Khảo sát thực trạng sự cố y khoa tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2017-2018

Tài liệu Khảo sát thực trạng sự cố y khoa tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2017-2018: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 20 KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỰ CỐ Y KHOA TẠI BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG NĂM 2017-2018 Lê Thanh Chiến*, Huỳnh Thị Thanh Trang* Nguyễn Mạnh Tuân*, Nguyễn Thị Thu Vân*, Thân Thị Thu Ba*, Nguyễn Mạnh Hùng*, Lâm Mỹ Dung* TÓM TẮT Mở đầu: Sự cố y khoa là một trong những vấn đề có liên quan đến chất lượng điều trị và chăm sóc người bệnh đang được cả thế giới quan tâm. Những nguy cơ tiềm ẩn luôn tồn tại trong y tế, có thể gây ra mất an toàn cho người bệnh từ chẩn đoán, điều trị, can thiệp thủ thuật, phẫu thuật, theo dõi, chăm sóc đến việc bảo trì, vận hành và điều khiển các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, công tác tổ chức, quản lý, trình độ chuyên môn của đội ngũ thầy thuốc, nhân viên y tế Thực trạng này đã trở thành áp lực đối với cán bộ y tế và là thách thức không nhỏ đối với các nhà quản lý. Mục tiêu: Xác định số lượng, tỷ lệ các loại sự cố y khoa tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2017 - 2018. Phân tích nguyên n...

pdf11 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát thực trạng sự cố y khoa tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2017-2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 20 KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỰ CỐ Y KHOA TẠI BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG NĂM 2017-2018 Lê Thanh Chiến*, Huỳnh Thị Thanh Trang* Nguyễn Mạnh Tuân*, Nguyễn Thị Thu Vân*, Thân Thị Thu Ba*, Nguyễn Mạnh Hùng*, Lâm Mỹ Dung* TÓM TẮT Mở đầu: Sự cố y khoa là một trong những vấn đề có liên quan đến chất lượng điều trị và chăm sóc người bệnh đang được cả thế giới quan tâm. Những nguy cơ tiềm ẩn luôn tồn tại trong y tế, có thể gây ra mất an toàn cho người bệnh từ chẩn đoán, điều trị, can thiệp thủ thuật, phẫu thuật, theo dõi, chăm sóc đến việc bảo trì, vận hành và điều khiển các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, công tác tổ chức, quản lý, trình độ chuyên môn của đội ngũ thầy thuốc, nhân viên y tế Thực trạng này đã trở thành áp lực đối với cán bộ y tế và là thách thức không nhỏ đối với các nhà quản lý. Mục tiêu: Xác định số lượng, tỷ lệ các loại sự cố y khoa tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2017 - 2018. Phân tích nguyên nhân và các yếu tố liên quan các sự cố y khoa. Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả loạt ca. Đối tượng nghiên cứu: Sự cố y khoa ghi nhận được tại Bệnh viện Trưng Vương trong thời gian từ 01/01/2017 đến 31/5/2018. Kết quả: Nghiên cứu ghi nhận 78 sự cố y khoa trong thời gian nghiên cứu. Tỷ lệ sự cố y khoa tại bệnh viện được báo cáo chiếm 0,12% lượt người bệnh nhập viện. Phân loại: sai sót chuyên môn 29,5%, an toàn sử dụng thuốc 29,5%; quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh chiếm 24,4%; vật tư, trang thiết bị chiếm 20,5%; tai nạn, té ngã 5%. Các yếu tố liên quan: Sự cố xảy ra vào ban đêm có liên quan đến cấp cứu người bệnh cao hơn so với những sự cố vào ban ngày (p < 0,05). Những sự cố liên quan chuyên môn có tỷ lệ phải cấp cứu cao hơn so với những sự cố không liên quan đến chuyên môn (43,5% so với 10,9%, p < 0,05). Sự cố liên quan đến an toàn trong sử dụng thuốc có liên quan đến kéo dài thời gian điều trị, 82,6% so với 50,9% (p < 0,05). Phân tích nguyên nhân gốc 17 trường hợp sự cố y khoa nghiêm trọng, lỗi hệ thống: 54,7%; cá nhân: 45,3%. Các sự cố lỗi liên quan hệ thống bao gồm: huấn luyện, đào tạo chiếm 26,9%; công tác hội chẩn 17,3% và liên quan đến quy trình là 14,7%. Các sự cố lỗi liên quan cá nhân bao gồm: thiếu kỹ năng kinh nghiệm 50%; chủ quan trong điều trị, theo dõi chăm sóc người bệnh 20,59%; thiếu kiến thức 14,71%; chưa tuân thủ quy chế, qui định 11,76%. Kết luận: Kết quả nghiên cứu thực trạng sự cố y khoa giúp bệnh viện nhận diện nguyên nhân và các sự cố thường gặp, từ đó đề ra các giải pháp cải tiến nhằm giảm thiểu các sự cố trong thực hành khám, chữa bệnh. Từ khóa: Sự cố y khoa, sai sót y khoa. ABSTRACT RESULTS OF A SURVEY ON MEDICAL ADVERSE EVENTS IN TRUNG VUONG HOSPITAL Le Thanh Chien, Huynh Thi Thanh Trang, Nguyen Manh Tuan, Nguyen Thi Thu Van, Than Thi Thu Ba, Nguyen Manh Hung, Lam My Dung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 6- 2018: 20 – 30 Background: Medical adverse events are a major problem that related to poor quality of care. Potential risks of medical errors not only pose a substantial threat to patients in various ways but also represent a serious problem for healthcare providers. This problem has become a pressure for healthcare staff and a challenge for * Bệnh viện Trưng Vương Tác giả liên lạc: BS.CKII Huỳnh Thị Thanh Trang, ĐT: 0918192469, Email: thanhtrangbvtv@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học 21 healthcare leaders. Objectives: To determine the frequency of medical adverse events that occurred in Trung Vuong hospital from 2017 to 2018 and the percentage of types of medical errors. To analyze the causes and factors that related to medical adverse events. Method: A case series study that included all medical adverse events was reported in Trung Vuong hospital from January 1st, 2017 to May 31st, 2018. Results: A total of 78 medical adverse events were reported. About 0.12% of medical adverse