Tài liệu Khảo sát tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ và các yếu tố liên quan tại khoa ngoại thần kinh Bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2014–2016: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 130
KHẢO SÁT TỈ LỆ NHIỄM KHUẨN VẾT MỔ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
TẠI KHOA NGOẠI THẦN KINH BV NGUYỄN TRI PHƯƠNG NĂM 2014 – 2016
Nguyễn Đình Xướng*, Nguyễn Thị Thu Hồng*, Nguyễn Thị Kim Chi*, Nguyễn Lan Phượng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề Tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện gia tăng đang là nỗi lo lắng hàng đầu của những nhà quản
lý bệnh viện và đã trở thành một thách thức lớn đối với chất lượng khám chữa bệnh, vì tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh
viện là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng của bệnh viện (chất lượng điều trị và sự hài
lòng của bệnh nhân). Nhiễm khuẩn vết mổ là hậu quả không mong muốn thường gặp nhất, là một trong những
bệnh lý của nhiễm khuẩn bệnh viện, nhiễm khuẩn vết mổ luôn là nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình
trạng bênh tật và tử vong ở các bệnh nhân phẫu thuật, là gánh nặng tài chính cho các cơ sở y tế và bản...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ và các yếu tố liên quan tại khoa ngoại thần kinh Bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2014–2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 130
KHẢO SÁT TỈ LỆ NHIỄM KHUẨN VẾT MỔ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
TẠI KHOA NGOẠI THẦN KINH BV NGUYỄN TRI PHƯƠNG NĂM 2014 – 2016
Nguyễn Đình Xướng*, Nguyễn Thị Thu Hồng*, Nguyễn Thị Kim Chi*, Nguyễn Lan Phượng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề Tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện gia tăng đang là nỗi lo lắng hàng đầu của những nhà quản
lý bệnh viện và đã trở thành một thách thức lớn đối với chất lượng khám chữa bệnh, vì tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh
viện là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng của bệnh viện (chất lượng điều trị và sự hài
lòng của bệnh nhân). Nhiễm khuẩn vết mổ là hậu quả không mong muốn thường gặp nhất, là một trong những
bệnh lý của nhiễm khuẩn bệnh viện, nhiễm khuẩn vết mổ luôn là nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình
trạng bênh tật và tử vong ở các bệnh nhân phẫu thuật, là gánh nặng tài chính cho các cơ sở y tế và bản thân
người bệnh. Mặc dù việc loại trừ hoàn toàn nhiễm khuẩn vết mổ là không thể, nhưng việc giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn
vết mổ đến mức độ tối thiểu sẽ có lợi ích đáng kể cho bệnh nhân và nhà quản lý.
Mục tiêu Xác định tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ năm
2014 – 2016 (tháng 4 đến tháng 6 mỗi năm) và các yếu tố liên quan.
Đối tượng Những bệnh nhân đến phẫu thuật thần kinh tại khoa ngoại thần kinh và chưa có nhiễm khuẩn
vết mổ từ trước.
Phương pháp Nghiên cứu mô tả dọc từ tháng 4 đến tháng 6 vào các năm 2014 - 2016, khảo sát trên 247
bệnh nhân đến phẫu thuật thần kinh tại khoa ngoại thần kinh chưa có nhiễm khuẩn bệnh viện từ trước được ghi
nhận qua một phiếu điều tra giám sát và có theo dõi diễn tiến bệnh. Từ đó tổng kết ghi nhận tỉ lệ nhiễm khuẩn vết
mổ và xem xét các yếu tố liên quan.
Kết quả Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện Nguyễn tri Phương năm 2014 -2016
là 4,9%, trong đó có 6 trường hợp NKVM nông, 3 trường hợp NKVM sâu, 2 trường hợp NKVM khoang/cơ
quan, và 1 trường hợp NKVM chưa được đánh giá phân loại. Các trường hợp NKVM này được sử dụng KS dự
phòng (97%) và kháng sinh điều trị (100%). Thời gian nằm viện càng nhiều thì tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ càng
tăng(p < 0,05); Bệnh nhân có sử dụng kháng sinh dự phòng NKVM sẽ thấp hơn bệnh nhân không được sử dụng
kháng sinh dự phòng (p = 0,04).
Kết luận Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện Nguyễn tri Phương năm 2014 - 2016
là 4,9% tương đồng với các nghiên cứu trong nước và trên thế giới. 97% bệnh nhân phẫu thuật được sử dụng
kháng sinh dự phòng và 100% được cho kháng sinh điều trị. Thời gian nằm viện càng nhiều thì tỉ lệ nhiễm khuẩn
vết mổ càng tăng(p <0,05); Bệnh nhân có sử dụng kháng sinh dự phòng NKVM sẽ thấp hơn bệnh nhân không
được sử dụng kháng sinh dự phòng (p = 0,04).
Từ khóa: NVVM: Nhiễm khuẩn vết mỗ. NKBV: Nhiễm khuẩn bệnh viện.
