Khảo sát thực trạng stress nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng vừa làm vừa học tại Trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai

Tài liệu Khảo sát thực trạng stress nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng vừa làm vừa học tại Trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 51 KHẢO SÁT THỰC TRẠNG STRESS NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ ĐỒNG NAI Nguyễn Hồng Quang*, Nguyễn Thị Dung*, Trần Thái Hiền*, Trịnh Thị Chinh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hiện nay trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe người bệnh, điều dưỡng viên có vai trò rất quan trọng và ngày càng được nâng cao. Người điều dưỡng cộng tác cùng với bác sĩ trong quá trình điều trị cho bệnh nhân nhưng do tính chất công việc có nhiều sức ép nên tỷ lệ stress nghề nghiệp rất cao. Theo Hiệp hội Lao động Hoa Kỳ, nghề điều dưỡng là một trong những nghề đứng đầu danh sách bị sức ép công việc quá lớn. Mục tiêu: Khảo sát thực trạng stress nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng vừa làm vừa học tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, bộ câu hỏi được thiết kế dựa trên thang đo Stress trên điều dưỡng (NSS) và bộ công cụ th...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát thực trạng stress nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng vừa làm vừa học tại Trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 51 KHẢO SÁT THỰC TRẠNG STRESS NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ ĐỒNG NAI Nguyễn Hồng Quang*, Nguyễn Thị Dung*, Trần Thái Hiền*, Trịnh Thị Chinh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hiện nay trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe người bệnh, điều dưỡng viên có vai trò rất quan trọng và ngày càng được nâng cao. Người điều dưỡng cộng tác cùng với bác sĩ trong quá trình điều trị cho bệnh nhân nhưng do tính chất công việc có nhiều sức ép nên tỷ lệ stress nghề nghiệp rất cao. Theo Hiệp hội Lao động Hoa Kỳ, nghề điều dưỡng là một trong những nghề đứng đầu danh sách bị sức ép công việc quá lớn. Mục tiêu: Khảo sát thực trạng stress nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng vừa làm vừa học tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, bộ câu hỏi được thiết kế dựa trên thang đo Stress trên điều dưỡng (NSS) và bộ công cụ thang đo cảm nhận căng thẳng (PSS). Kết quả: Mức độ stress ở đối tương nghiên cứu chủ yếu là stress nhẹ chiếm 74,8%, còn lại 25,2% đối tượng nghiên cứu có mức độ stress vừa. Không có tỷ lệ bị stress nặng. Trong nhóm các tác nhân gây stress thì nhóm liên quan đến thời gian và khối lượng công việc gây ra tỷ lệ stress cao nhất. Nhóm liên quan đến mối quan hệ trong công việc là nhóm gây stress thấp nhất. Kết luận: Các yếu tố gây stress cho điều dưỡng cần được lãnh đạo bệnh viện và bản thân người điều dưỡng nhận thức để có cách ứng phó tốt nhất. Qua đó có thể nâng cao hiệu suất làm việc của điều dưỡng và nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân. Từ khóa: stress, sinh viên điều dưỡng, NSS, PSS. ABSTRACT SURVEY OF OCCUPATIONAL STRESS LEVEL AMONG NURSING STUDENTS IN DONG NAI MEDICAL COLLEGE Nguyen Hong Quang, Nguyen Thi Dung, Tran Thai Hien, Trinh Thi Chinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 5 - 2016: 51 - 55 Background: Nowadays, nurses have played an important role in health care systems. They collaborate with doctors in giving the best treatment to patients and have to work