events occurred in inpatients. Estimating 29.5% of adverse events related medical errors, 29.5% about medication errors, 24.4% is related to procedures for medical examination and treatment, 20.5% of medical adverse events is about devices and equipment, falling takes 5.0%. Night-time events were associated with higher patient emergencies than daytime incidents (p < 0.05). Clinical events were related to higher patient emergencies than non-clinical incidents (p < 0.05). Medication errors were associated with prolonged treatment, 82.6% versus 50.9% (p < 0.05). A total of 17 serious medical adverse events were analyses using the root cause analysis method. About 54.7% of errors are system errors and 45.3% is individual errors. Medical adverse events related to system errors included training (26.9%), diagnosing (17.3%), procedures for medical examination and treatment (14.7%). Individual errors were recorded are lack of experience and skill (50.0%), lack of monitoring and caring patient (20.6%), lack of knowledge (14.7%) and failure to adhere to policies (11.8%). Conclusion: Study results indicate major causes of medical adverse events and provide useful information for improving and preventing medical adverse events in the future. Further studies are needed to reduce the negative effect of medical adverse events in the clinical and non-clinical situation. Keywords: Medical adverse events, medical errors. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự cố y khoa là một trong những vấn đề có liên quan đến chất lượng điều trị và chăm sóc người bệnh đang được cả thế giới quan tâm. Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật, lĩnh vực y tế đã có những bước đột phá về các phương tiện chẩn đoán và điều trị, chăm sóc. Tuy nhiên, trong y khoa luôn có những mặt hạn chế và những nguy cơ tiềm ẩn có thể gây ra các biến cố bất lợi đến sức khỏe, đó là các tai biến xảy ra trong và sau khi chẩn đoán và điều trị, hay nói một cách khác là các “sự cố y khoa”. Định nghĩa về sự cố y khoa vẫn còn là một vấn đề tranh cãi, phụ thuộc vào nội dung và mục đích sử dụng như nghiên cứu khoa học, quản lý chất lượng, bảo hiểm, pháp luật và những quy định khác(1,17,21). Một số thuật ngữ được các nhà nghiên cứu y học sử dụng để mô tả vấn đề nói trên một cách bản chất hơn như “nhầm lẫn y khoa – medical mistakes”, sai sót y khoa “medical error” hay “sự cố y khoa không mong muốn “medical adverse events”, sự cố “incident”(16). Các tác giả đưa ra định nghĩa về sự cố y khoa như sau: Sự cố y khoa là sự thất bại trong việc thực hiện các hành động đã được lên kế hoạch từ trước để đạt được mục đích (lỗi trong việc tiến hành) hoặc sử dụng một kế hoạch không chính xác để đạt mục tiêu (lỗi trong việc lên kế hoạch)(14). Sự cố y khoa là những hành động không có chủ ý (dù có bỏ sót hay đã thực hiện) dẫn tới những hệ quả không mong muốn(12). Sự cố y khoa là những sai lệch trong quá trình chăm sóc người bệnh có thể có hoặc không có gây hại tới người bệnh(15). Theo nghiên cứu tổng quan của Grober E.D. và cộng sự tiến hành năm 2004 đề ra định nghĩa về sự cố y khoa dựa trên các mô hình khái niệm khác nhau như sau: Sự cố y khoa là một hành động bị bỏ sót hoặc đã được thực hiện trong khi lên kế hoạch hoặc trong khi thực hiện có thể gây ra hoặc gây ra các kết quả không mong muốn(4). Theo tác giả Tăng Chí Thượng năm 2015, sai sót là thất bại của hành động theo kế hoạch hoặc sử dụng kế hoạch không đúng để Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 22 đạt một mục tiêu mong muốn(16). Cho dù khác nhau về thuật ngữ các cách diễn đạt, nhưng đều hướng việc mô tả các sự cố y khoa không mong muốn và các sai sót có thể xảy ra trong quá trình điều trị và chăm sóc người bệnh. Theo nghiên cứu tổng quan của Jame JT (2013) cho thấy rằng có từ 210,000 đến 400,000 ca tử vong mỗi năm gây ra do các biến cố bất lợi có thể ngăn chặn được, liên quan với các sai sót y khoa trong bệnh viện. Nghiên cứu ghi nhận các bác sĩ hoặc người điều trị thường không báo cáo các sự cố nghiêm trọng tới những người có thẩm quyền, do đó, số lượng các sự cố y khoa không được ghi nhận và thường xuyên bị bỏ qua là rất lớn(7). Một nghiên cứu khác của Garrouste- Orgeas M và cộng sự (2015) ghi nhận số sự cố y khoa là 804,5/1000 người bệnh-ngày và 20,8% các trường hợp sự cố y khoa được đánh giá là các tai biến, gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiên cứu kết luận vấn đề tổ chức ca trực cũng là một trong những yếu tố làm tăng khả năng xảy ra sự cố y khoa. Hơn 40% sự cố xảy ra ở những nhân viên quay trở lại công việc sau 1 ngày nghỉ, nguyên nhân là do thông tin bệnh nhân nhập viện lúc các nhân viên này vắng mặt không được cập nhật đầy đủ(3). Tại Việt Nam, các báo cáo về sự cố y khoa trong Bệnh viện và ở các bệnh viện công lập trên thành phố Hồ Chí Minh còn hạn chế, dẫn tới vấn đề nhận diện và giải quyết các sự cố y khoa trở nên khó khăn. Trong năm 2016, bệnh viện có tổng cộng 82 sự cố được báo cáo, trong đó có 5 sự cố đặc biệt nghiêm trọng, 63 sự cố sai biệt và 14 sự cố suýt xảy ra. Trước tình hình hạn chế về các báo cáo sự cố y khoa, thiếu thông tin về các vấn đề liên quan sự cố y khoa, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm giúp nhận diện những nhóm nguyên nhân cơ bản cũng như những yếu tố thuận lợi cho sự cố xảy ra. Từ đó, làm cơ sở dữ liệu để có thể đề ra những biện pháp phòng ngừa sự cố xảy ra và các biện pháp can thiệp làm giảm thiểu tác động của sự cố đến người bệnh cũng như các đối tượng có liên quan đến sự cố. Mục tiêu Xác định số lượng, tỷ lệ các loại sự cố y khoa tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2017 - 2018. Phân tích nguyên nhân và các yếu tố liên quan dẫn tới các sự cố y khoa tại Bệnh viện Trưng Vương. