Tài liệu Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 9
KHẢO SÁT TỶ LỆ SUY YẾU VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA SUY YẾU
VỚI KẾT CỤC LÂM SÀNG NGẮN HẠN Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI
ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA
Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Thị An**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong hoàn cảnh lão hóa của dân số toàn cầu, tỷ lệ suy yếu trong dân số ngày càng tăng
và suy yếu dự báo nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như: tình trạng té ngã, khuyết tật, sống phụ thuộc,
tăng số lần nhập viện, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, suy yếu chưa được quan tâm đúng mức trong thực
hành lâm sàngLão khoa.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo thang điểm đánh giá suy yếu lâm sàng CFS (Clinical Frailty Scale).
Mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại khoa Nội
Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão học Bệnh viện Bà Rịa.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, tiế...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 571 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại bệnh viện Bà Rịa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 9
KHẢO SÁT TỶ LỆ SUY YẾU VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA SUY YẾU
VỚI KẾT CỤC LÂM SÀNG NGẮN HẠN Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI
ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA
Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Thị An**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong hoàn cảnh lão hóa của dân số toàn cầu, tỷ lệ suy yếu trong dân số ngày càng tăng
và suy yếu dự báo nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như: tình trạng té ngã, khuyết tật, sống phụ thuộc,
tăng số lần nhập viện, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, suy yếu chưa được quan tâm đúng mức trong thực
hành lâm sàngLão khoa.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo thang điểm đánh giá suy yếu lâm sàng CFS (Clinical Frailty Scale).
Mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại khoa Nội
Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão học Bệnh viện Bà Rịa.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, tiến hành trên 370 người bệnh cao
tuổi (≥ 65 tuổi) điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa, trong
thời gian 6 tháng, từ tháng 10/2017 đến 3/2018. Dùng thang suy yếu lâm sàng CFS để đánh giá suy yếu.
Kết quả: Tỷ lệ suy yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2% (suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ
suy yếu nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn: thời gian
nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo mức độ suy yếu.
Kết luận: CFS đơn giản, dễ thực hiện, tiên đoán được kết cục lâm sàng Lão khoa.
Từ Khóa: Clinical Frailty Scale, Suy yếu, người bệnh cao tuổi
ABSTRACT
ASSESSMENT OF PREVALENCE OF FRAILTY AND SHORT-TERM CLINICAL OUTCOME OF
FRAILTY IN THE OLDER INPATIENTS AT BA RIA HOSPITAL
Nguyen Ngoc Hoanh My Tien, Than Ha Ngoc The, Nguyen Thi An
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 9-14
Background: In the context of global population aging, the rate of frailty in the population is increasing and
frailty predicts high-risk health disabilities such as falls, disabilities, dependence, number of hospitalizations, even
death. However, frailty has not been properly addressed in Geriatric clinical practice.
Objectives: To investigate the prevalence of frailty and factors associated with frailty.
Methods: Descriptive, cross-sectional, and longitudinal follow-up of 370 elderly patients (≥ 65 years-old),
treated inpatient at the department of General Medicine and Cardiology Department at Ba Ria hospital, from
October 2017 to March 2018. Using the CFS to assess frailty.
Results: The prevalence of frailty elderly patients assessed by the CFS was 66.2%. In which, mild – average
frailty was 53.2%, severe - very severe frailty was 13%. There was a correlation between severity and short-term
clinical outcomes: duration of hospitalization, re-hospitalization at 3 months post-discharge and general mortality
increased with decreasing levels.
Conclusions: CFS is simple, easy to practice, predicts clinical gerontological outcomes.
Keywords: clinical frailty scale, frailty, elderly patient
*Bộ môn Lão khoa, Khoa Y, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Bà Rịa
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị An ĐT: 0988862005 Email: nguyenan0574@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 10
ĐẶT VẤN ĐỀ
Có hơn 20 công cụ chẩn đoán suy yếu khác
nhau, việc chọn một công cụ giúp chẩn đoán
nhanh suy yếu và có khả năng dự báo các kết
quả bất lợi về sức khỏe của người cao tuổi (NCT)
là rất cần thiết trong thực hành lâm sàng.
Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về
suy yếu ở người bệnh cao tuổi nằm viện. Các
nghiên cứu này hoặc sử dụng công cụ chẩn
đoán suy yếu tương đối phức tạp, tốn nhiều
thời gian như Fried, đánh giá lão khoa toàn
diện (CGA) hoặc sử dụng công cụ tầm soát
suy yếu khá đơn giản và chủ quan như
chương trình nghiên cứu triển khai các dịch vụ
duy trì tính tự chủ của người cao tuổi
PRISMA-7, GFI (Groningen Frailty Indicator)
trong khi công cụ thang suy yếu lâm sàng CFS
(Clinical Frailty Scale) chưa được sử dụng
trong nghiên cứu nào mặc dù thường được các
bác sĩ lâm sàng sử dụng(1,3). Do đó, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này để tìm hiểu tình
hình suy yếu của người bệnh cao tuổi điều trị
nội trú như thế nào và suy yếu có liên quan ra
sao với kết cục lâm sàng ở người bệnh cao tuổi
với công cụ chẩn đoán suy yếu là CFS.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
NCT (≥ 65 tuổi) điều trị tại các khoa Nội:
Tổng Hợp, Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa,
từ tháng 10/2017 đến 03/2018.
Đối tượng chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Người cao tuổi có khả năng giao tiếp hoặc có
thân nhân nắm rõ tình trạng bệnh.
Đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Hôn mê, ra viện còn hôn mê và không có
hoặc thân nhân không biết rõ về tình trạng bệnh
Bệnh nhân cụt hai tay hoặc cụt hai chân hoặc
mù hai mắt.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc,
chọn mẫu thuận tiện.
Các biến số
Suy yếu
biến định tính, 2 giá trị: Không suy yếu, CFS
1 – 4, Có suy yếu, CFS 5 – 8.
Mức độ suy yếu
Phân thành 3 nhóm(4): Nhóm 1: không suy
yếu, CFS từ mức 1-4. Nhóm 2: suy yếu nhẹ đến
trung bình, CFS từ mức 5-6 . Nhóm 3: suy yếu
nặng đến rất nặng, CFS từ mức 7-8.
CFS 9 điểm loại khỏi nghiên cứu vì đây là
bệnh giai đoạn cuối hơn là suy yếu.
Tái nhập viện
Biến nhị giá có/không.
Bệnh nhân nhập viện ở bất cứ bệnh viện nào
sau xuất viện và lưu lại bệnh viện ít nhất một
đêm do mọi nguyên nhân. Theo CMS (Centers
for Medicare and Medicaid Services) ngoại trừ
các trường hợp sau(3):
Ngày nhập viện lại cùng ngày với ngày xuất
viện và lý do nhập viện cũng là lý do nhập viện
của lần trước.
Nhập vào để điều trị phục hồi chức năng.
Được chẩn đoán tâm thần lần đầu.
Nhập vào để điều trị bệnh ung thư hoặc theo
lịch hẹn để tiến hành các thủ thuật, phẫu thuật.
Tử vong
Biến nhị giá có/không.
Tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào ngoại
trừ tử vong do tai nạn giao thông, tai nạn sinh
hoạt, do thiên tai.
Biến tử vong gồm tử vong nội viện và tử
vong tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện. Do
biến tử vong nội viện chỉ gồm 2 trường hợp: 1
bệnh nhân 76 tuổi tử vong do xuất huyết não
(CFS: 4) và 1 bệnh nhân 80 tuổi tử vong do hội
chứng Stevens-Johnson (CFS: 5) nên chúng tôi
gộp biến tử vong tại thời điểm tháng sau xuất
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 11
viện và biến tử vong nội viện thành biến tử
vong chung.
Bộ câu hỏi thu thập số liệu
Đánh giá suy yếu theo CFS.
Phương pháp xử lý số liệu
Nhập số liệu Epidata 3.1 và xử lý số liệu
Stata 14. So sánh biến định tính: phép kiểm chi
bình phương. So sánh biến định lượng: phép
kiểm t – test, Anova. Dùng hồi quy Logistic đa
biến để khử yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng liên
quan mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2017
đến 03/2018, chúng tôi thu thập được 370 bệnh
nhân NCT thỏa các tiêu chí chọn mẫu, kết quả
được trình bày trong các bảng 1 – bảng 6.