under pressure environment. Hence, the level of occupational stress among them is high. According to the US Labor Association, nursing profession is one of the most stressful jobs. Objectives: To determine occupational stress levels among nursing students who work while studying in Dong Nai Medical College. Methods: A cross-sectional study was conducted using a structured questionnaire based on the NSS and PSS. Results: Mild stress level accounted for 4.8% and moderate stress level 25.2%. None of subjects suffered from severe stress. Working hours and workload were the most common causal factors and work relationship accounted for the lowest proportion. Conclusions: Managers of hospitals and student nurses should recognize causes of stress in order to deal * Trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Hồng Quang ĐT: 0919331379 Email: quangnguyenh2@yahoo.com.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 52 with it better, through which patient care efficiency and quality are improved. Keywords: stress, nursing students, NSS, PSS. ĐẶT VẤN ĐỀ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã coi stress nghề nghiệp là một trong những mối đe dọa nguy hiểm nhất của thế kỷ XXI. Theo số liệu thống kê, trầm cảm hiện đã là gánh nặng lớn nhất của các quốc gia giàu có, bởi nó làm suy giảm chất lượng cuộc sống hoặc giảm tuổi thọ. Trong khi tại các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) các bệnh có nền tảng tâm lý đang có xu hướng mở rộng. Đến năm 2030, theo đánh giá của WHO – trầm cảm có thể trở thành vấn đề sức khỏe lớn nhất, vượt qua cả các bệnh hệ tim mạch và AIDS(5). Hiện nay trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe người bệnh, điều dưỡng viên có vai trò rất quan trọng và ngày càng được nâng cao, họ cộng tác cùng với bác sĩ trong quá trình điều trị cho bệnh nhân nhưng do tính chất công việc có nhiều sức ép nên tỷ lệ stress nghề nghiệp rất cao. Theo Hiệp hội Lao động Hoa Kỳ, nghề điều dưỡng là một trong những nghề đứng đầu danh sách bị sức ép công việc quá lớn và có tỉ lệ nhân viên stress rất cao(1). Trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai là trường chuyên đào tạo cán bộ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, bao gồm các ngành: Điều dưỡng, Dược, Hộ sinh, Vật lý trị liệu trình độ trung cấp và cao đẳng. Trong đó điều dưỡng là một trong những ngành chủ đạo và được đào tạo ở cả hai hình thức chính quy và liên thông. Trong đó sinh viên điều dưỡng liên thông là đối tượng học chịu nhiều áp lực trong đó có áp lực về công việc tại bệnh viện và các cơ sở y tế nơi họ làm việc. Nhằm đánh giá thực trạng stress nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng vừa làm vừa học tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai là lý do chúng tôi chọn đề tài này để xác định lý do stress và các yếu tố liên quan với mục tiêu nghiên cứu sau: Mục tiêu nghiên cứu Khảo sát thực trạng stress nghề nghiệp của sinh viên điều dưỡng vừa làm vừa học tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Sinh viên điều dưỡng đang học hệ cử nhân vừa học vừa làm đang làm việc tại các cơ sở y tế và đang học tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai năm học 2015-2016. Tiêu chí chọn mẫu Sinh viên đang học cao đẳng điều dưỡng liên thông tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai. Sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại trừ Sinh viên không có mặt tại thời điểm đánh giá. Sinh viên không đồng ý tham gia