ABSTRACT
SURVEY THE SURGICAL SITE INFECTION RATIO ANDRELATED FACTORS
IN NEURO - SURGERY DEPARTMENTAT NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL 2014-2016
Nguyen Đinh Xuong, Nguyen Thi Thu Hong, Nguyen Thi Kim Chi, Nguyen Lan Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 130 - 137
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: BS CKII Nguyễn Lan Phượng ĐT: 0908 376 466 Email: lphuong.nguyen@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 131
Background: The nosocomial infection is increasing in the world and it becomes the first interest of the
hospital administrators and also become the big challenge of the treatment quality. The nosocomial infection ratio
is one of the most important index to access the quality of any hospital (treatment quality and the contents of
patient). The surgical site infection is the most common sequence, which is not expected. The surgical site infection
is the main reason which make worse as well as fatal for the patient in the surgical department. It is not only the
financial burden of the hospital but also for the patients and their families. Although the elimination of the surgical
site infection seems to be the “mission impossible” but we will have the remarkable benefit for patients as well as
managers if we decrease the surgical site infection rate as less as possible.
Objective: To identify the proportion of SSI and the related factors in Neuro-surgery Department at
Nguyen Tri Phuong hospital from 2014 - 2016 (from April to July per year).
Object: Patients who were operated in Neuro-surgery Department without surgical site infection previous.
Methods: A prospective study from April to June 2014 - 2016, survey on 247 patients who were operated in
Neuro-surgery Department at Nguyen Tri Phuong hospital. Data were collected via a self-administered
questionnaire and follow up patients. From that, we summarized and access the related factors.
Results: The ratio of surgical site infection in Neuro-surgery Department at Nguyen Tri Phuong hospital in
2014- 2016 is 4.9% in which, we have 06 case of superficial surgical site infection and 03 cases of visceral infection
and 1 case of unclassified surgical site infection. 97% patients were used by prophylactic antibiotics and 100%
patients also used by antibiotics after operation.
Conclusions: The ratio of surgical site infection in Neuro-surgery Department at Nguyen Tri Phuong
hospital in 2014- 2016 is 4.9% that equivalent in literature in Vietnam and all the world. 97% patients were used
by prophylactic antibiotics and 100% patients also used by antibiotics after operation. Patients’ hospital
admission stays as long as the increasing of surgical site infection ratio (p < 0.05). The surgical site infection ratio
in patients who used prophylactic antibiotic was smaller than patients without prophylactic antibiotic (p = 0.04).
Key words: SSI: surgical site infection, IN: Nosocomial infection.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện là vấn đề nhạy cảm
liên quan đến trách nhiệm thực hành của những
nhà làm lâm sàng, là một thách thức lớn đối với
chất lượng khám chữa bệnh, và là nỗi lo lắng
hàng đầu của những nhà quản lý bệnh viện.
Nhiễm khuẩn vết mổ là loại nhiễm khuẩn
bệnh viện phổ biến, quan trọng và thường gặp.
Tại Hoa Kỳ, NKVM đứng hàng thứ 2 sau nhiễm
khuẩn tiết niệu, chiếm 24% nhiễm khuẩn bênh
viện nói chung, và tỷ lê tử vong khoảng 1,9%. Tỷ
lệ, nhiễm khuẩn vết mổ chiếm từ 2% - 5% trong
số 16 triệu bênh nhân phẫu thuật hàng năm, làm
tiêu tốn 42% tổng chi phí phát sinh do nhiễm
khuẩn bênh viện gây ra, làm tăng số ngày nằm
viện thêm từ 7 - 10 ngày, tăng chi phí điều trị của
bệnh nhân thêm khoảng 3.000 USD và còn làm
tiêu tốn nhân lực lao động của xã hội(4,2,3,12,5,6). Tại
Việt Nam, Nhiễm khuẩn vết mổ đứng thứ ba sau
nhiễm khuẩn hô hấp và nhiễm khuẩn tiết niệu
nhiễm khuẩn. NKVM xảy ra 5% – 10% trong số
khoảng 2 triệu người bệnh được phẫu thuật
hàng năm. Trên 90% NKVM làm tăng gấp 2 lần
thời gian nằm viện và chi phí điều trị trực
tiếp(4,3,15).
Nhiễm khuẩn vết mổ là hậu quả không
mong muốn thường gặp nhất, luôn là nguyên
nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình trạng
bênh tật và tử vong ở các bệnh nhân phẫu thuật,
là gánh nặng tài chính cho các cơ sở y tế và bản
thân người bệnh.
Nhiễm khuẩn vết mổ lại càng quan trọng
hơn trong phẫu thuật thần kinh. Theo báo cáo
của hệ thống nhiễm khuẩn sau mổ thần kinh
trung ương tần suất nhiễm khuẩn vết mổ dao
động từ 5% - 7% (17), một số nghiên cứu khác thì tỉ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 132
chiếm lệ 3-17%(15,10,16,11)..
