tiên làm trước một việc
khác: Anh cứ ngồi nghỉ cho lại sức đã rồi đi đâu
hãy đi.
Vì vậy, nếu học viên không hiểu rõ bản chất
của từ ngữ pháp thì sẽ khó hiểu được đúng ý nghĩa
của câu ngay cả khi nghe được.
2.4. Khác biệt về vị trí của từ chỉ tần suất và
số từ-loại từ trong câu
Tiếng Việt Tiếng Lào
Từ chỉ
tần suất
Thường đứng ngay sau chủ
ngữ hoặc đứng đầu câu:
VD: Nó luôn luôn đến lớp
muộn.
Thường đứng cuối câu:
(Măn pày hiên xạ lượi
lượi)
Số từ,
loại từ
Số từ + loại từ + danh từ
VD: Tôi mua hai cái áo.
Chị ấy có hai con.
Danh từ + số từ + loại từ
Khọi xự sựa sỏong phửn)
(Ượi nặn mi lục sỏong
khôn)
Những khác biệt về ngôn ngữ trên là một trong
những yếu tố gây ra sự khó khăn cho học viên
trong kỹ năng nghe hiểu, nhất là giai đoạn đầu học
tiếng Việt. Từ thực tế trên, tôi xin đề xuất một số
biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng nghe hiểu của
học viên Lào khi học tiếng Việt như sau:
3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
3.1. Biện pháp chung
3.1.1. Trau dồi kỹ năng nghe tích cực, nghe
nắm ý chính cho học viên
Khi học tiếng Việt, học viên Lào thường có tư
duy lắp ráp các từ đơn để diễn đạt ý muốn nói (ví
dụ: “Lúc 5h30 dậy, đánh răng, ăn sáng, tôi đi học”)
mà đôi khi “không để ý” đến cấu trúc ngữ pháp cả
câu. Tư duy này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
nghe vì học viên thường có thói quen nghe từ, nghe
câu mà không nghe ý để hiểu nội dung chính của
bài. Chính vì thế, giảng viên phải trau dồi kỹ năng
nghe tích cực, có chủ đích cho học viên. Muốn như
vậy, giảng viên nên phát triển dạng bài nghe như:
nghe và lựa chọn thông tin chính cho từng đoạn
rồi phát triển lên thành nghe và tìm ý chính cho
cả bài. “Ngoài việc nghe, hiểu, giảng viên cũng
cần rèn cho học viên kỹ năng phán đoán” (Nguyễn
Văn Thông 1997, tr.47). Việc học viên không biết
một số từ trong bài nghe là chuyện bình thường.
Tuy nhiên, người nghe có thể đoán nghĩa của từ,
của bài dựa vào chủ đề nghe, bối cảnh giao tiếp,
cấu trúc ngữ pháp để hiểu đúng nội dung toàn bài.
3.1.2. Tạo hứng thú cho học viên thông qua
các bài nghe kết hợp hình ảnh
Trong những năm gần đây, việc sử dụng video
trong giảng dạy ngôn ngữ ngày càng phổ biến. Nó
tạo hứng thú học cho học viên trong việc nâng cao
chất lượng kỹ năng nghe hiểu. Khi học viên nghe
và nhìn, họ có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa lời nói
cũng như tâm trạng thông qua cử chỉ, điệu bộ và
biểu cảm gương mặt của người nói. Các tài liệu
nghe nên gồm nhiều cấp độ từ dễ đến khó, tạo
cơ hội cho học viên được tiếp xúc với ngôn ngữ
tự nhiên, phong phú và sinh động. Ví dụ: giảng
100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
viên cho học viên luyện nghe hiểu qua các video
giới thiệu về món ăn, điểm du lịch, đất nước, con
người, Áp dụng phương pháp này có thể làm
tăng sự nhiệt tình, nuôi dưỡng niềm yêu thích của
học viên đối với hoạt động nghe hiểu và từ đó giúp
họ đạt được thành công trong việc học tiếng Việt
nói chung.
