Khảo sát tình trạng đau và ảnh hưởng của đau đến các hoạt động hàng ngày của bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú tại khoa lão – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định

Tài liệu Khảo sát tình trạng đau và ảnh hưởng của đau đến các hoạt động hàng ngày của bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú tại khoa lão – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 234 KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG ĐAU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐAU ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG HÀNG NGÀY CỦA BỆNH NHÂN CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI KHOA LÃO – BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH Lê Thị Thuỳ Phương*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Văn Trí* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Đau là vấn đề sức khỏe phổ biến trên người cao tuổi nhưng thường bị bỏ qua, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Mục tiêu nghiên cứu: (1) xác định tỷ lệ đau và các yếu tố liên quan, (2) khảo sát đặc điểm đau, và (3) khảo sát mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày (HĐHN) ở bệnh nhân cao tuổi (BNCT) điều trị nội trú. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 349 BNCT điều trị nội trú tại khoa Lão – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Tất cả BN thoả tiêu chuẩn chọn mẫu được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi Thang đánh giá đau vắn tắt. Kết quả: Tỷ lệ đau là 55,3%, cao hơn ở...

pdf9 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình trạng đau và ảnh hưởng của đau đến các hoạt động hàng ngày của bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú tại khoa lão – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 234 KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG ĐAU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐAU ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG HÀNG NGÀY CỦA BỆNH NHÂN CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI KHOA LÃO – BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH Lê Thị Thuỳ Phương*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Văn Trí* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Đau là vấn đề sức khỏe phổ biến trên người cao tuổi nhưng thường bị bỏ qua, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Mục tiêu nghiên cứu: (1) xác định tỷ lệ đau và các yếu tố liên quan, (2) khảo sát đặc điểm đau, và (3) khảo sát mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày (HĐHN) ở bệnh nhân cao tuổi (BNCT) điều trị nội trú. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 349 BNCT điều trị nội trú tại khoa Lão – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Tất cả BN thoả tiêu chuẩn chọn mẫu được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi Thang đánh giá đau vắn tắt. Kết quả: Tỷ lệ đau là 55,3%, cao hơn ở BN nữ và có liên quan các bệnh lí chấn thương, thần kinh ngoại biên, tiêu hoá, cơ xương khớp (p < 0,05; χ2). Các vị trí đau thường gặp ở cả 2 giới là chân, lưng và đầu mặt cổ. Phần lớn BN có mức độ đau từ trung bình trở lên với cường độ đau tệ nhất, đau vừa phải và đau hiện tại lần lượt là 8 (5 – 10), 5 (3 – 6) và 3 (1 – 5). Tất cả HĐHN đều bị trở ngại do đau, trong đó có 47,7% BN có đau gây trở ngại mức độ nặng với nữ nhiều gấp 3,2 lần so với nam (p<0,001; χ2). Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa cường độ đau và cường độ trở ngại HĐHN (p<0,001) và mức độ trở ngại HĐHN tăng dần theo mức độ đau (p<0,001; χ2). Kết luận: Tình trạng đau phổ biến trên BNCT điều trị nội trú với mức độ đau cao và gây trở ngại nặng nề đến tất cả các HĐHN. Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của việc đánh giá và kiểm soát đau đúng mức nhằm cải thiện hiệu quả điều trị và nâng cao chất lượng cuộc sống cho BNCT. Từ khoá: đau, trở ngại do đau, bệnh nhân cao tuổi điều trị nội trú ABSTRACT ASSESSING THE PREVALANCE OF PAIN AND PAIN-RELATED INTERFERENCE WITH DAILY ACTIVITIES FOR HOSPITALIZED ELDERLY PATIENTS IN GERIATRIC DEPARTMENT OF NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL Le Thi Thuy Phuong, Than Ha Ngoc The, Nguyen Van Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 234 - 242 Backgrounds: Pain is the most common problem among elderly adult. However, inadequate pain management is still prevalent among older adults, negatively impacting their quality of life . Objectives: (1) To determine the prevalence of pain among hospitalized elderly patients and describe the potential determinants of pain, (2) To assess the characteristics of pain, and (3) To examine the correlation of pain intensity and pain-related interference with daily activities. Methods: Cross – sectional study with 349 patients. Pain assessment was performed using the Vietnamese * Bộ Môn Lão Khoa – Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc:BS. Lê Thị Thuỳ Phương ĐT: 0948046833 Email: thuyphuong833@gmail.com. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 235 version of Brief Pain Inventory short form. Results: The analysis indicated that the prevalence of pain among hospitalized elderly patients during the last 24 hours was relatively high, at 53.3%, and significantly related to female gender, digestive, muscular-skeletal disorders, peripheral neuropathy and injuries. The common locations of pain were leg, back and head. Among patients with pain, the median (interquartile range) score of the worst pain, the average pain and the interview pain was 8 (5 – 10), 5 (3 – 6) and 3 (1 – 5) (on a scale from 0 to 10), respectively. Additionally, pain affected all daily activities of elderly patients, 47.7% patients with pain experienced severe pain-related interference, about 3.2 times higher in female compared to male patients. Lastly, the intensity of pain and pain-related interference was found to be positively correlated. Conclusions: Pain is a common problem with high intensity and severe impairment of daily activities in hospitalized elderly patients. Result of this study emphasizes the role of appropriate pain assessment and management to improve the treatment effectiveness and the quality of life of elderly patients. Keywords: pain, pain-related interference, hospitalized elderly patient ĐẶT VẤN ĐỀ Đau là vấn đề sức khoẻ phố biến trên người cao tuổi (NCT), là triệu chứng thường gặp nhất gây ảnh hưởng đến cuộc sống của 45,8% - 77,7% các bệnh nhân cao tuổi (BNCT) điều trị nội trú(1,7,8,10,13) cũng như hơn 50% NCT trong cộng đồng và hơn 80% NCT sống trong các viện dưỡng lão(10). Nếu không được điều trị