Tài liệu Khảo sát tình hình tổn thương thận cấp ở bệnh nhân điều trị tại khoa hồi sức Bệnh viện Chợ Rẫy: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
1
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TỔN THƯƠNG THẬN CẤP
Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA HỒI SỨC BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Trường Sơn*, Phạm Thị Ngọc Thảo**, Phan Thị Xuân**, Lê Minh Khôi***
TÓM TẮT
Mở đầu. Tổn thương thận cấp (TTTC) có tỷ lệ mắc cao, thường do nhiều nguyên nhân gây nên và làm tăng
tỷ lệ tử vong và bệnh tật cho bệnh nhân (BN), đặc biệt là BN hồi sức. Tuy vậy, cho đến nay còn ít nghiên cứu về
TTTC trong các đơn vị hồi sức ở Việt Nam.
Mục tiêu. Khảo sát tỷ lệ mắc, nguyên nhân và ảnh hưởng của TTTC ở BNđiều trịtại khoa Hồi sức.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu cắt ngang, mô tả. Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên nhập
khoa Hồi sức Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01 năm 2014 đến hết tháng 5 năm 2015. Chẩn đoán và phân độ TTTC
dựa vào tiêu chuẩn AKIN. Khảo sát nguyên nhân, yếu tố nguy cơ gây TTTC vàảnh hưởng của TTTC đến dự hậu
của BN.
Kết quả. Có 156 BN được đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ TTTC trước nhập kh...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình tổn thương thận cấp ở bệnh nhân điều trị tại khoa hồi sức Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
1
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TỔN THƯƠNG THẬN CẤP
Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA HỒI SỨC BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Trường Sơn*, Phạm Thị Ngọc Thảo**, Phan Thị Xuân**, Lê Minh Khôi***
TÓM TẮT
Mở đầu. Tổn thương thận cấp (TTTC) có tỷ lệ mắc cao, thường do nhiều nguyên nhân gây nên và làm tăng
tỷ lệ tử vong và bệnh tật cho bệnh nhân (BN), đặc biệt là BN hồi sức. Tuy vậy, cho đến nay còn ít nghiên cứu về
TTTC trong các đơn vị hồi sức ở Việt Nam.
Mục tiêu. Khảo sát tỷ lệ mắc, nguyên nhân và ảnh hưởng của TTTC ở BNđiều trịtại khoa Hồi sức.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu cắt ngang, mô tả. Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên nhập
khoa Hồi sức Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01 năm 2014 đến hết tháng 5 năm 2015. Chẩn đoán và phân độ TTTC
dựa vào tiêu chuẩn AKIN. Khảo sát nguyên nhân, yếu tố nguy cơ gây TTTC vàảnh hưởng của TTTC đến dự hậu
của BN.
Kết quả. Có 156 BN được đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ TTTC trước nhập khoa HSTC 28,8%. TTTC tại thời
điểm nhập khoa HSTC chiếm 42,3%. Tần suất mới mắc TTTC 21,7 %. Phân độ TTTC theo AKIN: giai đoạn 1
chiếm 7,6%, giai đoạn 2 chiếm 37,9% và giai đoạn 3 chiếm 54,5%. Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn là
nguyên nhân gây hàng đầu (50%) gây TTTC, theo sau là sốc giảm thể tích, suy tim, suy gan, kháng sinh độc
thận.. BN có TTTC tại khoa HSTC có tỷ lệ tử vong 66,7% so với 36,4% ở những BN không có TTTC. Nhóm
BN có TTTC mới xuất hiện có tỉ lệ tử vong cao nhất (71%).
Kết luận. Tỷ lệ TTTC ở BN điều trị tại khoa hồi sức vẫn còn cao. Nguyên nhân hàng đầy gây TTTC là
nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng huyết. TTTC làm tăng tỉ lệ tử vong và bệnh tật đáng kể so với nhóm BN
không có TTTC.
