Tài liệu Khảo sát thực trạng văn hóa sức khỏe người bệnh tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2016: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
10
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VĂN HÓA SỨC KHỎE NGƯỜI BỆNH
TẠI BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG NĂM 2016
Lê Thanh Chiến*, Huỳnh Thị Thanh Trang*, Nguyễn Mạnh Hùng*, Lý Huy Khanh*,Thân Thị Thu Ba*,
Phan Thị Mỹ Linh*, Nguyễn Mạnh Tuân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Văn hóa sức khỏe là khả năng nhận thức và những kỹ năng xã hội của mỗi cá nhân đối với việc
tiếp cận, hiểu biết, sử dụng những thông tin hiện có để duy trì và tăng cường tình trạng sức khỏe của bản thân.
Việc xác định văn hóa sức khỏe của người bệnh tại bệnh viện là cơ sở cho thực hiện các biện pháp can thiệp thích
hợp, nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc và điều trị người bệnh.
Mục tiêu: Xác định mức độ văn hóa sức khỏe của người bệnh tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2016 theo
Thang đo của Hiệp hội Văn hóa Sức khỏe Châu Á - Thái Bình Dương. Xác định các yếu tố liên quan giữa văn hóa
sức khỏe với đặc điểm mẫu nghiên cứu, yếu tố kinh tế - xã hội của người bệnh tại Bệnh viện Trư...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát thực trạng văn hóa sức khỏe người bệnh tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
10
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VĂN HÓA SỨC KHỎE NGƯỜI BỆNH
TẠI BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG NĂM 2016
Lê Thanh Chiến*, Huỳnh Thị Thanh Trang*, Nguyễn Mạnh Hùng*, Lý Huy Khanh*,Thân Thị Thu Ba*,
Phan Thị Mỹ Linh*, Nguyễn Mạnh Tuân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Văn hóa sức khỏe là khả năng nhận thức và những kỹ năng xã hội của mỗi cá nhân đối với việc
tiếp cận, hiểu biết, sử dụng những thông tin hiện có để duy trì và tăng cường tình trạng sức khỏe của bản thân.
Việc xác định văn hóa sức khỏe của người bệnh tại bệnh viện là cơ sở cho thực hiện các biện pháp can thiệp thích
hợp, nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc và điều trị người bệnh.
Mục tiêu: Xác định mức độ văn hóa sức khỏe của người bệnh tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2016 theo
Thang đo của Hiệp hội Văn hóa Sức khỏe Châu Á - Thái Bình Dương. Xác định các yếu tố liên quan giữa văn hóa
sức khỏe với đặc điểm mẫu nghiên cứu, yếu tố kinh tế - xã hội của người bệnh tại Bệnh viện Trưng Vương.
Đối tượng: Người bệnh đến khám chữa bệnh nội trú và ngoại trú tại Bệnh viện Trưng Vương, năm 2016.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Điểm trung bình văn hóa sức khỏe của mẫu nghiên cứu là 25,32 ± 6,73, số trung vị là 25,53 [19,86
- 31,21]. Tỷ lệ có văn hóa sức khỏe là 13,2%. Có mối liên quan giữa có văn hóa sức khỏe và nghề nghiệp, thu nhận
thông tin từ truyền hình, Internet và thu nhập.
Kết luận: Việc xác định văn hóa sức khỏe của người bệnh tại bệnh viện là cơ sở cho thực hiện các biện pháp
can thiệp thích hợp, đặc biệt trên truyền thông, trên từng nhóm đối tượng, nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc và
điều trị người bệnh. Từ đó, giúp nâng cao chất lượng bệnh viện và sự hài lòng của người bệnh đối với bệnh viện.
Từ khóa: Văn hóa sức khỏe.
ABSTRACT
SURVEYING PATIENT’S HEALTH LITERACY AT TRUNG VUONG HOSPITAL 2016
Le Thanh Chien, Huynh Thi Thanh Trang, Nguyen Manh Hung, Ly Huy Khanh, Than Thi Thu Ba,
Phan Thi My Linh, Nguyen Manh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 5 - 2016: 10 - 17
Background: Health literacy is the cognitive and social skills which determine the motivation and ability of
inviduals to gain access understand and use information in ways which promote and maintain good health. The
determination of patient’s health literacy in the hospital is the basis for the appropriate interventions in order to
enhance the effectiveness of patient’s care and treatment.
Objectives: To estimate the level of patient’s health literacy in Trung Vuong hospital in 2016 using The
Health Literacy Survey- Asia- Questionaire. To estimate the relation between health literacy and the patient’s
characteristics, the factors about social-economic of the patient in Trung Vuong hospital.
Method: Cross-sectional study. Inpatients and outpatients consulted at Trung Vuong hospital in 2016.
