Tài liệu Khảo sát tính an toàn, tiện dụng và hiệu quả phục hồi vận động sau đột quỵ của thể châm cải tiến khuyến khích não khi dùng với máy điện châm cải tiến: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 82
KHẢO SÁT TÍNH AN TOÀN, TIỆN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ PHỤC HỒI
VẬN ĐỘNG SAU ĐỘT QUỴ CỦA THỂ CHÂM CẢI TIẾN
KHUYẾN KHÍCH NÃO KHI DÙNG VỚI MÁY ĐIỆN CHÂM CẢI TIẾN
Phạm Thị Bình Minh*, Lý Minh Đạo*, Phan Quan Chí Hiếu*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 200.000 người bị đột quỵ. Trong đó, khuyết tật vận động chiếm
cao nhất 51,9%. Do đó, phục hồi vận động sau đột quỵ là rất cần thiết. Phương pháp thể châm cải tiến khuyến
khích não có tỉ lệ phục hồi tốt là 74,07%. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này gặp một số khó khăn đối với
bệnh nhân và nhân viên y tế. Để khắc phục khó khăn, chúng tôi đã thiết kế máy điện châm cải tiến và tiến hành
nghiên cứu này.
Mục tiêu: Khảo sát tính an toàn, tiện dụng và hiệu quả phục hồi vận động sau đột quỵ của thể châm cải tiến
khuyến khích não với máy điện châm cải tiến.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát mô tả, trên ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tính an toàn, tiện dụng và hiệu quả phục hồi vận động sau đột quỵ của thể châm cải tiến khuyến khích não khi dùng với máy điện châm cải tiến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 82
KHẢO SÁT TÍNH AN TOÀN, TIỆN DỤNG VÀ HIỆU QUẢ PHỤC HỒI
VẬN ĐỘNG SAU ĐỘT QUỴ CỦA THỂ CHÂM CẢI TIẾN
KHUYẾN KHÍCH NÃO KHI DÙNG VỚI MÁY ĐIỆN CHÂM CẢI TIẾN
Phạm Thị Bình Minh*, Lý Minh Đạo*, Phan Quan Chí Hiếu*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 200.000 người bị đột quỵ. Trong đó, khuyết tật vận động chiếm
cao nhất 51,9%. Do đó, phục hồi vận động sau đột quỵ là rất cần thiết. Phương pháp thể châm cải tiến khuyến
khích não có tỉ lệ phục hồi tốt là 74,07%. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này gặp một số khó khăn đối với
bệnh nhân và nhân viên y tế. Để khắc phục khó khăn, chúng tôi đã thiết kế máy điện châm cải tiến và tiến hành
nghiên cứu này.
Mục tiêu: Khảo sát tính an toàn, tiện dụng và hiệu quả phục hồi vận động sau đột quỵ của thể châm cải tiến
khuyến khích não với máy điện châm cải tiến.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát mô tả, trên 30 người tình nguyện để khảo sát
tính an toàn, trên 30 nhân viên y tế để khảo sát tính tiện dụng của máy. Nghiên cứu can thiệp, ngẫu nhiên, có
nhóm chứng trên 66 bệnh nhân đột quỵ để khảo sát tính hiệu quả, đồng thời quan sát để khảo sát tính an toàn và
tính tiện dụng.
Kết quả: Thể châm cải tiến khuyến khích não sử dụng máy điện châm cải tiến cho kết quả như sau: Nguy
hiểm tính mạng 0%, tác dụng phụ 0%, di chứng 0%. Tiết kiệm thời gian, 73,33% trả lời “Có”, 26,67% trả lời
“Không”, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tỉ lệ có hiệu quả ở nhóm can thiệp 84,8%, nhóm chứng
93,9%; sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Kết luận: Máy điện châm cải tiến hoàn toàn an toàn. Tính tiện dụng của máy còn thấp. Tính hiệu quả của
thể châm cải tiến khuyến khích não với máy điện châm cải tiến là 84,8%.
Từ khóa: Phục hồi vận động, Thể châm cải tiến, Khuyến khích não, Điện châm.