Loại trừ hoàn toàn nhiễm khuẩn vết mổ là
không thể, nhưng việc giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn
vết mổ đến một mức tối thiểu sẽ có lợi ích đáng
kể đối với bệnh nhân và cả các nguồn lực y tế
được sử dụng, do đó khoa Kiểm Soát Nhiễm
Khuẩn thực hiện nghiên cứu khảo sát tỉ lệ nhiễm
khuẩn vết mổ tại khoa ngoại Thần kinh bệnh
viện Nguyễn Tri Phương năm 2014 - 2016 nhằm
xác định tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ và các yếu tố
liên quan.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu mô tả dọc, mô tả
trên 247 bệnh nhân nhập viện để phẫu thuật
thần kinh tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện
Nguyễn Tri Phương từ tháng 4 đến tháng 6
trong năm 3 năm 2014 – 2015 - 2016 và chưa có
NKVM. Dữ kiện được thu thập với một bảng
thu thập số liệu về yếu tố người bệnh, yếu tố
phẫu thuật, yếu tố điều trị. Chúng tôi theo dõi
hồ sơ là chính, lâm sàng bệnh nhân, trao đổi
với bác sĩ trưởng phó khoa khi cần, và theo
dõi cho đến 1 tháng sau khi bệnh nhân xuất
viện thông qua hồ sơ tái khám, hay gọi điện
khi bệnh nhân không đến tái khám.
Dữ kiện được nhập liệu bằng phần mềm
Epidata 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata
13.0. Thống kê mô tả gồm tần số và tỉ lệ được sử
dụng để trình bày các biến số định tính như
nhóm tuổi, giới tính, thời gian phẫu thuật, nhiễm
khuẩn vết mổ. Trung bình và độ lệch chuẩn
được sử dụng cho biến số định lượng như tuổi,
thời gian nằm viện, thời gian mổ. Nếu các biến
số định lượng có phân phối không bình thường
thì trung vị và khoảng tứ phân vị được sử dụng
thay thế.
Thống kê phân tích: Phép kiểm chi bình
phương được sử dụng để so sánh các nguy cơ
nhiễm khuẩn vết mổ với các biến số định tính
như nhóm tuổi, giới tính, sử dụng kháng sinh dự
phòng, kháng sinh điều trị và giữa các năm
nghiên cứu. Phép kiểm Fisher chính xác được sử
dụng thay thế khi giả định của phép kiểm chi
bình phương không thỏa.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Các yếu tố người bệnh (N = 247)
Đặc tính Tần số (%)
Tuổi
<30 13 (5,3)
30-40 37 (15,0)
>40 197 (79,7)
Giới
Nữ 134 (54,3)
Nam 113 (45,7)
Bệnh nền
Có 94 (38,1)
Không 153 (61,9)
ASA
1 21 (8,9)
2 199 (84,7)
3 11 (4,7)
4 4 (1,7)
Bảng 2: Các yếu tố phẫu thuật (N = 247)
Đặc tính Tần số (%)
Thời gian nằm viện
trước mổ (n=43)
≤ 7 ngày 142 (58,2)
> 7 ngày 102 (41,8)
Lọai PT
Chương trình 133 (53,9)
Cấp cứu 114 (46,1)
Số lần PT
1 221 (89,5)
2 26 (10,5)
Tắm trước phẫu
thuật
Có 217 (91,2)
Không 21 (8,8)
Loại vết mổ
PT sạch 214 (97,3)
PT sach – nhiễm 3 (1,4)
PT nhiễm 1 (0,5)
PT bẩn 2 (0,8)
Thời gian phẫu thuật (n =168)**
2 giờ 12 phút
(1 giờ 12 phút
-3 giờ 22 phút)
Thời gian nằm viện (ngày) (n = 244)** 15 (11-20)
**Trung vị (tứ phân vị)
Bảng 3: Các yếu tố điều trị (N= 1247)
Đặc tính Tần số (%)
Sử dụng kháng
sinh dự phòng
Có 240 (97,2)
Không 7 (2,8)
Sử dụng kháng
sinh điều trị
Có 247 (100)
Không 0 (0,00)
Thời gian sử
dụng KS
(n = 198)
Trong vòng 2 giờ trước rạch da 192 (97,0)
>2 giờ khi PT 3 (1,5)
Có sử dụng không ghi rõ giờ 3 (1,5)
Bảng 4: Tỉ lệ NKVM (N = 247)
Đặc tính Tần số (%)
NKVM
Có 12 (4,9)
Không 235 (95,1)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 133
Bảng 5: Mối liên quan giữa NKVM và yếu tố
người bệnh
Đặc tính
NKVM
P Có
n (%)
Không
n (%)
Tuổi
<30 0 (0) 13 (100)
