Tài liệu Khảo sát tình trạng loãng xương ở nam giới tại khoa nội cơ xương khớp Bệnh viện Thống Nhất: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 125
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG LOÃNG XƯƠNG Ở NAM GIỚI
TẠI KHOA NỘI CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Đinh Thị Việt*, Huỳnh Thị Huỳnh*, Nguyễn Trung Kiên*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: khảo sát tình trạng loãng xương ở nam giới điều trị nội trú tại khoa nội cơ xương
khớp bệnh viện Thống Nhất.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang, tiến cứu. Đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA tại cổ
xương đùi và cột sống thắt lưng.
Kết quả: nghiên cứu trên 266 bệnh nhân nam giới điều trị nội trú tại khoa nội cơ xương khớp bệnh viện
Thống Nhất từ tháng 3/2015 đến tháng 8/2016 nhận thấy: Loãng xương chiếm tỉ lệ 35,3%, thiếu xương 47,4%,
bình thường 17,3%. Những người hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít vận động thể dục thể thao, tiền căn gãy
xương có tỉ lệ loãng xương và thiếu xương cao hơn người có mật độ xương bình thường có ý nghĩa thống kê. Lạm
dụng rượu...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình trạng loãng xương ở nam giới tại khoa nội cơ xương khớp Bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 125
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG LOÃNG XƯƠNG Ở NAM GIỚI
TẠI KHOA NỘI CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Đinh Thị Việt*, Huỳnh Thị Huỳnh*, Nguyễn Trung Kiên*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: khảo sát tình trạng loãng xương ở nam giới điều trị nội trú tại khoa nội cơ xương
khớp bệnh viện Thống Nhất.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang, tiến cứu. Đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA tại cổ
xương đùi và cột sống thắt lưng.
Kết quả: nghiên cứu trên 266 bệnh nhân nam giới điều trị nội trú tại khoa nội cơ xương khớp bệnh viện
Thống Nhất từ tháng 3/2015 đến tháng 8/2016 nhận thấy: Loãng xương chiếm tỉ lệ 35,3%, thiếu xương 47,4%,
bình thường 17,3%. Những người hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít vận động thể dục thể thao, tiền căn gãy
xương có tỉ lệ loãng xương và thiếu xương cao hơn người có mật độ xương bình thường có ý nghĩa thống kê. Lạm
dụng rượu bia làm tăng khả năng mắc loãng xương gấp 2,907 lần người bình thường (P= 0,011), tiền căn gãy
xương làm tăng khả năng mắc loãng xương gấp 3,290 lần người bình thường (P= 0,007). Trong các bệnh mạn
tính đi kèm thì tăng huyết áp, bệnh khớp mạn, đái tháo đường chiếm tỉ lệ cao (63,5%- 52,6%- 21,1%). Tỉ lệ bệnh
nhân bị loãng xương và thiếu xương cao hơn người bình thường ở nhóm có bệnh đi kèm là tăng huyết áp, đái
tháo đường có ý nghĩa thống kê (P= 0,029- 0,002). Testosterone máu thấp chiếm tỉ lệ 28,6%, tuổi càng cao tỉ lệ
testosterone máu thấp càng tăng, không tìm thấy mối liên hệ giữa testosterone máu thấp với mật độ xương.
Từ khóa: loãng xương, testosterone
ABSTRACT
ASSESSMENT THE STATE OF OSTEOPOROSIS IN MALE INPATIENTS AT THỐNG NHẤT
HOSPITAL, RHEUMATOLOGY DEPARTMENT
Dinh Thi Viet, Huynh Thi Huynh, Nguyen Trung Kien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 6 - 2016: 125 - 131
Objectives: Assess the state of osteoporosis in male inpatients at Thống Nhất hospital, Rheumatology
department.
Method: descriptive, cross-sectional, prospective. Measuring bone mineral density by DEXA at the femoral
neck or lumbar spine.
Result: researched on 266 male inpatients in Rheumatology Department from March 2015 to August 2016.
