Tài liệu Khảo sát sức nghe ở người bình thường trên 40 tuổi tại khoa tai mũi họng Bệnh viện Trưng Vương từ tháng 6/2016 đến tháng 6/2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 145
KHẢO SÁT SỨC NGHE Ở NGƯỜI BÌNH THƯỜNG TRÊN 40 TUỔI
TẠI KHOA TAI MŨI HỌNG BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG
TỪ THÁNG 6/2016 ĐẾN THÁNG 6/2017
Trần Thị Kim Ngân*, Phạm Ngọc Chất**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lão thính là điều tất yếu của tuổi già và ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống không
chỉ cho cá nhân mà còn cho cả xã hội.
Mục tiêu: Khảo sát sức nghe ở người bình thường trên 40 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả cắt ngang.
Kết quả: Trong tổng số 229 đối tượng, bao gồm 315 tai, có tuổi trung bình là 55,81 ± 11,504, nghe kém
chiếm tỉ lệ 89,52%, chủ yếu là giảm nghe tần số cao (94,6%). Nghe kém dạng tiếp nhận chiếm đa số (86,03%) và
lão thính dạng chuyển hóa chiếm tỉ lệ cao nhất (38,82%).
Kết luận: Tuổi càng cao thì sức nghe càng giảm và nghe kém cũng nặng hơn ở các tần số cao. Ở tần số thấp,
sức nghe nam và nữ tương đương nhau. Ở tần số cao, nam nghe kém hơn ...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 173 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sức nghe ở người bình thường trên 40 tuổi tại khoa tai mũi họng Bệnh viện Trưng Vương từ tháng 6/2016 đến tháng 6/2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 145
KHẢO SÁT SỨC NGHE Ở NGƯỜI BÌNH THƯỜNG TRÊN 40 TUỔI
TẠI KHOA TAI MŨI HỌNG BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG
TỪ THÁNG 6/2016 ĐẾN THÁNG 6/2017
Trần Thị Kim Ngân*, Phạm Ngọc Chất**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lão thính là điều tất yếu của tuổi già và ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống không
chỉ cho cá nhân mà còn cho cả xã hội.
Mục tiêu: Khảo sát sức nghe ở người bình thường trên 40 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả cắt ngang.
Kết quả: Trong tổng số 229 đối tượng, bao gồm 315 tai, có tuổi trung bình là 55,81 ± 11,504, nghe kém
chiếm tỉ lệ 89,52%, chủ yếu là giảm nghe tần số cao (94,6%). Nghe kém dạng tiếp nhận chiếm đa số (86,03%) và
lão thính dạng chuyển hóa chiếm tỉ lệ cao nhất (38,82%).
Kết luận: Tuổi càng cao thì sức nghe càng giảm và nghe kém cũng nặng hơn ở các tần số cao. Ở tần số thấp,
sức nghe nam và nữ tương đương nhau. Ở tần số cao, nam nghe kém hơn nữ.
Từ khóa: lão thính, suy giảm sức nghe do tuổi tác
ABSTRACT
SURVEY AUDITION ON HEALTHY PEOPLE OVER 40 YEARS OLD AT ENT DEPARTMENT, TRƯNG
VƯƠNG HOSPITAL FROM JUNE 2016 TO JUNE 2017
Tran Thi Kim Ngan, Pham Ngoc Chat
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 145 - 152
Introduction: Presbycusis is one of the most common conditions affecting the aging population and has a
wide potential impact not only on the individual but on society as a whole.
Objectives: Survey audition on healthy people over 40 years old.
Methods: a prospective cross – sectional study.
Results: Study research 229 people, includes 315 ears, average age is 55.81 ± 11.504. We found 89.52% of
people having hearing loss conditions, mainly high frequency hearing loss (94.6%). Sensorineural hearing loss
majority with 86.03% and metabolic presbycusis is mostly respectively at 38.82%.
Conclusions: The prevalence of age-related hearing loss increases with age and high frequency. At low
frequency, the males hearing as the same the females. At high frequency, males hearing worse than females.