Results: The average health literacy score of the patient was 25.32 (SD 6.73), the median was 25.53 [19.86-
31.21]. In the total sample, only 13.2% participants had adequate health literacy. Adequate health literacy was
associated with occupation, getting information from television, internet and the income.
* Bệnh viện Trưng Vương
Tác giả liên lạc: BS.CKII Huỳnh Thị Thanh Trang ĐT: 0918192469 Email: thanhtrangbvtv@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
11
Conclusion: The determination of patient’s health literacy in the hospital is the basis for the appropriate
interventions, especially through communication channel, in specific patients in order to improve the effectiveness
of patient’s care and treatment. Finally, we improve the patient safety, satisfaction, and quality of hospital care.
Key words: Health literacy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn hóa sức khỏe (năng lực sức khỏe hay
hiểu biết về sức khỏe) là một vấn đề về y tế công
cộng đáng quan tâm trong thời đại bùng nổ
thông tin. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO), văn hóa sức khỏe là khả năng nhận
thức và những kỹ năng xã hội của mỗi cá nhân
đối với việc tiếp cận, hiểu biết, sử dụng những
thông tin hiện có để duy trì và tăng cường tình
trạng sức khỏe của bản thân(6). Ở các quốc gia đã
và đang phát triển, văn hóa sức khỏe được hỗ
trợ thông qua các chính sách y tế và các chính
sách xã hội để tăng cường năng lực cá nhân
trong việc tự chăm sóc sức khỏe bản thân. Việc
nâng cao văn hóa sức khỏe giúp gia tăng hiểu
biết của người dân về các vấn đề sức khỏe họ
đang gặp phải, đồng thời gia tăng khả năng
tham gia tự quản lý sức khỏe của họ, từ đó giúp
cải thiện sức khỏe, ngăn ngừa dịch bệnh, nâng
cao sức khỏe cộng đồng(16).
Văn hóa sức khỏe thấp có liên quan đến tỷ lệ
tử vong cao(2,9,13), sử dụng các dịch vụ y tế thấp,
tuân thủ điều trị thấp(1). Bên cạnh đó, điều này là
một yếu tố nguy cơ tiềm tàng đối với sức khỏe
và có liên quan tới các hệ quả sức khỏe xấu(3,4).
Văn hóa sức khỏe thấp còn liên quan đến việc
làm gia tăng chi phí điều trị. Việc cải thiện và
nâng cao văn hóa sức khỏe có thể làm giảm từ
106 tỷ đến 238 tỷ Mỹ kim (USD) hằng năm ở
Hoa Kỳ, chiếm khoảng 7% đến 17% chi phí
chăm sóc sức khỏe cá nhân(17).
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng
văn hóa sức khỏe bị ảnh hưởng bởi tuổi, trình
độ học vấn, mức thu nhập cũng như nhận thức
của người dân về tình trạng xã hội(5,12,13,16). Mặt
khác, các chương trình và hoạt động về sức
khỏe trong cộng đồng, nơi làm việc được cho là
có cải thiện văn hóa sức khỏe và các yếu tố liên
quan đến sức khỏe(12). Điều đó cho thấy rằng,
các can thiệp thích hợp sẽ giúp nâng cao văn
hóa sức khỏe của người bệnh và người dân
trong cộng đồng.
Ngày nay với sự bùng nổ các phương tiện
truyền thông và sự đa dạng của các kênh
thông tin sức khoẻ có thể dẫn tới ảnh hưởng
không tốt và làm nhiễu năng lực của người
dân về y tế và sức khoẻ. Đối với người bệnh,
việc người bệnh có văn hóa sức khỏe hạn chế
sẽ gây ra nhiều hệ quả sức khỏe xấu nghiêm
trọng. Sự không hiểu thông tin giữa bác sĩ,
điều dưỡng và người bệnh cũng thường
xuyên xảy ra nếu người bệnh có văn hóa sức
khỏe hạn chế. Việc xác định văn hóa sức khỏe
của người bệnh giúp cho nhân viên y tế hiểu
rõ hơn người bệnh, biết rõ hơn về những hạn
chế của người bệnh từ đó có cách tiếp cận và
những can thiệp thích hợp đối với họ. Từ đó,
giúp nâng cao chất lượng bệnh viện và sự hài
lòng của người bệnh đối với bệnh viện.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh đến khám chữa bệnh tại Bệnh
viện Trưng Vương.
Tiêu chí chọn mẫu
Người bệnh từ 18 tuổi trở lên đến khám
và điều trị nội trú và ngoại trú tại Bệnh viện
Trưng Vương trong khoảng thời gian từ
tháng 01/2016-6/2016.
Người bệnh đồng ý trả lời bộ câu hỏi
nghiên cứu.