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả loạt ca. Đối tượng nghiên cứu Sự cố y khoa ghi nhận được tại Bệnh viện Trưng Vương trong thời gian thực hiện nghiên cứu, từ 01/01/2017 đến 31/5/2018. Cỡ mẫu Lấy mẫu toàn bộ các sự cố y khoa được báo cáo từ các khoa Lâm sàng và Cận lâm sàng; tổng hợp toàn bộ báo cáo sự cố tự nguyện và bắt buộc. Tiêu chí chọn mẫu Các sự cố được báo cáo trong thời gian tiến hành nghiên cứu gây ra bởi bất kỳ nguyên nhân nào. Tiêu chí loại trừ Các báo cáo không chính xác hoặc không đầy đủ. Thu thập số liệu Phương pháp thu thập số liệu Tổng hợp số liệu từ các báo cáo sự cố từ các khoa Lâm sàng và Cận lâm sàng. Công cụ thu thập số liệu Mẫu báo cáo sự cố. Xử lý và phân tích số liệu Mô tả bằng tần số và tỷ lệ phần trăm (%). Sử dụng phép kiểm 2 để so sánh hai tỷ lệ. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian từ tháng 01/2017 đến hết tháng 5/2018 có tổng cộng 331 sự cố được báo cáo, trong đó có 78 sự cố y khoa. Với tổng số lượt người bệnh nhập viện trong cùng khoảng thời gian là 65.379 lượt, tỷ lệ sự cố y khoa được báo Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học 23 cáo tại Bệnh viện là 0,12% trên lượt người bệnh nhập viện. Đặc điểm mẫu nghiên cứu và đặc điểm về sự cố y khoa Thời gian công tác của nhân viên báo cáo sự cố là từ 20 năm trở lên chiếm tỷ lệ cao với 30,8%. Chủ yếu nhân viên báo cáo sự cố ghi nhận là Điều dưỡng/Nữ hộ sinh với 64,1%. Phân loại tỷ lệ sự cố xảy ra do chuyên môn và an toàn sử dụng thuốc chiếm tỷ lệ cao, sự cố xảy ra do quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh chiếm 24,4%, sự cố xảy ra do vật tư, trang thiết bị chiếm 20,5%. Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu và đặc điểm về sự cố y khoa (n=78) Đặc điểm mẫu nghiên cứu và đặc điểm về sự cố y khoa Tần số (n) Tỷ lệ (%) Đặc điểm mẫu nghiên cứu Thời gian công tác của nhân viên báo cáo sự cố Dưới 5 năm 25 33,3 Từ 5 đến dưới 10 năm 8 10,3 Từ 10 đến dưới 20 năm 20 25,6 Từ 20 năm trở lên 24 30,8 Chức danh của nhân viên báo cáo sự cố Bác sĩ/Dược sĩ 28 35,9 Điều dưỡng/Nữ hộ sinh/Kỹ thuật viên 50 64,1 Đặc điểm về sự cố y khoa Thời điểm xảy ra sự cố Ban ngày (từ 6h-17h) 51 65,4 Ban đêm (từ 17h-6h) 27 34,6 Phân loại sự cố và hướng xử trí Quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh 19 24,4 Sai sót chuyên môn 23 29,5 An toàn trong sử dụng thuốc 23 29,5 Quản lý hồ sơ bệnh án 3 3,9 Tai nạn, chấn thương té ngã 4 5,0 An toàn lưu trữ cơ sở dữ liệu 3 3,9 An ninh, an toàn cháy nổ 3 3,9 Vật tư, trang thiết bị 16 20,5 Xét nghiệm, giải phẫu bệnh 2 2,6 Phân loại khác 5 6,4 Các sự cố xảy ra vào ban ngày và vào ban đêm liên quan đến các lĩnh vực: quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh; sai sót chuyên môn; an toàn trong sử dụng thuốc và vật tư, trang thiết bị. Tỷ lệ sự cố về quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh vào ban đêm gần như tương đương với ban ngày (25,9% với 23,5%) (p = 0,815). Về chuyên môn, tỷ lệ sai sót chuyên môn vào ban đêm ghi nhận là 37% cao hơn so với ban ngày là 25,5%. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,287). Kết quả ghi nhận tương tự đối với các sự cố liên quan đến an toàn trong sử dụng thuốc, với tỷ lệ sự cố xảy ra vào ban đêm nhiều hơn ban ngày nhưng ghi nhận sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,588). Đối với các loại sự cố còn lại, không ghi nhận sự khác biệt về mặt thống kê theo thời điểm xảy ra sự cố. Bảng 2. Phân loại sự cố theo thời gian xảy ra sự cố (n=78) Phân loại sự cố Thời điểm xảy ra sự cố p Ban ngày (n=51) Ban đêm (n=27) Quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh (n=19) 12 (23,5) 7 (25,9) 0,815 Sai sót chuyên môn (n=23) 13 (25,5) 10 (37,0) 0,287 An toàn trong sử dụng thuốc (n=23) 14 (27,5) 9 (33,3) 0,588 Quản lý hồ sơ bệnh án (n=3) 1 (2,0) 2 (7,4) 0,274* Tai nạn, chấn thương té ngã (n=4) 3 (5,9) 1 (3,7) 1* An toàn lưu trữ cơ sở dữ liệu (n=3) 1 (2,0) 2 (7,4) 0,274* An ninh, an toàn cháy nổ (n=3) 2 (3,9) 1 (3,7) 1* Vật tư, trang thiết bị (n=16) 11 (21,6) 5 (18,5) 0,751 Xét nghiệm, giải phẫu bệnh (n=2) 0 (0) 2 (7,4) 0,118 Phân loại khác (n=5) 3 (5,9) 2 (7,4) 1* Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher Tỷ lệ tử vong khi các sự cố xảy ra vào ban ngày thấp hơn so với ban đêm (6,9% so với 14,8%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,227). Không ghi nhận được sự khác biệt về mặt thống kê giữa thời điểm xảy ra sự cố với các hậu quả mất/giảm khả năng vĩnh viễn, nhập viện, kéo dài thời gian điều trị và các hậu quả khác. Những sự cố xảy ra vào ban đêm có tỷ lệ phải cấp cứu người bệnh cao hơn so với những sự cố vào ban ngày (p = 0,009). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 24 Bảng 3. Hậu quả của sự cố và thời gian xảy ra sự cố (n=78) Hậu quả của sự cố Thời điểm xảy ra sự cố p Ban ngày (n=51) Ban đêm (n=27) Tử vong (n=7) 3 (6,9) 4 (14,8) 0,227* Cấp cứu (n=16) 6 (11,8) 10 (37,0) 0,009 Mất/giảm khả năng vĩnh viễn (n=1) 1 (2,0) 0 (0) 1* Nhập viện (n=3) 1 (2,0) 2 (7,4) 0,274* Kéo dài thời gian điều trị (n=47) 33 (64,7) 14 (51,9) 0,270 Không gây tổn hại (n=11) 7 (13,7) 4 (14,8) 0,895 Hậu quả khác (n=17) 14 (27,5) 3 (11,1) 0,096 Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher Trong số những sự cố có tử vong (n = 7), 100% số sự cố có liên quan đến chuyên môn. Tỷ lệ tử vong ở nhóm có liên quan chuyên môn là 30,4% so với nhóm không liên quan là 0%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Bảng 4. Tử vong và phân loại sự cố (n=78) Hậu quả của sự cố Tử vong p Có (%) Không (%) Quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh Có liên quan 2 (10,5) 17 (89,5) 1* Không liên quan 5 (8,5) 54 (91,5) Sai sót chuyên môn Có liên quan 7 (30,4) 16 (69,6) <0,001* Không liên quan 0 (0) 55 (100) An toàn trong sử dụng thuốc Có liên quan 0 (0) 23 (100) 0,098* Không liên quan 7 (12,7) 48 (87,3) Vật tư, trang thiết bị Có liên quan 0 (0) 16 (100) 0,334* Không liên quan 7 (11,3) 55 (88,7) Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa việc phải cấp cứu với các loại sự cố liên quan đến quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh, an toàn trong sử dụng thuốc và vật tư, trang thiết bị. Những sự cố liên quan đến chuyên môn có tỷ lệ phải cấp cứu cao hơn so với những sự cố không liên quan đến chuyên môn (43,5% so với 10,9%, p = 0,004). Bảng 5. Cấp cứu và phân loại sự cố (n=78) Hậu quả của sự cố Cấp cứu p Có (%) Không (%) Quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh Có liên quan 2 (10,5) 17 (89,5) 0,330* Không liên quan 14 (23,7) 45 (76,3) Sai sót chuyên môn Có liên quan 10 (43,5) 13 (56,5) 0,004* Không liên quan 6 (10,9) 49 (89,1) An toàn trong sử dụng thuốc Có liên quan 5 (21,7) 18 (78,3) 1* Không liên quan 11 (20,0) 44 (80,0) Vật tư, trang thiết bị Có liên quan 1 (6,3) 15 (93,7) 0,169* Không liên quan 15 (24,2) 47 (75,8) Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher Không tìm thấy sự khác biệt về việc phải kéo dài thời gian điều trị với các sự cố chuyên môn và sự cố liên quan vật tư, trang thiết bị. Tỷ lệ phải kéo dài thời điều trị ở những sự cố liên quan quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh thấp hơn so với các loại sự cố khác (p = 0,016). Những sự cố liên quan đến an toàn trong sử dụng thuốc có liên quan đến việc kéo dài thời gian điều trị, 82,6% so với 50,9% (p = 0,009). Bảng 6. Kéo dài thời gian điều trị và phân loại sự cố (n=78) Hậu quả của sự cố Kéo dài thời gian điều trị p Có (%) Không (%) Quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh Có liên quan 7 (36,8) 12 (63,2) 0,016 Không liên quan 40 (67,8) 19 (32,2) Sai sót chuyên môn Có liên quan 11 (47,8) 12 (52,2) 0,147 Không liên quan 36 (65,5) 19 (34,5) An toàn trong sử dụng thuốc Có liên quan 19 (82,6) 4 (17,4) 0,009 Không liên quan 28 (50,9) 27 (49,1) Vật tư, trang thiết bị Có liên quan 10 (60,5) 6 (37,5) 0,837 Không liên quan 37 (59,7) 25 (40,3) Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher Kết quả phân tích nguyên nhân gốc Trong thời gian từ tháng 01/2017 đến hết tháng 05/2018 ghi nhận có 17 trường hợp sự cố nghiêm trọng được phân tích nguyên nhân gốc và rút kinh nghiệm. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học 25 Trong tổng số 17 trường hợp được phân tích, tổng số lỗi ghi nhận là 75 nguyên nhân và yếu tố góp phần gây ra lỗi. Bảng 7. Kết quả phân tích nguyên nhân gốc (n=75) Vấn đề Tần số (n) Tỉ lệ (%) Phân loại Lỗi cá nhân 34 45,3 Lỗi hệ thống 41 54,7 Các lỗi hệ thống (n=41) Quy trình 6 14,7 Phác đồ 3 6,6 Huấn luyện đào tạo 11 26,9 Bác sĩ điều trị không theo phạm vi chứng chỉ hành nghề 1 2,5 Trang thiết bị 1 2,5 Trao đổi thông tin 2 5,0 Thiếu hội chẩn 7 17,3 Tổ chức 3 7,2 Phối hợp, giám sát 7 17,3 Các lỗi cá nhân (n=34) Bác sĩ, điều dưỡng chủ quan 7 20,59 Thiếu kỹ năng, kinh nghiệm 17 50 Thiếu kiến thức 5 14,71 Vi phạm quy chế, qui định 4 11,76 Lỗi do sơ ý 1 2.9 Trong tổng số 75 lỗi ghi nhận, lỗi cá nhân là 45,3% và lỗi hệ thống là 54,7%. Trong nghiên cứu đang tiến hành, ghi nhận có 41 lỗi hệ thống trong 17 trường hợp phân tích nguyên nhân gốc và rút kinh nghiệm. Trong đó, các lỗi liên quan đến huấn luyện, đào tạo là chủ yếu với 26,9%. Kế đến là do thiếu công tác hội chẩn với 17,3% và liên quan đến quy trình với 14,7%. Về lỗi cá nhân, trong tổng số 34 lỗi, ghi nhận chủ yếu là do thiếu kỹ năng kinh nghiệm với 50%, kế đến là do bác sĩ/điều dưỡng chủ quan trong công tác chăm sóc người bệnh 20,59%. Ghi nhận có 14,71% lỗi đến từ việc thiếu kiến thức. 11,76% lỗi vi phạm quy chế, qui định. BÀN LUẬN Đặc tính mẫu nghiên cứu Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia báo cáo sự cố y khoa ghi nhận từ các nghiên cứu trên giới bao gồm các yếu tố về cá nhân, tổ chức và về văn hóa tại nơi xảy ra sự cố(5). Các nghiên cứu cũng ghi nhận việc thiếu kinh nghiệm, thiếu đào tạo, huấn luyện, khối lượng công việc lớn, tình trạng căng thẳng (stress), thiếu giao tiếp và thiếu kiến thức y khoa dẫn đến tăng xảy ra sự cố nhưng hạn chế báo cáo(18,20). Ngoài ra, văn hóa buộc tội, nỗi sợ bị trừng phạt do sai sót y khoa cũng là một trong những rào cản lớn hạn chế báo cáo các sự cố y khoa ở nhân viên(23). Có thể thấy các yếu tố trên đều bị ảnh hưởng bởi thời gian công tác hay kinh nghiệm làm việc. Trong quá trình làm việc, các sự cố càng được nhận diện nhiều hơn. Thời gian làm việc càng lâu, càng được đào tạo, huấn luyện càng nhiều, kinh nghiệm càng được tích lũy, nhận thức về báo cáo sự cố được tăng cao, từ đó, các sự cố dễ dàng được nhận diện và được báo cáo, giải quyết kịp thời. Trong nghiên cứu ghi nhận có 33,3% nhân viên có thời gian công tác dưới 5 năm tham gia báo cáo sự cố y khoa. Điều này là hoàn toàn phù hợp vì hầu hết, những người làm việc từ 5 năm trở lên được đào tạo, huấn luyện nhiều hơn, bên cạnh