ABSTRACT
STUDY ON THE SAFETY, CONVENIENCE AND EFFICACY OF MOTOR RECOVERY AFTER
STROKE BY COMBINATION OF MODIFIED ACUPUNCTURE AND BRAIN TRAINING WITH
MODIFIED ELECTROACUPUNCTURE MACHINE
Pham Thi Binh Minh, Ly Minh Dao, Phan Quan Chi Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 1 - 2016: 82 - 87
Background: In Vietnam, about 200,000 people suffered from stroke every year. That lead to, motor deficit
51.9%. Therefore motor recovery after stroke is essential. Method of combination of modified acupuncture and
brain training was demonstrated to a high rate of motor recovery 74.07%. However, there are some difficulties
when applying this method for patients and medical staffs. For this reason, we have designed a modified
electroacupuncture machine to overcome these difficulties.
Objective: This study was conducted to examine the safety, convenience and efficacy of motor recovery after
stroke by combination of modified acupuncture and brain training with modified electroacupuncture machine.
* Khoa Y học cổ truyền – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Phạm Thị Bình Minh, ĐT: 01686932527 Email: binhminhpham88@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 83
Methods: Observational descriptive study on 30 healthy volunteers to determine the safety, and on 30
medical staffs to determine the convenience of modified electroacupuncture machine. Control open, randomlized,
clinical trial, on 66 stroke patients to determine the efficiency and as well the safety and convenience of the
machine.
Results: Using modified electroacupuncture machine in the treatment of motor deficit after stroke with
modified acupuncture showed: The rate of life-threatening 0%, adverse effects 0%, sequelae 0%. Saving time:
73.33% “Yes”, 26.67% “No”, there is no significant statistically difference (p<0.05). The effective rate in the
interventional group was 84.8%, the control group was 93.9%; but no statistically significant (p>0.05).
Conclusion: Modified electroacupuncture machine is completely safe. The convenience of modified
electroacupuncture machine is low. The efficacy of combination of modified acupuncture and brain training with
modified electroacupuncture machine is 84.8%.
Keywords: Motor recovery, modified acupuncture, brain training, electroacupuncture.
MỞ ĐẦU
Theo số liệu năm 2011 của Hội phòng chống
tai biến mạch máu não Việt Nam thì trên thế giới
có khoảng 5 triệu người bị đột quỵ mỗi năm. Tại
Việt Nam, mỗi năm có khoảng 200.000 người bị
đột quỵ(2). Trong đó, khuyết tật vận động là cao
nhất 51,9%. Do đó phục hồi vận động sau đột
quỵ là vô cùng cần thiết. Phương pháp thể châm
cải tiến kết hợp khuyến khích não cho tỉ lệ phục
hồi vận động tốt khá rất cao 74,07%(6). Tuy nhiên,
thực tế khi áp dụng kỹ thuật thể châm cải tiến
kết hợp khuyến khích não ghi nhận một số khó
khăn. Đối với bệnh nhân, các cơ được kích thích
cùng lúc và thời gian nghỉ giữa các xung kích
thích ngắn khiến cho việc ứng dụng khuyến
khích não gặp khó khăn. Đối với nhân viên y tế,
mất nhiều thời gian trong việc theo dõi và điều
chỉnh các thông số điện phù hợp để kích thích
từng cơ(6). Với mong muốn khắc phục những khó
khăn nêu trên, chúng tôi đã thiết kế máy điện
châm cải tiến, và tiến hành nghiên cứu này.
Mục tiêu nghiên cứu
1. Khảo sát tính an toàn của máy điện châm
cải tiến.
2. Khảo sát tính tiện dụng của máy điện
châm cải tiến.
3. Khảo sát hiệu quả phục hồi vận động sau
đột quỵ của thể châm cải tiến khuyến khích não
với máy điện châm cải tiến.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu quan sát mô tả: để khảo sát
tính an toàn, tính tiện dụng của máy điện
châm cải tiến.
Nghiên cứu can thiệp, ngẫu nhiên, có nhóm
chứng: để khảo sát tính hiệu quả của phương
pháp thể châm cải tiến sử dụng với máy điện
châm cải tiến.
Mẫu nghiên cứu
Tính an toàn
30 người khỏe mạnh, tình nguyện.
33 bệnh nhân (nhóm can thiệp).
n =
2
21
2
22112/1
)(
)1()1()1(2
1
pp
pppp ppZZ
= 33
Tính tiện dụng
30 nhân viên y tế, 33 bệnh nhân (nhóm can
thiệp).
Tính hiệu quả
33 bệnh nhân (nhóm can thiệp).