Từ khoá: tổn thương thận cấp, AKIN, hồi sức, nhiễm trùng huyết.
ABSTRACT
INVESTIGATION ON ACUTE KIDNEY INJURY IN CRITICALLY ILL PATIENTS AT THE INTENSIVE
CARE UNIT, CHO RAY HOSPITAL.
Nguyen Truong Son, Pham Thi Ngoc Thao, Phan Thi Xuan, Le Minh Khoi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 1 - 7
Background. Acute kidney injury (AKI) is a common entity induced by multiple pathophysiological factors
and leads to significantly increased mortality and morbidity in hospitalized patients, in particular critically ill
patients at intensive care units (ICU). Unfortunately, few well-designed studies investigating AKI in this special
group of patients have been conducted in Vietnam.
Objectives. The current study was conceived to investigate the prevalence, incidence, etiology and the
impact of AKI in patients admitted and treated at ICUs.
Methods. Cross-sectional observational study. Patients of from 18 years old admitted to ICU, Cho Ray
Hospital from January 2014 to end of May 2015 were enrolled. AKI was diagnosed and classified using AKIN
criteria. Analysis was performed to discover etiologies, risk factors of AKI and the clinical impact of AKI on final
*Khoa Hồi sức Tích cực, BV Đa khoa tỉnh Đồng Tháp ** Khoa Hồi sức, Bệnh viện Chợ Rẫy
*** Trung tâm Tim mạch, BV Đại học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Lê Minh Khôi ĐT: 0919731386 Email: leminhkhoimd@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
2
outcome.
Results. There were 156 patients included into the study. Prior to ICU admission, AKI was diagnosed in
28,8% of patients. Upon admission to ICU, AKI was recorded in 42.3% of patients. AKI was newly diagnosed in
21.7% of patients during the ICU stay. AKI classified according to AKIN criteria showed AKIN-1 of 7.6%,
AKIN-2 37.9% and AKIN-3 54.5%. Sepsis and septic shock were the leading causes of AKI (50%) followed by
hypovolemic shock, heart failure, liver failure, nephrotoxic medications, etc. Patients with AKI noted at any
timepoint during ICU stay showed significantly higher death rate (66.7%) in comparison to those without AKI
(36.4%). Patients who newly developed AKI during ICU course were at highest risk of mortality (71%).
Conclusions. Prevalence and incidence of AKI in patients at ICU were still very high. The leading causes of
AKI in this study were sepsis and septic shock. AKI did increase the mortality and morbidity compared to patients
without AKI.
Keywords: acute kidney injury, AKIN, intensive care, sepsis.
MỞĐẦU
Suy thận cấp (STC) là một rối loạn phức tạp
xuất hiện trong rất nhiều bối cảnh lâm sàng khác
nhau, thay đổi từ một sự tăng nhẹ nồng độ
creatinin huyết thanh đến suy thận vô niệu hoàn
toàn. STC thường ít được nhận biết và thường đi
kèm với những hậu quả nặng nề bao gồm tăng
urê huyết, rối loạn chuyển hóa dịch ngoại bào,
rối loạn nội môi gây rối loạn điện giải và thăng
bằng kiềm toan(8). Các nghiên cứu dịch tễ học
gần đây cho thấy có rất nhiều nguyên nhân cũng
như yếu tố nguy cơ khác nhau gây nên STC.
Những bằng chứng gần đây cho thấy rằng ngay
cả một sự biến đổi nồng độ creatinin huyết
thanh rất nhẹ cũng có liên quan với tỷ lệ tử vong
tăng cao ở bệnh nhân nội trú(3) cũng như khuynh
hướng xuất hiện bệnh thận mạn tính và tình
trạng phụ thuộc thẩm phân máu.