thoả đáng, đau gây trở ngại đến tất cả các hoạt động hàng ngày (HĐHN) của NCT, không những tác động nghiêm trọng đến sức khoẻ, chức năng tâm sinh lí và chất lượng cuộc sống của NCT, mà còn gia tăng các gánh nặng về tài chính, chăm sóc và tinh thần cho gia đình, hệ thống y tế và xã hội(2). Tuy nhiên, việc đánh giá đau trên BNCT chưa được chú trọng đúng mức do quan niệm sai lầm rằng đau là phần tất yếu của tuổi già của cả BN, người thân và nhân viên y tế; kèm theo thực tế lâm sàng gặp phải nhiều khó khăn trong việc đánh giá, điều trị và theo dõi đáp ứng với điều trị đau ở NCT. Ở nước ta, các nghiên cứu (ng/c) về đau mới chỉ tập trung vào một số vấn đề y khoa chuyên ngành như ung thư, nội thần kinh, hậu phẫu hay đánh giá hiệu quả của các thuốc giảm đau, mà chưa có các ng/c đưa ra dữ liệu về đau cũng như ảnh hưởng của đau trên đối tượng NCT. Vì vậy chúng tôi thực hiện ng/c này nhằm đóng góp thông tin về tình trạng đau của BNCT điều trị nội trú cho y văn, đồng thời là cơ sở đề xuất những kiến nghị nhằm cải thiện chất lượng điều trị và nâng cao chất lượng cuộc sống của BNCT. Mục tiêu nghiên cứu Khảo sát trên đối tượng BNCT điều trị nội trú tại khoa Lão - bệnh viện Nhân Dân Gia Định Tp. Hồ Chí Minh (BVNDGĐ) từ 10/2015 đến 4/2016 với các mục tiêu: Xác định tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan. Khảo sát đặc điểm đau (vị trí đau, mức độ đau và mức độ trở ngại do đau trên các HĐHN). Khảo sát mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các HĐHN. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Địa điểm nghiên cứu Khoa Lão – BVNDGĐ. Đối tượng nghiên cứu Cỡ mẫu Công thức chọn mẫu: Với Z = 1,96; d = 0,05. p = 0,673(7) Ta được: n 338. Tiêu chuẩn nhận vào BN trên 60 tuổi và đồng ý tham gia ng/c. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 236 Tiêu chuẩn loại trừ Những BN không thể trả lời câu hỏi. Mê sảng hay sa sút trí tuệ mức độ trung bình trở lên dựa trên chẩn đoán của bác sĩ điều trị hoặc tiền căn. Những BN cần hoặc đang được điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực, hay có bệnh lí cần được điều trị ngoại khoa cấp cứu. Đã từng nhận vào các ng/c liên quan đau trước kia. Phương pháp tiến hành Hình thức thu thập số liệu Thực hiện phỏng vấn trực tiếp. Công cụ thu thập Bộ câu hỏi Thang đánh giá đau vắn tắt - Brief Pain Inventory short form (BPIsf) của tác giả Charles S. Cleeland(5), cho phép đánh giá tình trạng đau trong vòng 24 giờ. Đây là công cụ đánh giá đau được dùng rộng rãi trên toàn thế giới, có tính giá trị cao và độ tin cậy tốt(4,5); dễ hiểu, áp dụng rộng rãi cho nhiều đối tượng, nhiều lứa tuổi, trong đó bao gồm cả NCT(10,16), kể cả người suy giảm nhận thức mức độ nhẹ(15) và được dịch ra nhiều thứ tiếng trong đó có tiếng Việt(6). Bộ câu hỏi được sử dụng với sự cho phép của Trung tâm Ung Thư Anderson, Đại học Texas, Hoa Kỳ và tác giả Charles S. Cleeland. Quy trình thực hiện Tất cả BN trên 60 tuổi nhập vào khoa Lão được phỏng vấn để sàng lọc tại thời điểm nhập khoa. Những BN thoả tiêu chuẩn chọn mẫu tiếp tục được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi Thang đánh giá đau vắn tắt. Phân tích số liệu Số liệu được quản lý và phân tích thống kê bằng phần mềm SPSS 22.0. KẾT QUẢ Đặc điểm nhân trắc học Tổng số BN khảo sát: 349 BN, các đặc điểm về nhân trắc học và