Đối tượng nghiên cứu
Người tình nguyện, nhân viên y tế, bệnh
nhân.
Tiêu chí chọn người tình nguyện
- Người tình nguyện tham gia nghiên cứu.
- Người khỏe mạnh, không có tiền căn các
bệnh lý về thần kinh, tim mạch.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 84
- Không viêm nhiễm lở loét vùng da châm
cứu.
Tiêu chí chọn nhân viên y tế
- Nhân viên y tế đồng ý tham gia nghiên cứu
- Nhân viên y tế có trực tiếp thực hiện kỹ
thuật thể châm cải tiến trên bệnh nhân.
Tiêu chí chọn bệnh nhân
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu
- Bệnh nhân giảm chức năng vận động sau
đột quỵ (điểm Barthel < 60).
- Bệnh nhân có điểm Glasgow ≥ 14
- Bệnh nhân không có các triệu chứng: đau
đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn trước mỗi lần
tiến hành điện châm.
- Bệnh nhân không có tình trạng co rút gân
cơ.
Các bước tiến hành nghiên cứu
Giai đoạn 1: thử nghiệm máy điện châm cải
tiến trên người tình nguyện
Giai đoạn 2: nghiên cứu can thiệp trên bệnh
nhân.
Giai đoạn 3: khảo sát nhân viên y tế.
Phương pháp can thiệp
Tiến hành trong 30 ngày
Nhóm A (nhóm chứng) Nhóm B (nhóm can thiệp)
Thể châm cải tiến Thể châm cải tiến
Khuyến khích não
Sử dụng thuốc chuyên khoa
Tập vận động
Phương pháp theo dõi và đánh giá
Theo dõi và đánh giá tính an toàn, tính tiện
dụng.
- Bệnh nhân nhóm can thiệp thực hiện
“Phiếu đánh giá máy điện châm cải tiến”
- Nhân viên y tế thực hiện “Phiếu đánh giá
máy điện châm cải tiến”
Theo dõi và đánh giá tính hiệu quả.
- Thang điểm Barthel : gồm 10 mục, điểm tối
đa 100.
- Đánh giá chỉ số Barthel vào các thời điểm:
ngày 0, 10, 20, 30.
Biến số kết cuộc: gồm 3 biến số
Tính an toàn
Là biến số định tính, có 2 giá trị (Có – Không).
Có an toàn
Khi có đủ 3 yếu tố sau:
- Không gây nguy hiểm đến tính mạng bệnh
nhân mỗi lần sử dụng điện châm trong vòng 24h.
- Không có tác dụng phụ mỗi lần sử dụng
điện châm trong vòng 24h.
- Không để lại di chứng sau quá trình điều trị
30 ngày.
Không an toàn:
Khi không có đủ 3 yếu tố kể trên.
Tính tiện dụng
Là biến số định tính, có 4 giá trị (Không –
Thấp – Trung bình – Cao).
Tiết kiệm thời gian (đối với nhân viên y tế).
Vận hành máy dễ dàng (đối với nhân viên y
tế).
Phối hợp khuyến khích não dễ dàng (đối với
bệnh nhân).
Không tiện dụng: khi không có 3 yếu tố trên.
Tính tiện dụng thấp: khi có 1/3 yếu tố trên.
Tính tiện dụng trung bình: khi có 2/3 yếu tố
trên.
Tính tiện dụng cao: khi có 3/3 yếu tố trên.
Tính hiệu quả: là biến định tính, có 2 giá trị
(Có – Không)
Có hiệu quả: khi có cả 2 yếu tố
- Xếp loại Barthel sau nghiên cứu chuyển ≥ 1
bậc.
- Điểm Barthel ≥ 45.
Không hiệu quả: khi có 1 trong 2 yếu tố
- Xếp loại Barthel sau nghiên cứu không
chuyển bậc.
- Điểm Barthel < 45.
Xếp loại Barthel như sau:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 85
Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 Bậc 4
Kém Yếu Trung bình Khá – Tốt
≤ 20 21 – 44 45 – 64 65 – 100
Phương pháp thống kê
Sử dụng phầm mềm SpSs 16.0
Thống kê mô tả: trung bình, độ lệch chuẩn,
tần số, tỉ lệ
Thống kê phân tích: phép kiểm T, T bắt cặp,
Chi-square, Fisher, Mann – Whitney
KẾT QUẢ
Tính an toàn
Không ghi nhận các tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng, tác dụng phụ trên nhóm tình
nguyện. Di chứng không thể trả lời vì chỉ thực
hiện thể châm cải tiến 1 lần trên mỗi người tình
nguyện (Bảng 1).
