Tài liệu Khảo sát việc áp dụng và hiệu quả của phác đồ điều trị cơn phản ứng phong theo tổ chức y tế thế giới tại TP Hồ Chí Minh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
94
KHẢO SÁT VIỆC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ
ĐIỀU TRỊ CƠN PHẢN ỨNG PHONG
THEO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI TẠI TP. HCM
Phạm Đăng Trọng Tường*, Lê Thái Vân Thanh**, Văn Thế Trung**
TÓM TẮT
Mở đầu: Phản ứng phong là một trong những nguyên nhân chính gây suy giảm chức năng vận động, cảm
giác và cả rối loạn thần kinh thực vật. Tuy nhiên, việc áp dụng và hiệu quả phác đồ điều trị cơn phản ứng phong
theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) vẫn còn nhiều bàn cãi.
Mục tiêu: Khảo sát việc áp dụng thực tế và hiệu quả của phác đồ điều trị cơn phản ứng phong theo TCYTTG
tại Tp Hồ Chí Minh từ 30/06/2006 đến 30/06/2016.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt ca trên những bệnh nhân có cơn phản ứng
phong được quản lý tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Việc điều trị cơn phản ứng phong cần thời gian và tổng liều prednisolone cao hơn rất nhiều so với
phác đồ khuyến cáo của TCYTTG. Cụ thể...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát việc áp dụng và hiệu quả của phác đồ điều trị cơn phản ứng phong theo tổ chức y tế thế giới tại TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
94
KHẢO SÁT VIỆC ÁP DỤNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ
ĐIỀU TRỊ CƠN PHẢN ỨNG PHONG
THEO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI TẠI TP. HCM
Phạm Đăng Trọng Tường*, Lê Thái Vân Thanh**, Văn Thế Trung**
TÓM TẮT
Mở đầu: Phản ứng phong là một trong những nguyên nhân chính gây suy giảm chức năng vận động, cảm
giác và cả rối loạn thần kinh thực vật. Tuy nhiên, việc áp dụng và hiệu quả phác đồ điều trị cơn phản ứng phong
theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) vẫn còn nhiều bàn cãi.
Mục tiêu: Khảo sát việc áp dụng thực tế và hiệu quả của phác đồ điều trị cơn phản ứng phong theo TCYTTG
tại Tp Hồ Chí Minh từ 30/06/2006 đến 30/06/2016.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt ca trên những bệnh nhân có cơn phản ứng
phong được quản lý tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Việc điều trị cơn phản ứng phong cần thời gian và tổng liều prednisolone cao hơn rất nhiều so với
phác đồ khuyến cáo của TCYTTG. Cụ thể, bệnh nhân bị phản ứng đảo nghịch cần dùng trung bình 552 mg
prednisolone và khoảng 31,5 tuần điều trị. Trong khi đó, để kiểm soát hồng ban nút phong, bệnh nhân cần dùng
trung bình 1.167 mg prednisolone trong khoảng thời gian 71,6 tuần. Đánh giá hiệu quả điều trị dựa trên trắc
nghiệm cơ cảm giác và độ tàn tật cho thấy, việc điều trị cơn phản ứng phong như hiện nay chưa mang lại sự khác
biệt có ý nghĩa trong việc đáp ứng. Đối với bệnh nhân hồng ban nút phong, tăng liều prednisolone không chắc
mang lại lợi ích cho bệnh nhân. Liều prednisolone trung bình ở nhóm bệnh nhân không đáp ứng dựa trên đánh
giá độ tàn tật thấp hơn 243 mg so với nhóm Bình thường. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị có thể bị ảnh hưởng do cơn
phản ứng chưa được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Kết luận: Dựa trên những số liệu trong nghiên cứu, việc điều trị cơn phản ứng phong cần sử dụng tổng
liều prednisolone cao hơn và trong khoảng thời gian dài hơn so với phác đồ khuyến cáo của TCYTTG.
Từ khóa: Bệnh phong, cơn phản ứng phong, phản ứng đảo nghịch, hồng ban nút
ABSTRACT
THE SURVEY OF PRACTICAL APPLICATION AND EFFECTIVENESS OF LEPRA REACTIONS
TREATMENT REGIMENS RECOMMENDED BY WHO IN HO CHI MINH CITY
Pham Đang Trong Tuong, Le Thai Van Thanh, Van The Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 94 - 100
Background: Lepra reaction is one of the major causes lead to sensory, motor impairments and even
autonomic dysfunctions. However, the application and effectiveness of treatment in lepra reactions as
recommended by the World Health Organization (WHO) remains controversial.