đó, kinh nghiệm tích lũy được là rất lớn. Hầu hết công tác báo cáo sự cố do Ban Chủ nhiệm khoa báo cáo, chủ yếu là bác sĩ trưởng khoa và điều dưỡng Trưởng khoa, những người có kinh nghiệm làm việc lâu năm. Ghi nhận báo cáo từ nhân viên kinh nghiệm dưới 5 năm chủ yếu là điều dưỡng hành chánh, thực hiện theo chỉ đạo của Ban chủ nhiệm khoa, ít trường hợp ghi nhận nhân viên tự nguyện các báo cáo sự cố y khoa. Tỉ lệ tham gia báo cáo sự cố từ những nhân viên dưới 5 năm kinh nghiệm trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Khorasani F và Beigi M (2017) với tỉ lệ 34,9%(10). Tuy nhiên, tỉ lệ này lại thấp hơn so với nghiên cứu Khammarnia M. và cộng sự (2015) với 54% nhân viên báo cáo sự cố y khoa có kinh nghiệm dưới 5 năm công tác(9). Sự khác biệt có thể lý giải do sự khác nhau về văn hóa giữa các địa điểm nghiên cứu, tình hình văn hóa tổ chức, sự hỗ trợ giúp đỡ của lãnh đạo và phát triển công nghệ báo cáo đảm bảo chính xác và ẩn danh, bảo vệ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 26 người báo cáo. Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối tượng báo cáo sự cố chủ yếu là điều dưỡng, nữ hộ sinh và kỹ thuật viên với 64,1%. Trong khi đó, tỉ lệ báo cáo sự cố ở các bác sĩ, dược sĩ là 35,9%. Công tác báo cáo sự cố chủ yếu do điều dưỡng hành chính và điều dưỡng trưởng tại các khoa thực hiện, từ đối tượng bác sĩ, dược sĩ còn hạn chế. Nghiên cứu chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về đối tượng báo cáo sự cố là điều dưỡng, nữ hộ sinh báo cáo sự cố cao hơn đối tượng bác sĩ. Như báo cáo của Madsen M.D. và cộng sự năm 2006 tại Đan Mạch cho thấy thái độ đối với báo cáo sự cố, sai sót có sự khác biệt lớn giữa các nhóm. Nhóm bác sĩ không thích hoặc miễn cưỡng phải báo cáo là 34%, trong khi nhóm điều dưỡng là 21%. Lý do không báo cáo là thói quen, lo sợ bị chú ý, nguy cơ bị khiển trách(13). Một nghiên cứu định tính của Kingston và cộng sự năm 2004 trên 14 bác sĩ và 19 điều dưỡng tại một số bệnh viện công lập tại Adelaide, Nam Úc cho thấy có sự khác biệt giữa bác sĩ và điều dưỡng trong việc báo cáo sự cố, xác định dựa trên thuyết hành vi xã hội, trong đó điều dưỡng có xu hướng báo cáo nhiều hơn so với bác sĩ(11), tương tự nghiên cứu của Vincent C (1999) cho thấy đối tượng nữ hộ sinh báo cáo sự cố cao hơn so với các bác sĩ và nhân viên báo cáo sự cố nhiều hơn cấp lãnh đạo(19). Nghiên cứu Kaldjian và cộng sự năm 2008 trên 338 bác sĩ cho thấy hầu hết đồng ý báo cáo sự cố để cải thiện chất lượng chăm sóc bệnh nhân trong tương lai (84,3%), 73% báo cáo các sai sót nhỏ, 92% báo cáo các sai sót gây tổn hại đến bệnh nhân. Tuy nhiên thực tế cho thấy chỉ 17,8% người trả lời đã từng báo cáo các sai sót nhỏ, chỉ có 3,8% báo cáo các sai sót nghiêm trọng (dẫn đến khuyết tật hoặc tử vong)(8). Thực trạng sự cố y khoa được báo cáo bởi điều dưỡng nhiều hơn bác sĩ cho thấy đối với bác sĩ vấn đề báo cáo sự cố còn gặp nhiều rào cản, phù hợp khảo sát văn hóa an toàn người bệnh tại Bệnh viện Trưng Vương năm 2017 cho kết quả rằng “bác sĩ” có ý kiến trà lời tích cực thấp hơn “điều dưỡng” trong 4 lĩnh vực: Học tập – cải tiến liên tục, nhận thức về an toàn người bệnh, nhân lực, bàn giao và chuyển bệnh. Bệnh viện cần có nhiều giải pháp tăng cường hơn để tăng số lượng báo cáo sự cố y khoa từ đối tượng bác sĩ - là đối tượng chủ yếu dẫn đến nguyên nhân gây ra sự cố y khoa như cam kết lãnh đạo không xử lý kỷ luật, buộc tội, tăng cường khen thưởng, giải quyết sự cố triệt để tránh lập lại, thông tin phản hồi Sự cố y khoa Số lượng sự cố y khoa được báo cáo Trong thời gian từ tháng 01/2017 đến tháng 05/2018 nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có 331 sự cố được báo cáo, trong đó có 78 sự cố y khoa. Với tổng số lượt người bệnh nhập viện trong cùng khoảng cùng thời gian = 65,379 lượt, cho thấy tỷ lệ sự cố y khoa tại Bệnh viện được báo cáo là 0,12%. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với các báo cáo về sự cố y khoa trên thế giới tại các nước phát triển là khoảng 8-10% người bệnh nhập viện. Số lượng báo cáo sự cố nói chung và sự cố y khoa nói riêng tại bệnh viện còn thấp dù bệnh viện từ 3 năm nay đã tiến hành nhiều giải pháp để tăng cường báo cáo sự cố và giải quyết sự cố. Khảo sát văn hóa an toàn người bệnh tại bệnh viện năm 2017 cho thấy còn nhiều vấn đề tồn tại: Tỉ lệ trả lời tích cực về báo cáo khi có sự cố: 49,1%; 50,3 % nhân viên còn lo lắng khi báo cáo sự cố sẽ bị trừng phạt do gây ra sự cố; 67% cho rằng khi có một sự cố xảy ra, cứ như là một cá nhân được nêu tên chứ không phải một vấn đề được nêu ra để phân tích nguyên nhân. Điều này cho thấy lý do chủ yếu khiến nhân viên ngại báo cáo sự cố là do văn hóa sợ bị trừng phạt và buộc tội cá nhân. Thời điểm xảy ra sự cố và thời điểm báo cáo sự cố Thời điểm xảy ra sự cố theo Hughes V (2016) chủ yếu vào ban đêm. Theo các nghiên cứu nhân viên làm việc vào ca đêm có tỉ suất dẫn đến sự cố cao hơn so với những nhân viên làm việc vào Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học 27 ca ngày. Những nguyên nhân chính là do thiếu ngủ và thời gian làm việc dài(6). Trong nghiên cứu của chúng tôi, theo kết quả ghi nhận được thì số sự cố xảy ra vào ban ngày và nhiều hơn so với ban đêm. Sự khác biệt này so với các y văn trước đó có thể là do thói quen báo cáo sự cố cũng như nhận thức về báo cáo sự cố của nhân viên. Nhân viên có xu hướng bỏ qua các sự cố suýt xảy ra. Đối với các sự cố xảy ra hay suýt xảy ra vào ban ngày, việc được nhận diện là dễ dàng vì có nhiều nhân viên