Tiêu chí loại trừ
Người bệnh trạng thái tâm thần không ổn
định.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
12
Người bệnh không đủ năng lực trả lời câu
hỏi.
Người bệnh nặng, đang điều trị tại khoa
Cấp cứu, Hồi sức tích cực chống độc, Phẫu thuật
gây mê hồi sức, phòng điểm các khoa.
Trả lời không đầy đủ bảng câu hỏi.
Thang đo Văn hóa sức khỏe Châu Á
(Health Literacy Survey Asia Questinaire
HLS-Asia-Q)
Bộ câu hỏi sử dụng trong nghiên cứu
HLS-Asia là bộ câu hỏi được chuyển ngữ và
phát triển bởi Hiệp hội Văn hóa Sức khỏe
Châu Á - Thái Bình Dương từ bộ câu hỏi đánh
giá văn hóa sức khỏe sử dụng ở khối dân số
Châu Âu (HLS-EU-Q). Bộ câu hỏi được xây
dựng dựa trên định nghĩa và mô hình khái
niệm về văn hóa sức khỏe theo Sorensen và
cộng sự năm 2012(14).
Cấu trúc bộ câu hỏi HLS-Asia-Q gồm 47 câu
hỏi đánh giá 4 năng lực trên 3 lĩnh vực, số câu
hỏi trong từng lĩnh vực và theo từng năng lực
được trình bày ở bảng sau:
Thang đo Likert gồm 4 lựa chọn được
dùng để trả lời các câu hỏi đánh giá về văn
hóa sức khỏe bao gồm: 1= Rất khó, 2= Khó, 3=
Dễ, 4= Rất dễ.
Chỉ số chung về văn hóa sức khỏe được
tính toán dựa trên điểm trung bình của 47 câu
hỏi hay 47 chỉ số về văn hóa sức khỏe. Để
thuận tiện cho việc so sánh và tính toán, các
chỉ số được chuẩn hóa theo số điểm từ 0 đến
50 điểm, với 0 là có văn hóa sức khỏe rất thấp
và 50 là cao nhất. Cách chuyển đổi thực hiện
theo công thức sau(10).
Chỉ số = (“Điểm trung bình” -1)
50
3
Trong đó:
Chỉ số: chỉ số cụ thể cần chuyển đổi từ thang điểm 4
sang thang điểm 50.
Điểm trung bình: điểm trung bình của chỉ số ở thang
điểm 4.
1: giá trị thấp nhất của thang điểm 4 (để có giá trị nhỏ
nhất là 0 ở thang điểm 50).
3: vùng giá trị của số trung bình của chỉ số.
50: giá trị lớn nhất của thang đo cần chuyển đổi.
Sau khi được chuyển đổi sang thang điểm
50, Văn hóa sức khỏe được chia ra thành 4 mức
độ như sau:
Thiếu văn hóa sức khỏe: 0-25 điểm.
Gặp một vài vấn đề về văn hóa sức khỏe:
>25-33 điểm.
Đủ văn hóa sức khỏe: >33-42 điểm.
Văn hóa sức khỏe cao: >42-50 điểm.
Để dễ xác định và so sánh, nhóm "thiếu văn
hóa sức khỏe” và “gặp một vài vấn đề về văn
hóa sức khỏe” được nhóm lại thành một nhóm
chung là nhóm có “văn hóa sức khỏe hạn chế”.
Nhóm “đủ văn hóa sức khỏe” và “văn hóa sức
khỏe cao” được nhóm lại thành một nhóm
chung là nhóm “có văn hóa sức khỏe”.
Phương pháp xử lý dữ liệu
Nhập dữ liệu
Sử dụng phần mềm Epi Data 3.1.
Xử lý dữ liệu
Phần mềm Stata 13.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu thực hiện 530 người bệnh điều
trị ngoại trú và nội trú tại Bệnh viện Trưng
Vương trong thời gian từ tháng 01/2016-06/2016.
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ nữ giới cao hơn nam giới với 63,8% và
36,2%. Có 55,3% người bệnh đến khám từ
TPHCM, phần còn lại đến từ các tỉnh lân cận.