Keywords: presbycusis, Age-related hearing loss
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghe kém do tuổi là một hiện tượng lão
thính sinh lý không ai tránh khỏi. Cũng như các
bộ phận khác, nặng hay nhẹ, sớm hay muộn
thay đổi tùy người. Trong những năm đầu của
tiến trình lão hóa, nghe kém sẽ tiến triển âm
thầm, các dấu hiệu sớm có thể chỉ xuất hiện trên
các test kiểm tra thính học lâm sàng nhưng chưa
gây phiền hà, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống. Theo nghiên cứu của một số tác giả: các
dấu hiệu ban đầu của tình trạng lão thính có thể
* Học viên cao học khóa 2015-2017, ĐHYD TP. HCM, ** Bộ môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: PGS TS Phạm Ngọc Chất, ĐT: 0913633132. Email: bschattmh@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 146
xuất hiện sớm vào năm 40 tuổi và gây phiền hà,
khó chịu từ tuổi 50 trở đi(1,2,3,4). Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu với mục đích khảo sát đặc
điểm lão thính ở giai đoạn sớm, ảnh hưởng của
lão thính trong sinh hoạt bình thường và đưa ra
các số liệu thống kê cập nhật về tình trạng thính
lực ở người trên 40 tuổi - lứa tuổi với sự bắt đầu
biểu hiện tình trạng lão hóa.
Mục tiêu chính
Khảo sát sức nghe ở người bình thường trên
40 tuổi.
Mục tiêu chuyên biệt
Khảo sát đặc điểm chung của lão thính.
Đánh giá sự thay đổi sức nghe ở người trên
40 tuổi.
Ảnh hưởng của lão thính trong sinh hoạt ở
người bình thường trên 40 tuổi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên đối tượng người
bình thường từ 40 tuổi trở lên. Người bình
thường trong nghiên cứu này là người không
có các bệnh lý tai kèm theo và không có các dị
tật bẩm sinh về tai; được đánh giá qua thăm
khám tai mũi họng và kết quả nhĩ lượng đồ.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Đối tượng từ 40 tuổi trở lên, đến khoa Tai
Mũi Họng bệnh viện Trưng Vương.
Không có bệnh lý về tai.
Khám tai mũi họng có màng nhĩ còn nguyên
vẹn, ống tai sạch, không có nút tai.
Có kết quả thính lực đồ, nhĩ lượng đồ, phản
xạ cơ bàn đạp.
Các thông số nhĩ lượng đồ trong giới hạn
bình thường.
Tiêu chuẩn loại trừ
Đối tượng có bệnh lý tai ngoài: dị tật ống tai
ngoài, dị tật vành tai.
Đối tượng có các bất kỳ các bệnh lý tai kèm
theo, tiền sử có bệnh lý tai giữa, chấn thương tai,
nghe kém bẩm sinh hoặc mắc phải trước 40 tuổi.
Điếc nghề nghiệp hoặc tiền sử tiếp xúc với
tiếng ồn.
Có bệnh lý nội khoa kèm theo.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện.
Cỡ mẫu
n = 229 đối tượng, bao gồm 315 tai.
Phương tiện thu thập số liệu
Phiếu thu thập số liệu.
Máy đo nhĩ lượng và phản xạ cơ bàn đạp.
Tên máy: Maico MI34H, version 2.01200.
Tiêu chuẩn: IEC 601-1, IEC 645-5 cấp 2,
theo tiêu chuẩn y tế 92/43/EEC.
Máy đo thính lực.
Máy đo thính lực đơn âm: Diagnostic
Audiometer Model TA155.
Buồng cách âm: Công ty trợ thính
Quang Đức.
Tiến trình thu thập số liệu nghiên cứu
Chúng tôi lấy mẫu từ các đối tượng đến
khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Trưng Vương, với
đặc điểm tuổi trên 40 và không có bệnh lý về tai
ở cả hai bên, thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và không
có các yếu tố trong tiêu chuẩn loại trừ.
Sau khi giải thích và được sự chấp thuận
tham gia nghiên cứu của đối tượng nghiên cứu,
chúng tôi sẽ khám Tai Mũi Họng và nội soi tai để
xác định màng nhĩ nguyên vẹn, không có bệnh
lý về tai, lấy sạch ráy tai hoặc nút tai (nếu có).