0,99* 30-40 2 (5,4) 35 (94,6)
>40 10 (5,1) 187 (94,9)
Giới
Nam 9 (8,0) 104 (92,0)
0,07*
Nữ 3 (2,2) 131 (97,8)
Đặc tính
NKVM
P Có
n (%)
Không
n (%)
Bệnh nền
Có 6 (6,4) 88 (93,6)
0,38*
Không 6 (3,9) 147 (96,1)
ASA
1 1 (4,8) 20 (95,2)
0,70* 2 10 (5,0) 189 (95,5)
3 1 (9,1) 10 (90,9)
*phép kiểm Fisher chính xác
Bảng 6: Mối liên quan giữa NKVM và yếu tố phẫu thuật
Đặc tính
NKVM
P Có
n (%)
Không
n (%)
Loại PT
Cấp cứu 1 (0,9) 113 (99,1)
0,007
Chương trình 11 (8,3) 122 (91,7)
Thời nằm viện trước PT
>7 ngày 6 (5,9) 96 (94,1)
0,56
≤ 7 ngày 6 (4,2) 136 (95,8)
Tắm trước PT
Có 11 (5,1) 206 (94,9)
0,99*
Không 1 (4,8) 20 (95,2)
Số lần PT
1 11 (4,9) 210 (95,1)
0,99*
2 1 (3,9) 25 (96,1)
Loại vết mổ
Sạch 10 (4,7) 2014 (95,3)
0,07*
Sạch nhiễm 0 (0) 3 (100)
Nhiễm 1 (100) 0 (0)
Bẩn 0 (0) 2 (0)
Sừ sụng KS dự phòng
Có 10 (4,2) 230 (95,8)
0,04*
Không 2 (28,6) 5 (71,4)
Thời gian sử dụng KS dự phòng
Trong vòng 2 giờ trước rạch da 0 (0) 3 (100)
0,22* >2 giờ trước rạch da 1 (33,3) 2 (66,7)
Có sử dụng KS không ghi rõ giờ 7 (3,7) 185 (96,3)
T/gian nằm viện(ngày)
@
30 (15,0-38,0) 15 (11,0-20,0) <0,001**
T/gian PT
@
2,3 (1,0-4,1) 2,2 (1,2-3,2) 0,78**
* Phép kiểm Fisher chính xác; @ Trung vị (Khoảng tứ
phân vị). ** Giá trị p của phép kiểm Poisson với tùy chọn
Robust.
Trong nghiên cứu ghi nhận bệnh nhân cao
tuổi chiếm đa phần với tỉ lệ 80% ở độ tuổi trên
40. Nữ giới chiếm đa số (54%). 41% bệnh nhân có
bệnh nền kèm theo chiếm 38%. Thang điểm gây
mê ASA mức 2 chiếm cao nhất là 85%, trong
nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có mức 1,3,4 và
không có mức 5. Có 58% bệnh nhân có thời gian
nằm viện trước mổ ≤ 7 ngày và 42% nằm viện
trước mổ> 7 ngày (bảng 2); Tỉ lệ bệnh nhân phẫu
thuật 1 lần chiếm 90%. Mổ chương trình chiếm tỉ
lệ 54%. Có 91% bệnh nhân chuẩn bị trước phẫu
thuật (Tắm). 97% vết mổ sạch. 50% đối tượng
trong mẫu nghiên cứu có thời gian phẫu thuật từ
1giờ12 phút đến 3giờ22 phút (bảng 2). Có 97%
bệnh nhân được sử dụng kháng sinh dự phòng
trước phẫu thuật; 100% bệnh nhân được cho
kháng sinh điều trị; Và thời gian sử dụng kháng
sinh: 97% trong vòng 2 giờ, Có sử dụng kháng
sinh dự phòng không ghi rõ giờ là 1,5%.(bảng 3).
Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ là 4,9%. Có 12
trường hợp nhiễm khuẩn vết mổ (6 trường hợp
NKVM nông, 3 trường hợp NKVM sâu, 2 trường
hợp NKVM khoang/cơ quan, và 1 trường hợp
NKVM hồ sơ chưa được đánh giá phân loại)
(bảng 4).
Thời gian nằm viện càng nhiều thì tỉ lệ
nhiễm khuẩn vết mổ càng tăng (p<0,001).Tỉ lệ
nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân có sử dụng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 134
kháng sinh dự phòng sẽ thấp hơn bệnh nhân
không được sử dụng kháng sinh dự phòng (p =
0,04). Nghiên cứu không ghi nhận có mối liên
quan giữa nhiễm khuẩn vết mổ và tuổi, giới,
bệnh nền kèm theo, ASA; loại phẫu thuật, thời
gian nằm viện trước mổ, tắm trước phẫu thuật,
Phân loại vết mổ, Số lần phẫu thuật, thời gian
phẫu thuật; Kháng sinh điều trị, thời gian sử
dụng kháng sinh dự phòng.(Bảng 5,6).
BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu thời gian bắt đầu từ đầu
tháng 4 đến hết tháng 6 của mỗi ba năm 2014 -
2015 - 2016, chúng tôi thu nhận và khảo sát
được tổng số 247 bệnh nhân đến và có phẫu
thuật tại khoa ngoại thần kinh của bệnh viện
Nguyễn Tri Phương.