The prevalence of osteoporosis was 35.3%, osteopenia 47.4%, normal bone 17.3%. Smoking, alcohol abuse, less
physical activity, history of fracture wa s associated with higher rate of osteoporosis and osteopenia, and this was
statically significant. Alcohol abuse increased likelihood of developing osteoporosis 2.907 times than normal
(P=0.011), history of fracture increased likelihood of developing osteoporosis 3.290 times than normal (P=0.007).
Hypertension, chronic arthritis, diabetes had high percentage in accompanying chronic diseases (63.5%- 52.6%-
21.1% respectively). The percentage of patients with osteoporosis and osteopenia were higher than normal in
group with comorbidities like hypertension, diabetes, and it was statically significant. Low blood testosterone was
28.6%, lower blood testosterone increased with older age. The association between low blood testosterone and bone
*Khoa Nội Cơ Xương Khớp, Bệnh viện Thống Nhất
Tác giả liên lạc: Bs Nguyễn Trung Kiên ĐT: 38642142 Email: khth232@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 126
mineral density was not statistically significant.
Key word: osteoporosis, testosterone
ĐẠI CƯƠNG
Loãng xương là một trong các bệnh lý xương
khớp thường gặp ở người cao tuổi. Khi tuổi thọ
trung bình tăng lên thì sẽ tăng đối mặt với
những vấn đề bệnh lý xương khớp trong đó
loãng xương hay gặp với tỉ lệ cao. Xu hướng này
không chỉ dành cho các quốc gia công nghiệp mà
còn ảnh hưởng đến các nước đang phát triển. Ở
Mỹ, loãng xương ảnh hưởng tới 24 triệu người,
trong đó 10 triệu người đã bị loãng xương, 14
triệu người có khối lượng xương thấp, gợi ý gia
tăng nguy cơ mắc bệnh ngày càng cao hơn.
Loãng xương ảnh hưởng đến 1,5 triệu gãy
xương mỗi năm, trong đó hơn 500.000 gãy
xương cột sống, 300.000 gãy xương hông, 200.000
gãy xương cổ tay và 300.000 gãy xương ở các vị
trí khác. Xấp xỉ 37.500 người chết mỗi năm sau
các biến cố liên quan đến gãy xương do loãng
xương. Loãng xương cũng dẫn đến việc cần 44
triệu bệnh nhân cần y tá chăm sóc tại nhà và 13,8
tỉ đô la chi phí chăm sóc sức khỏe thường niên
vào năm 1995. Chi phí y tế trực tiếp liên quan
đến gãy xương hông ở nam ước tính đến 5,4 tỉ
đô la, ở nữ là 7,4 tỉ đô la(3).
Ước tính có từ 6- 10 % nam giới trên 50 tuổi
có biểu hiện loãng xương và có khoảng 1/5 nam
giới trên 50 tuổi có khả năng bị gãy xương do
loãng xương trong suốt thời gian còn lại của đời
sống. So với nữ giới, nam giới có tuổi thọ thấp
hơn, tỉ lệ nam giới chỉ bằng một nửa so với nữ
giới cùng độ tuổi 65, tỉ lệ nam giới gãy xương
hông xảy ra chỉ bằng 1/3 so với nữ giới nhưng tỉ
lệ tử vong lại nhiều hơn sau khi đã gãy xương
hông và 20% nam đã gãy xương hông sẽ có nguy
cơ gãy xương hông còn lại tiếp theo. Gãy xương
cột sống cũng thường gặp ở nam giới lớn tuổi
nhưng tỉ lệ chỉ bằng khoảng một nửa so với nữ ở
cùng độ tuổi 65 tuổi(4).
Sự bảo tồn thớ cơ ở nam giới có thể giải thích
nguy cơ gãy xương suốt đời thấp hơn. Loãng
xương ở nam giới thường có nguyên nhân thứ
phát mà thường gặp là lạm dụng rượu, lạm
dụng corticosteroid, suy tuyến sinh dục. Có đến
40% loãng xương ở nam giới là không tìm được
nguyên nhân và được coi là loãng xương nguyên
phát. Ở nam giới mất cơ xương bắt đầu sớm,
cùng với sự thay đổi yếu tố phát triển giống
insulin-1 (the insulin-like growth factor 1, IGF-1)
liên quan đến giảm testosterone sinh học.