Thu thập thông tin của đối tượng nghiên cứu
theo phiếu thu thập số liệu bao gồm: họ tên, tuổi,
các dấu hiệu nghe kém cơ năng.
Tiến hành đo nhĩ lượng, phản xạ cơ bàn đạp
và ghi nhận kết quả. Đối tượng nghiên cứu được
đưa vào mẫu nghiên cứu nếu các thông số của
nhĩ lượng đồ trong giới hạn bình thường.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 147
Tiêu chuẩn bình thường của các thông số trên
nhĩ lượng đồ:
Nhĩ lượng đồ type A.
Áp suất trung bình tai giữa: -50 +50 daPa.
Độ thông thuận: 0,2 1,5 ml.
Thể tích ống tai ngoài 0,5 2 ml.
Sau khi xác định kết quả nhĩ lượng đồ trong
giới hạn bình thường, sẽ tiến hành đo thính lực
đồ và ghi nhận kết quả.
Sau khi thu thập đủ số lượng mẫu, tiến hành
nhập số liệu và phân tích số liệu bằng phần mềm
SPSS 16.0.
Biến số cần thu thập
Đặc điểm tổng quát về đối tượng
Tuổi: biến số định lượng, được tính bằng
năm, từ 40 trở lên.
Nhóm tuổi: biến số định tính, phân loại dựa
và tuổi, gồm có 3 nhóm: nhóm 40 – 60 tuổi,
nhóm 61 – 80 tuổi và nhóm trên 80 tuổi.
Giới tính: biến số định tính, có hai giá trị là
nam và nữ.
Triệu chứng khách quan đối tượng cảm nhận
Bao gồm Tiền căn nghe kém, Cảm giác nghe
ở nơi ồn ào, Cảm giác nghe ở nơi yên tĩnh, Cảm
giác nghe nhạc, Cảm giác nghe điện thoại, Ù tai,
Chóng mặt.
Màng nhĩ
Biến số định tính, được ghi nhận thông qua
thăm khám, nội soi tai, bao gồm các giá trị: bình
thường, teo mỏng, dày, màng nhĩ có mảng canxi
và màng nhĩ co lõm.
Phản xạ cơ bàn đạp
Phản xạ cơ bàn đạp: biến định tính, gồm
ba giá trị:
Không có phản xạ.
Phản xạ thấp: ≤ 0,5 cm.
Phản xạ cao: > 0,5 cm.
Đặc điểm thính lực đồ
Ngưỡng nghe đường khí tại các tần số 250,
500, 1000, 2000, 4000, 8000Hz: biến số định
lượng, được ghi nhận qua kết quả đo thính lực
đồ đơn âm.
Ngưỡng nghe đường xương tại các tần số
250, 500, 1000, 2000, 4000Hz: biến số định
lượng, được ghi nhận qua kết quả đo thính lực
đồ đơn âm.
Phân độ nghe kém: biến số định tính, bao
gồm các giá trị từ độ 0 6. Phân độ nghe kém
theo tiêu chuẩn đánh giá nghe kém của ASHA(2).
Bảng1. Phân độ nghe kém theo tiêu chuẩn ASHA.
Độ nghe
kém
Ngưỡng nghe
trung bình
Phân độ
Độ 0 -10 15 dB Bình thường
Độ 1 16 25 dB Nghe kém rất nhẹ
Độ 2 26 40 dB Nghe kém nhẹ
Độ 3 41 55 dB Nghe kém trung bình
Độ 4 56 70 dB Nghe kém trung bình - nặng
Độ 5 71 90 dB Nghe kém nặng
Độ 6 > 90 dB Điếc sâu
Với: ngưỡng nghe đơn âm trung bình được
tính bằng trung bình ngưỡng nghe tại 3 tần số
500 Hz, 1000 Hz, 2000 Hz.
Phân loại nghe kém: biến số định tính, bao
gồm ba giá trị: dẫn truyền, tiếp nhận, hỗn hợp.
Nghe kém dẫn truyền.
Đường khí > 20 dB.
Đường xương quanh trục 0 dB.
Khoảng cách khí xương ≤ 60 dB.