3.1.3 . Kết hợp nghe chuyên sâu và nghe mở rộng
Mục đích của nghe chuyên sâu là xây dựng
các kỹ năng nghe cơ bản còn nghe mở rộng là để
nâng cao và mở rộng tính hiệu quả cho kỹ năng
nghe chuyên sâu, từ đó cải thiện khả năng nghe nói
chung cho học viên. Do vậy, trong giảng dạy kỹ
năng nghe hiểu, giảng viên nên hướng dẫn học viên
kết hợp cả kỹ năng nghe mở rộng lẫn chuyên sâu.
Học viên nên luyện nghe các nội dung liên quan
đến những khía cạnh của cuộc sống hàng ngày,
khoa học và công nghệ, tài liệu chuyên ngành...
Giảng viên phải tạo ta môi trường nghe thu hút
được sự quan tâm của học viên khiến họ thêm
đam mê và nhiệt tình đối với việc học tiếng Việt.
3.1.4. Kết hợp nghe với rèn các kỹ năng khác
Trong giảng dạy nghe hiểu, giảng viên nên kết
hợp phát triển kỹ năng nghe cùng với các kỹ năng
khác như nói, đọc và viết. Ví dụ: sau khi nghe, học
viên có thể kể lại nội dung bài nghe hoặc tham gia
thảo luận về những gì họ nghe được. Bằng cách
này, học viên học được cách kết hợp giữa nghe và
nói. Ngoài ra, giảng viên cũng có thể kết hợp giữa
nghe và viết. Ví dụ, sau khi nghe, giảng viên yêu
cầu học viên viết về ý nghĩa của bài nghe hoặc viết
tóm tắt lại nội dung của bài.
Ngoài những biện pháp chung kể trên, để khắc
phục những khó khăn trong nghe hiểu đối với học
viên Lào học tiếng Việt, theo chúng tôi có nhiều
cách thiết kế bài luyện ứng với trình độ khác nhau
của học viên.
3.2. Biện pháp chuyên biệt
Ở mỗi cấp độ nghe khác nhau, giảng viên sẽ có
cách thiết kế bài nghe sao cho phù hợp với trình độ
của học viên. Ở đây, chúng tôi xin đề cập kỹ hơn
việc thiết kế bài nghe ở giai đoạn đầu.
3.2.1. Cấp độ nghe mang tính chất máy móc
Đây là cấp độ nghe giúp học viên sao chép,
thiết lập một hệ thống ngữ âm, từ vựng mới trong
não bộ làm cơ sở cho việc phát triển ngôn ngữ thứ
hai. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013, tr.501) cho
rằng: “Rèn luyện kỹ năng nghe trong giai đoạn đầu
tiếp nhận ngôn ngữ là rất quan trọng. Nó giúp học
viên điều chỉnh phát âm, phân biệt từ, các cụm từ
trên một dòng âm thanh và nhận thức được ý nghĩa
của cả câu”. Việc rèn luyện kỹ năng nghe ở giai
đoạn này gồm những bước cơ bản có thể áp dụng
thành các cấp độ bài tập từ dễ đến khó, từ sao chép
đến tái tạo như sau:
- Giới thiệu ngữ âm cơ bản: Giảng viên miêu tả
cấu âm, đọc hệ thống nguyên âm, phụ âm, so sánh
cao độ của dấu thanh, học viên nghe và nhắc lại.
Như trên chúng tôi đã trình bày, học viên Lào
khá yếu trong khi phát âm các từ/tiếng có chứa dấu
ngã, nặng, hỏi. Vì vậy, phần này giảng viên cần
dành thời gian nhiều hơn để luyện các từ/tiếng có
chứa dấu thanh này.
Ví dụ: Nghe và điền dấu thanh thích hợp
la – la – la ( lả - lã – lạ); ba – ba – ba ( bạ – bả
- bã) ; le – le – le (lẽ – lẹ – lẻ),
Các dấu thanh này sẽ bị xáo trộn, đổi chỗ liên
tục để học viên nghe và nắm được độ cao thấp,
khác nhau của dấu thanh.
- Phát âm từ - nghe và nhắc lại. Việc phát âm
từ, nghe và nhắc lại nhiều lần giúp học viên nhớ
từ, cụm từ để tránh trường hợp đọc/phân xuất từ
không đúng.