Testosterone là một hormon do tinh hoàn bài
tiết, có tác dụng đồng hóa, phát triển khối cơ, đối
với xương làm tăng tổng hợp khung protein của
xương, phát triển và cốt hóa sụn liên hợp ở đầu
xương dài, làm dày xương, tăng lắng đọng muối
calci phosphate ở xương. Khi có tuổi, tất cả các
cơ quan, hệ thống trong cơ thể dần suy giảm,
testosterone là một chất nội tiết cũng giảm theo
thời gian. Testosterone thấp có liên quan đến
những thay đổi không mong muốn cho các
thành phần cơ thể như gia tăng béo bụng, giảm
khối cơ. Béo bụng lại làm gia tăng nguy cơ tim
mạch và các vấn đề như chuyển hóa, đái tháo
đường. Rượu làm giảm sự hình thành xương và
cản trở khả năng hấp thu calci của cơ thể.
Cortisol trong máu ức chế sự hình thành xương
do giảm quá trình tăng sinh tế bào, giảm sinh
tổng hợp RNA, protein, collagen của xương.
Thuốc lá làm giảm quá trình tạo xương, giảm
hấp thu calci và chuyển hóa VitD, làm giảm
nồng độ VitD trong máu, làm bất hoạt estradiol
tại gan, làm giảm hoạt tính của estrogen lên quá
trình tạo xương.
Nhiều nước trên thế giới đã có những nghiên
cứu đánh giá loãng xương ở nam giới liên quan
đến BMD, chỉ số sức cơ chi dưới và các yếu tố
nguy cơ như hút thuốc lá, lạm dụng rượu, lạm
dụng corticosteroid, vận động thể lực. Tại Việt
Nam các nghiên cứu về loãng xương ở nam giới
đã được quan tâm, tuy nhiên mới chỉ tập trung ở
một số đối tượng bệnh nhân mắc bệnh lý cơ
xương khớp mạn tính hoặc chỉ nghiên cứu về
các bệnh lý đi kèm ở người cao tuổi như tăng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 127
huyết áp, đái tháo đường mà ít nhắc đến mối
liên quan với testosterone.
Mục tiêu nghiên cứu
Tỉ lệ loãng xương ở nam giới.
Mối liên quan giữa loãng xương với bệnh lý
đi kèm và các yếu tố nguy cơ của loãng xương.
Sự tương quan giữa testosterone, các yếu tố
nguy cơ của loãng xương với loãng xương.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả cắt ngang, tiến cứu.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Nam giới ≥ 40 tuổi điều trị nội trú tại khoa
nội cơ xương khớp bệnh viện Thống Nhất từ
tháng 3/2015 đến tháng 8/2016.
Tiêu chuẩn loại trừ: BN không đồng ý tham
gia nghiên cứu, BN có bệnh nặng nằm bất động
lâu ngày, BN đã và đang dùng thuốc điều trị
chống hủy xương hoặc đang dùng liệu pháp
hormon thay thế testosterone.
Thu thập số liệu
Ghi nhận các đặc điểm lâm sàng của BN:
Tuổi, chiều cao, cân nặng, BMI .
Bệnh lý đi kèm: THA, ĐTĐ, bệnh thận mạn,
bệnh phổi mạn, bệnh khớp mạn.
Yếu tố nguy cơ: lạm dụng rượu, thuốc lá, lạm
dụng corticoid, ít vận động thể lực.
Lạm dụng rượu: uống trên 80g rượu/ngày
Số gram rượu = V(ml)*40*0,8
Trong đó: Độ rượu trắng của nước ta tương
đương độ rượu Whisky.
10g rượu tương đương 30 ml Whisky =
100ml rượu vang = 200ml bia.
Đang hút thuốc lá: Đã hút > 100 điếu trong
đời và trong một năm nay có hút thuốc mỗi ngày
hoặc thỉnh thoảng .
Sử dụng corticoid kéo dài: uống
prednisolone ≥ 5mg mỗi ngày hoặc liều tương
đương kéo dài ≥ 3 tháng.