Nghe kém tiếp nhận.
Đường khí và đường xương song hành với
khoảng cách ở mỗi tần số < 10 dB.
Không có khoảng cách khí xương.
Nghe kém hỗn hợp.
Ngưỡng dẫn truyền khí và xương hạ thấp
nhưng không song hành hoặc trùng nhau.
Đường khí luôn thấp hơn đường xương.
Phân loại lão thính: Biến số định tính, Dựa
vào sự phân loại của Schuknecht và cộng sự năm
1993(7,8), nghiên cứu của chúng tôi hân loại lão
thính thành 5 loại: dạng tiếp nhận, dạng thần
kinh, dạng chuyển hóa, dạng cơ học và dạng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 148
khác. Các phân loại này sẽ có các hình dạng
thính lực đồ tương ứng là: dạng dốc xuống, dạng
giảm dần, dạng phẳng, dạng đối xứng giảm dần
và hình dạng khác.
Lão thính dạng tiếp nhận
Thính lực đồ có hình dạng dốc xuống ở tần số
cao
Lão thính dạng thần kinh.
Thính lực đồ có hình dạng giảm dần ở tần số
cao
Lão thính dạng chuyển hóa.
Thính lực đồ có hình dạng phẳng
Lão thính dạng cơ học.
Thính lực đồ có hình dạng đối xứng hai bên và
dốc xuống dần
Hình1. Phân loại lão thính.
(Nguồn: Selena E Heman-Ackah, Steven K Juhn(4)).
Giảm nghe theo tần số: biến số định tính, bao
gồm ba giá trị.
Không giảm nghe: Ngưỡng nghe đường khí
ở mọi tần số ≤ 15 dB.
Giảm nghe tần số thấp: thỏa 2 điều kiện.
Ngưỡng nghe đường khí tần số 250 hoặc 500
hoặc 1000 Hz > 15 dB.
Ngưỡng nghe đường khí cả ba tần số 2000,
4000, 8000 ≤ 15 dB.
Giảm nghe tần số cao:Ngưỡng nghe đường
khí tần số 2000 hoặc 4000 hoặc 8000>15 dB.
Xử lý số liệu
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 16.0.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 149
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Tuổi
Mẫu nghiên cứu có tuổi trung bình là 55,81 ±
11,504, tuổi thấp nhất là 40, cao nhất là 92 tuổi.
Để khảo sát các đặc điểm của lão thính ở giai
đoạn sớm, cũng như để thuận tiện hơn trong
việc so sánh các đặc điểm này giữa các giai đoạn,
chúng tôi chọn mẫu nghiên cứu từ 40 tuổi trở
lên. Trong đó nhóm 40 – 60 tuổi chiếm tỉ lệ cao
nhất (56,5%), còn nhóm trên 80 tuổi chỉ chiếm tỉ
lệ rất thấp (2,5%).
Sự thay đổi của lão thính
Sự tương quan giữa nguy cơ giảm nghe và tuổi
Trong nghiên cứu của chúng tôi, giảm nghe
tần số cao chiếm tỉ lệ đa số (94,6%), giảm nghe
tần số thấp chỉ chiếm tỉ lệ rất thấp (1,9%).
Sự thay đổi sức nghe
Phân độ nghe kém: Nghiên cứu của chúng tôi
nghe kém (độ 1 độ 6) chiếm tỉ lệ 89,52%, trong
đó nghe kém mức độ rất nhẹ chiếm tỉ lệ cao nhất
(49,52%), kế đến là mức độ nhẹ (26 – 40 dB), còn
các mức độ từ trung bình đến nặng và sâu chỉ
chiếm tỉ lệ rất thấp.
Bảng 2. Tỉ lệ nghe kém trong các nghiên cứu khác
Tuổi trung bình Tỉ lệ nghe kém
Chúng tôi 55,81 89,52 %
Davis A.C 1989
(2)
75,5 60 %
Gates 1990
(3)
73 41 %
Cruickshanks 1998 65,8 45,9 %
Bảng 3. Ngưỡng nghe đường khí ở từng tần số theo nhóm tuổi.