- Phát âm các câu ngắn – nghe và nhắc lại. Giai
đoạn nghe câu, giảng viên nên cho học viên nghe
nhiều câu có số từ, loại từ và từ chỉ tần suất để học
viên nắm chắc hơn vị trí của các từ loại này trong
tiếng Việt.
101KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
Ví dụ: Nghe và nhắc lại các câu sau:
Họ thường xuyên đi chơi vào cuối tuần.
Chúng tôi luôn luôn giúp đỡ lẫn nhau.
Anh ấy mới mua một cái máy vi tính.
Chị ấy mượn 2 quyển sách ở thư viện.
Lưu ý là, ở giai đoạn này, để học viên có thể
nghe và nhắc lại các câu một cách trơn tru thì trước
khi đọc cả câu, giảng viên nên cho học viên đọc các
từ/cụm từ trong câu, sau đó mới đọc trơn cả câu.
- Nghe theo dây chuyền: Giảng viên nói một
từ hoặc một câu ngắn cho học viên A nghe, học
viên A nói lại cho học viên B, học viên B nói lại
cho học viên C.... Và học viên cuối cùng nói lại
cho giảng viên nghe. Sau đó giảng viên đưa ra câu
đúng. Nếu học viên sai giảng viên sẽ sửa trực tiếp
và chỉ ra lỗi sai của học viên.
Cũng với bài tập này, giảng viên hoàn toàn có
thể chuẩn bị và chia lớp thành các đội chơi với
nhau theo hình thức: Giảng viên viết ra giấy một
câu ngắn, (trên đó viết luôn sự phân xuất của từ).
Ví dụ:
“Mùa xuân / là / tết / trồng cây”
“Nhân dịp năm mới, / em / đến / chúc Tết / anh
chị / và / các cháu”
Giảng viên đọc từ/câu cho học viên 1 nghe.
Học viên 1 nói cho học viên 2 nghe, học viên 2 nói
lại từ/câu mà mình nghe được học viên 3 nghe, cứ
thế cho đến người cuối cùng của nhóm sẽ là người
nói từ/câu mà mình nghe được từ bạn cho giảng
viên nghe. Cuối cùng, giảng viên sẽ đưa tờ giấy
có chữ để cả nhóm cùng nhận xét xem bạn nghe
có đúng không, cách phân xuất từ có đúng không.
Cấp độ nghe thứ nhất, giảng viên áp dụng
nhiều trong thời gian đầu học viên học ngữ âm.
Các dạng bài tập nghe kiểu này đơn giản nhưng
lại rất cần thiết vì loại bài tập mang tính chất máy
móc sẽ giúp học viên sao chép, thiết lập một hệ
thống ngữ âm, từ vựng mới trong não bộ làm cơ
sở cho việc phát triển ngôn ngữ thứ hai. Dạng bài
luyện này cũng giúp học viên sẽ lĩnh hội trọn vẹn
các kiểu cấu âm cơ bản trong tiếng Việt, tiếp nhận
được trọng âm và ngữ điệu của lời nói tạo nền tảng
vững chắc trong học tập, giao tiếp sau này.
3.2.2. Cấp độ nghe nhận biết
Ở cấp độ này, mức độ nghe đã được đẩy lên
một yêu cầu cao hơn. Học viên không chỉ cần nghe
được vỏ âm thanh mà còn phải hiểu được ý nghĩa
của từ, học viên cũng được rèn luyện ý thức nghe
cả câu để nắm bắt ý. Ở cấp độ nghe này, giảng viên
có thể áp dụng một số dạng bài tập sau:
- Nghe một đoạn văn (hoặc đoạn hội thoại hoặc
xem một đoạn clip) ngắn và lựa chọn phương án
đúng trong số các câu trả lời cho sẵn dưới dạng
trắc nghiệm: A, B, C.
Ví dụ: Giảng viên chuẩn bị một clip có hình ảnh
đẹp về ngày Tết Nguyên đán. Tốc độ nói trong clip
phải phù hợp với trình độ học viên, từ ngữ rõ ràng.