cùng làm việc vào cùng thời điểm. Bên cạnh đó, vào ca ngày, còn có thêm sự hỗ trợ của Ban chủ nhiệm Khoa trong vấn đề báo cáo sự cố. Trong khi đó, hầu hết các sự cố vào ban đêm ít được giám sát ghi nhận hơn so với ban ngày, và thường được bỏ qua. Do đó, việc tự nguyện báo cáo các sự cố xảy ra vào ban đêm còn hạn chế. Ngoài ra, yếu tố về “văn hóa buộc tội” và “nỗi sợ bị trừng phạt” là những rào cản lớn nhất để nhân viên tự nguyện báo cáo các sự cố liên quan đến sai sót y khoa, đặc biệt là sai sót về chuyên môn(22). Tác động của sự cố và tính chất của sự cố Theo định nghĩa về sự cố y khoa, các nguy hại chủ yếu ảnh hưởng tới sự an toàn của người bệnh và nhân viên chăm sóc. Tuy nhiên, nhân viên y tế có sự chủ động trong phòng ngừa các sự cố y khoa hơn so với người bệnh vì đôi khi người bệnh không lường trước được các nguy cơ có thể xảy ra. Đối với người bệnh, khi họ chấp nhận cho bác sĩ, điều dưỡng chăm sóc, thao tác trên họ nghĩa là họ đã chấp nhận những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thao tác, chăm sóc. Việc giải thích về các sự cố có thể xảy ra, các nguy hại có thể ảnh hưởng đến người bệnh cần được tư vấn cụ thể từ phía nhân viên để quá trình chăm sóc đảm bảo sự an toàn cũng như tăng tính hợp tác của người bệnh và người nhà bệnh nhân đối với nhân viên y tế. Đối với tính chất sự cố, hầu hết các sự cố ghi nhận được là các sự cố đã xảy ra với tỉ lệ là 99%. Điều này là hoàn toàn phù hợp vì đối với các sự cố đã xảy ra, nhiều nhân viên đều biết đến sự cố đó, do đó khó có thể cho nhân viên che giấu các sự cố này. Tuy nhiên, đối với các sự cố suýt xảy ra thường được bỏ qua vì các tình huống này thường ít ai biết đến, hoặc có thể các sự cố này ảnh hưởng ít và có thể khắc phục tại chỗ nên không báo cáo. Nhận thức về tầm quan trọng của báo cáo sự cố của nhân viên là cực kỳ quan trọng trong vấn đề này. Mặc dù, bệnh viện đã thực hiện rất nhiều chương trình tập huấn cũng như triển khai các hoạt động đảm bảo chất lượng an toàn người bệnh, tổ chức các hội thi khuyến khích về báo cáo sự cố. Tuy nhiện, tỷ lệ báo cáo sự cố y khoa tự nguyện là chưa cao. Cần có những biện pháp khác thích hợp để đảm bảo việc báo cáo chính xác và đầy đủ. Để thực hiện việc này, cần khảo sát những lý do, rào cản làm hạn chế tính tự nguyện của nhân viên trong báo cáo sự cố y khoa. Nghiên cứu cùa chúng tôi ghi nhận có 10% các sự cố y khoa gây tử vong ở người bệnh, 20,5% sự cố đẩy người bệnh vào tình trạng cấp cứu và 60,3% các sự cố làm kéo dài thời gian điều trị. Kết quả ghi nhận tương đồng với các nghiên cứu trên thế giới. Trong nghiên cứu của Elden N.M.K và Ismail A (2016), sự cố y khoa tăng thêm 2 ngày điều trị và tăng từ 2000 - 5000$ cho mỗi người bệnh (ghi nhận theo các nghiên cứu trên thế giới)(2). Phân loại sự cố y khoa Các sự cố y khoa trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu liên quan đến quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh; sai sót chuyên môn; an toàn trong sử dụng thuốc và liên quan đến vật tư, trang thiết bị. Đối với các sự cố liên quan đến quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh, các sự cố xảy ra thường do “lỗ hổng” của quy trình. Các quy trình chưa được thực hiện một cách đồng nhất giữa các khoa, phòng hoặc có thể quy trình chưa được cập nhật, ban hành tại thời điểm xảy ra sự cố. Nghiên cứu chưa đi sâu phân tích về các yếu tố liên quan đến quy trình. Do đó, việc rà soát lại các điểm bất hợp lý trong quy trình, cũng như phát triển và hoàn thiện các quy trình phối hợp Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 28 là việc cần thiết để đảm bảo không lặp lại các sư cố tương tự trong tương lai. Các sự cố về an toàn trong sử dụng thuốc chủ yếu là phản ứng thuốc khi tiêm, truyền ở người bệnh nội trú và được phát hiện kịp thời. Cách khắc phục chủ yếu là ngừng sử dụng loại thuốc đang tiêm, truyền, báo cáo sự cố và chăm sóc phục hồi. Trong nghiên cứu chưa ghi nhận bất kì các báo cáo nào của người bệnh ngoại trú về những phản ứng bất lợi khi sử dụng thuốc với nhân viên y tế, hoặc bác sĩ nhận được những phàn nàn của người bệnh về các tình trạng bất lợi khi sử dụng thuốc nhưng chỉ khắc phục bằng cách thay đổi đơn thuốc và ít khi báo cáo sự cố trong quá trình sử dụng thuốc ở người bệnh ngoại trú. Việc ghi nhận về các sự cố liên quan quá trình sử dụng thuốc cần được ghi nhận thường xuyên vì hiện tại các loại thuốc điều trị là phổ biến, người bệnh có thể dễ dàng tiếp cận và hoàn toàn tuân theo đơn thuốc của bác sĩ điều trị. Tuy nhiên, một số bộ phận người bệnh có thể đáp ứng tốt, một số khác lại không đáp ứng hoặc có những phản ứng không tốt. Việc ghi nhận giúp bác sĩ điều trị có thể có những phương pháp điều trị tốt nhất và có ứng dụng quan trọng trong y học cá thể. Các sự cố liên quan đến vật tư, trang thiết bị ghi nhận được trong nghiên cứu chủ yếu do lỗi thiết bị, hỏng hóc kéo dài làm ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc và điều trị. Hầu hết các sự cố này đều có cách khắc phục và chưa ghi nhận các hậu quả nghiêm trọng. Các trang thiết bị tại bệnh viện được rà soát cẩn thận, đảm bảo an toàn đặc biệt là ở các khoa trọng điểm sử dụng nhiều trang thiết bị hiện đại như Hồi sức tích cực – Chống độc, Cấp cứu. Tuy nhiên, vì chú trọng vào một số khoa trọng điểm, do đó, đôi khi các trang thiết bị nhỏ có thể bị bỏ qua và gây ra sự cố. Với nguồn lực hiện tại tại bệnh viện, hầu như công tác cung ứng và sửa chữa vật tư trang thiết bị còn hạn chế và chỉ chú trọng vào các thiết bị lớn, các khoa