Ít vận động thể lực: khi vận động thể chất
nhẹ nhàng không đủ 30 phút* 5 ngày/tuần hoặc
vận động thể lực mạnh 20 phút* 3 lần/tuần.
Đo mật độ xương bằng phương pháp hấp
thu tia X năng lượng kép (DEXA) tại cột sống
thắt lưng hoặc cổ xương đùi. Theo tiêu chuẩn
chẩn đoán loãng xương của Tổ chức Y tế Thế
giới năm 1994:
Bình thường: T- score > -1 SD
Thiếu xương: T-score từ -1 đến -2,5 SD
Loãng xương: T- score < -2,5 SD
Loãng xương nặng: Loãng xương kèm tiền
sử hoặc hiện tại có gãy xương.
Xét nghiệm testosterone và calci trong máu
vào sáng sớm lúc nhịn đói. Kết quả là bình
thường khi testosterone 3-10ng/ml, calci toàn
phần máu 2,15-2,6mmol/l.
Xử lý và phân tích số liệu
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
16.0
Các biến định lượng được trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. Các biến định
tính được trình bày dưới dạng %.
Dùng phép kiểm chi bình phương cho biến
số định tính, phép kiểm T- test cho biến định
lượng, hồi qui nhị phân cho mối tương quan
giữa các biến liên tục, tính OR để đánh giá khả
năng mắc loãng xương ở nam giới với các yếu tố
nguy cơ.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi P < 0,05
KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Tổng số BN: 266
Phân bố BN theo nhóm tuổi
Bảng 1: Phân bố tuổi
Tuổi N %
40 - 49 15 5,6%
50 - 59 41 15,4%
60 - 69 58 21,8%
70 - 79 73 27,4%
80 - 89 73 27,4%
≥ 90 6 2,3%
Tổng cộng 266 100%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 128
BMI
BMI trung bình 22,62 ± 2,78, thấp nhất 14, cao
nhất 32.
Bảng 2: BMI
Chỉ số BMI N %
Gầy <18,5 20 7,5%
Bình thường 18,5-25 206 77,4%
Thừa cân- béo phì >25 40 15,1%
Tổng cộng 266 100%
Bảng 3: Tỉ lệ loãng xương:
N %
Bình thường 46 17,3%
Thiếu xương 126 47,4%
Loãng xương 94 35,3%
Tổng cộng 266 100%
Bảng 4: Yếu tố nguy cơ của loãng xương:
N %
Hút thuốc lá 45 16,9%
Lạm dụng rượu bia 22 8,3%
Sử dụng Corticoid kéo dài 15 5,6%
Ít vận động thể dục- thể thao 184 69,2%
Tiền căn gãy xương 21 7,9%
Bảng 5: Bệnh lý kèm theo
N %
Tăng huyết áp 169 63,5%
Đái tháo đường 56 21,1%
Bệnh thận mạn 23 8,6%
Bệnh phổi mạn 27 10,2%
Bệnh khớp mạn 140 52,6%
Bảng 6: Chỉ số sinh hóa máu
Nồng độ Bình thường Thấp
N % N %
Testosterone 190 71,4% 76 28,6%
Calci máu 159 59,8% 107 40,2%
Bảng 7: Thay đổi testosterone theo nhóm tuổi:
Tuổi Testosterone
máu thấp
Testosterone
máu bình thường
P
N % N %
40 - 49 3 1,1% 12 4,5% 0,007
50 - 59 7 2,6% 34 12,8%
60 - 69 18 6,8% 40 15,0%
70 - 79 21 7,9% 52 19,5%
80 - 89 24 9,0% 49 18,4%
≥ 90 3 1,1% 3 1,1%
Tổng 76 28,6% 190 71,4%
Mối liên quan giữa loãng xương với các
bệnh lý đi kèm và các yếu tố nguy cơ ở nam
giới