Bảng 1: Tính an toàn của máy điện châm cải tiến trên
nhóm tình nguyện
Có Không
Nguy hiểm đến tính
mạng
0% 30 (100%)
Tác dụng phụ 0% 30 (100%)
Di chứng Không thể kết luận
Không ghi nhận các tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng, tác dụng phụ hay di chứng trên
nhóm can thiệp (Bảng 2).
Bảng 2: Tính an toàn của máy điện châm cải tiến trên
nhóm can thiệp
Có Không
Nguy hiểm đến tính mạng 0% 33 (100%)
Tác dụng phụ 0% 33 (100%)
Di chứng 0% 33 (100%)
Tính tiện dụng
Bảng 3: Tính tiện dụng của máy điện châm cải tiến
Có Không
Nhân viên y tế
Tiết kiệm thời gian 22 (73,33%) 8 (26,67%)
Vận hành máy dễ
dàng
18 (60%) 12 (40%)
Bệnh nhân
Phối hợp khuyến
khích não dễ dàng
12 (36,4%) 21 (63,6%)
Theo phân phối Nhị thức:
p =
Với n = 30, x = 22 thì p = 0,005 < 0,05
Nhận xét: máy điện châm cải tiến có tiết
kiệm thời gian sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Với n = 30, x = 18 thì p = 0,08 > 0,05
Nhận xét: máy điện châm cải tiến vận hành
dễ dàng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Với n = 33, x = 12 thì p = 0,041 < 0,05
Nhận xét: máy điện châm cải tiến không
giúp phối hợp khuyến khích não dễ dàng sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tính hiệu quả
So sánh phục hồi vận động theo điểm
Barthel giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp qua
từng giai đoạn sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05) (Bảng 4).
Nhận xét: So sánh phục hồi vận động theo
xếp loại Barthel giữa nhóm chứng và nhóm can
thiệp qua từng giai đoạn sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). (Bảng 5).
Bảng 4. Điểm Barthel trung bình giữa nhóm chứng
và nhóm can thiệp qua từng giai đoạn
Nhóm chứng Nhóm can thiệp p
Ngày 0 29,85 ± 13,72 33,18 ± 12,11 0,299
Ngày 10 37,88 ± 13,64 41,82 ± 11,65 0,212
Ngày 20 50,45 ± 15,83 52,88 ± 12,56 0,493
Ngày 30 61,82 ± 15,15 62,12 ± 13,69 0,932
Bảng 5. Xếp loại Barthel giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp qua từng giai đoạn
Nhóm chứng Nhóm can thiệp
p
Kém Yếu Trung bình Khá – tốt Kém Yếu Trung bình Khá – tốt
Ngày 0 21,21% 66,67% 12,12% 0% 18,18% 60,61% 21,21% 0% 0,422
Ngày 10 12,12% 51,52% 30,30% 6,06% 3,03% 45,45% 48,49% 3,03% 0,189
Ngày 20 3,03% 18,18% 60,61% 18,18% 0% 24,24% 54,55% 21,21% 0,96
Ngày 30 3,03% 0% 57,58% 39,39% 0% 12,12% 33,33% 54,55% 0,457
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016
Chuyên Đề Nội Khoa II 86
Bảng 6. Tính hiệu quả giữa nhóm chứng và nhóm
can thiệp
Nhóm chứng
Nhóm can
thiệp
p
Tần số
(người)
Tỉ lệ (%)
Tần số
(người)
Tỉ lệ
(%)
Có hiệu quả 31 93,9 28 84,8
0,427 Không hiệu
quả
2 6,1 5 15,2
Nhận xét: So sánh tính hiệu quả giữa nhóm
chứng và nhóm can thiệp sau 30 ngày điều trị sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
BÀN LUẬN
Bàn luận về tính an toàn của máy điện
châm cải tiến
Máy điện châm cải tiến trong nghiên cứu của
chúng tôi có kết quả an toàn khi sử dụng trên
người bệnh vì các thông số điện trong giới hạn
cho phép và an toàn đối với cơ thể con người.