Nhóm tuổi từ 45 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ 63,5%
mẫu nghiên cứu. Trình độ học vấn chủ yếu là từ
cấp 3 trở xuống với 74,2%. Có tới 47,8% mẫu
nghiên cứu có nghề nghiệp là làm nghề tự do,
5,5% làm trong lĩnh vực giáo dục và 2,3% làm
trong ngành y tế.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
13
Văn hóa sức khỏe
Bảng 1. Điểm trung bình văn hóa sức khỏe
Trung bình ± ĐLC Trung vị [Khoảng tứ phân vị]
Tiếp cận sức khỏe 26,21 ± 6,63 26,47 [21,57- 31,37]
Phòng bệnh 24,81 ± 7,78 25,00 [17,59- 31,48]
Nâng cao sức khỏe 25,19 ± 7,58 25,00 [18,06- 33,33]
Văn hóa sức khỏe 25,32 ± 6,73 25,53 [19,86- 31,21]
Bảng 2. Mức độ văn hóa sức khỏe
Mức độ
Văn hóa sức khỏe
n (%)
Tiếp cận sức khỏe
n (%)
Phòng bệnh
n (%)
Nâng cao sức khỏe
n (%)
Thiếu văn hóa sức khỏe 255 (48,1) 212 (40,0) 285 (53,8) 270 (50,9)
Gặp một vài vấn đề về văn hóa sức khỏe 205 (38,7) 221 (41,7) 132 (24,9) 124 (23,4)
Đủ văn hóa sức khỏe 67 (12,6) 90 (17,0) 107 (20,2) 131 (24,7)
Văn hóa sức khỏe cao 3 (0,6) 7 (1,3) 6 (1,1) 5 (1,0)
Có văn hóa sức khỏe 70 (13,2) 97(18,3) 113 (21,3) 136 (25,7)
Văn hóa sức khỏe và các yếu tố liên quan
Bảng 3. Văn hóa sức khỏe và đặc điểm nhân khẩu học
Đặc điểm nhân khẩu học
Văn hóa sức khỏe
p
PR
KTC 95% Có (n= 70) n (%) Không (n= 460) n (%)
Giới tính
Nam 30 (15,6) 162 (84,4) 0,215 0,76 (0,49- 1,18)
Nữ 40 (11,8) 298 (88,2)
Nhóm tuổi
17-24 6 (13,6) 38 (86,4) 1
25-34 15 (20,3) 59 (79,7) 0,372 1,49 (0,62- 3,55)
35-44 14 (18,7) 61 (81,3) 0,485 1,37 (0,57- 3,31)
45-54 15 (13,5) 96 (86,5) 0,984 0,99 (0,41- 2,39)
55-64 14 (11,4) 109 (88,6) 0,692 0,83 (0,34- 2,04)
65+ 6 (5,8) 97 (94,2) 0,121 0,43 (0,15- 1,25)
Trình độ học vấn
Tiểu học 3 (3,3) 87 (96,7) 1
Trung học cơ sở 12 (8,8) 124 (91,2) 0,123 2,65 (0,77- 9,13)
Trung học phổ thông 23 (13,8) 144 (86,2) 0,018 4,13 (1,27- 13,40)
Đại học, cao đẳng 25 (25,5) 73 (74,5) 0,001 7,65 (2,39- 24,51)
Thạc sĩ 5 (62,5) 3 (37,5) <0,001 18,75 (5,45- 64,56)
Khác 2 (6,5) 29 (93,5) 0,458 1,94 (0,34- 11,07)
Nghề nghiệp
Kinh doanh, Tài chính 18 (20,5) 70 (79,5) <0,001 3,25 (1,73- 6,09)
Giáo dục 11 (37,9) 18 (62,1) <0,001 6,02 (3,10- 11,71)
Hành chính công 7 (33,3) 14 (67,7) <0,001 5,29 (2,45- 11,42)
Y tế 7 (58,3) 5 (41,7) <0,001 9,26 (4,72- 18,17)
Kỹ thuật 10 (10,5) 85 (89,5) 0,182 1,67 (0,79- 3,55)
Nông nghiệp 1 (3,2) 30 (96,8) 0,509 0,51 (0,07- 3,74)
Khác 16 (6,3) 238 (93,7) * 1
*Phép kiểm Fisher.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: những người
có học vấn càng cao càng có văn hóa sức khỏe
tốt hơn. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống về văn
hóa sức khỏe đúng giữa các ngành nghề so với
những người làm nghề tự do. Theo đó, những
người làm trong lĩnh vực giáo dục có tỷ lệ văn
hóa sức khỏe đúng cao gấp 6,02 lần so với
những người làm nghề tự do, những người làm
trong lĩnh vực y tế có tỷ lệ có văn hóa sức khỏe
đúng cao gấp 9,26 lần so với những người làm
nghề tự do. Không tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ
có văn hóa sức khỏe đúng theo giới tính và
nhóm tuổi.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
14
Bảng 4. Văn hóa sức khỏe mối liên quan với nguồn thông tin truyền thông
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Văn hóa sức khỏe
p
PR
KTC 95% Có (n=70) n (%) Không (n=460) n (%)
Xem chương trình
truyền hình y học
Thường xuyên 20 (26,7) 55 (73,3) 1
Thỉnh thoảng 37 (16,6) 186 (83,4) 0,051 0,62 (0,39- 1,00)
Hiếm khi 11 (7,9) 128 (92,1) <0,001 0,30 (0,15- 0,59)
Chưa bao giờ 2 (2,2) 91 (97,8) 0,001 0,08 (0,02- 0,33)
Tra cứu thông tin
qua Internet
Thường xuyên 25 (42,4) 34 (57,6) 1