bệnh lí được mô tả trong Bảng 1 và 2. Bảng 1: Đặc điểm nhân trắc học (N= 349) Đặc điểm Tỷ lệ (%) Giới Nam 28,7 Nữ 71,3 Tuổi trung bình 76,8 8,2 (tuổi) Nhóm tuổi 60 - 69 19,8 70 - 79 41,8 >=80 38,4 Nơi sống Thành phố/thị xã 88,8 Thị trấn/huyện 10,0 Xã/ấp 1,2 Nghề nghiệp Công nhân viên 23,2 Lao động chân tay 36,4 Buôn bán 11,7 Khác 28,7 Học vấn Mù chữ 9,5 Tiểu học 49,3 Trung học cơ sở 20,9 Trung học phổ thông 14,0 Cao đẳng/đại học 6,3 Tình trạng hôn nhân Goá 54,4 Ly dị 3,2 Đang kết hôn 40,7 Độc thân 1,7 Tình trạng gia đình Sống với người thân 97,4 Bảng 2: Đặc điểm bệnh lí (N = 349) Đặc điểm Tỷ lệ (%) Ngoại khoa 34,4 * Chấn thương 12,6 Tim mạch 84,2 * Hô Hấp 36,7 * Thần kinh 34,4 Thần kinh ngoại biên 19,0 Tiêu hoá 59,3 * Cơ xương khớp 54,4 * Thận tiết niệu 26,4 * Nội tiết 28,7 Huyết học 10,0 Tai mũi họng 0,6 Mắt 1,7 Sản phụ khoa 2,6 Ung thư 7,2 * *khác biệt giữa 2 giới (p < 0,05, χ2) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 237 Tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan Tỷ lệ đau Tỷ lệ đau ở nữ cao hơn nam với tỷ lệ lần lượt là 59,04% và 46%. Một số yếu tố liên quan Sử dụng phép kiểm Chi bình phương, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ đau ở nữ (59,04%) cao hơn so với nam (46,0%)(p < 0,05). Không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ đau giữa các nhóm BN khác nhau ở các yếu tố: nhóm tuổi, nơi sống, nghề nghiệp, học vấn, tình trạng hôn nhân, hay tình trạng gia đình. Các yếu tố bệnh lí có liên quan đến việc tăng tỷ lệ đau được thể hiện trong bảng 3. Bảng 3: Sự liên quan giữa tỷ lệ đau và các yếu tố bệnh lí Bệnh lí p (χ 2 ) OR (95% CI) Chấn thương 0,035 2,11 (1,06 – 4,18) Tiêu hoá 0,006 1,83 (1,19 – 2,82) Thần kinh ngoại biên 0,01 3,91 (1,30 – 11,80) Cơ xương khớp < 0,001 4,76 (3,02 – 7,49) Đặc điểm đau Vị trí đau Biểu đồ 1: Phân bố vị trí đau (n = 193) Vị trí đau thường gặp là lưng, chân và đầu mặt cổ, không ghi nhận khác biệt về phân bố vị trí đau giữa 2 giới (p = 0,523; χ2). Điểm số cường độ đau Bảng 4: Điểm số cường độ đau trong 24 giờ qua và tại thời điểm phỏng vấn Điểm số cường độ đau (0 – 10) Trung vị (Bách phân vị thứ 25, thứ 75) So sánh 2 giới p (kiểm định trung vị) Đau tệ nhất 8 (5 – 10) 0,111 Đau nhẹ nhất 3 (0 – 5) 0,071 Đau vừa phải 5 (3 – 6) 0,178 Đau hiện tại 3 (1 – 5) 0,046* Mức độ đau Phân chia mức độ đau dựa trên điểm số cường độ đau: nhẹ 1 – 3, trung bình 4 – 6, nặng 7). Biểu đồ 2 thể hiện phân bố tỷ lệ các mức độ đau giữa 2 giới. Mức độ trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày Bảng 5: Điểm cường độ trở ngại do đau trên các khía cạnh hoạt động hàng ngày Điểm cường độ trở ngại (0 – 10) Trung vị (Bách phân vị thứ 25, thứ 75) So sánh 2 giới p (kiểm định trung vị) Sinh hoạt 5 (0 – 8) 0,318 Đi lại 5 (0 – 8) 0,046 Công việc 5 (0 – 8) 0,156 Giấc ngủ 5 (0 – 8) 0,263 Tinh thần 5 (0 – 8) 0,272 Mối quan hệ 0 (0 – 6) 0,041 Tận hưởng cuộc sống 5 (0 – 8) 0,089 Số BN bị trở ngại mức độ nặng (tổng điểm cường độ trở ngại của 7 khía cạnh ≥ 35/70) chiếm tỷ lệ cao với BN nữ bị trở ngại HĐHN nhiều hơn nam (p < 0,001; χ2) (Biểu đồ 3). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 238 Biểu đồ 2: Tỷ lệ các mức độ đau (phân chia mức độ đau dựa trên cường độ đau: nhẹ 1-3, trung bình 4-6, nặng ≥7) Biểu đồ 3: Tỷ lệ BN bị trở ngại mức độ nặng Mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày Biểu đồ 4: Ảnh hưởng giữa các mức độ đau trên từng khía cạnh trở ngại do đau (n = 193). Bảng 6: Mối tương quan giữa cường độ đau với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 239 cường độ trở ngại do đau Cường độ đau (0 – 10) Cường độ trở ngại (0-10) Đau tệ nhất Đau nhẹ nhất Đau vừa phải Đau hiện tại Sinh hoạt 0,82 0,71 0,77 0,71 Đi lại 0,80 0,73 0,77 0,73 Công việc 0,8 0,7 0,75 0,71 Giấc ngủ 0,83 0,72 0,78 0,71 Tinh thần 0,66 0,6 0.62 0,57 Mối quan hệ 0,74 0,7 0,73 0,69 Tận hưởng cuộc sống 0,75 0,7 0,74 0,68 Tổng trở ngại 0,87 0,75 0,82 0,76 Tương quan Spearman; p < 0,0001 Mối tương quan thể hiện rõ rệt nhất giữa tổng trở ngại với tình trạng đau tệ nhất và đau vừa phải (bảng 6), do đó tiếp tục khảo sát sâu hơn ảnh hưởng giữa các mức độ đau trên các HĐHN ở 2 khía cạnh đau này. Xét trên 7 khía cạnh trở ngại, tỷ lệ BN có cường độ trở ngại 4/10 khác biệt rõ rệt giữa các nhóm mức độ đau (p<0,0001, χ2) (biểu đồ 4). BÀN LUẬN Một số đặc điểm về dân số nghiên cứu Trong mẫu thu thập được, chúng tôi nhận thấy BN nữ chiếm tỷ lệ cao gấp 2,5 lần so với BN nam, có thể giải thích do tuổi thọ của nữ cao hơn nam. Tuổi trung bình là 76,8 8,2 tuổi với nhỏ nhất là 60 tuổi và lớn nhất là 98 tuổi, chứng tỏ mẫu thu thập có tính khái quát cao, và BN tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi 70 – 79 (41,8%), không có sự khác biệt về tuổi trung bình giữa 2 giới (p = 0,512). Số liệu cho thấy trình độ học vấn của BN tham gia ng/c không cao, chủ yếu ở bậc tiểu học (49,3%), tỷ lệ mù chữ còn cao (9,5%). Tương ứng với trình độ học vấn, phân bố nghề nghiệp chủ yếu ở nhóm lao động chân tay (36,4%), công nhân viên (23,2%), còn lại là buôn bán, nội trợ và các ngành nghề khác. Hầu hết BN cư trú tại khu vực thành phố/thị xã (88,8%), đa phần BN sống chung với người thân (97,4%) và tỷ lệ BN goá chiếm khoảng trên ½ mẫu khảo sát (bảng 1). Chúng tôi ghi nhận các nhóm bệnh lí phân bố không đồng đều với đứng đầu là nhóm bệnh lí tim mạch, sau đó đến tiêu hoá, cơ xương khớp, hô hấp, nội tiết. Đặc biệt, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong phân bố bệnh lí giữa 2 giới (p<0,001) (bảng 2). Các đặc điểm này trong ng/c của chúng tôi tương đối cao hơn với số liệu trong các ng/c khảo sát cùng vấn đề về phân bố bệnh lí cũng như tỷ lệ các nhóm bệnh(8,17). Đặc điểm bệnh lí trên liên hệ mật thiết với sự khác biệt về tỷ lệ đau cũng như nguyên nhân gây đau, các kiểu đau, vị trí và mức độ đau giữa hai giới. Tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan Tỷ lệ đau trong ng/c của chúng tôi là 55,3% (N = 349), thấp hơn so với ghi nhận của tác giả Gianni và cộng sự (67,3%; N = 367)(8), cao hơn số liệu theo IASP (45,8%; N = 1266)(10), tuy nhiên khá tương đồng với tác giả Costantini và cộng sự (53,9%; N = 2778)(7) sử dụng cùng công cụ đánh giá đau BPI-sf giống ng/c của chúng tôi. Sự khác biệt có thể lý giải do các ng/c dùng các công cụ đánh giá đau khác nhau, thời gian và thời điểm thực hiện cách nhau khá xa và số lượng bệnh viện tiến hành ng/c cũng như cỡ mẫu khác nhau quá lớn cùng góp phần cho sự khác biệt này. Nhìn chung, tỷ lệ đau trên BNCT điều trị nội trú rất cao, khẳng định tầm quan trọng của việc đánh giá và điều trị đau đúng mức nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của