Bảng 8: Mối liên quan giữa loãng xương với tuổi:
Tuổi Bình
thường
Thiếu
xương
Loãng
xương
P
N % N % N %
40-49 2 0,8% 4 1,5% 9 3,4% 0,016
50-59 7 2,6% 24 9,0% 10 3,8%
60-69 16 6,0% 27 10,2% 15 5,6%
70-79 10 3,8% 37 13,9% 26 9,8%
80-89 9 3,4% 32 12% 32 12,0%
≥90 2 0,8% 2 0,8% 2 0,8%
Tổng 46 17,3% 126 47,4% 94 35,3%
Bảng 9: Mối liên quan giữa loãng xương với BMI:
BMI Bình
thường
Thiếu
xương
Loãng xương P
N % N % N %
Gầy 1 0,4% 8 3,0% 11 4,1% 0,000
Bình
thường
33 12,4% 96 36,1% 77 28,9%
Thừa cân-
béo phì
12 4,5% 22 8,3% 6 2,3%
Tổng cộng 46 17,3% 126 47,4% 94 35,3%
Bảng 10: Mối liên quan giữa loãng xương với các
yếu tố nguy cơ của loãng xương:
Bình
thường
Thiếu
xương
Loãng
xương
P
N % N % N %
Hút thuốc lá 2 0,8% 23 8,6% 20 7,5% 0,006
Lạm dụng rượu
bia
2 0,8% 7 2,6% 13 4,9% 0,010
Sử dụng
corticoid kéo dài
2 0,8% 6 2,3% 7 2,6% 0,106
Ít vận động thể
dục- thể thao
27 10,2% 85 32,0% 72 27,1% 0,006
Tiền căn gãy
xương
0 0% 8 3,0% 13 4,9% 0,001
Bảng 11: Mối liên quan giữa loãng xương với các
chỉ số sinh hóa máu
Bình
thường
Thiếu
xương
Loãng
xương
P
N % N % N %
Testosterone
máu thấp
16 6,0% 35 13,2% 25 9,4% 0,051
Calci máu thấp 14 5,3% 53 19,9% 40 15,0% 0,035
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 129
Bảng 12: Mối liên quan giữa loãng xương với các
bệnh lý kèm theo
Bình
thường
Thiếu
xương
Loãng
xương
P
N % N % N %
Tăng huyết
áp
35 13,2% 76 28,6% 58 21,8
%
0,029
Đái tháo
đường
16 6,0% 27 10,2% 13 4,9% 0,002
Bệnh thận
mạn
3 1,1% 10 3,8% 10 3,8% 0,085
Bệnh phổi
mạn
3 1,1% 14 5,3% 10 3,8% 0,096
Bệnh khớp
mạn
28 10,5% 63 23,7% 49 18,4
%
0,053
Bảng 13: Sự tương quan giữa testosterone, các yếu
tố nguy cơ của loãng xương với loãng xương
OR 95%Cl P
Hút thuốc lá 1,589 0,829-3,047 0,051
Lạm dụng rượu bia 2,907 1,193-7,083 0,011
Sử dụng corticoid kéo
dài
1,649 0,579-4,700 0,136
Ít vận động thể dục thể
thao
1,753 0,990-3,104 0,017
Tiền căn gãy xương 3,290 1,311-8,256 0,007
Testosterone máu thấp 0,860 0,490-1,509 0,099
Calci máu thấp 1,161 0,696-1,935 0,088
BÀN LUẬN
Trong tổng số 266 bệnh nhân tham gia
nghiên cứu thì nhóm tuổi 50-89 chiếm tỉ lệ nhiều
nhất (97,6%), đây cũng là nhóm tuổi hay gặp ở
bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Thống Nhất.
Loãng xương chiếm tỉ lệ 35,3%, thiếu xương
47,4%, bình thường 17,3%, tỉ lệ này cũng tương
đương với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh
Thủy tại bệnh viện Trưng Vương (43,6%-32,22%-
14,69%)(7). Nhóm tuổi có tỉ lệ loãng xương cao là
50-59 (3,8%), 60-69 (5,6%), 70-79 (9,8%), 80-89
(12%), tuổi càng cao thì tỉ lệ loãng xương càng
tăng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P=0,016).