* Trước nghe/xem: Giảng viên cho học viên
đọc trước một số từ khó (nếu cần, giảng viên có
thể giải thích các cụm từ khó): tháng Giêng, tháng
Chạp, lễ cúng tiễn, trang hoàng, trưng tết
Tết Nguyên đán
Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta
là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam. Chính Tết
diễn ra trong 3 ngày là ngày mồng 1 mồng 2 và
mồng 3 tháng Giêng Âm lịch, nhưng thực tế từ sau
ngày 23 tháng Chạp (tháng 12 âm lịch), sau khi
làm lễ cúng tiễn ông Táo về trời thì không khí Tết
đã bắt đầu đến mọi nhà. Đêm 30 tháng Chạp gọi
là đêm giao thừa. Vào dịp tết, nhà nào cũng dọn
dẹp, trang hoàng sạch sẽ. Người miền Bắc thường
mua hoa đào còn người miền Nam thường mua
hoa mai về trưng tết. Mọi người cùng tất bật chuẩn
bị các món ăn cho ngày tết như giò, chả nem, canh
bóng, nhưng món ăn không thể thiếu với người
Việt vào dịp đặc biệt này là bánh chưng. Ngoài ra,
trong 3 ngày Tết, người dân Việt Nam thường có
phong tục đi thăm viếng và chúc Tết gia đình, họ
hàng, bạn bè, làng xóm để hỏi thăm những điều đã
làm được trong năm cũ và chúc nhau một năm mới
tốt lành, may mắn, phát tài phát lộc.
102 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
* Trong nghe: Giảng viên mở clip/đọc 2 lần để
học viên nghe; học viên nghe và lưu nhớ lại những
thông tin cần thiết.
* Sau nghe: Học viên làm bài tập nghe nhận
biết dưới dạng trắc nghiệm:
1. Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, Tết
Ta là dịp lễ .. nhất của Việt Nam.
A. quan trọng
B. trang trọng
C. thận trọng
3. Chính Tết diễn ra trong 3 ngày là ..
tháng Giêng Âm lịch.
A. ngày 30 mồng 1 và mồng 2
B. ngày mồng 2, mồng 3 và mồng 4
C. ngày mồng 1 mồng 2 và mồng 3
3. Đêm giao thừa là đêm ...
A. 20 tháng Chạp
B. 30 tháng Chạp
C. 30 tháng Giêng
4. Loại hoa mà người miền Bắc thường mua về
trưng tết là ...
A. hoa hồng
B. hoa đào
C. hoa mai
5. là món ăn đặc biệt không thể thiếu
với người Việt Nam vào dịp Tết Nguyên đán.
A. chả nem
B. giò
C. bánh chưng
6. Trong 3 ngày Tết, người dân Việt Nam
thường có phong tục ....
A. đi thăm viếng
B. chúc Tết gia đình, họ hàng, bạn bè, làng xóm
C. cả A và B
*Cuối cùng: giảng viên sửa những lỗi sai (nếu
có) cho học viên và củng cố lại bài nghe.
- Nghe xác nhận thông tin đúng/sai: Học viên
nghe một đoạn hội thoại (hoặc nghe/xem clip), sau
đó giảng viên đưa ra các phương án để học viên
kiểm tra xem thông tin đúng/sai.
- Nghe và điền những từ còn thiếu vào chỗ
trống. Giảng viên chuẩn bị một số đoạn văn (hội
thoại), lược bớt một số từ và tạo thành chỗ trống.
Giảng viên đọc đoạn văn nguyên bản, học viên
nghe và điền những từ còn thiếu vào chỗ trống.
- Nghe thông qua một trò chơi: học viên tham
gia theo từng cặp: học viên A miêu tả một bạn nào
đó trong lớp, học viên B nghe và đi tìm người mà
A miêu tả.