Objectives: To survey the practical application and effectiveness of lepra reactions treatment regimens
recommended by WHO in Ho Chi Minh City from June 30, 2006 to June 30, 2016.
Method: Case series study on patients who had lepra reaction and were managed in Ho Chi Minh City.
* Bệnh viện Da Liễu Tp. Hồ Chí Minh ** Bộ môn Da Liễu ĐHYD Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ts. Bs. Văn Thế Trung ĐT: 0908282705. Email: vanthetrungdhyd@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
95
Results: The treatment time of lepra reactions required longer and the total prednisolone dose was much
higher than the recommended regimen of WHO. Specifically, patients with reversal reactions (RR) require an
average of 552 mg prednisolone and about 31.5 weeks of treatment. At the same time, to control of erythema
nodosum leprosum (ENL), the patient needed an average of 1,167 mg prednisolone over a period of 71.6 weeks.
The treatment efficacy assessment was based on voluntary muscle testing, sensation testing and disability grading
showed that current treatment of lepra reactions was not significantly different in response. With regards to
patients with ENL, increasing the prednisolone dose may not provide benefits for patients. The mean prednisolone
dose of the Non-responding group was less than 243 mg compared to the Normal group, based on the assessment
of disability grading. However, the efficacy of treatment may be affected by which lepra reactions had not been
detected early and treated promptly.
Conclusion: Based on data of the study, the treatment of lepra reactions should use a higher total
prednisolone dose and require longer treament period than WHO recommended regimens.
Keywords: Leprosy, lepra reactions, reversal reaction, erythema nodosum leprosum
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phong là bệnh lý nhiễm trùng mạn tính do
Mycobacterium leprae và một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến suy giảm chức năng vận
động, cảm giác, cũng như rối loạn thần kinh thực
vật là do xảy ra cơn phản ứng(6,7). TCYTTG đã
đưa ra phác đồ chuẩn nhằm khuyến cáo các
nước áp dụng điều trị, trong đó có Việt Nam(4).
Cụ thể, bệnh nhân vẫn được tiếp tục đa hóa trị
liệu (ĐHTL) kèm giảm đau, hạ sốt bằng aspirin
hay paracetamol. Điều trị cơn phản ứng phong
chủ yếu bằng prednisone với liều như sau:
Bảng 1: Phác đồ điều trị cơn phản ứng theo khuyến
cáo của TCYTTG.
Prednisolone (mg/ngày) Số tuần điều trị
40 1 – 2
30 3 – 4
20 5 – 6
15 7 – 8
10 09 – 10
05 11 – 12
Trường hợp bệnh nhân bị phản ứng hồng
ban nút nặng, dùng prednisolone với liều
không quá 1 mg/kg/ngày trong 12 tuần như
hướng dẫn, kèm Lamprene® (clofazimine) 100
mg x 3 lần/ngày trong 12 tuần đầu, 100 mg x 2
lần/ngày trong 12 tuần kế tiếp và 100 mg x 1
lần/ngày trong 12 tuần sau cùng. Tuy nhiên,
hiệu quả phác đồ điều trị cơn phản ứng phong
theo khuyến cáo của TCYTTG vẫn còn nhiều
bàn cãi(2,3).
Mục tiêu
Khảo sát việc áp dụng thực tế và hiệu quả
của phác đồ điều trị cơn phản ứng phong theo
Tổ chức Y tế Thế giới tại Tp Hồ Chí Minh từ
30/06/2006 đến 30/06/2016.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu hàng loạt ca với cỡ
mẫu bao gồm tất cả bệnh nhân được quản lý tại
24 quận, huyện trực thuộc TPHCM có cơn phản
ứng phong xảy ra trong thời gian từ 30/06/2006
đến 30/06/2016. Bệnh nhân phải thỏa tiêu chuẩn
chẩn đoán cơn phản ứng đảo nghịch hoặc hồng
ban nút phong.