Nhóm tuổi
Ngưỡng nghe đường khí (dB)
250 Hz 500 Hz 1000 Hz 2000 Hz 4000 Hz 8000 Hz
40 - 50 tuổi 20 20,9 21,75 22,3 25,55 28,21
51 - 60 tuổi 25,83 26,86 25,96 28,97 33,65 47,3
61 - 70 tuổi 31,25 31,25 30,96 33,65 42,31 59,22
71 - 80 tuổi 39,58 43,96 41,25 51,04 66,88 89,17
> 80 tuổi 58,75 56,25 58,75 70,62 68,75 92,14
Bảng 4. Ngưỡng nghe đường xương ở từng tần số theo nhóm tuổi.
Nhóm tuổi Ngưỡng nghe đường xương (dB)
250 Hz 500 Hz 1000 Hz 2000 Hz 4000 Hz
40 - 50 tuổi 13,82 16,3 17,6 18,05 19,15
51 - 60 tuổi 20,48 21,15 21,28 24,49 26,79
61 - 70 tuổi 25,41 25,54 27,6 29,23 36,54
71 - 80 tuổi 38,33 40,62 39,58 47,08 62,71
> 80 tuổi 74 55 58,75 68,12 66,88
Sự thay đổi sức nghe theo giới tính
Ở tần số thấp, ngưỡng nghe trung bình
đường khí ở mức độ nhẹ (khoảng từ 25,84 đến
30,04) và không có sự khác biệt sức nghe giữa
nam và nữ. Nhưng ở tần số cao (4000 Hz và
8000 Hz) thì sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê, ngưỡng nghe trung bình âm đơn đường
khí ở mức độ trung bình (khoảng từ 44,33 đến
50,95) và nam nghe kém hơn nữ ở cả về đường
khí lẫn đường xương. Riêng ở tần số 4000 Hz,
sức nghe của nam kém hơn nữ ở mọi nhóm
tuổi và ở cả hai tai (Kiểm định Mann –
Whitney, p < 0,05) (Biểu đồ 1). Sự khác biệt
này có thể giải thích do nam giới thường tiếp
xúc với tiếng ồn ở nơi làm việc và giải trí
nhiều hơn nữ giới.
So sánh sự thay đổi sức nghe giữa hai tai
Khi so sánh giữa hai tai Phải và Trái, chúng
tôi thấy rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa sức nghe hai bên tai.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 150
Biểu đồ 1. Ngưỡng nghe trung bình đường khí theo giới tính.
Sự thay đổi sức nghe theo đặc điểm màng nhĩ
Trong nhóm nghiên cứu, màng nhĩ có hai
dạng: bình thường và teo mỏng, trong đó màng
nhĩ bình thường chiếm đa số với tỉ lệ 95,83%,
dạng teo mỏng chiếm tỉ lệ 4,17% và không có các
dạng khác như: màng nhĩ có mảng canxi, màng
nhĩ dày hay màng nhĩ co lõm. Từ kết quả phân
tích cho thấy màng nhĩ teo mỏng có sức nghe
kém hơn màng nhĩ bình thường. Theo Tonndorf
và Khanna, màng nhĩ phân vùng rung động khi
âm thanh đạt đến tần số 3000 Hz và các vùng
rung động của màng nhĩ sẽ phức tạp hơn khi tần
số cao hơn 3000 Hz. Do đó khi màng nhĩ teo
mỏng thì sẽ ảnh hưởng đến độ rung cũng như
sức nghe. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của
chúng tôi, chỉ ở tần số 8000 Hz, sự khác biệt về
ngưỡng nghe trung bình đường khí ở nhóm có
màng nhĩ teo mỏng với nhóm có màng nhĩ bình
thường mới có ý nghĩa thống kê (p=0,004).
Phân loại dạng nghe kém
Trong các đối tượng có nghe kém thì kiểu
tiếp nhận chiếm tỉ lệ cao hơn kiểu hỗn hợp,
không có trường hợp nào nghe kém dẫn truyền.
Sự phân loại dạng nghe kém này không phụ
thuộc vào nhóm tuổi, giới tính và giữa hai tai.