Bảng 1. Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu (n = 370)
Biến số Tần số Tỷ lệ %
Giới
Nam 130 35,1
Nữ 240 64,9
Tuổi trung bình (trung bình ± độ lệch chuẩn) 76,7 ± 7,6
Nhóm tuổi
60-69 86 23,2
70-79 131 35,4
≥ 80 153 41,4
Chỉ số BMI (trung bình ± độ lệch chuẩn) 21,3 ± 3,4
BMI
Thiếu cân (BMI ≤ 18,5) 79 21,4
Bình thường (18,5 < BMI < 23) 186 50,2
Thừa cân, béo phì (BMI ≥ 23) 105 28,4
Tình trạng hôn nhân
Chưa kết hôn/ly dị/góa 193 52,2
Đang sống bạn đời 177 47,8
Hoàn cảnh sống
Sống một mình 18 4,8
Sống cùng người thân 352 95,2
Nơi sống
Thành thị 129 34,9
Nông thôn 241 65,1
Chế độ ăn Nghèo nàn 99 26,8
Đầy đủ 271 73,2
Trình độ học vấn
Không biết chữ 67 18,1
Chưa tốt nghiệp PTTH 278 75,1
Tốt nghiệp PTTH, cao đẳng, đại học 25 6,8
Rượu, bia
Không/uống mức độ vừa phải 352 95,1
Uống nhiều 18 4,9
Thuốc lá
Không hút/đã bỏ 319 86,2
Hiện đang hút 51 13,8
Tình trạng đa thuốc
Có 134 36,2
Không 236 63,8
Tình trạng đa bệnh (trung bình ± độ lệch chuẩn) 3,2 ± 2,1
Bảng 2. Tỷ lệ mức độ suy yếu
Không suy yếu Suy yếu nhẹ - trung bình Suy yếu nặng – rất nặng
n (%) 125 (33,8) 197 (53,2) 48 (13)
Bảng 3. Kết cục lâm sàng
Không suy yếu
n = 125
Suy yếu nhẹ -
trung bình n = 197
Suy yếu nặng –
rất nặng n = 48
P
Số ngày nằm viện (Trung vị, khoảng tứ phân vị) 4 (3 – 5) 5 (3 – 7) 7 (5 – 9) < 0,001
Tái nhập viện n (%) 25 (20) 86 (43,7) 22 (45,8) < 0,001
Tử vong chung n (%) 3 (2,4) 12 (6,1) 6 (12,5) < 0,05
* Số ngày nằm viện bị phân phối lệch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 12
Bảng 4. Các yếu tố liên quan thời gian nằm viện
Thời gian nằm viện
P
Hệ số KTC 95%
Không suy yếu 1
Suy yếu nhẹ - trung bình 1,6 0,5 – 2,7 < 0,05
Suy yếu nặng – rất nặng 4,1 2,5 – 5,7 < 0,001
Tuổi - 0,02 - 0,08 – 0,04 > 0,05
Giới 0,97 0,02 – 1,9 < 0,05
Tình trạng đa thuốc - 0,1 -1,1 – 0,8 > 0,05
Tình trạng đa bệnh 0,1 - 0,1 – 0,4 > 0,05
Bảng 5. Các yếu tố liên quan tái nhập viện
Tái nhập viện
P
OR KTC 95%
Không suy yếu 1
Suy yếu nhẹ - trung bình 4,1 2,2 – 7,5 < 0,001
Suy yếu nặng – rất nặng 4,9 2,1 – 11,2 < 0,001
Giới 1,3 0,8 – 2,1 > 0,05
Tuổi 0,95 0,92 – 0,99 < 0,05
Tình trạng đa thuốc 1,1 - 0,7 – 1,8 > 0,05
Tình trạng đa bệnh 1 0,9 – 1,1 > 0,05
Bảng 6. Các yếu tố liên quan tử vong
Tử vong
P
OR KTC 95%
Không suy yếu 1
Suy yếu nhẹ - trung bình 6,8 1,5 – 29,8 < 0,05
Suy yếu nặng – rất nặng 15,2 2,7 – 85,6 < 0,05
Tuổi 0,9 0,8 – 0,98 > 0,05
Giới 4,3 1,6 – 11,7 < 0,05
Tình trạng đa thuốc 0,6 0,2 – 1,6 > 0,05
Tình trạng đa bệnh 1,0 0,8 – 1,3 > 0,05
BÀN LUẬN
Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi
Chúng tôi nghiên cứu trên 370 bệnh nhân
ghi nhận có 125 bệnh nhân không suy yếu
(33,8%); bệnh nhân suy yếu nhẹ - trung bình là
197 (53,2%); suy yếu nặng – rất nặng 48 (13%).