Thỉnh thoảng 28 (19,4) 116 (80,6) 0,001 0,46 (0,29- 0,72)
Hiếm khi 6 (8,1) 68 (91,9) <0,001 0,19 (0,08- 0,44)
Chưa bao giờ 11 (4,4) 242 (95,6) <0,001 0,10 (0,05- 0,20)
Số lượng kênh
truyền thông
1 28 (9,5) 268 (90,5) 1
2 17 (12,2) 122 (87,8) 0,376 1,29 (0,73- 2,28)
3 16 (24,6) 49 (75,4) 0,001 2,60 (1,50- 4,52)
Từ 4 trở lên 9 (30,0) 21 (70,0) 0,001 3,17 (1,65- 6,08)
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa
việc tiếp cận các nguồn thông tin truyền thông
về y học và văn hóa sức khỏe. Mức độ sử dụng
các kênh truyền thông càng lớn thì tỷ lệ có văn
hóa sức khỏe đúng càng cao. Bảng 4 cho thấy
rằng những người chưa bao giờ xem chương
trình truyền hình về y học có tỷ lệ văn hóa sức
khỏe đúng chỉ bằng 0,08 lần so với những người
thường xuyên xem. Tương tự, những người
chưa bao giờ sử dụng Internet tra cứu thông tin
y học có tỷ lệ có văn hóa sức khỏe đúng bằng
0,10 lần so với người thường xuyên tra cứu.
Ngoài ra, việc sử dụng nhiều kênh truyền thông
về y học cũng là một yếu tố làm tăng tỷ lệ có
văn hóa sức khỏe đúng của người bênh.
Bảng 5. Văn hóa sức khỏe và tần suất khám định kỳ
Tần suất khám sức khỏe định kỳ
Văn hóa sức khỏe
p
PR
KTC 95% Có (n=70) n (%) Không (n=460) n (%)
Trên 2 lần/năm 25 (15,4) 137 (84,6) 0,020 2,17 (1,13- 4,18)
2 lần/năm 11 (27,5) 29 (72,5) <0,001 3,87 (1,84- 8,13)
1-2 lần/năm 12 (11,2) 95 (88,8) 0,241 1,58 (0,74- 3,39)
Dưới 1 lần/năm 10 (19,2) 42 (80,8) 0,012 2,71 (1,24- 5,91)
Không bao giờ 12 (7,1) 157 (92,9) 1
Những người có đi khám sức khỏe định kỳ có tỷ lệ có văn hóa sức khỏe đúng cao hơn so với
những người ít đi khám hoặc không đi khám định kỳ.
Bảng 6. Văn hóa sức khỏe và đặc điểm kinh tế- xã hội
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Văn hóa sức khỏe
p
PR
KTC 95% Có (n=70) n (%) Không (n=460) n (%)
Liên quan lĩnh vực sức khỏe
Có 15 (42,9) 20 (57,1) <0,001 3,86 (2,44- 6,09)
Không 55 (11,1) 440 (88,9)
Thu nhập
≤ 3 triệu 11 (4,6) 228 (95,4) <0,001 1
3- 7 triệu 39 (17,6) 183 (82,4) ** 2,07 (1,68- 2,56)
7- 21 triệu 17 (28,3) 43 (71,7) 4,28 2,81- 6,54)
≥ 21 triệu 3 (33,3) 6 (66,7) 8,86 (4,70- 16,71)
**Giá trị p 2 khuynh hướng
Những người đã được đào tạo hoặc làm trong lĩnh vực sức khỏe có tỷ lệ văn hóa sức khỏe
đúng cao hơn so với những người ngoài ngành, PR= 3,86 (KTC 95%: 2,44- 6,09). Thu nhập càng
cao thì tỷ lệ văn hóa sức khỏe đúng càng cao.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
15
Bảng 7. Mô hình hồi quy đa biến
Văn hóa sức khỏe
PR hiệu chỉnh (KTC 95%) p
Nghề nghiệp
Kinh doanh, Tư vấn, Tài chính, Quản lý 2,19 (1,14- 4,22) 0,018
Giáo dục 3,07 (1,41- 6,68) 0,005
Hành chính công 4,28 (1,82- 10,04) 0,001
Y tế 3,69 (1,47- 9,29) 0,006
Công nghệ, Kỹ thuật 1,09 (0,53- 2,23) 0,813
Nông nghiệp 0,72 (0,12- 4,34) 0,719
Khác 1
Mức độ xem chương trình
truyền hình liên quan y học
Thường xuyên 1
Thỉnh thoảng 0,76 (0,43- 1,35) 0,348
Hiếm khi 0,59 (0,29- 1,22) 0,156
Chưa bao giờ 0,18 (0,04- 0,82) 0,026
Mức độ tra cứu thông tin
y học thông qua Internet
Thường xuyên 1
Thỉnh thoảng 0,43 (0,24- 0,76) 0,004
Hiếm khi 0,32 (0,13- 0,79) 0,014
Chưa bao giờ 0,32 (0,15- 0,67) 0,002
Thu nhập của đối tượng
Dưới hoặc bằng 3 triệu 1
Từ 3 đến 7 triệu 1,44 (1,08- 1,93) 0,013
Từ 7 đến 21 triệu 2,09 (1,17- 3,73)
Từ 21 triệu trở lên 3,01 (1,26- 7,22)
BÀN LUẬN
Văn hóa sức khỏe
Theo Hiệp hội Văn hóa Sức khỏe Châu Á -
Thái Bình Dương (lấy từ bộ câu hỏi đánh giá
văn hóa sức khỏe sử dụng ở khối dân số Châu
Âu (HLS-EU-Q), chúng tôi tính điểm trung
bình văn hóa sức khỏe của mẫu nghiên cứu là
25,32 ± 6,73, số trung vị là 25,53 [19,86- 31,21].