Điều đáng chú ý là tỉ lệ thiếu xương chiếm
47,4%, con số này cao hơn hẳn số BN đã được
chẩn đoán loãng xương, điều này dự báo số
người cần được quan tâm nhiều hơn để dự
phòng với vấn đề loãng xương trong tương lai.
Chỉ số BMI ở nam giới đa số trong giới hạn
bình thường chiếm 206 trường hợp (77,4%), theo
Huỳnh Văn Khoa, khi thực hiện nghiên cứu trên
các bệnh nhân nam giới có bệnh lý cơ xương
khớp thì chỉ số BMI cũng đa số ở trong giới hạn
bình thường (84,52%)(2). Trong số các BN loãng
xương thì tỉ lệ BN có BMI bình thường cũng cao
hơn rõ rệt nhóm BMI gầy và thừa cân (28,9%-
4,1%-2,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P=0,000). Khác với nữ giới, đối tượng có tỉ lệ
loãng xương cao hơn ở người có BMI thấp, điều
này nhắc nhở chúng ta ở nam giới dù có BMI
bình thường vẫn có nguy cơ cao bị loãng xương
và cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề loãng
xương ở những đối tượng này.
Các yếu tố nguy cơ của loãng xương ở nam
giới gồm hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, sử
dụng corticoid kéo dài, ít vận động thể dục thể
thao, tiền căn gãy xương. Trong đó ít vận động
thể dục thể thao và hút thuốc lá chiếm tỉ lệ cao
(69,2%-16,9). Trong số những người có các yếu tố
nguy cơ kèm theo này thì tỉ lệ loãng xương và
thiếu xương đều cao hơn người có mật độ xương
bình thường, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê,
duy chỉ có những người sử dụng corticoid kéo
dài thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(P=0,106).
Như vậy những người hút thuốc lá, lạm
dụng rượu bia, ít vận động thể dục thể thao, tiền
căn gãy xương có tỷ lệ loãng xương và thiếu
xương cao hơn người bình thường có ý nghĩa
thống kê. Kết quả này cũng tương tự so với các
nghiên cứu thực hiện tại bệnh viện Chợ Rẫy,
bệnh viện nhân dân Gia Định, bệnh viện Trưng
Vương(2,7,8). Tuy nhiên khi xác định mối liên hệ
giữa các yếu tố nguy cơ này với loãng xương thì
chỉ có yếu tố nguy cơ lạm dụng rượu bia và tiền
căn gãy xương có mối quan hệ có ý nghĩa thống
kê. Cụ thể lạm dụng rượu bia có nguy cơ làm
tăng tỉ lệ loãng xương cao gấp 2,907 lần người
bình thường (OR=2,907; KTC 1,193-7,083;
P=0,011), tiền căn gãy xương có nguy cơ làm tăng
tỉ lệ loãng xương cao gấp 3,290 người bình
thường (OR=3,290; KTC 1,311-8,256; P=0,007).
Các bệnh mạn tính hay đi kèm với loãng
xương ở nam giới là tăng huyết áp, đái tháo
đường, bệnh thận mạn, bệnh phổi mạn, bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 130
khớp mạn. Trong đó tăng huyết áp, bệnh khớp
mạn và đái tháo đường chiếm tỉ lệ nhiều hơn
(63,5%-52,6%-21,1%). Tỉ lệ người bị loãng xương
và thiếu xương đều cao hơn người có mật độ
xương bình thường ở tất cả các nhóm bệnh lý đi
kèm, nhưng chỉ có nhóm tăng huyết áp, đái tháo
đường là có ý nghĩa thống kê (P=0,029-0,00). Tuy
nhiên khi tìm mối liên quan giữa các bệnh lý này
với mật độ xương thì không thấy mối liên hệ.