Juma S và cộng sự (2016) nghiên cứu 75 bệnh
nhân ≥ 65 tuổi (tuổi trung bình 81.3 ± 8.8) tại
bệnh viện Ontario, Canada ghi nhận tỷ lệ không
suy yếu, suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng
– rất nặng lần lượt là: 28%; 50,67%; 21,33%(5). Tỷ
lệ suy yếu nặng – rất nặng của nghiên cứu này
cao hơn của chúng tôi, tuy nhiên tuổi trung bình
của đối tượng tham gia nghiên cứu lớn hơn của
chúng tôi (76,7 ± 7,6).
Hartley P và cộng sự (2016) khảo sát trên 493
bệnh nhân ≥ 75 tuổi tại một bệnh viện Anh quốc
ghi nhận tỷ lệ suy yếu nhẹ - trung bình là
47,67%; suy yếu nặng – rất nặng 27,7%(4), tỷ lệ
suy yếu nặng – rất nặng trong nghiên cứu này
cũng cao hơn chúng tôi. Kết quả này là bằng
chứng giúp cũng cố mối liên quan giữa suy yếu
và tuổi.
Mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục
lâm sàng ngắn hạn
Thời gian nằm viện
Chúng tôi ghi nhận thời gian nằm viện của
bệnh nhân có liên quan đến mức độ suy yếu:
nhóm suy yếu nặng có thời gian nằm viện dài
nhất, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P < 0,001.
Vậy thời gian nằm viện trong nghiên cứu
của chúng tôi ngắn hơn so với tác giả Juma, điều
này có thể do tình trạng bệnh đông, chật chội,
chúng tôi phải cho xuất viện sớm. Tuy nhiên cả
hai nghiên cứu đều cho thấy khi bệnh nhân có
suy yếu thì thời gian nằm viện sẽ dài hơn.
Sau phân tích hồi qui đa biến để khử các yếu
tố có thể ảnh hưởng lên thời gian nằm viện (tuổi,
giới, tình trạng đa thuốc và đa bệnh) chúng tôi
ghi nhận mức độ suy yếu có ảnh hưởng lên thời
gian nằm viện: thời gian nằm viện của nhóm suy
yếu nặng lớn hơn thời gian nằm viện của nhóm
suy yếu nhẹ - trung bình và lớn hơn thời gian
nằm viện của nhóm không suy yếu.
Khandelwal D và cộng sự (2012) nghiên cứu
trên 250 người bệnh cao tuổi nhập viện và cũng
đã ghi nhận những bệnh nhân suy yếu có thời
gian nằm viện dài hơn(6).
Wallis S.J và cộng sự (2015) ghi nhận mức độ
suy yếu có ảnh hưởng tới thời gian nằm viện với
OR 1,19; khoảng tin cậy 95% 1,14 – 1,23;
P<0,001(7).
Tái nhập viện
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 13
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001.
Tái nhập viện của nhóm suy yếu nhẹ -
trung bình và suy yếu nặng – rất nặng của
chúng tôi cao hơn Juma, nhưng cả hai nghiên
cứu đều ghi nhận có mối liên quan giữa suy
yếu và tỷ lệ tái nhập viện.
Qua so sánh về thời gian nằm viện và tỷ lệ
tái nhập viện của nghiên cứu chúng tôi với tác
giả Juma S, chúng tôi ghi nhận: thời gian nằm
viện của chúng tôi ngắn hơn, tuy nhiên tỷ lệ tái
nhập viện cao hơn, điều này hướng chúng tôi
phải nhìn lại vấn đề xuất viện sớm của chúng tôi
để có sự điều chỉnh hợp lý.