nghiên cứu. Cỡ mẫu Tất cả sinh viên đang học cao đẳng điều dưỡng liên thông tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Công cụ nghiên cứu Bộ câu hỏi soạn sẵn được xây dựng lại dựa trên thang đo Stress trên điều dưỡng (NSS) và bộ công cụ thang đo cảm nhận căng thẳng (PSS) cho phù hợp với tình hình thực tế và mục tiêu nghiên cứu. Bộ câu hỏi bao gồm 29 câu hỏi liên quan đến các nhóm tác nhân gây stress: Nhóm A: Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến bệnh nhân và thân nhân người bệnh gồm 7 câu. Nhóm B: Nhóm tác nhân gây stress liên quan mối quan hệ trong công việc gồm 7 câu. Nhóm C: Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến thời gian và khối lượng công việc gồm 6 câu. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 53 Nhóm D: Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến điều trị và chăm sóc gồm 5 câu. Nhóm E: Nhóm tác nhân gây stress khác. Mỗi một câu hỏi có 4 mức độ tương đương với mức điểm như sau: Không bao giờ: 1 điểm Thỉnh thoảng: 2 điểm Thường xuyên: 3 điểm Rất thường xuyên: 4 điểm Mức độ stress được phân loại ở ba mức độ theo thang điểm sau: Stress nhẹ: 29 điểm - 68 điểm Stress vừa: 69 điểm đến 91 điểm Stress nặng: Từ 92 điểm đến 116 điểm Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Tháng 12 năm 2015 tại trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai. Xử lý và phân tích số liệu: Các phiếu sau khi thu thập sẽ được kiểm tra, xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng tham gia nghiên cứu Tổng số điều dưỡng tham gia nghiên cứu là 127, trong đó nữ chiếm 113 (89%), nam 14 (11%). Trong tổng số điều dưỡng tham gia nghiên cứu thì có 88 (69,3%) là sinh viên năm nhất, 39 (30,7%) là sinh viên năm 2. Thực trạng stress nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu Bảng 1: Mức độ stress của đối tượng nghiên cứu Mức độ Tần số Tỷ lệ % Stress nhẹ 95 74,8 Stress vừa 32 25,2 Tổng số 127 100 Tất cả 127 (100%) điều dưỡng tham gia nghiên cứu đều có stress, tuy nhiên mức độ stress nhẹ ở đối tương nghiên cứu là chủ yếu, chiếm 74,8%, còn lại 25,2 % đối tượng nghiên cứu có mức độ stress vừa. Không có tỷ lệ bị stress nặng. Nhân tố gây stress nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu Bảng 2: Mức độ gây stress của các tác nhân trên đối tượng nghiên cứu Mức độ Nhóm A Nhóm B Nhóm C Nhóm D Nhóm E Stress nhẹ 99 (77,9%) 119 (93,7%) 55 (43,3%) 115 (91,3%) 83 (65,4%) Stress vừa 25 (19,6%) 08 (6,3%) 52 (40,9%) 09 (7,0%) 36 (28,3%) Stress nặng 03 (2,3%) 00 (0%) 29 (15,8%) 03 (1,7%) 08 (6,3%) Trong nhóm các tác nhân gây stress thì C là nhóm liên quan đến thời gian và khối lượng công việc gây ra tỷ lệ stress nặng nhất. Tác nhân gây stress nhóm B là nhóm liên quan đến mối quan hệ trong công việc là nhóm gây stress thấp nhất. Trong nhóm tác nhân gây stress liên quan đến bệnh nhân và thân nhân người bệnh (A), nhân tố được đánh giá ở mức độ căng thẳng nhiều trong nhóm tác nhân này là nhân tố “Nhìn thấy sự đau đớn chịu đựng của người bệnh”, đạt 334/508 điểm. Trong nhóm tác nhân gây stress liên quan mối quan hệ trong công việc (B), nhân tố được đánh giá ở mức độ căng thẳng nhiều trong nhóm tác nhân này là nhân tố “Thiếu cơ hội để trao đổi cởi mở với lãnh đạo của khoa, bệnh viện”, đạt 239/508 điểm. Trong nhóm tác nhân gây stress liên quan đến thời gian và khối lượng công việc (C), nhân tố được đánh giá ở mức độ căng thẳng nhiều trong nhóm tác nhân này là nhân tố “Quá tải công việc do thiếu điều dưỡng viên”, đạt 334/508 điểm. Trong nhóm