trọng điểm và trong các phẫu thuật cao, chi phí lớn. Thời điểm xảy ra sự cố và các đặc tính của sự cố Theo nghiên cứu trước đó của Hughes V. (2016), các loại sự cố có tỉ lệ xảy ra vào ban đêm là cao hơn so với ban ngày(6). Trong nghiên cứu của chúng tôi, không ghi nhận có sự khác biệt về tỉ lệ các sự cố xảy ra vào ban ngày so với ban đêm theo phân loại sự cố y khoa. Như đã đề cập trước đó, sự khác biệt thể là do ảnh hưởng bởi công tác báo cáo sự cố. Kết quả nghiên cứu hoàn toàn phụ thuộc và số lượng báo cáo sự cố của nhân viên cũng như tính chính xác của sự cố. Bên cạnh đó, việc báo cáo sự cố gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Ngoài ra, các sự cố thường ít được báo cáo đầy đủ và hoặc bỏ qua không báo cáo đặc biệt là đối với các sự cố xảy ra vào ban đêm. Trong nghiên cứu hiện tại, có tổng cộng 78 sự cố ghi nhận được trên hệ thống và từ phân tích nguyên nhân gốc. Chủ yếu được ghi nhận một cách thuận tiện, do đó khả năng phát hiện ý nghĩa về mặt thống kê là hạn chế. Kết quả nghiên cứu ghi nhận đối với các sự cố xảy ra vào ban đêm, tỉ lệ người bệnh trong tình trạng cấp cứu cao hơn so với những sự cố xảy ra vào ban ngày. Đội ngũ nhân viên trong ca đêm thường mỏng hơn so với ca ngày, do đó, bắt buộc những người trực đêm phải có kinh nghiệm và đảm bảo khả năng giải quyết những vấn đề phát sinh trong ca trực. Tuy nhiên, đối với việc phân chia ca trực và đảm bảo nguồn lực giàu kinh nghiệm là một trong những khó khăn đối với hầu hết các bệnh viện công lập. Nguồn lực hạn chế dẫn dến việc những bác sĩ chưa có nhiều kinh nghiệm trong nhận định, chẩn đoán và xử trí tham gia vào các ca trực đêm. Mặc dù có sự hỗ trợ của các bác sĩ nhiều kinh nghiệm nhưng trong một ca trực, cần có sự phân chia thời gian nghỉ ngơi để đảm bảo sức khỏe cho nhân viên y tế. Khả năng các sự cố xảy ra thường rơi vào thời điểm trực của những nhân viên chưa đủ kinh nghiệm. Điều này có thể là lý do dẫn đến các sự cố xảy ra khiến người bệnh lâm vào tình trạng cấp cứu do chẩn đoán và xử trí chưa phù hợp. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học 29 Hậu quả do sự cố và các yếu tố liên quan Trong nghiên cứu ghi nhận có mối liên quan giữa sự cố chuyên môn với tỉ lệ tử vong, cấp cứu ở người bệnh. Những sự cố liên quan đến chuyên môn có tỷ lệ người bệnh phải cấp cứu cao hơn so với những sự cố không liên quan chuyên môn (41,5% so với 10,9%). Có thể thấy rằng, sự cố về chuyên môn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh. Các chương trình tập huấn, đào tạo, rèn luyện; hội chẩn khi gặp các tình huống khó và phải luôn kết hợp với nhiều chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau để có thể đánh giá chính xác nhất tình trạng bệnh. Việc thiếu kiến thức, kỹ năng và chủ quan trong quá trình điều trị có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, và hậu quả để lại là rất lớn. Các báo cáo tự nguyện các sự cố chuyên môn trong nghiên cứu còn rất hạn chế, điều này có thể do ảnh hưởng bởi các yếu tố của “văn hóa buộc tội” và “nỗi sợ bị trừng phạt”. Việc phân tích các sự cố liên quan đến chuyên môn cần đội ngũ chuyên gia ở nhiều lĩnh vực phối hợp. Bên cạnh việc phát triển một đội ngũ chuyên gia để đánh giá về chuyên môn, vấn đề nâng cao nhận thức của nhân viên y tế trong báo cáo sự cố y khoa liên quan chuyên môn là cực kì quan trọng, để đảm bảo các sự cố không xảy ra lặp lại, cũng như cung cấp kiến thức và những bài học kinh nghiệm trong tương lai. Nguyên nhân gốc sự cố y khoa Qua nghiên cứu trên tổng số 17 trường hợp sự cố y khoa nghiêm trọng, chúng tôi phân tích nguyên nhân gốc, tổng số lỗi và yếu tố góp phần ra lỗi là 75, trong đó lỗi hệ thống là 54,7%, lỗi cá nhân là 45,3%. Các lỗi hệ thống bao gồm: các lỗi liên quan đến huấn luyện, đào tạo là chủ yếu với 26,9%. Kế đến là do thiếu công tác hội chẩn với 17,3% và liên quan đến quy trình với 14,7%. Về lỗi cá nhân, trong tổng số 34 lỗi, ghi nhận chủ yếu là do thiếu kỹ năng kinh nghiệm với 50%, kế đến là do bác sĩ/điều dưỡng chủ quan trong công tác chăm sóc người bệnh 20,59%. Ghi nhận có 14,71% lỗi đến từ việc thiếu kiến thức. 11,76% lỗi vi phạm quy chế, qui định. Lỗi cá nhân gây ra sự cố tại bệnh viện chiếm tỷ lệ 45,3%, cao so với các báo cáo phân tích nguyên nhân và các yếu tố liên quan sự cố y khoa, trong đó nguyên nhân hệ thống chiếm khoảng 70%, cá nhân 30%. Điều này cho thấy bên cạnh các lỗi hệ thống cần khắc phục như chuẩn hóa quy trình, phác đồ, phổ biến, tăng cường huấn luyện đào tạo kiến thức, kỹ năng, tăng cường công tác giám sát thì bệnh viện cần tăng cường các biện pháp để khắc phục lỗi cá nhân. KẾT LUẬN Từ tháng 01/2017 đến tháng 05/2018 nghiên cứu ghi nhận 78 sự cố y khoa. Tỷ lệ sự cố y khoa tại Bệnh viện được báo cáo là 0,12% trên lượt người bệnh nhập viện. Phân loại: sai sót chuyên môn 29,5%, an toàn sử dụng thuốc 29,5%; quy trình, thủ tục khám, chữa bệnh chiếm 24,4%; vật tư, trang thiết bị chiếm 20,5%; tai nạn, té ngã 5%. Các yếu tố liên quan: Tỷ lệ sự cố xảy ra vào ban đêm (37%) cao hơn so với ban ngày (25,5%), sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Sự cố xảy ra vào ban đêm có liên quan cấp cứu người bệnh cao hơn so với những sự cố vào ban ngày (p < 0,05). Những sự cố liên quan đến chuyên môn có tỷ lệ phải cấp cứu cao hơn so với những sự cố không liên quan đến chuyên môn (43,5% so với 10,9%, p < 0,05). Sự cố liên quan đến an toàn trong sử dụng thuốc có liên quan đến việc kéo dài thời gian điều trị, 82,6% so với 50,9% (p < 0,05). Phân tích nguyên nhân gốc 