Máy điện châm cải tiến sử dụng dòng điện 1
chiều có cường độ dòng điện tối đa là 10mA,
hoàn toàn không ảnh hưởng đến tri giác, sinh
hiệu của cơ thể(3). Do đó, đảm bảo không nguy
hiểm đến tính mạng con người và không gây bất
cứ tác dụng phụ nào. Dòng điện đi qua tim trong
nghiên cứu không đáng kể vì khi điện châm chỉ
kích thích các cơ trên cùng một chi ở một bên của
cơ thể(3). Do đó không ảnh hưởng đến các chỉ số
mạch, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương
của bệnh nhân, phù hợp với kết quả nghiên cứu.
- Hình dạng xung hình chữ nhật: phù hợp
trong điều trị liệt, giúp tăng nuôi dưỡng phòng
ngừa teo cơ(4).
- Độ rộng xung: 500µs an toàn và phù hợp
trong điều trị liệt(1).
- Điện áp 6V: trong giới hạn cho phép nên
không gây nguy hiểm đến tính mạng con
người(3).
- Tần số 20Hz: phù hợp trong điều trị kích
thích cơ yếu liệt(4).
- Thời gian: 30 phút là đảm bảo an toàn
tương ứng với cường độ dòng điện 10mA(3).
Bàn luận về tính tiện dụng của máy điện
châm cải tiến
Do chỉ thỏa 1/3 yếu tố là tiết kiệm thời gian,
nhưng không thỏa yếu tố vận hành máy dễ
dàng, chưa giúp bệnh nhân phối hợp khuyến
khích não tốt nên máy điện châm cải tiến có tính
tiện dụng thấp. Có thể giải thích như sau:
40% bác sĩ, điều dưỡng đánh giá máy điện châm
cải tiến không vận hành dễ dàng:
- Có thể do việc sử dụng quen thuộc với máy
điện châm cũ nên khi sử dụng một máy hoàn
toàn mới ít nhiều gặp khó khăn.
- Ngoài ra, các nút điều chỉnh trên thân máy
đều được ghi chú bằng tiếng Anh cũng có thể
gây khó khăn trong khi sử dụng.
Đề xuất hướng giải quyết:
- Tăng cường tính năng tự động hóa, thiết
lập phần mềm xử lý để máy tự động thay đổi tần
số, cường độ.
- Ghi chú các nút điều chỉnh bằng tiếng Việt.
63,6% bệnh nhân đánh giá máy điện châm
cải tiến không giúp phối hợp khuyến khích não
dễ dàng.
- Có thể giải thích do phương pháp này yêu
cầu sự hợp tác và tuân thủ điều trị cao nên
không phải bệnh nhân nào cũng có thể phối hợp
khuyến khích não theo máy dễ dàng.
- Đa số bệnh nhân lớn tuổi 90,91% bệnh nhân
> 50 tuổi, một số khó khăn trong quá trình
khuyến khích não được ghi nhận như sau:
+ Bệnh nhân quên động tác.
+ Bệnh nhân ngủ quên.
+ Bệnh nhân chán nản, căng thẳng.
Đề xuất hướng giải quyết:
- Cài đặt thêm âm thanh và đèn báo hiệu mỗi
khi thay đổi vị trí kích thích cơ để tăng sự tập
trung của bệnh nhân trong quá trình khuyến
khích não.
- Bệnh nhân phải được tập huấn về các động
tác của các cơ yếu liệt.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 87
- Người nhà bệnh nhân phải được tập huấn
về các động tác để hỗ trợ, động viên, nhắc nhở
bệnh nhân trong quá trình khuyến khích não.
Bàn luận về tính hiệu quả của phương
pháp thể châm cải tiến khuyến khích não
khi dùng với máy điện châm cải tiến
Có thể giải thích kết quả trên như sau. Khi sử
dụng với máy điện châm cải tiến do máy được
thiết kế tự động kích thích lần lượt từng cơ, nên
nhân viên y tế chỉ hướng dẫn bệnh nhân hoạt
động hoặc suy nghĩ về hoạt động của các cơ
tương ứng. Trong quá trình bệnh nhân được
khuyến khích tự thực hiện. Nghiên cứu của
chúng tôi đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ và tuân thủ
điều trị của bệnh nhân.