Tháng 9 năm 2004, thuật ngữ tổn thương
thận cấp (TTTC) được các hiệp hội thận học quốc
tếđưa ra với mục tiêu phản ánh toàn bộ các giai
đoạn của suy thận cấp, vì người ta nhận thấy
rằng một sự suy giảm cấp tính chức năng thận
thường là thứ phát sau một tổn thương làm thay
đổi chức năng hay cấu trúc của thận. Nhóm này
đã thiết lập Mạng Lưới Tổn Thương Thận Cấp
(Acute Kidney Injury Network-AKIN) nhằm thúc
đẩy sự hợp tác liên chuyên khoa trên tầm quốc
tếđểđảm bảo sự tiến bộ cần thiết trong lĩnh vực
TTTC và nhằm đạt được những kết quả tốt nhất
cho bệnh nhân TTTC hoặc có nguy cơ xuất hiện
TTTC(6). Từđó, những nghiên cứu về TTTC được
đẩy mạnh, nhất là trong chuyên ngành hồi sức
cấp cứu. Các nghiên cứu này đã cho thấy TTTC
gặp khá phổ biến trong các đơn vị hồi sức với tỷ
lệ mắc cũng như tỷ lệ tử vong ngày càng tăng
cao. TTTC gặp ở khoảng 5%-7% bệnh nhân nhập
viện và có khuynh hướng tăng dần. Tỷ lệ này
tăng lên từ 36% đến 67% trong các bệnh nhân
nặng tùy theo định nghĩa (1). Nghiên cứu trên
75.000 bệnh nhân nặng người lớn, tổn thương
thận cấp nghiêm trọng xảy ra ở 4% đến 25%
bệnh nhân nhập hồi sức. Trung bình có 5% đến
6% bệnh nhân hồi sức có TTTC phải điều trị thay
thế thận(4).
Tại Việt Nam nói chung và miền Nam nói
riêng, mối quan tâm đến TTTC ở bệnh nhân hồi
sức đãđược cải thiện đáng kể. Tuy vậy, cho đến
nay còn ít nghiên cứu về TTTC trong các đơn vị
hồi sức. Trên cơ sởđó, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu “Khảo sát tình hình tổn thương thận
cấp ở bệnh nhân điều trị tại khoa Hồi sức Bệnh
viện Chợ Rẫy” nhằm bước đầu đánh giá về tần
suất, yếu tố nguy cơ cũng như tác động của
TTTC ở nhóm bệnh nhân này.
Mục tiêu
Khảo sát tỷ lệ mắc, thời điểm và mức độ
nặng TTTC tiêu chuẩn AKIN.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
3
Khảo sát nguyên nhân của TTTC và các yếu
tố dự hậu của TTTC gồm tỷ lệ tử vong, nhu cầu
lọc máu và thời gian điều trị của TTTC theo các
mức độ trên.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số nghiên cứu: BN từ 18 tuổi trở lên,
nhập vào khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Chợ
Rẫy từ tháng 01 năm 2014 đến hết tháng 5
năm 2015.
Tiêu chuẩn loại trừ: BN tử vong trong vòng
24 giờđầu nhập khoa Hồi sức cấp cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang
mô tả.
Thu thập số liệu: Dữ liệu ghi nhận vào phiếu
thu thập số liệu từ ngày nhập viện, nhập khoa
HSTC đến khi xuất khoa, bao gồm: chẩn đoán và
phương pháp điều trị trước khi nhập khoa
HSTC, điểm APACHE II ngày nhập khoa HSTC;
chẩn đoán TTTC theo phân loại AKIN và RIFLE,
thời điểm chẩn đoán TTTC, mức TTTC cao nhất
theo AKIN và RIFLE; nguyên nhân TTTC: mất
máu, mất dịch, nhiễm khuẩn huyết nặng, sốc
nhiễm khuẩn, suy tim, suy gan, phẫu thuật, sử
dụng thuốc độc thận, thuốc kháng sinh, vận
mạch, lợi tiểu furosemide; kết quảđiều trị. Các
tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng đều dựa vào các
khuyến cáo chẩn đoán vàđiều trị của các hiệp
hội chuyên ngành.