Phản ứng đảo nghịch
Có 01 Tiêu chuẩn chính
(1) Những thương tổn hiện có và/hoặc
thương tổn mới trở nên viêm, đỏ và phù; hoặc ít
nhất 02 Tiêu chuẩn phụ, bao gồm
(2) Xuất hiện nhiều thương tổn mới không
đau
(3) Một hay nhiều dây thần kinh trở nên
nhạy cảm và có thể phù
(4) Gần đây mất cảm giác bàn tay, bàn chân
hay vừa mới có dấu hiệu thương tổn thần kinh
(không tiết mồ hôi, mất cảm giác, yếu cơ) trên
một vùng thần kinh chi phối
(5) Đột ngột phù mặt và tứ chi.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
96
Phản ứng hồng ban nút
Có 01 Tiêu chuẩn chính
(1) Đột ngột phát ban sẩn, nốt hay mảng
viêm đỏ, nhạy cảm, có thể dẫn đến loét hoặc ít
nhất 3 tiêu chuẩn phụ, bao gồm
(2) Sốt nhẹ, mệt mỏi
(3) Dây thần kinh to ra, nhạy cảm
(4) Mất cảm giác nhiều hơn hay giảm sức cơ
nhiều hơn
(5) Viêm khớp;
(6) Viêm mạch bạch huyết;
(7) Viêm tinh hoàn, mào tinh hoàn;
(8) Viêm mống mắt-thể mi;
(9) Phù các chi hay mặt;
(10) Thử nghiệm Ryrie hay Ellis dương tính.
Việc theo dõi cơn phản ứng phong và đánh
giá hiệu quả điều trị dựa trên trắc nghiệm cơ
cảm giác và độ tàn tật của bệnh nhân:
Trắc nghiệm cơ cảm giác (TN CCG)
Đánh giá về sức cơ mạnh, yếu, liệt (chớp
mắt, áp ngón út, dạng ngón cái, gập mặt lưng
bàn chân), 10 điểm cảm giác (lòng bàn tay, lòng
bàn chân), dây thần kinh trụ, giữa, hông khoeo
ngoài, chày sau (to mềm, to cứng, đau tự phát,
nhạy cảm). Đánh giá cả hai bên phải và trái của
cơ thể.
Độ tàn tật (ĐTT) theo phân độ của TCYTTG
Mắt: Độ 0 (Không có vấn đề ở mắt do bệnh
phong), Độ 1 (Có vấn đề ở mắt do bệnh phong,
nhưng thị lực còn tốt, có thể đếm ngón tay ở
cách xa 6 mét), Độ 2 (Mù, thị lực suy giảm,
không thể đếm ngón tay ở cách xa 6 mét).
Tay hoặc chân: Độ 0 (Không mất cảm giác,
không có tổn thương hay tàn tật nhìn thấy được
ở tay hoặc chân), Độ 1 (Mất cảm giác, nhưng
không có tổn thương hay tàn tật nhìn thấy được
ở tay hoặc chân), Độ 2 (Tổn thương hay tàn tật
nhìn thấy được ở tay hoặc chân).
Phân nhóm đáp ứng điều trị dựa trên:
Trắc nghiệm cơ cảm giác:
Bình thường: Tất cả các chỉ số trắc nghiệm cơ
cảm giác lúc bắt đầu và khi kết thúc điều trị cơn
phản ứng đều bình thường. Nhóm bệnh nhân
này hoàn toàn không có biểu hiện viêm hay tổn
thương chức năng thần kinh.
Không đáp ứng: Không có bất kỳ chỉ số trắc
nghiệm cơ cảm giác nào cải thiện khi kết thúc
điều trị cơn phản ứng. Nhóm bệnh nhân này có
bất thường trắc nghiệm cơ cảm giác lúc bắt đầu
phản ứng phong lần 1 và khi kết thúc điều trị
cơn phản ứng thì chỉ số trắc nghiệm cơ cảm giác
vẫn không cải thiện hoặc nặng lên.
Đáp ứng: Có ít nhất một chỉ số trắc nghiệm cơ
cảm giác cải thiện. Các chỉ số trắc nghiệm cơ cảm
giác còn lại có thể cải thiện, giữ nguyên mức độ
hoặc nặng lên.
Độ tàn tật:
Bình thường: Độ tàn tật ở cả mắt, tay, chân tại
thời điểm bắt đầu và kết thúc điều trị cơn phản
ứng đều bằng 0.
Đáp ứng hoàn toàn: Tất cả mắt, tay, chân đều
có cải thiện độ tàn tật khi kết thúc điều trị cơn
phản ứng phong.