Tổng số các trường hợp được tiến hành phẫu
thuật tại khoa ngoại bệnh viện Nguyễn tri
Phương vào các thời điểm nghiên cứu từ 2014 -
2016 gồm có: 153 trường hợp Phẫu thuật cột
sống – thắt lưng (Thoát vị đĩa đệm, chấn thương
cột sống), 50 trường hợp Phẫu thuật não – màng
não (Xuất huyết não, dẫn lưu máu tụ, u não, u
tuyến yên), 38 trường hợp phẫu thuật khác (Hội
chứng ống cổ tay, vá sọ, mổ giải áp dây TK trụ
và dây V, dẫn lưu não thất ), 4 trường hợp mổ
u tủy, và 3 trường hợp phẫu thuật Parkinson.
Hình 1. Loại phẫu thuật thực hiện tại khoa Ngoại
Thần kinh năm 2014-2016
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Yếu tố người bệnh (bảng 1)
Vào thời điểm nghiên cứu, chúng tôi ghi
nhận bệnh nhân nhập viện tại khoa ngoại thần
kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương để phẫu
thuật ở độ tuổi trên 40 chiếm đa phần với tỉ lệ là
79,7%; Ở độ tuổi 50 đến 40 chiếm 15% và 5% ở
độ tuổi dưới 30. Trong đó nữ giới chiếm tỉ lệ lớn
54% và nam giới là 46%. Trong 247 bệnh nhân
phẫu thuật có 38% bệnh nhân có bệnh nền kèm
theo (Cao huyết áp, tiểu đường, suy giảm miễn dịch).
Chúng tôi cũng ghi nhận được từ nghiên
cứu, đa phần trong hồ sơ bệnh án Thang điểm
ASA của bệnh phẫu thuật được các bác sĩ gây
mê đánh giá ở mức 2 chiếm tỉ lệ cao nhất 85%,
thấp hơn ở mức 1 là 9%, mức 3 là 5%, mức 4 là
2%, trong nghiên cứu chúng tôi không ghi
nhận có mức 5. (Bảng 3.1). Vẫn có một số ít hồ sơ
quên đánh giá mức độ ASA: 1 (2014), 11 (2015),
12 (2016).
Yếu tố phẫu thuật (Bảng 2)
Bệnh nhân có thời gian nằm viện trước phẫu
thuật dưới hoặc bằng 7 ngày chúng tôi ghi nhận
qua nghiên cứu chiếm tỉ lệ là 58%.
Vào thời điểm nghiên cứu, bệnh nhân phẫu
thuật 1 lần chiếm tỉ lệ 89,5%. Ghi nhận loại phẫu
thuật: Mổ chương trình ở thời điểm này chiếm tỉ
lệ 53,9% và phẫu thuật cấp cứu là 46,1%.
Theo khuyến cáo của CDC - Bộ Y tế, trong
qui trình chuẩn bị bệnh trước phẫu thuật thì
bệnh nhân mổ chương trình phải được tắm bằng
xà phòng kháng khuẩn hoặc dung dịch kháng
khuẩn có chứa iodine hoặc chlorhexidine vào tối
trước ngày phẫu thuật(2,3,1,9). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, chúng tôi ghi nhận có 91,2 % bệnh
nhân có hồ sơ sơ ghi nhận có tắm trước phẫu
thuật như khuyến cáo của CDC- Bộ Y tế. Theo
R.Partir, Ông cho rằng để góp phần làm giảm
nhiễm khuẩn sau phẫu thuật cần tăng cường vấn
đề vô khuẩn thông qua dự phòng nhiễm khuẩn
bao gồm: khử khuẩn da (tắm bệnh trước phẫu
thuật, sát khuẩn da-vết mổ), tiệt khuẩn dụng cụ
hiệu quả(14,16).
Phần phân loại vết mổ, chúng tôi ghi nhận
trong khoảng thời gian nghiên cứu tại khoa
ngoại thần kinh BV nguyễn Tri Phương năm
2014 – 2016 vết mổ sạch nhiều, chiếm tỉ lệ lớn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 135
97%. Vết mổ sạch – nhiễm chiếm tỉ lệ 1,4%, phẫu
thuật nhiễm là 0,5% và phẫu thuật bẩn là 0,8%
(còn 27hồ sơ/247 chưa đánh giá phân loại vết mổ).
Thời gian mổ càng lâu nguy cơ nhiễm khuẩn
vết mổ càng cao theo khuyến cáo của CDC và
BYT. Hơn 50% bệnh nhân trong nghiên cứu có
thời gian phẫu thuật từ 1 giờ 12 phút đến 3giờ 22
phút, theo K. Rapartir phẫu thuật > 4giờ khả
năng NKVM cao(10,14,11,7), thời gian phẫu thuật của
BV chúng tôi cũng nằm trong qui định cho phép
của CDC và BYT.