NCT. Đồng thời, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ đau ở BN nữ cao hơn so với BN nam (p < 0,05), kết quả này giống với các tác giả khác khảo sát cùng vấn đề(7,11,14,17). Tuy nhiên không có sự khác biệt về tỷ lệ đau giữa các nhóm BN khác nhau về nhóm tuổi, nơi sống, nghề nghiệp, học vấn, tình trạng hôn nhân và tình trạng gia đình; đặc điểm này cũng được ghi nhận tương tự trong ng/c của tác giả Costantini và cộng sự(7). Bên cạnh đó, kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ đau cao hơn ở nhóm BN bị bệnh lí chấn thương, đường tiêu hoá, thần kinh ngoại biên và cơ xương khớp (p < 0,05) (bảng 3), tác giả Costantini và cộng sự cũng ghi nhận mối liên quan tương tự với các nhóm bệnh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 240 thuộc hệ da, cơ xương khớp, chấn thương và ngộ độc (p < 0,001)(7). Đặc điểm đau Vị trí đau Khảo sát cho thấy các vị trí đau thường gặp là chân, lưng, đầu mặt cổ và không có sự khác biệt về phân bố vị trí đau giữa 2 giới, kết quả này tương tự với ghi nhận của tác giả Cairncross và cộng sự(3). Đặc điểm này phù hợp với các nguyên nhân gây đau thường gặp trên NCT là các bệnh lí cơ xương khớp, chèn ép rễ thần kinh và các bệnh lí thần kinh như đái tháo đường, zona, đau thần kinh mặt(9,12). Cường độ đau và mức độ đau Cường độ đau của BN đều rất cao ở tất cả tình trạng đau trong 24 giờ qua (đau tệ nhất, đau nhẹ nhất, đau vừa phải) và tại thời điểm phỏng vấn (đau hiện tại), thể hiện rõ qua giá trị trung vị của cường độ đau (bảng 4). Đặc điểm này tương đồng với tác giả Costantini và cộng sự(7) (bảng 7), qua đó khẳng định tình trạng đau nặng nề của các BNCT khi nhập viện. Bên cạnh đó, cường độ đau của nữ cao hơn nam có ý nghĩa thống kê ở khía cạnh đau hiện tại (p = 0,046), tuy nhiên không có sự khác biệt ở 3 khía cạnh còn lại khi sử dụng phép kiểm định trung vị (bảng 4). Bảng 7. So sánh cường độ đau trung bình giữa các nghiên cứu Cường độ đau trung bình Đau Chúng tôi Massimo Đau tệ nhất 7,3 2,4 7 2 Đau vừa phải 4,5 2,5 5 2 Đau hiện tại 3,6 2,9 5 2 Trong ng/c của chúng tôi, số BN có tình trạng đau từ mức độ trung bình trở lên chiếm tỷ lệ cao, trong đó tỷ lệ BN có mức độ đau nặng cao hơn so với tác giả Costantini và cộng sự ở 2 khía cạnh đau tệ nhất và vừa phải(7) (biểu đồ 5). Sự khác biệt này là do đa phần các BNCT ở nước ta thường cố gắng chịu đựng đau, e ngại đến bệnh viện khám và điều trị cho đến khi tình trạng bệnh trở nặng khiến tình trạng đau tồi tệ hơn. Các lý do thường gặp là không đủ điều kiện kinh tế, lệ thuộc vào người thân, thiếu kiến thức về y khoa để phát hiện các triệu chứng bệnh sớm, cũng như quan niệm đau là vấn đề tất yếu của tuổi già nên có tâm lý chịu đựng đau. Bên cạnh đó, ghi nhận BN nữ có tỷ lệ đau trung bình trở lên cao hơn rõ rệt so với BN nam (p < 0,05; χ2) ở cả 4 khía cạnh đau (biểu đồ 2). Biểu đồ 5. So sánh tỷ lệ BN đau mức độ nặng với nghiên cứu khác Mức độ trở ngại các hoạt động hàng ngày do đau Các BN trong mẫu của chúng tôi có tình trạng đau gây trở ngại cao đến hầu hết các HĐHN, trong đó các khía cạnh liên quan hoạt động (sinh hoạt, đi lại, công việc) bị trở ngại nhiều nhất, sau đó đến giấc ngủ, các khía cạnh liên quan tâm lí (tinh thần, tận hưởng cuộc sống) và ít bị trở ngại nhất là mối quan hệ (bảng 5). Đồng thời, số BN bị trở ngại mức độ nặng chiếm tỷ lệ cao với 47,67% số BN có đau. Đặc điểm này thể hiện tương tự trong các ng/c của tác giả Scudd và tác giả Przekop với 48,2% BN bị trở ngại do đau, trong đó có 37,7% bị trở ngại mức độ trung bình và 14,1% mức độ nặng(14,17). Khi so sánh giữa 2 giới, tỷ lệ BN nữ bị trở ngại mức độ nặng cao gấp 3,2 lần so với BN nam (p < 0,001, χ2) (biểu đồ 3); đồng thời, giá trị trung vị của mức độ trở ngại ở nữ cao hơn nam trên mọi khía cạnh HĐHN, khác biệt có ý nghĩa thống kê ở khía cạnh đi lại, mối quan hệ (p < 0,05). Đặc điểm này cũng được ghi nhận bởi tác giả Scudds và cộng sự, với BN nữ có tình trạng đau và trở ngại do đau trên tất cả các HĐHN (đi lại, các công việc thông thường, các hoạt động Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 241 giải trí, giấc ngủ, trạng thái tinh thần, tận hưởng cuộc sống) đều cao hơn so với BN nam (p < 0,001, χ2)(17). Mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày Chúng tôi ghi nhận cường độ đau và mức độ trở ngại do đau có sự tương quan thuận chặt chẽ ở tất cả các khía cạnh của HĐHN với hệ số tương quan Spearman đều trên 0,6 (p < 0,001) (bảng 6). Thêm vào đó, xét riêng trên từng khía cạnh HĐHN, chúng tôi so sánh tỷ lệ BN có cường độ trở ngại 4/10 thì nhận thấy có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ này giữa các mức độ đau (p < 0,0001, χ2) trên cả 7 khía cạnh HĐHN. Kết quả phân tích tiếp tục nhấn mạnh rằng mức độ trở ngại tăng dần theo mức độ đau, và các khía cạnh liên quan hoạt động bị ảnh hưởng nhiều nhất và khía cạnh mối quan hệ bị ảnh hưởng ít nhất (biểu đồ 4). Tương tự chúng tôi, tác giả Scudds cũng khẳng định mối liên quan chặt chẽ giữa mức độ đau với mức độ trở ngại do đau trên tất cả các HĐHN như đi lại, công việc thông thường, các hoạt động giải trí, giấc ngủ, tình thần và tận hưởng cuộc sống (p < 0,001)(17). KẾT LUẬN Qua tiến hành ng/c cắt ngang trong 6 tháng tại khoa Lão – bệnh viện Nhân Dân Gia Định Tp. HCM chúng tôi rút ra được một số kết quả sau: Về tỷ lệ đau và một số yếu tố liên quan Tình trạng đau phổ biến ở BNCT điều trị nội trú với tỷ lệ là 53,3%, nữ cao hơn nam. Tỷ lệ đau cao hơn rõ rệt khi BN mắc các bệnh lí chấn thương, đường tiêu hoá, thần kinh ngoại biên và cơ xương khớp. Về đặc điểm đau Vị trí đau thường gặp là chân, lưng, đầu mặt cổ và không khác biệt giữa 2 giới. Cường độ đau cao và phần lớn BN có mức độ đau từ trung bình trở lên. BN nữ có mức độ đau nặng nề hơn so với BN nam. 47,7% số BN có tình trạng đau gây giới hạn nặng HĐHN. BN nữ bị trở ngại nhiều gấp 3,2 lần so với BN nam, thể hiện rõ rệt ở các khía cạnh khả năng đi lại, các mối quan hệ. Về mối tương quan giữa đau và trở ngại do đau trên các hoạt động hàng ngày Có sự tương quan thuận chặt chẽ giữa cường độ đau ở tất cả các khía cạnh đau với mức độ trở ngại ở tất cả các khía cạnh HĐHN. Đau gây trở ngại HĐHN nhiều nhất ở các hoạt động đi lại, sinh hoạt và công việc, sau đó đến tinh thần, giấc ngủ, chất lượng cuộc sống và bị ảnh hưởng ít nhất là khía cạnh mối quan hệ. KIẾN NGHỊ Chú ý đến tình trạng đau và ảnh hưởng nghiêm trọng của đau trên các HĐHN ở BNCT điều trị nội trú, đặc biệt là BN nữ. Áp dụng bộ câu hỏi thang đánh giá đau vắn tắt dạng ngắn Việt ngữ (BPI sfvn) vào trong thực tiễn lâm sàng để đánh giá và điều trị đau hiệu quả. Thực hiện các ng/c tương tự nhưng có sự kết hợp giữa nhiều khoa, nhiều bệnh viện với nhau và tiến hành trong khoảng thời gian dài hơn hoặc có thể mở rộng ra ở đối tượng NCT trong cộng đồng để có số liệu mang tính đại diện cao hơn cho NCT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abbott FV, Gray-Donald K, Sewitch MJ, Johnston CC, Edgar L, et al (1992). The prevalence of pain in hospitalized patients and resolution over six months. Pain, 50 (1): 15-28. 