Đáp ứng không hoàn toàn: Có ít nhất hoặc mắt,
hoặc tay hoặc chân bên phải hay trái có cải thiện.
Mắt, tay, chân bên còn lại có thể giữ nguyên độ
tàn tật hoặc gia tăng độ tàn tật.
Không đáp ứng: Độ tàn tật ở cả mắt, tay, chân
giữ nguyên hoặc nặng lên.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tổng cộng 86 trường hợp có hồ sơ bệnh án
thỏa tiêu chuẩn, bao gồm 70 bệnh nhân (81,4%)
có phản ứng đảo nghịch và 16 bệnh nhân (28,6%)
bị hồng ban nút phong.
Tuổi
Trung bình: 37 ± 15,21 (tuổi), nhỏ nhất là 17
tuổi, lớn nhất là 82 tuổi, tập trung nhiều trong
nhóm từ 20 – 40 tuổi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
97
Giới
Có 60 bệnh nhân là nam giới, 26 trường hợp
là nữ giới.
Nghề nghiệp
Lao động chân tay (79%), lao động trí óc
(6%), học sinh, sinh viên (5%), già, hưu trí (10%).
Thời gian xuất hiện đợt phản ứng phong đầu
tiên
Ngay lúc đầu chẩn đoán bệnh phong (41
trường hợp), dưới 6 tháng (23), từ 6 – dưới 12
tháng (7), từ 12 tháng trở lên (13). Thời gian
trung bình xuất hiện đợt phản ứng phong đầu
tiên: 7 ± 13,69 (tháng). Bệnh nhân xuất hiện
đợt phản ứng đầu tiên cách thời điểm được
chẩn đoán bệnh phong lâu nhất lần lượt là 76
tháng (phản ứng đảo nghịch) và 39 tháng
(hồng ban nút).
Số đợt xảy ra cơn phản ứng phong
Bệnh nhân bị 1 đợt phản ứng phong (57
trường hợp), 2 đợt (19), 3 đợt (5), 4 đợt (3), 5 đợt
(2). Tỉ lệ tái phát hồng ban nút cao hơn phản ứng
đảo nghịch, nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê. Tính chung, toàn bộ 70 bệnh
nhân phản ứng đảo nghịch xảy ra 102 đợt phản
ứng và 16 bệnh nhân hồng ban nút xảy ra 30 đợt
phản ứng.
Thời gian điều trị cơn phản ứng phong
Phản ứng đảo nghịch có thời gian điều trị lâu
nhất là 71 tuần (khoảng 17 tháng) ở lần điều trị
đợt đầu tiên. Đa số bệnh nhân chỉ cần một đợt
điều trị chuẩn là 12 tuần với tỉ lệ 41,2% (42/102)
hoặc trong 24 tuần chiếm 31,4% (32/102). Phản
ứng hồng ban nút có thời gian điều trị lâu nhất là
138 tuần (khoảng 34 tháng) cũng ở đợt điều trị
đầu tiên. Đa số bệnh nhân cần một đợt điều trị
chuẩn 12 tuần với tỉ lệ 30,0% (9/30) hoặc trong 24
tuần chiếm 23,3% (7/30). Thời gian điều trị hồng
ban nút cao hơn phản ứng đảo nghịch một cách
có ý nghĩa thống kê ở đợt 1, đợt 2 và tính chung
cho tất cả các đợt (Bảng 2).
Bảng 2: Thời gian điều trị trung bình cơn phản ứng
phong (tuần).
RR ENL p
Mean ± SD Mean ± SD
Tính chung 31,5 ± 31,3 71,6 ± 59,3 < 0,001
Số tuần đợt 1 21,0 ± 14,0 43,9 ± 36,9 < 0,001
Số tuần đợt 2 21,5 ± 14,9 37,5 ± 32,0 0,045
Số tuần đợt 3 16,9 ± 12,2 15,7 ± 3,2 0,875
Số tuần đợt 4 23,8 ± 16,5 22,0 ± 0,0 -
Số tuần đợt 5 56,5 ± 2,1 0,0 ± 0,0 -
Tổng liều Prednisolone điều trị cơn phản ứng
phong
Nhìn chung, bệnh nhân bị phản ứng đảo
nghịch dùng liều prednisolone trung bình thấp
hơn những trường hợp hồng ban nút và điều
này có ý nghĩa thống kê trong quá trình điều trị
đợt 1. Nếu xét chung cả 5 đợt điều trị, tổng liều
prednisolone cần để điều trị phản ứng đảo
nghịch thấp hơn ½ so với hồng ban nút phong.