Điểm trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi thấp hơn nghiên cứu của Shoou-Yih Lee
tiến hành tại Đài Loan năm 2010 có điểm
trung bình là 39,2 ± 14,8(9).
Tỷ lệ có văn hóa sức khỏe của nghiên cứu
chúng tôi là 13,2%. So sánh với nghiên cứu
Shoou-Yih Lee có tỷ lệ văn hóa sức khỏe là
69,7%(9), của tác giả Sunil Kripalani tại Singapore
năm 2010 là 56%(8), của Phạm Minh Khuê tại Hải
Phòng năm 2014 là 37,3% với số mẫu là 1000
người dân(11). Điểm trung bình và tỷ lệ có văn
hóa sức khỏe của nghiên cứu chúng tôi thấp
hơn có thể là do nghiên cứu của tác giả Shoou-
Yih Lee và nghiên cứu của Phạm Minh Khuê
tiến hành trên đối tượng là cộng đồng và số
mẫu lớn, trong khi mẫu nghiên cứu chúng tôi
tiến hành trên người bệnh đến khám tại bệnh
viện. Cần có nghiên cứu lớn hơn tại thành phố
Hồ Chí Minh trên đối tượng người bệnh và cả
cộng đồng.
Ngoài ra việc tự đánh giá năng lực sức khỏe
còn phụ thuộc vào sự tự tin của đối tượng được
phỏng vấn. Do đó, cần thực hiện nghiên cứu
quy mô lớn hơn, rộng hơn tại thành phố Hồ Chí
Minh trên đối tượng người bệnh và cộng đồng,
cũng như đánh giá thêm về thái độ, hành vi.
Văn hóa sức khỏe và đặc tính mẫu
nghiên cứu
Nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê giữa văn hóa sức khỏe với giới
tính, nhóm tuổi. Theo nghiên cứu của Kim Su
Huyn năm 2009, kết quả cho thấy rằng không có
sự khác biệt về văn hóa sức khỏe và giới tính,
kết quả tương tự trên nghiên cứu của Phạm
Minh Khuê và cộng sự năm 2010(7,11). Cũng
trong nghiên cứu của Kim Su Hyun năm 2009,
nghiên cứu tìm thấy không có mối liên quan về
tỷ lệ văn hóa sức khỏe và nơi sinh sống(7). Kết
quả ngược lại với nghiên cứu của Phạm Minh
Khuê, khi kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng có
sự khác biệt về văn hóa sức khỏe theo nơi sinh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016
16
là thành thị, nông thôn và vùng đảo(11). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, việc không có ý nghĩa
thống kê về tỷ lệ văn hóa sức khỏe theo nơi sinh
do chủ yếu mẫu nghiên cứu đến từ các tỉnh
ngoài thành phố Hồ Chí Minh, và cùng đều là
dân số thành thị. Bên cạnh đó, nền giáo dục cơ
bản và khả năng tiếp cận đến thông tin y học ở
nam giới và nữ giới là như nhau, việc này giải
thích cho việc không có sự khác biệt về văn hóa
sức khỏe theo giới tính.
Nghiên cứu tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ
văn hóa sức khỏe với trình độ học vấn và nghề
nghiệp. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tỷ lệ văn hóa sức khỏe giữa trình độ học vấn
“trung học phổ thông”, “đại học, cao đẳng” và
“thạc sĩ” so với trình độ học vấn “tiểu học”.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên
quan giữa văn hóa sức khỏe và thời gian đi học,
tức là trình độ học vấn càng cao tỷ lệ có văn hóa
sức khỏe càng lớn(7,15).