Về chỉ số sinh hóa máu: Ở nam giới sau 30
tuổi thì nồng độ testosterone giảm dần mỗi năm,
điều này xảy ra một cách tự nhiên(1). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, testosterone máu thấp
chiếm tỉ lệ 28,6%, tuổi càng cao thì tỉ lệ
testosterone máu thấp càng tăng (1,1%-2,6% -
6,8%-7,9%-9,0%), sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (P=0,007). Nhóm testosterone máu thấp thì tỉ
lệ loãng xương và thiếu xương cao hơn nhóm có
testosterone máu bình thường (9,4%-13,2%-
6,0%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(P=0,051). Hormon giới tính gồm estrogen và
testosterone đều tồn tại ở cả 2 giới tuy hàm
lượng có khác nhau, chúng đều quan trong trong
việc duy trì và phát triển khối lượng xương.
Estrogen làm giảm hoạt động và số lượng tế bào
hủy xương, khi nồng độ estrogen tăng làm gia
tăng tân sinh tế bào tạo xương và giảm đáp ứng
của tế bào tạo xương với PTH. Estrogen còn làm
tăng sản xuất yếu tố tăng trưởng II giống insulin
của tế bào tạo xương và có thể điều hòa trực tiếp
việc sản xuất các enzyme tiêu hủy của tế bào hủy
xương. Sự thiếu hụt estrogen tạo điều kiện cho
IL-6 kích thích tế bào hủy xương và làm mất cân
bằng RANKL- OPG. Estrogen tăng lượng OPG
trong máu dẫn đến làm giảm tác dụng của
RANKL do ngăn chúng tiếp cận tế bào hủy
xương. Estrogen làm tăng hoạt động tế bào tạo
xương, tăng lắng đọng calci- phosphate ở xương
và kích thích đầu xương gắn vào thân xương. Ở
nữ mối liên quan giữa estrogen và mật độ xương
rất rõ ràng, nhiều nghiên cứu cho thấy phụ nữ
mãn kinh suy giảm nồng độ estrogen làm tăng tỷ
lệ loãng xương. Ở nam giới càng nhiều tuổi,
nồng độ testosterone càng giảm theo thời gian,
tuy nhiên ảnh hưởng tới mật độ xương không rõ
ràng như estrogen. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, mối liên hệ giữa testosterone máu thấp và
loãng xương ở nam giới không có ý nghĩa thống
kê (OR=0,860; KTC 0,490-1,509; P=0,099), kết quả
này cũng tương tự như kết quả của Huỳnh Văn
Khoa, đó là ở bệnh nhân nam có bệnh lý cơ
xương khớp, suy giảm nồng độ hormone
testosterone có tỉ lệ khá cao (48,8%), nhưng mối
tương quan giữa suy giảm nồng độ testosterone
với giảm mật độ xương không thấy có ý nghĩa
thống kê(2). Theo Arq Bras, ở nam giới trên 50
tuổi, testosterone toàn phần thấp cũng không chỉ
ra nguy cơ loãng xương ở nam giới trên 50 tuổi
Nhóm calci máu thấp thì tỉ lệ loãng xương
và thiếu xương cao hơn nhóm có calci máu
bình thường (15%-19,9%-5,3%), sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê (P=0,035). Theo Lê Thanh
Toàn khi thực hiện nghiên cứu ở đối tượng BN
bị Đái tháo đường thì nhóm calci máu thấp có
tỉ lệ loãng xương cao hơn nhóm calci máu
bình thường(5). Điều này cũng phù hợp với y
văn vì calci là thành phần khoáng tham gia tạo
xương, khi calci máu giảm dẫn tới tuyến cận
giáp tăng hoạt động, làm tăng huy động calci
từ xương ra ngoại vi để duy trì nồng độ calci
máu, dẫn đến calci trong khung xương giảm,
cuối cùng là làm giảm mật độ chất khoáng
xương(1). Tuy nhiên khi phân tích hồi qui để
tìm mối liên hệ giữa calci máu thấp và loãng
xương thì thấy không có ý nghĩa thống kê
(OR=1,161; KTC 0,696-1,935; P=0,088).
KẾT LUẬN
Trong số 266 bệnh nhân nam giới tham gia
nghiên cứu tại khoa nội cơ xương khớp bệnh
viện Thống Nhất thì loãng xương chiếm tỉ lệ
35,3%, thiếu xương 47,4%, bình thường 17,3%.