(Có 79 hồ sơ quên ghi thời gian PT [quên ghi giờ
bắt đầu hoặc thời gian kết thúc cuộc phẫu thuật]).
Thời gian nằm viện của bệnh nhân, trong
nghiên cứu của khoa chúng tôi ghi nhận thời
gian nằm viện trung bình trung bình là 17 ± 6
ngày.
Yếu tố điều trị (Bảng 3)
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy có 97,2% bệnh nhân được sử dụng kháng
sinh dự phòng trước phẫu thuật, ghi nhận từ
hồ sơ kháng sinh dự phòng được sử dụng đa
phần là họ cephalosporine thế hệ 3; 100%
Bệnh nhân được sử dụng kháng sinh điều trị
sau phẫu thuật.
Việc sử dụng kháng sinh dự phòng trong
thực tế và nghiên cứu ghi nhận đáng quan
tâm, vì kháng sinh dự phòng được tiếp tục sử
dụng dài ngày cho điều trị, theo nghiên cứu
thống kê của Bộ Y tế một thực trạng đáng lo
ngại là trên 90% bệnh nhân được sử dụng ít
nhất một loại kháng sinh trong nhiều ngày sau
phẫu thuật (3,15,6). Thời gian sử dụng kháng
sinh dự phòng, có 97% bệnh nhân được thời
gian sử dụng kháng sinh dự phòng trong vòng
2 giờ trước rạch da, và 1,5 % bệnh nhân được
cho kháng sinh dự phòng > 2 giờ trước rạch da
phẫu thuật. chúng tôi cũng ghi nhận có 1,5 %
trường hợp có sử dụng kháng sinh dự phòng
nhưng không ghi hồ sơ giờ rõ ràng.
Trong nghiên cứu của một số tác giả, không
sử dụng kháng sinh tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ
dao động trong khoảng 5% và 11% trong thông
nối dịch não tủy shunts, khoảng 1% và 5% trong
phẫu thậu sọ não và phẫu thuật cột sống ở bệnh
nhân sạch và sạch-nhiễm, và từ 11% đến 38%
trong rò dịch não tủy (10).
Bởi vì những hậu quả tiềm tàng biến
chứng nhiễm khuẩn, cân nhắc việc sử dụng
kháng sinh dự phòng sao cho có lợi cho bệnh
nhân để làm giảm tỷ lệ nhiễm trong phẫu
thuật thần kinh kháng sinh dự phòng cần cho
đúng lúc, đúng chỉ định(3,5).
Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (Bảng 4)
Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa ngoại
thần kinh của BV Nguyễn Tri Phương năm 2014
-2016 qua nghiên cứu ghi nhận được là 4,9%. Các
trường hợp NKVM trong giai đoạn vừa qua
được ghi nhận như sau:
Năm 2014: (3 trường hợp) 1 trường hợp
nhiễm khuẩn vết mổ nông (Rỉ dịch vết mổ
trường hợp phẫu thuật trượt L4L5) và 2
trường hợp nhiễm ở cơ quan/trong khoang cơ
thể (viêm thân sống và viêm màng não). Trong
3 mẫu cấy nhiễm khuẩn vết mổ, chỉ ghi nhận
được 1 mẫu cấy mũ (+) hiện diện Pseudomonas
aeruginosa (Kháng Doxycycline, Netilmycine,
Gentamycine, Tobramycin).
Năm 2015: (2 trường hợp) 1 trường hợp NK
cơ quan/ khoang cơ thể. Trường hợp nhiễm
khuẩn vết mổ ở cơ quan/khoang cơ thể (Viêm
thân sống đĩa đệm) được thực hiện đúng nguyên
tắc và qui định sử dụng kháng sinh đó là cấy
dịch viêm và mô viêm, không mủ. Kết quả có
hiện diện Staphyloccocus coagulase (-), đặc biệt
đáng lưu ý là có hiện diện của tụ cầu kháng
méthicilline MRSE (+) (MRSE: Methicillin-
resistant Staphylococcus epidermidis). Với kết
quả kháng sinh đồ kháng doxycilin, PNC G,
kháng vừa với Cefotaxim. 1 trường hợp NKVM
nông (vết mổ hở rỉ dịch), ca này không cấy vi
sinh và làm KSĐ, được sử dụng kháng sinh điều
trị theo kinh nghiệm lâm sàng.
Năm 2016: (7 trường hợp) 2 trường hợp
NKVM sâu, 4 trường hợp NKVM nông, và có 1
trường hợp có NKVM nhưng chưa được bác sĩ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 136
đánh giá mức độ nhiễm khuẩn. Trong số 7
trường hợp NKVM có 1 trường hợp NKVM sâu
được cấy và làm kháng sinh đồ,Vi khuẩn cấy (-)
và 1 trường hợp NKVM nông có phân lập cấy
mủ và làm kháng sinh đồ,Vi khuẩn cấy (-), còn
lại các ca không phân lập và được sử dụng
kháng sinh theo kinh nghiệm của Nhà lâm sàng.