2. AGS (2002). Guideline persistent pain elderly: The management of Persistent Pain in Older Persons. Journal of the American Geriatrics Society, 50 (S6): 205–224. 3. Cairncross L, Magee H, Askham J (2007), A hidden problem: pain in older people. Picker Instute Europe. pp. 1-49. 4. Cleeland CS, Ryan KM (1994). Pain assessment: global use of the Brief Pain Inventory. Ann Acad Med Singapore, 23(2): 129- 38. 5. Cleeland CS (2009). The Brief Pain Inventory User Guide, The University of Texas Texas, pp. 4-11. 6. Cleeland CS, Ladinsky JL, Serlin RC, Nugyen CT (1988). Multidimensional measurement of cancer pain: Comparisons of US and Vietnamese patients. Journal of Pain and Symptom Management, 3(1): 23-27. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 242 7. Costantini M, Viterbori P, Flego G (2002). Prevalence of Pain in Italian Hospitals: Results of a Regional Cross-Sectional Survey. Journal of Pain and Symptom Management, 23(3): 221-230. 8. Gianni W, Madaio RA, Di Cioccio L, D’Amico F, Policicchio D, et al (2010). Prevalence of pain in elderly hospitalized patients. Archives of Gerontology and Geriatrics, 51(3): 273-276. 9. Helme RD, Gibson SJ (2001). The epidemiology of pain in elderly people. Clinics in Geriatric Medicine, 17(3): 417-431. 10. IASP (2006). Facts on Pain in Older Persons. The International Association for the Study of Pain: 1-4. 11. Johannes CB, Le TK, Zhou X, Johnston JA, Dworkin RH (2010). The Prevalence of Chronic Pain in United States Adults: Results of an Internet-Based Survey. The Journal of Pain, 11(11): 1230-1239. 12. Lazarus H, Neumann CJ (2010). Assessing Undertreatment of Pain: The Patients' Perspectives. Journal of Pharmaceutical Care in Pain & Symptom Control, 9(4): 5-34. 13. McNeill JA, Sherwood GD, Starck PL, Thompson CJ (1998). Assessing clinical outcomes: patient satisfaction with pain management. J Pain Symptom Manage, 16 (1): 29-40. 14. Przekop P, Haviland MG, Oda K, Morton KR (2015). Prevalence and correlates of pain interference in older adults: Why treating the whole body and mind is necessary. Journal of Bodywork and Movement Therapies, 19(2): 217-225. 15. Schepker CA, Leveille SG, Pedersen MM, Ward RE, Kurlinski LA, et al (2016). Effect of Pain and Mild Cognitive Impairment on Mobility. J Am Geriatr Soc, 64(1): 138-43. 16. Schmader KE, Sloane R, Pieper C, Coplan PM, Nikas A, et al (2007). The impact of acute herpes zoster pain and discomfort on functional status and quality of life in older adults. Clin J Pain, 23(6): 490-6. 17. Scudds RJ, Østbye T (2001). Pain and pain-related interference with function in older Canadians: the Canadian study of health and aging. Disability and Rehabilitation, 23(15): 654-664. Ngày nhận bài báo: 01/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_tinh_trang_dau_va_anh_huong_cua_dau_den_cac_hoat_do.pdf
Tài liệu liên quan