Ngoài ra, liều prednisolone trung bình đều cao
hơn liều chuẩn 240 mg trong 12 tuần điều trị
theo khuyến cáo của TCYTTG (Bảng 3).
Bảng 3: Tổng liều prednisolone điều trị cơn phản ứng
phong (mg).
RR ENL p
Tính chung 552 ± 446 1.167 ± 744 < 0,001
Đợt 1 394 ± 280 772 ± 564 < 0,001
Đợt 2 384 ± 249 506 ± 20 0,268
Đợt 3 242 ± 122 246 ± 50 0,953
Đợt 4 366 ± 337 520 ± 0 -
Đợt 5 292 ± 3 -
Tổng liều lamprene điều trị cơn phản ứng
phong
Lamprene có trong phác đồ đa hóa trị liệu
cho bệnh nhân phong thể nhiều khuẩn, nên
nhiều trường hợp trường hợp bị phản ứng
phong đợt 1 có sử dụng thuốc này. Riêng việc bổ
sung thêm lamprene nhằm mục đích điều trị cơn
phản ứng thì chủ yếu được chỉ định trên nhóm
bệnh nhân hồng ban nút khó kiểm soát bằng
prednisolone đơn thuần(2). Tổng hợp kết quả việc
sử dụng lamprene cho cả hai mục đích trên cho
thấy không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống
kê giữa hai nhóm phản ứng phong (Bảng 4).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
98
Bảng 4: Tổng liều lamprene điều trị cơn phản ứng
phong (mg).
RR ENL p
Mean ± SD Mean ± SD
Tính chung 16.213 ± 4.172 14.928 ± 5.725 0,248
Đợt 1 16.065 ± 3.965 14.530 ± 5.233 0,35
Đợt 2 0 ± 0 5.900 ± 989
Đợt 3 0 ± 0 0 ± 0
Đợt 4 0 ± 0 8.300 ± 0
Đợt 5 7.800 ± 0 0 ± 0
Tổng liều paracetamol điều trị cơn phản ứng
phong
Paracetamol được sử dụng chủ yếu trong
hồng ban nút do bệnh nhân kèm sốt và mệt
mỏi(2). Do vậy, tổng liều paracetamol sử dụng
trên bệnh nhân hồng ban nút nhiều hơn phản
ứng đảo nghịch một cách có ý nghĩa thống kê
(Bảng 5).
Bảng 5: Tổng liều paracetamol điều trị cơn phản ứng
phong (mg)
RR ENL p
Mean ± SD Mean ± SD
Tính chung 8.787 ± 10.003 82.900 ± 10.4427 0,04
Đợt 1 10.828 ± 10.325 61.500 ± 62.899 0,045
Đợt 2 - 50.166 ± 55.543 -
Đợt 3 - 18.000 -
Đợt 4 2.500 - -
Đáp ứng điều trị dựa trên đánh giá trắc nghiệm
cơ cảm giác
Việc đánh giá bệnh nhân dựa trên trắc
nghiệm cơ cảm giác bao gồm nhiều yếu tố về đặc
tính dây thần kinh bị viêm, sức cơ và cả điểm
cảm giác lòng bàn tay, bàn chân(1). Do không thể
thống kê trên từng đặc tính riêng biệt của chỉ số
cơ cảm giác, nhóm nghiên cứu chỉ phân làm 3
nhóm đáp ứng khi đánh giá, bao gồm: Bình
thường (tất cả chỉ số trắc nghiệm cơ cảm giác
trước và sau điều trị đều bình thường), Đáp ứng
(ít nhất một chỉ số trắc nghiệm cơ cảm giác có cải
thiện) và Không đáp ứng (không có bất kỳ chỉ số
trắc nghiệm cơ cảm giác nào cải thiện). Cũng cần
lưu ý khi phân loại theo phương pháp này,
những bệnh nhân có suy giảm chức năng thần
kinh dựa trên đánh giá trắc nghiệm cơ cảm giác
nhưng nếu không cải thiện chức năng thần kinh
(chỉ số không thay đổi), cũng được xếp vào
nhóm không đáp ứng. Nếu chia thêm nhóm này
vào phân tích, sẽ giảm ý nghĩa thống kê vì cỡ
mẫu nhỏ và phải phân tích rất nhiều chỉ số trong
đánh giá trắc nghiệm cơ cảm giác.