Các trường hợp NKVM được sử dụng kháng
sinh dự phòng, và kháng sinh này được tiếp tục
sử dụng dài ngày cho điều trị.
Tại Hoa Kỳ, nhiễm khuẩn vết mổ đứng hàng
thứ 2 sau nhiễm khuẩn tiết niệu bệnh viện. Theo
Shearwoor tỷ lệ người bệnh được phẫu thuật
mắc NKVM thay đổi từ 2% - 15% tùy theo loại
phẫu thuật thuộc loại nông và sâu(11), Lisa K
Sturm (5-7%) (17), Tahsin Erman (6,2%)(7).
Tại Việt Nam, nhiễm khuẩn vết mổ xảy ra
ở 5% – 10% trong số khoảng 2 triệu người
bệnh được phẫu thuật hàng năm. Nhiễm
khuẩn vết mổ là loại nhiễm khuẩn thường gặp
nhất, với số lượng lớn nhất trong các loại
nhiễm khuẩn bệnh viện (4,3).
Theo hệ thống nhiễm khuẩn sau mổ thần
kinh trung ương (PCNSI), tỉ lệ NKVM sau phẫu
thuật thần kinh dao động trong khoảng từ 5%
đến 7%.
Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa ngoại
thần kinh của bệnh viện chúng tôi cũng tương
đồng với các nghiên cứu.
Mối liên quan
Nghiên cứu ghi nhận được có mối liên quan
giữa NKVM việc sử dụng KS dự phòng, Tỉ lệ
nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân có sử dụng
kháng sinh dự phòng thấp hơn ở bệnh nhân
không được sử dụng kháng sinh dự phòng, với
p = 0,04. Theo nghiên cứu của Haines và
Walters(8) báo cáo kháng sinh dự phòng sử dụng
trong phẫu thuật sạch đã làm giảm nguy cơ
nhiễm khuẩn shunt.
Nhưng điều đó lại hạn chế trong nghiên
cứu của Tahsin Erman, các biện pháp khác
được đề xuất góp phần ngăn ngừa nhiễm
khuẩn gồm có các kỹ thuật như: phẫu thuật tỉ
mỉ, hạn chế dùng tay tiếp xúc phẫu trường
trong khi phẫu thuật, thay đổi găng tay trước
khi tiếp xúc thần kinh, shunt nối, sát khuẩn da
tốt, dụng cụ tiệt khuẩn chuẩn, và tránh bất kỳ
hậu phẫu rò rỉ dịch não tủy (7). Vấn đề kháng
kháng sinh hiện đã được Bộ Y tế đề cập và
nhắc đến nhiều không chỉ riêng tại Việt nam
mà CDC và WHO cũng đã cảnh báo trên toàn
thế giới vì tính kháng thuốc của vi khuẩn đã
đến mức báo động(3,12,9), Có mối liên quan giữa
thời gian nằm viện và NKVM, thời gian nằm
viện càng lâu thì NKVM càng tăng (p = 0,001).
Nghiên cứu không ghi nhận có mối liên
quan giữa nhiễm khuẩn vết mổ và các yếu tố
như: yếu tố người bệnh (tuổi, giới, bệnh nền kèm
theo, ASA); loại phẫu thuật, thời gian nằm viện
trước mổ; tắm trước PT, số lần PT, thời gian
phẫu thuật. Có thể thời gian nghiên cứu của
chúng tôi ngắn (3 tháng cho mỗi năm), cỡ mẫu
có thể còn ít nên chưa đủ để phát hiện sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê.
Với mẫu khảo sát toàn bộ bệnh nhân đến
phẫu thuật tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện
Nguyễn Tri Phương từ năm 2014 – 2016 (vào
đầu tháng 4 – cuối tháng 6 mỗi năm), nghiên
cứu ghi nhận tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ là
4,9%. Việc sử dụng kháng sinh, chúng tôi
nhận thấy có sử dụng kháng sinh dự phòng,
nhưng sau đó sử dụng luôn cho điều trị dài
ngày. Đây là tình hình chung và là điều quan
ngại của Bộ Y Tế và CDC khuyến cáo vấn đề
đề kháng kháng sinh của vi khuẩn.
Ngoài vấn đề sử dụng kháng sinh, CDC – Bộ
Y tế và rất nhiều các bác sĩ ngoại khoa cũng như
chuyên gia về kiểm soát nhiễm khuẩn cũng đã
đưa ra những hướng dẫn và khuyến cáo thực
hiện công tác phòng ngừa nhiễm khuẩn tập
trung đến các vấn đề (Kiểm soát nhiễm khuẩn)
như: (Vệ sinh tay; Xử lý dụng cụ chuẩn; Làm
sạch/ khử khuẩn môi trường; Tuân thủ nghiêm
ngắt những qui định của phòng mổ (Thay trang
phục phòng mổ, cửa phòng mổ đóng khi đang
PT, vệ sinh khử khuẩn môi trường...); Cách ly –
Phòng ngừa chuẩn; Kỷ thuật tiêm chích an toàn;
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 137
Quản lý kháng sinh; và cần quan tâm hơn nữa
vấn đề đào tạo - Huấn luyện cho học sinh - sinh
viên trường y, nhân viên y tế(4,3,13,15,9,17).