Khi bệnh nhân phải tự tập hoặc tự tưởng
tượng động tác theo sự kích thích từng cơ của
máy điện châm đa số bệnh nhân gặp khó khăn.
63,6% bệnh nhân gặp khó khăn khi phối hợp
khuyến khích não trong lúc điện châm.
Do đó, nếu bệnh nhân không tự tập theo
hoặc tưởng tượng các hoạt động theo từng cơ
được kích thích thì lúc đó phương pháp khuyến
khích não không phát huy được tác dụng.
Phương pháp ở nhóm can thiệp sẽ trở thành
giống phương pháp thể châm cải tiến đơn thuần
ở nhóm chứng. Vì vậy, kết quả là hiệu quả phục
hồi vận động theo điểm Barthel giữa 2 nhóm
tương đương nhau. Phù hợp với nghiên cứu của
Đoàn Thị Nguyền, Phan Quan Chí Hiếu (năm
2010) là sự hợp tác của bệnh nhân có ảnh hưởng
đến kết quả điều trị(5).
Sau 30 ngày điều trị, nhóm can thiệp có số
bệnh nhân xếp loại Barthel tốt khá chiếm tỉ lệ cao
54,55% và xếp loại Barthel kém là 0%. Trong khi
đó, nhóm chứng có số bệnh nhân xếp loại
Barthel tốt khá chiếm tỉ lệ thấp hơn là 39,39% và
xếp loại Barthel kém là 3,03%. Có thể do cỡ mẫu
nghiên cứu nhỏ, nghiên cứu trên 66 bệnh nhân
nên không thấy được sự khác biệt về hiệu quả
giữa hai nhóm. Có thể do điểm Barthel trung
bình lúc ban đầu của nhóm can thiệp là 33,18 ±
12,11 cao hơn so với nhóm chứng là 29,85 ± 13,72.
Sau khi điều trị 30 ngày, cả 2 nhóm đều có
kết quả phục hồi vận động rất tốt.
- Trong nhóm can thiệp tỷ lệ có hiệu quả
chiếm 84,8%.
- Trong nhóm chứng tỷ lệ có hiệu quả chiếm
93,9%.
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa
2 nhóm (p>0,05). Có thể do cỡ mẫu nghiên cứu
nhỏ, nghiên cứu trên 66 bệnh nhân nên không
thấy được sự khác biệt về hiệu quả giữa hai
nhóm.
KẾT LUẬN
Tính an toàn: máy điện châm cải tiến hoàn
toàn an toàn.
Tính tiện dụng: máy điện châm cải tiến có
tính tiện dụng thấp.
Tính hiệu quả: tỉ lệ có hiệu quả ở nhóm can
thiệp sử dụng máy điện châm cải tiến với
phương pháp thể châm cải tiến khuyến khích
não là 84,8%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American physical therapy association (1986), Effect of
different forms of transcutaneous electrical nerve stimulation,
Physical Therapy, 66(2): 87 – 190.
2. Hội phòng chống TBMMN Việt Nam (2011), Hội nghị Đột quỵ
não - vấn đề toàn cầu.
3. Nguyễn Đình Thắng (2009). Giáo trình an toàn điện. tr.8 – 11.
NXB Giáo dục
4. Phan Quan Chí Hiếu (2002), “Điện châm”. Trong: Phan Quan
Chí Hiếu. Châm cứu học, tập 2, tr.179 – 182. NXB Y học
TP.HCM
5. Phan Quan Chí Hiếu, Đoàn Thị Nguyền (2010), “Khảo sát
những yếu tố có ảnh hưởng trên hiệu quả phục hồi vận động
sau đột quỵ bằng phương pháp châm cứu cải tiến phối hợp
vật lý trị liệu tại tỉnh Trà Vinh”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh
số đặc biệt chuyên ngành Y học cổ truyền, phụ bản của tập 16,
số 1, tr.72 – 74.
6. Phan Quan Chí Hiếu, Trịnh Thị Diệu Thường (2013), Đánh giá
hiệu quả phục hồi vận động của thể châm cải tiến kết hợp khuyến
khích não trên bệnh nhân nhồi máu não trên lều, Luận án tiến sĩ Y
học, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài báo: 20/10/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/11/2015
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_tinh_an_toan_tien_dung_va_hieu_qua_phuc_hoi_van_don.pdf