tác nhân gây stress liên quan đến điều trị và chăm sóc (D), nhân tố được đánh giá ở mức độ căng thẳng nhiều trong nhóm tác nhân này là nhân tố “Cảm giác bất lực khi thấy tình trạng của người bệnh không được cải thiện”, đạt 270/508 điểm. Trong nhóm tác nhân gây stress khác (E), nhân tố được đánh giá ở mức độ căng thẳng nhiều trong nhóm tác nhân này là nhân tố “Môi Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 54 trường làm việc: ồn ào, dễ tiếp xúc với mầm bệnh, dễ gây thương tích”, đạt 328/508 điểm. Mối liên quan giữa mức độ stress nghề nghiệp và một số yếu tố Bảng 3: Mối liên quan giữa mức độ stress và giới tính Stress nhẹ Stress vừa Tổng số Giới tính Nam 10 (71,4%) 4 (28,6%) 14 (100%) Nữ 85 (75,2%) 28 (24,8%) 113 (100%) Tổng số 95 32 p=0,758 Tình trạng stress giữa nam và nữ không có sự khác nhau. Bảng 4: Mối liên quan giữa mức độ stress và năm học Năm học Stress nhẹ Stress vừa Tổng số Năm 1 62 (70,5%) 26 (20,5%) 88 (100%) Năm 2 33 (84,6%) 6 (15,4%) 39 (100%) Tổng số 95 32 p =0,090 Sinh viên năm thứ nhất có tỷ lệ stress mức vừa cao hơn so với sinh viên năm 2, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Bảng 5: Mối liên quan giữa mức độ stress nghề nghiệp và tuổi Stress nhẹ Stress vừa Tổng số Dưới 25 tuổi 33 (68,7%) 15 (31,3%) 48 (100%) 25-35 41 (78,8%) 11 (21,2%) 52 (100%) Trên 35 tuổi 21 (77,8%) 6 (22,2%) 27 (100%) Tổng số 95 32 127 p = 0,47 Nhóm đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi dưới 25 tuổi có tỷ lệ stress mức độ vừa cao nhất, tuy nhiên sự khác biệt giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). BÀN LUẬN Trong 5 nhóm tác nhân gây stress thì nhóm nhân tố liên quan đến thời gian và khối lượng công việc (C) gây ra tỷ lệ stress cao nhất, điều này tương đồng với nghiên cứu của Dragana Milutinovic và cộng sự tiến hành ở Serbia trên 1000 điều dưỡng đang công tác tại khoa ICU thì khối lương công việc (làm quá giờ, làm việc theo ca kíp, thời gian làm việc nghỉ ngơi không phù hợp, và áp lực phải hoàn thành công việc trong 1 thời gian ngắn) là yếu tố gây stress đáng kể, chỉ đi sau yếu tố chứng kiến cái chết của bệnh nhân(3). Nghiên cứu Samar M. Kamal tiến hành ở bệnh viện công tại Taif Arap Saudi trên 148 điều dưỡng cho thấy tác nhân khối lượng công việc là tác nhân thường xuyên gây ra stress cho điều dưỡng(4). Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến bệnh nhân và thân nhân người bệnh (A): Trong nhóm này thì nhân tố nhìn thấy sự đau đớn, chịu đựng của người bệnh gây áp lực cao nhất cho điều dưỡng, chiếm 334/508 điểm. Trong nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Mai tiến hành trên 299 sinh viên điều dưỡng tại Đại học Y Hà Nội cũng cho thấy kết quả tương tự việc chứng kiến sự đau đớn chịu đựng của người bệnh là yếu tố gây stress cho người điều dưỡng(6). Vì thế người điều dưỡng cần chuẩn bị tâm lý để sãn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra. Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến mối quan hệ trong công việc (B): Đây là nhóm gây stress thấp nhất trong 5 nhóm yếu tố gây stress. Trong các nhân tố của nhóm gây stress này thì nhân tố thiếu cơ hội để trao đổi cởi mở với lãnh đạo của khoa, bệnh viện là gây stress cao nhất, chiếm 239/508 điểm. Trong thực tế, người điều dưỡng ít có cơ hội gặp gỡ lãnh đạo so với việc gặp gỡ nhân viên cùng trong khoa. Việc bất đồng với các thành viên trong nhóm chăm sóc là thấp điểm nhất (199/508) cho thấy điều dưỡng trong khoa trại có mối quan hệ tốt với nhau trong công tác. Điều dưỡng cần tích cực phát huy việc trao đổi thông tin với nhau nhằm chăm sóc bệnh nhân một cách tốt nhất. Điều này tương đồng với nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Mai tiến hành trên 299 sinh viên điều dưỡng tại Đại học Y Hà Nội (6). Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến thời gian và khối lượng công việc (C): trong nhóm này thì nhân tố quá tải công việc do thiếu điều dưỡng viên là nhân tố gây stress cao nhất, chiếm 334/508 điểm. Theo kế hoạch phát triển nhân lực Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 55 trong hệ thống khám bệnh, chữa bệnh giai đoạn 2015– 2020(2) cho thấy nhu cầu về điều dưỡng cần bổ sung nhiều trong những năm sắp tới để đáp ứng nhu cầu chăm sóc của nhân dân. Việc điều dưỡng hiện nay bị quá tải công việc do thiếu điều dưỡng viên là điều không tránh khỏi. Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến điều trị và chăm sóc (D): trong nhóm này thì nhân tố cảm giác bất lực khi thấy tình trạng của người bệnh không được cải thiện là nhân tố gây stress nhiều nhất chiếm 270/508 điểm. Điều này tương đồng với nghiên cứu của Dragana Milutinovic và cộng sự tiến hành ở Serbia trên 1000 điều dưỡng đang công tác tại khoa ICU thì việc phải chứng kiến cái chết và sự chịu đựng đau đớn của người bệnh là yếu tố gây stress nhất cho điều dưỡng(3). Nhóm tác nhân gây stress khác (E) thì nhân tố môi trường làm việc: Ồn ào, dễ tiếp xúc với mầm bệnh, dễ gây thương tích tạo áp lực nhiều nhất cho điều dưỡng, chiếm 328/508 điểm. Điều này cũng có thể được giải thích do tình trạng quá tải của các cơ sở y tế và đặc thù của công việc điều dưỡng là phải tiếp xúc với nhiều bệnh nhân và nguy cơ bị phơi nhiễm trong quá trình chăm sóc bệnh nhân. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trong 5 nhóm tác nhân gây stress thì nhóm nhân tố liên quan đến thời gian và khối lượng công việc (nhóm C) gây ra tỷ lệ stress cao nhất. Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến mối quan hệ trong công việc (nhóm B) có tỷ lệ stress thấp nhất. Cần tăng cường cỡ mẫu để tìm ra được các mối liên quan giữa các yếu tố gây stress và các yếu tố nhân khẩu học. Nhận thức các yếu tố gây stress cao giúp Điều dưỡng loại bỏ stress trong công việc nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác chăm sóc bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo động stress ở điều dưỡng, truy cập ngày 23/03/2016. 2. Cục Quản lý khám chữa bệnh. Quyết định số 2992/QĐ-BYT ngày 17/07/2015 của Bộ Y tế về phê duyệt kế hoạch phát triển nhân lực trong hệ thống khám bệnh chữa bệnh giai đoạn 2015 – 2020, truy cập ngày 24/03/2016. 3. Milutinovic, Arh Hig Rada Toksikol (2012). Professional stress and health in ICU nurses in Serbia. The Journal of Institute for Medical Research and Occupational Health, 63(2):171. 4. Samar M Kamal (2012). The effect of nurses’Percieved Job related stressor on job satisfaction in Taif government hospitals in Kingdom of Saudi Arabia. Journal of Ameriacan Science, 2012; 8(3): 119-125. (ISSN: 1545 – 1003). 5. Stress nghề nghiệp - Mối đe dọa nguy hiểm của thế kỷ XXI, truy cập ngày 04/03/2016. 6. Trần Thị Ngọc Mai (2014). Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây. Tạp chí y học thực hành, 4: tr. 110-115. Ngày nhận bài báo: 7/7/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/8/2016 Ngày bài báo được đăng: 05/10/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_thuc_trang_stress_nghe_nghiep_cua_sinh_vien_dieu_du.pdf
Tài liệu liên quan