Xét nghiệm creatinin huyết thanh được thực
hiện trên máy sinh hóa tựđộng tại khoa Xét
nghiệm, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Phân tích xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được nhập liệu bằng
phần mêm Epidata 3.1 và được phân tích xử lý
bằng phần mềm SPSS 16.0. Kết quảđược trình
bày bằng trung bình ± độ lệch chuẩn hay trung
vị (tứ phân vị). So sánh trị số trung bình bằng
kiểm định t-test, ANOVA và so sánh các trung vị
bằng kiểm định Mann-Whitney, Kruskal-Wallis.
Khác biệt với giá trị p < 0,05 được xem là có ý
nghĩa thống kê.
Khía cạnh đạo đức của nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là nghiên cứu cắt
ngang mô tả bằng quan sát và thu thập số liệu
mà không can thiệp trên bệnh nhân cũng như
không tác động vào điều trị. Các số liệu hoàn
toàn được bảo mật và chỉ dành cho mục đích
nghiên cứu. Đề tài cũng đãđược thông qua Hội
đồng Y đức trong nghiên cứu Y sinh học, Đại
học Y Dược TP Hồ Chí Minh (24/09/2014). Do
đóđề tài này không vi phạm những quy định
vềđạo đức trong nghiên cứu Y sinh học.
KẾT QUẢ
Trong 156 BN nghiên cứu, nam chiếm 59%
(92/156), nữ chiếm 41% (64/156). Tuổi trung vị
59,5 tuổi và tứ phân vị 44 – 74 tuổi. Bệnh nhân
lớn hơn 60 tuổi chiếm 48,1% và lớn hơn 80 tuổi
chiếm 13,5%.
Tỷ lệ và thời điểm xuất hiện và mức độ
TTTC
Thời điểm trước nhập khoa hồi sức
Trước khi nhập khoa HSTC, có 111/156 BN
không có TTTC chiếm tỷ lệ 71,2% và 45/156 BN
đãđược chẩn đoán TTTC (28,8%). Không có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa tỷ lệ TTTC ở BN được
chuyển từ khoa cấp cứu (32,3%) so với chuyển từ
khoa khác 26,4% (p = 0,42).
Trong 45 BN có TTTC này, theo phân loại
RIFLE: giai đoạn R có 5 BN (11,1%), giai đoạn I
có 12 BN (26,7%), giai đoạn F có 28 BN (62,2%)
và theo phân loại AKIN: AKIN-1 có 6 BN
(13,3%); AKIN-2 có 14 BN (31,1%); AKIN-3 có
25 BN (55,6%).
Thời điểm nhập khoa hồi sức
Tại thời điểm nhập khoa HSTC, có 41 BN có
TTTC, chiếm 26,3% và 115 BN không TTTC,
chiếm 73,8%. Theo RIFLE, giai đoạn R có 5 BN
(3,2%); giai đoạn I có 9 BN (5,7%); giai đoạn F có
27 BN (17,3%).Theo AKIN, AKIN-1 có 3 BN,
(1,9%); AKIN-2 có 16 BN (10,3%) và AKIN-3 có
22 BN(14,1%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
4
Để xác định mức độđồng thuận giữa hai mô
hình RIFLE và AKIN, chúng tôi sử dụng thống
kê interrater agreement, với chỉ số Kappa là 0,76;
(p < 0,001). Điều này cho thấy phân chia giai
đoạn TTTC tại thời điểm nhập khoa HSTC theo
RIFLE và AKIN có mức độđồng thuận chặt chẽ.
Trong quá trình điều trị tại hồi sức
Trong 115 BN không có TTTC tại thời điểm
nhập khoa HSTC, có 25 trường hợp mới xuất
hiện TTTC trong quá trình nằm hồi sức (chiếm
21,7%). Tỷ lệ hiện mắc của TTTC tại khoa là
66/156 (42,3%).