Ở cấp độ nghe thứ hai này, tính chủ động của
học viên đã được phát huy. Ở đây, học viên phải chú
tâm hơn để nghe không chỉ là nhắc lại được đúng
vỏ ngôn ngữ mà quan trọng hơn là phải nắm được
ý nghĩa mà ngôn ngữ chuyển tải. Giảng viên cần
lưu ý lựa chọn những bài tập phù hợp với trình độ
học viên, sát với thực tế giao tiếp sẽ tạo được hiệu
ứng học tập tích cực. Cũng cần nhấn mạnh thêm,
để học viên nghe tốt thì cấp độ nghe 1 và 2 là cấp
độ nghe cơ bản và quan trọng nhất, giúp học viên
nhận thấy những điểm khác biệt trong hai ngôn
ngữ, từ đó tránh những sai sót đáng tiếc khi nghe.
3.2.3. Cấp độ nghe hiểu
Giảng viên chuẩn bị một đoạn hội thoại với
độ khó và độ dài tuỳ thuộc vào trình độ của học
viên, trong đó có chứa đựng các thông tin, các mẫu
cần luyện tập. Học viên nghe đoạn hội thoại (bằng
cách nghe qua băng, nghe nhìn đoạn video hoặc
nghe trực tiếp giảng viên đọc...), sau đó làm các
bài tập theo kiểu:
- Nghe - trả lời trực tiếp: Giảng viên đặt các
câu hỏi theo nội dung bài nghe, học viên trả lời
hoặc luyện tập theo từng cặp: một học viên hỏi,
một học viên khác trả lời.
103KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
TRAO ĐỔI v
- Nghe hội thoại hoặc đoạn văn và sắp xếp lại
theo một trình tự hợp lý.
- Nghe và tóm tắt nội dung thông tin: Sau khi
nghe, học viên tóm tắt lại nội dung bài nghe bằng
một vài câu hoặc một đoạn văn ngắn.
Đây là cấp độ nghe tương đối khó. Học viên
muốn làm được các dạng bài tập này buộc phải nghe
và hiểu được toàn bộ nội dung của bài. Không chỉ
có vậy, học viên còn được rèn kỹ năng đặt các dạng
câu hỏi từ bài nghe để bạn trả lời. Học viên cũng
cần nắm chắc được trình tự của bài nghe để sắp
xếp ý cho hợp lý hoặc tóm tắt cho đầy đủ các ý từ
bài nghe. Để tạo sự sôi động, giảng viên hoàn toàn
có thể chia học viên thành các nhóm để cùng trao
đổi, bổ sung thông tin mà giữa các nhóm với nhau.
3.2.4. Phát triển nghe hiểu: nghe bài giảng
và ghi chép.
Giảng viên chuẩn bị một bài khoá về một chủ
đề nhất định tương ứng trong chương trình giảng
dạy, phù hợp với trình độ về từ vựng, ngữ pháp.
Giảng viên trình bày bài khoá dưới hình thức
giảng bài. Những điểm chính yếu, nhất là các con
số mang ý nghĩa quan trọng xuất hiện trong bài,
giảng viên đọc chậm với ngữ điệu nhấn giọng để
học viên chú ý và có đủ thời gian để ghi chép.
Trong khi ghi chép, học viên có thể dùng các ký
hiệu hoặc viết tắt để ghi nhanh hơn (trong trường
hợp này, giảng viên sẽ quy ước cách viết tắt cho cả
lớp) ví dụ: vk- vũ khí, đ/nc - đất nước, cm: chứng
minh, kl: kết luận.
Sau khi kết thúc phần nghe, học viên có thể
làm các bài tập như: trả lời câu hỏi liên quan đến
bài nghe, vẽ lại lược đồ dựa vào nội dung bài nghe
hoặc tóm tắt ngắn gọn nội dung bài khoá.
Đây là hình thức luyện nghe khó, tuy nhiên,
nó lại là tiền đề quan trọng giúp học viên Lào chủ
động hơn khi học cùng học viên Việt Nam và nghe
các giảng viên giảng bài ở trình độ cao hơn. Với
những bài khóa ngắn, nội dung đơn giản, giảng
viên giảng và yêu cầu học viên ghi chép lại những
ý chính đã nghe được. Phương pháp luyện nghe
này không chỉ mang lại lợi ích ở kỹ năng nghe mà
còn giúp học viên nắm chắc hơn văn phong trong
khi viết, diễn đạt lại lời giảng của giảng viên theo
ý hiểu của bản thân.