Bagshaw và cộng sự (2014) khảo sát trên 421
bệnh nhân đã ghi nhận tỷ lệ tái nhập viện của
nhóm suy yêu (CFS > 4) 56% cao hơn nhóm
không suy yếu (CFS ≤ 4) 39% với OR 1,98;
khoảng tin cậy: 95% 1,22 – 3,23(2).
Vậy đánh giá suy yếu theo CFS có khả
năng dự báo nguy cơ tái nhập viện ở người
bệnh cao tuổi.
Tử vong chung
Conroy và cộng sự (2013) khảo sát trên
người bệnh cao tuổi nhập viện vì các bệnh nội
khoa ghi nhận suy yếu theo CFS có liên quan tử
vong sau 3 tháng với OR 1,4; khoảng tin cậy
95%: 1,3 – 1,5(2).
Nghiên cứu của Basic D và cộng sự (2015)
trên 2.125 người bệnh cao tuổi nhập viện ghi
nhận thang suy yếu CFS có khả năng tiên đoán tử
vong (OR = 2,97; khoảng tin cậy 95%: 2,11 - 4,17)(1).
Tác giả Wallis S.J và cộng sự (2015) khảo sát
5.764 bệnh nhân tuổi ≥ 75 nhập viện vì các bệnh
nội khoa đã kết luận rằng suy yếu theo CFS có
khả năng tiên đoán độc lập tử vong ở bệnh nhân
nội trú với OR = 1,60; khoảng tin cậy 95%: 1,48 –
1,74; P < 0,001 (sau khi hiệu chỉnh các yếu tố tuổi,
giới, chỉ số đa bệnh lý Charlson)(7).
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có mối liên
quan giữa mức độ suy yếu và tử vong chung:
nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng -
rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với nhóm
không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%: 1,5 –
29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
Vậy kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với
các nghiên cứu khác trên thế giới. Với kết quả
này một lần nữa chứng minh suy yếu theo CFS
là yếu tố nguy cơ có thể dự báo tử vong ở NCT.
Việc tầm soát suy yếu ở tất cả người bệnh
cao tuổi nhập viện để có kế hoạch chăm sóc và
đánh giá nguy cơ rủi ro đối với các phương
pháp điều trị hoặc can thiệp y tế là rất cần thiết.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 370
người bệnh cao tuổi điều trị nội trú các bệnh nội
khoa tại bệnh viện Bà Rịa ghi nhận. Tỷ lệ suy
yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2%
(suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ suy yếu
nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa
mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn:
thời gian nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3
tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo
mức độ suy yếu.
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001.
Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu và tử
vong chung: nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy
yếu nặng - rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với
nhóm không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%:
1,5 – 29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 14
-TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Basic D, Shanley C (2015). “Frailty in an older inpatient
population: using the clinical frailty scale to predict patient
outcomes”. J Aging Health, 27(4):670-85.
2. Conroy S, Dowsing T (2013). “The Ability of Frailty to Predict
Outcomes in Older People Attending an Acute Medical Unit”.
Acute Medicine ; 12(2): 74-76
3. Gregorevic KJ, Hubbard RE, Lim WK (2016). “The clinical
frailty scale predicts functional decline and mortality when used
by junior medical staff: a prospective cohort study”. BMC
Geriatr, 16: 117.
4. Hartley P, Adamson J, Cunningham C et al (2017). “Clinical
frailty and functional trajectories in hospitalized older adults: A
retrospective observational study”. Geriatr Gerontol Int,
17(7):1063-1068.
5. Juma S, Taabazuing MM, Montero-Odasso M (2016). “Clinical
Frailty Scale in an Acute Medicine Unit: a Simple Tool That
Predicts Length of Stay”. Can Geriatr J, 19(2):34-9
6. Khandelwal D, Goel A, Kumar U et al (2012). “Frailty is
associated with longer hospital stay and increased mortality in
hospitalized older patients”. J Nutr Heatlh Aging, 16(8):732–35.
15
7. Wallis SJ, Wall J, Biram RWS et al (2015). “Association of the
clinical frailty scale with hospital outcomes”. An International
Journal of Medicine, Volume 108, Issue 12, 943-949. 32.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 009_2363_2166350.pdf