Nghiên cứu của chúng tôi như một bức
tranh toàn cảnh, giúp cảnh báo vấn đề: Sử dụng
kháng sinh dự phòng và điều trị, ghi nhận thực
trạng hồ sơ cần ghi chép và đánh giá bệnh nhân
đầy đủ hơn giúp thuận lợi cho những nghiên
cứu sau này của bệnh viện như: Giờ bắt đầu, kết
thúc phẫu thuật; giờ tiêm kháng sinh dự phòng;
bảng kiểm chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu thuật
(tắm), Tăng cường công tác kiểm soát nhiễm
khuẩn (Kiểm tra – Giám sát – Huấn luyện); Cấy
dịch và làm kháng sinh đồ cần thực hiện khi có
NKVM nói riêng và có tình trạng nhiễm khuẩn
nói chung.
Phác đồ sử dụng kháng sinh dự phòng và
phác đồ kháng sinh điều trị cho ngoại khoa đã
và đang rất cần thiết được bệnh viện thống
nhất và đề ra để sử dụng, Cũng như bệnh viện
cần tăng cường thêm công tác kiểm soát
nhiễm khuẩn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anderson D. (2010). Prevention of Surgical-Site Infections. The
new England journal of medicine 2010, 362, pp.1540-1544.
2. BỘ Y TẾ (2003). Tài liệu hướng dẫn qui trình chống nhiễm
khuẩn bệnh viện, Nhà xuất bản y học Hà Nội.
3. BỘ Y TẾ (2012). Hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mỗ
- Quyết định số: 3671/QĐ-BYT,
4. BỘ Y TẾ (8/2012). Tài liệu đào tạo liên tục Kiểm Soát Nhiễm
Khuẩn,
5. CDC (1996). Definitions of Nosocomial Infections. APIC
Infection Control and Applied Epidemiology: Principles and
Practice, A-1 - A-20.
6. Duffy KR (1985). Cost-effective applications of the Centers for
Disease Control guidelines for prevention of nosocomial
infections. Am J Infect Control, 13, (5), 216-7.
7. Erman T, Demirhindi H, Skender AI˙ (2004). Risk factors for
surgical site infections in neurosurgery patients with antibiotic
prophylaxis. Elsevier- Surgical Neurology, 63 (2005) 107– 113,
(2005), 107-113.
8. Haines. SJ, Walters B (1994). Antibiotic prophylaxis for
cerebrospinal fluid shunts: a metanalysis. Neurosurgery, 34, 87-
92.
9. Institute for Healthcare improvement (IHI) (September 11,
2009.), How to Guide: Prevent surgical site infections,
10. Ionac APM, Brinzeu C (Nov.14,2009). Surgical site infections
surveillance in neurosurgery patients. TMJ 2009, 59, No 4.
11. McClelland S III, HALL WA (Mar.13, 2007), Postoperative
Central Nervous System Infection: Incidence and Associated
Factors in 2111 Neurosurgical Procedures,
12. Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự (2008). Đặc điểm dịch tễ học
nhiễm khuẩn vết mổ cà tình hình sử dụng kháng sinh ở bệnh
nhân phẫu thuật tại một số bệnh viện tỉnh phía Bắc-2008. Tạp
chí Y học thực hành số 2010, 2, (705), tr 48-52.
13. Nguyễn Mạnh Nhâm và cộng sự (1998). Nghiên cứu đánh giá
các giải pháp tổng hợp để giảm thấp tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ
tại Bệnh viện Việt Đức. Báo cáo đề tài khoa học cấp Bộ.
14. Patir R, Mahapatra AK, Banerji AK (1992). Risk Factors in
Postoperative Neurosurgieal Infection A Prospective Study.
Acta Neurochir 119, 80-84.
15. Phạm Thúy Trinh và cộng sự (2010). Nghiên cứu tình trạng
nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa ngoại tổng hợp bệnh viện Đại
học Y Dược Tp.HCM. Y học TP. HCM năm 2010, 14, (1).
16. Rural Infection control pratice group Medical Equipment
Cleaning, Disinfection & Sterilisation Guidelines (2005),
RICPRAC Infection Prevention & Control Manual, 2nd Ed.
17. Sturm LK (2009). Neurosurgical Surgical Site Infection: Rates
and Prevention Strategies. International Journal of Infection
Control, 5, (2), 1-3.
Ngày nhận bài báo: 28/10/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2016
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_ti_le_nhiem_khuan_vet_mo_va_cac_yeu_to_lien_quan_ta.pdf