Theo phân loại RIFLE, giai đoạn R có 5 BN
(7,6%), giai đoạn I có 23 BN (34,8%), giai đoạn F
38 BN (57,6%). Theo phân loại AKIN, AKIN-1 có
5 BN (7,6%), AKIN-2 có 25 BN (37.9%), AKIN-3
có 36 BN (54,5%). Chỉ số Kappa là 0,89; (p <
0,001) cho thấy phân giai đoạn TTTC tại khoa
HSTC theo RIFLE và AKIN có mức độđồng
thuận gần như hoàn toàn.
Biểu đồ 1 cho thấy tình hình TTTC trước, tại
thời điểm nhập hồi sức và trong quá trình điều
trị tại khoa hồi sức
Biểu đồ 1: Thời điểm và tỷ lệ mắc TTTC ở BN nghiên cứu
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ TTTC
Tỷ lệ BN nhiễm khuẩn huyết chiếm 21,2 %
các trường hợp nằm hồi sức. Trong các nguyên
nhân gây TTTC tại khoa HSTC, nhiễm khuẩn
huyết và sốc nhiễm khuẩn chiếm ưu thế (50%);
sốc giảm thể tích do mất máu hoặc mất dịch
chiếm hơn 25%, các nguyên nhân khác như suy
tim, suy gan, phẫu thuật, viêm tụy cấp... chiếm
gần 25% còn lại (Bảng 1).
Đặc biệt, tỷ lệ có TTTC là 100% trong nhóm
BN có nhiễm khuẩn huyết so với 26,8% ở nhóm
BN không nhiễm khuẩn huyết (p< 0,001).
Bảng 1. Nguyên nhân TTTC tại khoa Hồi sức
Nguyên nhân Tần số Tỷ lệ (%)
Mất máu/mất dịch 18 27,2
NKH/sốc NKH (*) 33 50,0
Suy tim 1 1,5
Suy gan 1 1,5
Phẫu thuật 4 6,0
Khác 9 13,6
(*) NKH: Nhiễm khuẩn huyết
Qua phân tích đơn biến và đa biến, chúng tôi
nhận thấy các yếu tố nguy cơ TTTC mới mắc tại
khoa hồi sức bao gồm bệnh lý nặng (APACHE II
> 25 điểm), nhiễm khuẩn huyết, tụt huyết áp cần
sử dụng thuốc vận mạch, có sử dụng kháng sinh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
5
độc thận như vancomycin, aminoglycoside,
piperacillin, colistin (Bảng 2).
Bảng 2. Phân tích đơn biến và đa biến các yếu tố
nguy cơ TTTC tại khoa HSTC
Các yếu tốnguy
cơ
Phân tích đơn biến
Phân tích đa
biến
OR (95%CI) p p
Điểm APACHE >
25
3,5 (1,4–8,9) 0,009 0,007
Nhiễm khuẩn
huyết
6,4 (4,1–9,9) < 0,001 <0,001
Thuốc vận mạch 8,2 (4,8–13,9) <0,001 <0,001
Kháng sinh độc
thận
40,0 (4,7–
341,2)
<0,001 <0,001
Tác động của TTTC lên dự hậu của bệnh
nhân hồi sức
Tỷ lệ BN TTTC cần điều trị thay thế thận là
42,2%, trong đóđiều trị thay thế thận ngắt quãng
chiếm 35,7%, điều trị thay thế thận liên tục là
50% và 14,3% trường hợp kết hợp cả hai phương
thức thay thế thận. BN TTTC giai đoạn AKIN-1
có tỷ lệ thay thế thận là 0%, AKIN-2 và AKIN-3
có tỷ lệ thay thế thận lần lượt là 44% và 47%.