Như vậy, có đến 33 bệnh nhân (38,3%)
không đáp ứng điều trị hay nói cách khác,
những trường hợp này không cải thiện bất cứ
chỉ số trắc nghiệm cơ cảm giác nào. Nhóm này
tập trung nhiều trên bệnh nhân nam (73,7%),
mắc phong nhiều khuẩn MB (91,1%), thể BT, BL,
LL (nhiều nhất là BL) và bị phản ứng đảo nghịch
(75,8%). Ngược lại, cũng gần ¼ trường hợp bệnh
nhân có các chỉ số trắc nghiệm cơ cảm giác trước
và sau điều trị đều bình thường. Nhóm bệnh
nhân này chủ yếu có biểu hiện phản ứng phong
ngoài da mà không bị tổn thương chức năng
thần kinh.
Có 38,3% bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn hoặc
1 phần với điều trị và mang đặc tính gần tương
đồng với nhóm không đáp ứng. Tỉ lệ bệnh nhân
hồng ban nút không đáp ứng điều trị cao hơn
hẳn các nhóm còn lại với sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Điều này có nghĩa, việc điều
trị hồng ban nút phong không mang lại lợi ích
cho bệnh nhân bị cơn phản ứng, mà trái lại, còn
làm tăng tình trạng không đáp ứng với thuốc.
Riêng nhóm Bình thường chiếm 20 trường hợp
hay 23,4%.
Như vậy, quá trình điều trị phản ứng phong
hiện nay chưa mang lại sự khác biệt có ý nghĩa
dựa trên đánh giá trắc nghiệm cơ cảm giác.
Thậm chí, tỉ lệ bệnh nhân bị phản ứng hồng ban
nút không đáp ứng điều trị còn cao hơn nhóm có
đáp ứng một cách có ý nghĩa thống kê. Tuy
nhiên, có hai vấn đề được đặt ra là việc điều trị
có thể đã đáp ứng rất tốt dựa trên biểu hiện
ngoài da của cơn phản ứng phong, nhưng chưa
được đánh giá một cách đầy đủ do việc theo dõi
chỉ dựa trên trắc nghiệm cơ cảm giác. Lý do là vì
một trong những biểu hiện quan trọng và chiếm
đa số của cơn phản ứng phong là thương tổn da
(tính chung có 80,2% trường hợp ở cả hai loại
đảo nghịch và hồng ban nút). Thứ hai là việc
phân loại theo 3 nhóm không phản ánh chi tiết
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
99
vấn đề đáp ứng điều trị. Cụ thể, chiếm đa số
trong từng chỉ số đánh giá trắc nghiệm cơ cảm
giác là tình trạng không đổi trước và sau điều trị
(nhưng có suy giảm chức năng). Những bệnh
nhân này đều được xếp vào nhóm không đáp
ứng hay nói cách khác là không có cải thiện chỉ
số trắc nghiệm cơ cảm giác. Để giải quyết vấn đề
này, cần khảo sát trên số lượng bệnh nhân lớn
hơn và chia nhóm nhỏ hơn để đánh giá hiệu quả
và đáp ứng của phác đồ điều trị hiện nay.
Đáp ứng điều trị dựa trên đánh độ tàn tật
Theo khuyến cáo TCYTTG khi đánh giá mắt,
tay, chân, bệnh nhân phong được phân loại tàn
tật Độ 0 (hoàn toàn không có tổn thương về chức
năng), Độ 1 (có mất chức năng nhưng không có
bất thường hình dạng mắt, tay, chân) và Độ 2 (có
thương tổn và dị dạng nhìn thấy được)(7). Đối với
bệnh nhân, việc bất thường về hình dáng bên
ngoài ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng
cuộc sống(7). Do vậy, khi đánh giá mối liên quan
giữa việc đáp ứng điều trị dựa trên độ tàn tật và
một số yếu tố khác, nhóm nghiên cứu phân loại
theo 4 nhóm: Bình thường (độ tàn tật mắt, tay,
chân trước và sau điều trị đều bằng 0), Đáp ứng
hoàn toàn (cả mắt, tay, chân đều có đáp ứng),
Đáp ứng không hoàn toàn (có ít nhất hoặc mắt,
hoặc tay, hoặc chân có đáp ứng) và Không đáp
ứng (không đáp ứng cả mắt, tay, chân).
Khi phân tích mối tương quan cho thấy, cả
giới tính, nghề nghiệp, thể bệnh phong và loại
bệnh phong đều không ảnh hưởng đến việc đáp
ứng điều trị. Trong đó, nhóm Không đáp ứng
chiếm tỉ lệ 32,6% (28/86) hay gần 1/3 tổng số các
trường hợp. Nhóm có đáp ứng (hoàn toàn hay
không hoàn toàn) chiếm tỉ lệ thấp nhất với 18,6%
(16/86) và nhiều nhất là nhóm không có tàn tật ở
cả trước, lẫn sau điều trị cơn phản ứng phong
với lỉ lệ 48,8% (42/86). Mặc dù không có ý nghĩa,
nhưng các số liệu thống kê cho thấy nhóm bệnh
nhân bị phản ứng đảo nghịch không đáp ứng có
tỉ lệ cao hơn hẳn những trường hợp hồng ban
nút không đáp ứng. Tình trạng cũng tương tự
như nhóm có đáp ứng (hoàn toàn hay không
hoàn toàn) với tỉ lệ bệnh nhân phản ứng đảo
nghịch cao hơn hẳn. Điều này có thể đặt ra khả
năng phác đồ điều trị hiện nay ít ảnh hưởng đến
việc đáp ứng hay không đáp ứng trên bệnh nhân
hồng ban nút phong.
Như vậy, việc điều trị cơn phản ứng phong
hiện nay chưa mang lại sự khác biệt về việc cải
thiện độ tàn tật cho bệnh nhân phong. Tuy
nhiên, cần phải kiểm chứng lại dựa trên mẫu
khảo sát với số lượng lớn hơn.
Ảnh hưởng của tổng liều thuốc
Tổng liều prednisolone trung bình ở nhóm
Đáp ứng (610 ± 477 mg) thấp hơn nhóm
Không đáp ứng (689 ± 632 mg), tuy nhiên sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Điều
này có thể đúng nếu như số đợt điều trị trung
bình ở 3 nhóm khác nhau. Trong khi đó, số
đợt điều trị trung bình thì khá tương đồng và
không có sự khác biệt có ý nghĩa (lần lượt ở
nhóm Bình thường là 1,70 ± 1,13 đợt; nhóm
Đáp ứng là 1,39 ± 0,61 đợt; và nhóm Không
đáp ứng là 1,58 ± 1,06 đợt). Vậy sự khác biệt về
liều prednisolone có thể lý giải do mỗi bệnh
nhân đáp ứng khác nhau và liều prednisolone
càng cao không chắc là cho đáp ứng tốt hơn.
Tuy nhiên, nếu đánh giá dựa trên độ tàn tật,
số tuần điều trị có thể ảnh hưởng với sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm đáp
ứng. Theo đó, nhóm Bình thường (1,71 ± 1,09
đợt) và Đáp ứng không hoàn toàn (1,57 ± 0,79
đợt) có thời gian điều trị trung bình cao hơn
nhóm Đáp ứng hoàn toàn (1,44 ± 0,73 đợt) và
Không đáp ứng (1,29 ± 0,71 đợt). Điều này có
thể lý giải thời gian điều trị ảnh hưởng đến
việc đáp ứng nhưng tùy thuộc từng cá thể
bệnh nhân hơn là tác động đến từng nhóm
riêng biệt.
Như vậy, tổng liều điều trị prednisolone
không mang lại sự khác biệt về đáp ứng điều
trị cho bệnh nhân phong bị cơn phản ứng.
Tình trạng này cũng tương tự như lamprene
và paracetamol khi không tạo ra sự khác biệt
có ý nghĩa trong quá trình điều trị cho bệnh
nhân. Đa số trường hợp được chỉ định dùng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
100
lamprene do đa hóa trị liệu cùng lúc hoặc trên
những bệnh nhân không kiểm soát được cơn
phản ứng bằng prednisolone đơn thuần.