Nghiên cứu tìm thấy có sự khác biệt về tỷ lệ
có văn hóa sức khỏe ở những người làm trong
lĩnh vực giáo dục và y tế so với những người
làm nghề tự do, nông nghiệp và những người
đã nghỉ hưu. Kết quả trên tương tự với nghiên
cứu của Xinying Sun và cộng sự tiến hành năm
2013 trên cộng đồng dân cư 3 thành phố lớn ở
Trung Quốc cho thấy ở những người làm trong
lĩnh vực y tế và giáo dục có điểm số văn hóa sức
khỏe trung bình cao hơn so với những ngành
nghề khác. Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê
với p< 0,001(15).
Văn hóa sức khỏe và mối liên quan với
nguồn thông tin truyền thông
Nguồn thông tin về văn hóa sức khỏe được
phổ biến rộng rãi thông qua nhiều phương tiện
truyền thông như truyền hình, sách báo, tạp chí,
Internet, giúp cho đối tượng dễ dàng tiếp cận
và có được những thông tin mong muốn. Bên
cạnh đó, mức độ tìm hiểu thông tin thông qua
các kênh truyền thông cũng là một trong những
yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ văn hóa sức khỏe.
Những người chưa bao giờ xem chương trình
truyền hình về y học có tỷ lệ có văn hóa sức
khỏe bằng 0,08 lần (KTC 95%: 0,02- 0,33) so với
những người thường xuyên xem chương trình
truyền hình về y học (p= 0,001). Tỷ lệ có văn hóa
sức khỏe ở những người thường xuyên tra cứu
thông tin y học thông qua Internet là 42,4%,
chưa bao giờ là 4,4%. Tức là, những người chưa
bao giờ tra cứu thông tin về y học thông qua
Internet có tỷ lệ có văn hóa sức khỏe bằng 0,10
lần (KTC 95%: 0,05- 0,20) so với những người
thường xuyên tra cứu thông tin về y học thông
qua Internet (p< 0,001).
Số lượng kênh truyền thông sử dụng để tiếp
cận thông tin y tế cũng có ảnh hưởng đến tỷ lệ
văn hóa sức khỏe. Nghiên cứu chỉ ra rằng
những người tiếp cận với thông tin y tế từ 4
kênh truyền thông trở lên có tỷ lệ có văn hóa
sức khỏe bằng 3,17 lần (KTC 95%: 1,65- 6,08) so
với những người chỉ tiếp cận với thông tin y tế
bằng 1 kênh truyền thông (p= 0,001).
Văn hóa sức khỏe và tần suất khám định
kỳ
Nghiên cứu ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về tỷ lệ có văn hóa sức khỏe theo tần
suất khám bệnh. Những người có khám sức
khỏe định kỳ có tỷ lệ văn hóa sức khỏe cao hơn
so với những người không đi khám sức khỏe
định kỳ. Ở những người có tần suất khám sức
khỏe định kỳ trên 2 lần/năm có tỷ lệ có văn hóa
sức khỏe bằng 2,17 lần (KTC 95%: 1,13- 4,18) so
với những người không bao giờ đi khám định
kỳ với p= 0,02. Việc đối tượng đi khám sức khỏe
định kỳ giúp cho đối tượng dễ dàng cập nhật
những kiến thức mới nhất về tình hình diễn tiến
bệnh của đối tượng, dễ dàng kiểm soát các nguy
cơ của mình để có thể có sức khỏe tốt hơn. Bên
cạnh đó, việc thường xuyên tiếp xúc với nhân
viên y tế, nguồn thông tin về sức khỏe là đáng
tin cậy, sẽ giúp cho đối tượng có được những
thông tin đầy đủ và chính xác nhất về bệnh và
những bệnh hiện đang tiến triển trên xã hội hơn
so với những kênh truyền thông khác.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học
17
Văn hóa sức khỏe và đặc điểm kinh tế -
xã hội
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng có sự
khác biệt về tỷ lệ có văn hóa sức khỏe theo
thu nhập của đối tượng theo khuynh hướng.
Thu nhập càng cao thì tỷ lệ có văn hóa sức
khỏe càng cao (p< 0,001), kết quả tương tự với
nghiên cứu của Kim Su Hyun (2010) và
Xinying Sun (2013)(7,15). Ở những người có thu
nhập từ 21 triệu trở lên, có tỷ lệ có văn hóa
sức khỏe bằng 8,86 lần (KTC 95%: 4,70- 16,71)
so với những người có thu nhập dưới hoặc
bằng 3 triệu, p< 0,001. Việc đối tượng có thu
nhập cao cũng giải thích một phần nào đó có
thể làm tăng khả năng tiếp cận với các kênh
thông tin truyền thông, gián tiếp làm nâng
cao vấn đề về văn hóa sức khỏe.