17 trường hợp sự cố y khoa nghiêm trọng, lỗi hệ thống là 54,7%, lỗi cá nhân là 45,3%. Các lỗi hệ thống bao gồm: liên quan huấn luyện, đào tạo 26,9%; liên quan công tác hội chẩn 17,3% và liên quan đến quy trình 14,7%. Các lỗi cá nhân bao gồm: thiếu kỹ năng kinh nghiệm 50%; chủ quan trong chăm sóc người bệnh 20,59%; thiếu kiến thức 14,71%; vi phạm quy chế, quy định 11,76%. Kết quả nghiên cứu thực trạng sự cố y khoa Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 30 giúp Bệnh viện nhận diện nguyên nhân và các sự cố thường gặp, từ đó đề ra các giải pháp cải tiến nhằm giảm thiểu các sự cố trong thực hành khám, chữa bệnh. HƯỚNG ĐỀ XUẤT Chủ động, tăng cường ý thức cá nhân về lợi ích của việc báo cáo sự cố y khoa tự nguyện. Đề cao, khuyến kích, biểu dương tập thể, cá nhân tích cực báo cáo sự cố, xây dựng văn hóa “báo cáo sự cố” khoa, phòng và toàn thể viên chức. Nâng cao văn hóa an toàn người bệnh, tích cực, chủ động phát hiện, phân tích tìm nguyên nhân gốc, đưa ra các giải pháp khắc phục, sửa chữa nguy cơ rủi ro, sự cố tiềm ẩn. Cải tiến quy trình quản lý, giải quyết, phản hồi, giám sát kết quả khắc phục đồng thời rút ra bài học từ sự cố để tránh lập lại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brennan TA, Leape LL, Laird NM, Hebert L, Localio AR, Lawthers AG (1991). “Incidence of adverse events and negligence in hospitalized patients: results of the Harvard Medical Practice Study I”. N Engl J Med, 324: pp. 370-6. 2. Elden NMK, Ismail A (2016) “The Importance of Medication Errors Reporting in Improving the Quality of Clinical Care Services”. Glob J Health Sci, 8(8): pp. 243–251. 3. Garrouste-Orgeas M, Perrin M, Soufir L, Vesin A, Blot F, Maxime V, Beuret P, Troché G, Klouche K, Argaud L, Azoulay E, Timsit JF (2015) "The Iatroref study: medical errors are associated with symptoms of depression in ICU staff but not burnout or safety culture". Intensive Care Med, 41: pp. 273-284. 4. Grober ED, Bohnen JMA (2005) “Defining medical error.” Can J Surg, 48 (1): 39-44. 5. Hartnell N, MacKinnon N, Sketris I, Fleming M (2012) “Identifying, understanding and overcoming barriers to medication error reporting in hospitals: a focus group study”. BMJ Qual Saf, 21(5): pp. 361-8. 6. Hughes V (2016) “Is There a Relationship Between Night Shift and Errors? What Nurse Leaders Need to Know”. Athens Journal of Health, 3(3): 217-228. 7. James JT (2013) "A New, Evidence-based Estimate of Patient Harms Associated with Hospital Care". J Patient Saf, 9: pp. 122-128. 8. Kaldjian LC, Jones EW, Wu BJ, Forman-Hoffman VL, Levi BH, Rosenthal GE (2007) “Reporting medical errors to improve patient safety: a survey of physicians in teaching hospitals”. Arch Intern Med; 168(1): pp. 40-6. 9. Khammarnia M, Ravangard R, Barfar E, Setoodehzadeh F (2015) “Medical Errors and Barriers to Reporting in Ten Hospitals in Southern Iran”. Malays J Med Sci, 22(4): pp. 57–63. 10. Khorasani F and Beigi M (2017) “Evaluating the Effective Factors for Reporting Medical Errors among Midwives Working at Teaching Hospitals Affiliated to Isfahan University of Medical Sciences”. Iran J Nurs Midwifery Res, 22(6): pp. 455–459. 11. Kingston MJ, Evans SM, Smith BJ, Berry JG (2004). Attitudes of doctors and nurses towards incident reporting: a qualitative analysis. Med J Aust; 181(1): pp. 36-9. 12. Leape L (1994) “Error in medicine”. JAMA; 272: pp. 1851-7. 13. Madsen MD, Østergaard D, Andersen HB, Hermann N, Schiøler T, Freil M (2006) “The attitude of doctors and nurses towards reporting and handling errors and adverse events”. Ugeskr Laeger; 168(48): 4195-200 14. Reason J (1990) “Human error”. Cambridge: Cambridge University Press, Psychology- 302 pages. 15. Reason J (1995) “Understanding adverse events: the human factor”. Quality in Health Care: pp. 80-89. 16. Tăng Chí Thượng (2015) “Hướng dẫn triển khai hoạt động An toàn người bệnh tại Bệnh viện”. Nhà xuất bản Y học: tr. 11-44, 80-97. 17. Thomas EJ, Studdert DM, Burstin HR, Orav EJ, Zeena T, Williams EJ (1999) “Incidence and types of adverse events and negligent care in Utah and Colorado”. Medical Care, 38, (3): pp.261-71. 18. Tully MP, Ashcroft DM, Dornan T, Lewis PJ, Taylor D, Wass V (2009) “The causes of and factors associated with prescribing errors in hospital inpatients: a systematic review”. Drug Saf, 32(10): pp. 819-36. 19. Vincent C, Stanhope N, Crowley-Murphy M (1999) “Reasons for not reporting adverse incidents: an empirical study”. J Eval Clin Pract; 5(1): pp. 13-21. 20. Waldman JD, Smith HL (2012). “Strategic planning to reduce medical errors: Part I—diagnosis”. J Med Pract Manage, 27(4): pp. 230-6. 21. Wilson RM, Runciman WB, Gibberd RW, Harrison BT, Newby L, Hamilton JD (1995) “The Quality in Australian Health Care Study”. Med J Aust, 163: pp.458-71. 22. Wolf ZR, Hughes RG (2008) “Patient Safety and Quality An Evidence-Based Handbook for Nurses: Chapter 35. Error Reporting and Disclosure”. Agency for Healthcare Research and Quality (US). www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/21328753. 23. Wolf ZR, Serembus JF, Smetzer J, Cohen H, Cohen M (2000) “Responses and concerns of healthcare providers to medication error”. Clin Nurse Spec, 14(6): pp.278-87; quiz pp. 288-90. Ngày nhận bài báo: 14/08/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/08/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/10/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_thuc_trang_su_co_y_khoa_tai_benh_vien_trung_vuong_n.pdf