Trong 156 BN tham gia nghiên cứu có 76 BN
tử vong (48,7%). BN có TTTC tại khoa HSTC có
tỷ lệ tử vong 66,7% so với 36,4% ở những BN
không có TTTC. TTTC làm tăng nguy cơ tử vong
gấp 3,6 lần (khoảng tin cậy 95%; 1,9-7,1, p<0,001).
BN có TTTC mới mắc tại khoa HSTC có tỷ lệ tử
vong cao nhất (71%).
BÀN LUẬN
Tỷ lệ và thời điểm xuất hiện và mức độ
TTTC
Tỷ lệ TTTC tại thời điểm nhập khoa HSTC
trong khảo sát chúng tôi tương tự các nghiên
cứu khác. Nghiên cứu của Hoste trên hơn 5000
BN tại Mỹ, tỷ lệ BN TTTC tại thời điểm nhập
khoa HSTC 22%(3). Trong nghiên cứu quan sát
tiến cứu, đa trung tâm ở 54 khoa hồi sức tại 23
quốc gia với 29 269 BN của Uchino và cộng sự,
tỷ lệ TTTC tại thời điểm nhập khoa HSTC là
30%(9).
Biểu đồ 2: Tỷ lệ tử vong trong các nhóm TTTC.
Nhóm 0: không có TTTC. Nhóm 1: Có TTTC trước nhập
hồi sức và hồi phục. Nhóm 2: Có TTTC lúc nhập hồi sức và
tiến triển. Nhóm 3: TTTC mới xuất hiện trong quá trình
điều trị tại hồi sức.
Tỷ lệ hiện mắc TTTC tại các khoa HSTC
trên thế giới rất thay đổi theo các nghiên cứu.
Nghiên cứu Hoste trên ghi nhận tuổi trung
bình là 56,6 tuổi, tỷ lệ BN ngoại khoa là 44,2%,
có tỷ lệ TTTC là 67%(3). Nghiên cứu Uchino và
cộng sự có tuổi trung bình là 67 tuổi và tỷ lệ
TTTC là 35,7%(9). Tỷ lệ hiện mắc TTTC tại khoa
HSTC thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như
mức độ nặng của bệnh, tuổi của dân số nghiên
cứu, nhóm bệnh lý nội khoa hoặc ngoại khoa,
bệnh lý chính thường gặp và tiêu chuẩn chẩn
đoán TTTC. Trước năm 2002, ghi nhận hơn 35
định nghĩa khác nhau về suy thận cấp. Các
tiêu chuẩn chẩn đoán rất thay đổi và không
thống nhất, dẫn đến tỷ lệ mô tả rất khác giữa
các nghiên cứu. Đến năm 2003, sau hội
nghịđồng thuận quốc tế lần 2 của ADQI, tiêu
chuẩn RIFLE lần đầu tiên được công bố. Trong
hội nghị lần đầu tiên năm 2005 giữa các nhà
thận học và các bác sĩ hồi sức, đãđiều chỉnh
tiêu chuẩn RIFLE đưa ra tiêu chuẩn AKIN(6).
Sử dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán thống nhất
vẫn cho thấy tỷ lệ hiện mắc của TTTC tại các
khoa HSTC còn rất cao. Như vậy, TTTC là một
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017
6
bệnh lý phổ biến và thật sự trở thành gánh
nặng bệnh tật, tử vong tại các khoa HSTC.
Tần suất mới mắc TTTC tại khoa HSTC cũng
thay đổi qua các nghiên cứu(9). Nghiên cứu gần
đây của Medve tại Hungary trên gần 500 BN lại
cho thấy tần suất TTTC khá cao 24,4%(5). Theo
Uchino, tần suất mới mắc của TTTC là 5,7%, thấp
hơn nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả
khác. Uchino thực hiện nghiên cứu năm 2000-
2001, khi tiêu chuẩn RIFLE và AKIN chưa ra đời,
định nghĩa suy thận cấp còn chưa thống nhất.