Ngoài ra, những người đã được đào tạo
hoặc làm việc trong lĩnh vực sức khỏe có tỷ lệ có
văn hóa sức khỏe bằng 3,86 lần (KTC 95%: 2,44-
6,09) so với những người không làm trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe, p< 0,001. Điều này hoàn
toàn phù hợp với kết quả trước đó là những
người làm trong lĩnh vực y tế có tỷ lệ văn hóa
sức khỏe cao hơn so với những người không
làm trong lĩnh vực y tế.
Sau khi kiểm soát các yếu tố trong mô hình
hồi quy đa biến, văn hóa sức khỏe bị ảnh hưởng
bởi nghề nghiệp, mức độ tiếp cận với các nguồn
thông tin y tế và thu nhập.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ bệnh nhân có văn hóa sức khỏe là
13,2%. Điểm trung bình văn hóa sức khỏe:
25,32 ± 6,73 điểm.
Văn hóa sức khỏe có liên quan đến nghề
nghiệp, mức độ tiếp cận với các nguồn thông tin
truyền thông, số lượng kênh truyền thông và
thu nhập của đối tượng. Sau khi kiểm soát các
yếu tố bằng mô hình hồi quy đa biến, văn hóa
sức khỏe bị ảnh hưởng bởi nghề nghiệp, mức độ
tiếp cận với các nguồn thông tin truyền thông
và thu nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Berkman ND, Sheridan SL, Donahue KE, Halpern DJ, Crotty
K (2011). Low Health Literacy and Health Outcomes: An
Updated Systematic Review. Ann Intern Med, 155: pp. 97-107.
2. Bostock S, Steptoe A (2012). Association between low
functional health literacy and mortality in older adults:
longitudinal cohort study. BMJ, 344: pp. e1602.
3. Davis TC, Wolf MS, Bass PF (2006). Low literacy impairs
comprehension of prescription drug warning labels. J Gen
Intern Med, 21(8): pp. 847-851.
4. Davis TC, Wolf MS, Bass PF, et al (2006). Literacy and
misunderstanding prescription drug labels. Ann Intern Med,
145: pp. 887-894.
5. Heide van der I, Rademakers J, Schipper M, Droomers M,
Sørensen K, Uiters E (2013). Health literacy of Dutch adults: a
cross sectional survey. BMC Public Health, 13: pp. 179.
6. Kanj M, Mitic W (2009). Health Literacy and Health
Promotion, Definitions, Concepts and Examples in the Eastern
Mediterranean Region, Individual Empowerment Conference
Working Document. The 7th Global Conference on Health
Promotion
7. Kim SH (2009). Health literacy and functional health status in
korean older adults. Journal Of Clinical Nursing, 18(16): pp.
2337—2343
8. Kripalani S, Jacobson TA, Mugalla IC, et al. (2010). Health
literacy and the quality of physician-patient communication
during hospitalization. J Hosp Med., 5(5): pp. 269-75
9. Lee S-YD, Tsai T-I, Tsai Y-W, Kuo K (2010). Health literacy,
health status, and healthcare utilization of Taiwanese adults:
results from a national survey. BMC Public Health, 10: pp. 614.
10. Pelikan JM, Rothlin F, Ganahl K (2012). Comparative Report
on Health Literacy in Eight EU Member States.
11. Pham MK, Hoang TG, Pham VT, et al (2014). Health Literacy
Survey in Haiphong City, Vietnam.
12. Rooman I, Gordon-El-Bihbety D (2008). A vision for a Health
Literacy Canada: Report of the Expert Panel on Health
Literacy. Ottawa, Canada, Canadian Public Health Association.
13. Rudd RE (2007). Health literacy skills of US adults. Am J Health
Behav, 31: pp. S8-S18.
14. Sørensen K (2012). Health literacy and public health: A
systematic review and integration of definitions and models.
BMC PublicHealth,12(80).
15. Sun X, Chen J, Shi Y, et al. (2013). Measuring health literacy
regarding infectious respiratory diseases: a new skills-based
instrument. Plos One, 8(5): pp. 64153
16. United Nations Economic and Social Council (2010). Health
literacy and the Millennium Development Goals: United
Nations Economic and Social Council (ECOSOC) regional
meeting background paper. J Health Commun, 15(2): pp.211–
223.
17. Vernon JA, Trujillo A, Rosenbaum S, Debuono B (2007). Low
health literacy: Implications for National Health Policy.
Ngày nhận bài báo: 08/8/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/8/2016
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_thuc_trang_van_hoa_suc_khoe_nguoi_benh_tai_benh_vie.pdf