Paracetamol cũng được chỉ định khi bệnh
nhân có sốt, mệt mỏi và thường dùng cho
bệnh nhân bị hồng ban nút phong.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng liều thuốc
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng liều
prednisolone
Phương trình hồi qui đa biến giữa tổng liều
prednisolone và các yếu tố ảnh hưởng đến liều
prednisolone cho thấy, có ba yếu tố giúp lý giải
46,2% trường hợp gây ra sự dao động liều
prednisolone cần thiết để điều trị cơn phản ứng
phong, bao gồm:
Phản ứng đảo nghịch tương tương quan
nghịch với liều prednisolone: Liều prednisolone
cần thiết để điều trị phản ứng đảo nghịch trung
bình ít hơn 490 so với điều trị hồng ban nút.
Số đợt điều trị có tương quan thuận với liều
prednisolone: Số đợt càng tăng thì liều
prednisolone càng tăng.
Liều prednisolone có tương quan nghịch với
mức độ không đáp ứng tàn tật: Liều
prednisolone càng cao càng làm tăng khả năng
đáp ứng với tổn thương tàn tật có ý nghĩa thống
kê. Liều prednisolone trung bình ở nhóm bệnh
nhân không đáp ứng tàn tật thấp hơn 243 mg so
với nhóm Bình thường có ý nghĩa thống kê.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng liều lamprene
Liều lamprene trung bình cần thiết giảm
1.3611 mg khi bệnh nhân ở thể bệnh PB so với
MB. Tuy nhiên, do lamprene là thuốc dùng trong
đa hóa cho bệnh nhân phong thể MB mà không
có trong thể PB nên mối tương quan này không
có ý nghĩa. Lamprene không giúp cải thiện chức
năng thần kinh dựa trên trắc nghiệm cơ cảm giác
hoặc phân độ tàn tật.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng liều
paracetamol
Paracetamol không liên quan đến đáp ứng
dựa trên trắc nghiệm cơ cảm giác lẫn độ tàn
tật. Tuy nhiên, liều paracetamol có mối tương
quan nghịch với phản ứng đảo nghịch và
thường cần dùng ít hơn 22 g so với hồng ban
nút khi điều trị.
KẾT LUẬN
Dựa trên những số liệu trong nghiên cứu,
việc điều trị cơn phản ứng phong cần sử dụng
tổng liều prednisolone cao hơn và trong khoảng
thời gian dài hơn so với phác đồ khuyến cáo của
TCYTTG. Đánh giá hiệu quả điều trị dựa trên
trắc nghiệm cơ cảm giác và độ tàn cho thấy, việc
điều trị cơn phản ứng phong bằng prednisolone
chưa mang lại sự khác biệt có ý nghĩa cho bệnh
nhân. Tuy vậy, cần phải có những nghiên cứu
mở rộng với số lượng bệnh nhân nhiều hơn để
làm rõ những kết quả của nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kumar B (2004), “Epiderniological characteristics of leprosy
reactions: 15 years experience from north India”,
International Journal of Leprosy and Other Mycobacterial
Diseases. 72 (2), pp.125—133.
2. Lambert SM (2014), “Assessing Ciclosporin in the Treatment
of Leprosy Reactions: Evidence from a Randomized
Controlled Trial and Other Studies”, PLoS Negl Trop Dis.
2016 Feb; 10(2).
3. Naafs B (2006), “Treatment of Leprosy: science or
politics?”, Trop Med Int Health 11: pp.268–278.
4. Nguyễn Văn Thục (2000), “Phản ứng phong và tổn hại thần
kinh ở Đoàn hệ bệnh nhân phong mới phát hiện năm 1996
tại TP. HCM sau 4 năm theo dõi”, Tài liệu Sinh hoạt Khoa học
kỹ thuật Da liễu Khu vực phía Nam, quý IV năm 2000, tr.1-22.
5. Schreuder PA (1998), “The occurrence of reactions and
impairments in leprosy: experiences in the leprosy control
program of three provinces in North-eastern Thailand
(1978–1995)”, International Journal of Leprosy 66, pp.159–169.
6. Shen J, Liu M, Zhou M & Wengzhong L (2009), “Occurrence
and management of leprosy reaction in China in 2005”,
Leprosy Review. 80 (2), pp.164–169.
7. Van Veen N, Nicholls PG, Smith W, Richardus JH
(2007), “Corticosteroids for treating nerve damage in
leprosy. (A Cochrane review)”, Lepr Rev 79, pp.361–71.
WHO (1998), “WHO Model Prescribing Information: Drugs
Used in Leprosy”.
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_viec_ap_dung_va_hieu_qua_cua_phac_do_dieu_tri_con_p.pdf