Tuổi càng cao thì tỷ lệ loãng xương càng tăng
(P=0,016). Các BN được chẩn đoán loãng xương
thì tỉ lệ BN có BMI bình thường cao hơn nhóm có
BMI gầy và thừa cân (P=0,00).
Tỉ lệ loãng xương và thiếu xương cao ở
những người hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 6 * 2016 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Thống Nhất năm 2016 131
vận động thể dục thể thao, tiền căn gãy xương.
Lạm dụng rượu bia làm tăng khả năng mắc
loãng xương gấp 2,907 lần người bình thường
(P=0,011), tiền căn gãy xương làm tăng khả năng
mắc loãng xương gấp 3,290 lần người bình
thường (P=0,007).
Trong các bệnh mạn tính đi kèm thì tăng
huyết áp, bệnh khớp mạn và đái tháo đường
chiếm tỉ lệ cao (63,5%- 52,6%- 21,1%). Tỉ lệ bệnh
nhân bị loãng xương và thiếu xương cao hơn
người có mật độ xương bình thường ở nhóm có
bệnh đi kèm là tăng huyết áp, đái tháo đường có
ý nghĩa thống kê (P=0,029- 0,002).
Testosterone máu thấp chiếm tỉ lệ 28,6%, tuổi
càng cao thì tỉ lệ testosterone máu thấp càng
tăng. Nhóm có testosterone máu thấp thì tỉ lệ
loãng xương và thiếu xương cao hơn người có
mật độ xương bình thường, sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (P=0,051), không tìm thấy
mối liên hệ giữa testosterone máu thấp với mật
độ xương.
Calci máu thấp chiếm tỉ lệ 40,2%, trong
nhóm calci máu thấp thì tỉ lệ loãng xương và
thiếu xương cao hơn nhóm có mật độ xương
bình thường có ý nghĩa thống kê (P=0,035).
Không tìm thấy mối liên hệ giữa calci máu thấp
với loãng xương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn sinh lý học trường đại học Y Hà Nội (2001), Sinh lý học
tập II, Nhà xuất bản y học. tr 119- 134.
2. Huỳnh Văn Khoa (2013), “Đánh giá tình trạng loãng xương,
mối tương quan giữa mật độ xương và hormone giới tính ở
bệnh nhân nam ≥ 50 tuổi tại khoa nội cơ xương khớp bệnh
viện Chợ Rẫy”. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 17(1), tr 170-
174.
3. Iqbal MM (2000), “Osteoporosis: Epidemiology, Diagnosis,
and Treatment”, South Med J, 93(1), p 231 - 240.
4. Kelly JJ, Moses AM (2005), “Osteoporosis in men: the role of
testosterone and other sex- relate factors”, Curr Opin
Endocrinol Dialetes; 12 ( 6 ) p 425- 458.
5. Lê Thanh Toàn (2012), “Nghiên cứu mật độ xương bằng
phương pháp DEXA ở bệnh nhân đái tháo đường tại bệnh
viện Chợ Rẫy”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 16(1), tr 348-
353
6. Nguyễn Thị Hoài Châu (2005), “Khảo sát mật độ xương và
tìm hiểu những yếu tố liên quan đến mật độ xương của
những người đàn ông sức khỏe bình thường 50 tuổi trở lên ở
TP. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 9(1), tr 34-
37.
7. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2004), “Khảo sát mật độ khoáng
xương ở những người 30 tuổi trở lên đến khám tại khoa điều
trị đau bệnh viện cấp cứu Trưng Vương”. Kỷ yếu Hội nghị khoa
học kỹ thuật bệnh viện cấp cứu Trưng Vươn, tr 43- 54.
8. Trần Thị Uyên Linh (2012), “Tỉ lệ loãng xương và các yếu tố
nguy cơ trên phụ nữ mãn kinh và nam giới ≥ 50 tuổi điều trị
tại khoa lão bệnh viện Nhân dân Gia Định”, Tạp chí Y học TP.
Hồ Chí Minh, 16(1), tr 271- 277.
Ngày nhận bài báo: 08/09/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/09/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/11/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_tinh_trang_loang_xuong_o_nam_gioi_tai_khoa_noi_co_x.pdf