Trong nghiên cứu này Uchino sử dụng định
nghĩa suy thận cấp khi có thiểu niệu (lượng nước
tiểu < 200ml trong 12 giờ) và/hoặc tăng azot máu
(BUN > 84mg/dL hay > 30mmol/l). Tiêu chuẩn
này đơn giản, rõ ràng và có thể sử dụng để bắt
đầu chuẩn bịđiều trị thay thế thận, tuy nhiên
mức BUN là quá cao, khi suy thận cấp đã tiến
triển và thiểu niệu được xác định phải chờ tới 12
giờ. Do đó, với tiêu chuẩn này, tỷ lệ TTTC trong
nghiên cứu chỉ 5,7%(9).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi khảo
sát sựđồng thuận giữa tiêu chuẩn RIFLE và
AKIN bằng thống kê interrater agreement, chỉ
số kappa rất cao chứng tỏ hai tiêu chuẩn này
khá thống nhất với nhau trong đánh giá TTTC
ở BN hồi sức.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ TTTC
Trong khảo sát của chúng tôi, nhiễm khuẩn
huyết là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra
TTTC tại khoa hồi sức. Kết quả này tương tự
nghiên cứu của Nguyễn Bách tại bệnh viện
Thống Nhất, có tỷ lệ TTTC do nhiễm khuẩn
huyết chiếm 55,9% các trường hợp(7). Theo tác giả
Bonventre, nguyên nhân giảm tưới máu thận
chiếm trên 50%, hầu hết do bệnh lý nặng như
sốc tim, sốc nhiễm khuẩn, sốc mất máu dẫn đến
suy các cơ quan, trong đó thận là cơ quan dễ tổn
thương do đó có tỷ lệ tổn thương cao nhất(2).
Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra các
yếu tố nguy cơ gây TTTC nhưđiểm APACHE >
25 (OR = 3,5), nhiễm khuẩn huyết (OR = 6,4), sử
dụng thuốc vận mạch (OR = 8,4) và đặc biệt là
các kháng sinh độc thận (OR = 40). Đây là những
yếu tố nguy cơ thường gặp ở bệnh nhân nặng
nằm hồi sức. Các yếu tố nguy cơ này lại thường
không xuất hiện đơn độc. Chính vì vậy, BN nằm
hồi sức có nguy cơ rất cao xuất hiện TTTC.
Tác động của TTTC lên dự hậu của bệnh
nhân hồi sức
Tỷ lệ BN TTTC cần điều trị thay thế thận
trong nghiên cứu của chúng tôi là 42,4%. Tỷ lệ
thay thế thận trong các nghiên cứu trên thế giới
thay đổi rất đáng kể tùy thuộc vào từng quốc
gia, từng bệnh viện. Có nhiều tiêu chuẩn chỉđịnh
điều trị thay thế thận được đưa ra nhưng chưa
có sự thống nhất hoàn toàn, chính vì vậy mà tỉ
lệđiều trị thay thế thận trong TTTC còn khác
nhau đáng kể.