4. KẾT LUẬN
Nghe - hiểu là một kỹ năng rất cần thiết khi
giao tiếp. Nếu nói tốt mà nghe hiểu không tốt thì
cuộc hội thoại sẽ rất khó thành công. Ngược lại,
nếu nghe tốt nhưng nói chưa tốt thì vẫn có thể hy
vọng người bản ngữ sẽ đoán được nội dung mà
đối tượng giao tiếp định nói thông qua ngôn ngữ
cơ thể, động tác phụ họa. Tuy nhiên, tất cả các kỹ
năng nghe – nói – đọc – viết đều cần quan tâm
đúng mức và bố trí thời gian hợp lý tùy vào mục
đích sử dụng của học viên. Điều quan trọng là cần
phải tìm ra được phương pháp dạy-học, cách thiết
kế cũng như tiếp cận bài giảng sao cho hợp lý với
cả học viên và người dạy. Với một số dạng bài tập
nghe hiểu trên, giảng viên giảng dạy có thể vận
dụng hợp lý cho từng đối tượng, trình độ học tập
của học viên hoặc giảng viên cũng hoàn toàn có
thể kết hợp các dạng bài tập trên để giúp bài học
thêm phong phú và cải thiện tốt hơn khả năng nghe
-hiểu. Để rèn luyện kỹ năng nghe hiểu, việc dạy
và học cần thiết phải được chia theo trình độ từ dễ
đến khó. Và dù ở cấp độ nào thì việc rèn luyện, sửa
chữa uốn nắn những sai sót cho học viên là điều vô
cùng quan trọng. Từ thực tiễn giảng dạy tiếng Việt
cho học viên Lào, tôi tổng kết và đưa ra một số giải
pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn cho học viên
trong việc nghe hiểu. Hy vọng những ý kiến trao
đổi trên đây sẽ giúp cho học viên Lào học tiếng
Việt nói chung và thực hành kỹ năng nghe hiểu nói
riêng ngày càng tốt hơn./.
104 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019)
v TRAO ĐỔI
DIFFICULTIES IN LISTENING TO VIETNAMESE OF LAO STUDENTS
AT MILITARY TECHNICAL ACEDAMY AND SOME SUGGESTED SOLUTIONS
NGUYEN THI THANH THUY
Abstract: Of four language skills, listening comprehension is considered one of the most difficult
skill. Therefore, the exercise and development of listening-comprehension skills must be preceded
step by step. The article will learn the difficulties of Lao practitioners when listening to the Vietnamese
language through the comparison method, which deals with a number of fundamental points
between Vietnamese and Laos language, thereby producing some of the right teaching methods to
overcome the difficulties of the students in listening-comprehension. Measures to improve listening
- comprehension skills are presented through a number of common measures such as improving
positive listening skills, listening to the main ideas, listening with images, listening between intensive
and expanding ... The article also introduces a number of types of listening at different levels, helping
teachers to be more active in designing lectures to suit students’ level.
Keywords: Listening comprehension, listening positively, hearing expansion, listening through the
video, listening for clues
Received: 27/02/2019; Revised: 22/5/2019; Accepted: 30/5/2019
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Ngọc Ân (2011), “Thực trạng và giải pháp rèn luyện kỹ năng nghe hiểu trong việc học ngoại ngữ với sinh
viên không chuyên ở trường đại học, cao đẳng”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, số 25,
tr.130-133.
Nguyễn Tài Cẩn (1999, in lần 6), Ngữ pháp tiếng Việt – Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ , NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
Nguyễn Văn Thông (1997), Dạy nghe ghi tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013), “Làm thế nào để dạy nghe hiệu quả”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và
giảng dạy Việt Nam học và tiếng Việt”, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.499-509.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kho_khan_cua_hoc_vien_lao_tai_hoc_vien_ky_thuat_quan_su_trong_viec_nghe_hieu_tieng_viet_va_mot_so_bi.pdf