So với nhóm BN không có TTTC thì tỷ lệ tử
vong của nhóm BN có TTTC tăng cao rất rõ, đặc
biệt với nhóm BN có xuất hiện TTTC mới trong
quá trình điều trị hồi sức. Điều này cũng phù
hợp với những bằng chứng gần đây cho thấy
rằng ngay cả một sự biến đổi nồng độ creatinin
huyết thanh rất nhẹ cũng có liên quan với tỷ lệ
tử vong tăng cao ở bệnh nhân nội trú(3) Ghi nhận
này một lần nữa nhấn mạnh vai trò phòng ngừa,
phát hiện và điều trị kịp thời thích hợp ở BN có
nguy cơ xuất hiện hoặc thực sự xuất hiện TTTC
nhằm góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong nội viện.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 156 BN điều trị tại khoa Hồi
sức, Bệnh viện Chợ Rẫy, dựa trên tiêu chuẩn
AKIN, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ TTTC trước nhập
khoa HSTC 28,8%, tỷ lệ hiện mắc TTTC tại khoa
HSTC chiếm tỷ lệ 42,3%, tần suất mới mắc TTTC
21,7 %. Theo phân loại AKIN, các BN có TTTC
được phân thành các mức độ AKIN-1 chiếm
7,6%, AKIN-2 chiếm 37,9%, AKIN-3 chiếm
54,5%. Nguyên nhân TTTC chủ yếu do nhiễm
khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn huyết (chiếm
50%) kế đến là các nguyên nhân khác như sốc
mất máu/dịch, suy tim, suy gan, phẫu thuật, sử
dụng thuốc kháng sinh độc thận. Tỷ lệ thay thế
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
7
thận trong nhóm BN có TTTC là 42,4%. Tỷ lệ tử
vong ở BN có TTTC mới tại khoa HSTC 66,7% so
với 36,4% BN không có TTTC, tăng nguy cơ tử
vong gấp 3,6 lần. BN có TTTC mới mắc tại khoa
HSTC có tỷ lệ tử vong cao nhất, chiếm 71%. Như
vậy, TTTC có tỷ lệ mắc và mới mắc cao ở nhóm
bệnh nhân điều trị tại khoa hồi sức. TTTC làm
tăng nguy cơđiều trị thay thế thận, kéo dài thời
gian nằm hồi sức và làm tăng tý lệ tử vong.
Chính vì vậy công tác dự phòng, phát hiện sớm
và điều trị thích hợp TTTC ở BN nằm hồi sức cần
phải được đặc biệt chú ý nhằm giảm thiểu tỷ lệ
tử vong và bệnh tật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Basile P, Anderson D and Sutton A (2012). Pathophysiology of
Acute Kidney Injury. ComprPhysiol,2: pp. 1303-1353.
2. Bonventre V (2004). Pathophysiology of ischemic acute renal
failure. Inflammation, lung-kidney cross-talk, and biomarkers.
Contrib Nephrol, 144: pp. 19-30.
3. Hoste A, Clermont G, Kersten A, Venkataraman R, Angus C,
De Bacquer D, et al. (2006). RIFLE criteria for acute kidney
injury are associated with hospital mortality in critically ill
patients: a cohort analysis. Crit Care, 10: pp.73.
4. Lameire H, Bagga A, Cruz D, De Maeseneer J, Endre Z,
Kellum J A, et al. (2013). Acute kidney injury: an increasing
global concern. Lancet, 382: 170-179.
5. Medve L, Antek C, Paloczi B, Kocsi S, Gartner B, Marjanek Z,
et al. (2011). Epidemiology of acute kidney injury in
Hungarian intensive care units: a multicenter, prospective,
observational study. BMC Nephrol, 12: pp. 43.
6. Mehta L, Kellum A, Shah V, Molitoris A, Ronco C, Warnock
G, et al. (2007). Acute Kidney Injury Network: report of an
initiative to improve outcomes in acute kidney injury. Crit
Care, 11: pp.31.
7. Nguyễn Bách, Bùi Văn Thuỷ, Vũ Đình Hùng (2011). Đặc điểm
lâm sàng và kết quả điều trị BN lớn tuổi suy thận cấp kết hợp
với nhiễm khuẩn huyết. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
15: pp.113-119.
8. Palevsky PM (2006). Epidemiology of acute renal failure: the
tip of the iceberg. Clin J Am Soc Nephrol, 1: pp.6-7.
9. Uchino S, Kellum A, Bellomo R, Doig S, Morimatsu H,
Morgera S, et al. (2005). Acute renal failure in critically ill
patients: a multinational, multicenter study. JAMA, 294: pp.
813-818
Ngày nhận bài báo: 07/04/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/04/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/05/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_tinh_hinh_ton_thuong_than_cap_o_benh_nhan_dieu_tri.pdf