Phân loại lão thính
Khi khảo sát mối liên hệ giữa phân loại lão
thính và các nhóm tuổi, chúng tôi thấy rằng ở các
nhóm tuổi có đặc điểm phân loại lão thính khác
nhau, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Ở
nhóm tuổi 40 – 60 tuổi và nhóm trên 80 tuổi, lão
thính dạng chuyển hóa chiếm đa số trong khi
nhóm 61 – 80 tuổi, lão thính dạng thần kinh lại
chiếm tỉ lệ cao nhất. Kết quả này phù hợp với
đặc điểm của lão thính dạng chuyển hóa mà
Schuknecht 1993 đã đưa ra: lão thính dạng
chuyển hóa là do sự teo vân mạch dẫn đến nghe
kém biểu hiện bằng đường cong thính lực nằm
ngang do toàn bộ ốc tai bị ảnh hưởng, quá trình
này có khuynh hướng xảy ra ở người 30 – 60
tuổi. Lão thính dạng thần kinh thì thường có
biểu hiện muộn hơn và liên quan chặt chẽ đến
quá trình lão hóa, sự teo các tế bào thần kinh xảy
ra suốt ốc tai, vùng đáy chỉ bị ảnh hưởng trước
hơn một chút so với những phần khác nhau của
ốc tai.
Khảo sát mối liên hệ giữa phân loại lão thính
và giới tính, chúng tôi ghi nhận: phân loại lão
thính có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
nam và nữ. Ở nữ thì lão thính dạng chuyển hóa
chiếm đa số. Ở nam: lão thính dạng thần kinh
chiếm tỉ lệ cao nhất với hình dạng thính lực đồ
giảm dần, giảm nghe ở tần số cao nhiều hơn tần
số thấp. Kết quả này phù hợp với kết quả ở trên
khi mà sức nghe của nam nghe ở các tần số cao
kém hơn nữ.
Khi so sánh giữa hai tai Phải và Trái thì sự
phân loại lão thính không cho sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 151
Tương quan giữa thính lực đồ và phản xạ cơ
bàn đạp
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi,
nhóm có phản xạ cơ bàn đạp ≤ 0,5 cm chiếm tỉ lệ
cao nhất (52,2%). Ở nhóm không có giảm nghe
(ngưỡng nghe ở tất cả các tần số ≤ 15dB) thì có
66,7% không có phản xạ cơ bàn đạp. Mặc dù kết
quả chưa có ý nghĩa về mặt thống kê (Kiểm định
Fisher, p > 0,05) nhưng đã gợi ý cho chúng tôi
đến một giả thuyết: Mất phản xạ cơ bàn đạp có
thể là một dấu hiệu gợi ý sớm tình trạng lão
thính khi mà chưa có biểu hiện nghe kém trên
thính lực đồ. Số lượng mẫu chưa đủ lớn cùng với
sự giới hạn về mặt thời gian, kinh nghiệm và
kiến thức nên chúng tôi chưa nghiên cứu sâu về
sự tương quan này. Đây là tiền đề để chúng tôi
có thể tham gia thực hiện các nghiên cứu chuyên
sâu hơn sau này.
Ảnh hưởng của lão thính trong sinh hoạt
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dù các
đối tượng có hay không có những yếu tố như:
nghi ngờ có nghe kém, cảm giác nghe không
rõ nơi ồn ào, cảm giác nghe không rõ nơi yên
tĩnh, cảm giác không hài lòng khi nghe nhạc
hoặc nghe điện thoại, cảm giác ù tai, chóng
mặt thì giảm nghe tần số cao đều chiếm tỉ lệ
đa số, giảm nghe tần số thấp hay tần số hội
thoại chỉ chiếm một tỉ lệ thấp. Trong đó, có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm có ù tai
và không ù tai, nhóm có ù tai thì 100% có nghe
kém ở tần số cao. Kết quả trên cho thấy rằng
lão thính là một tiến trình tiến triển âm thầm,
khi mà sự suy giảm thính giác đã xuất hiện ở
các tần số cao nhưng con người vẫn có thể
chưa để ý hoặc chưa cảm nhận được.
BÀN LUẬN
Sự thay đổi của lão thính
Sự tương quan giữa nguy cơ giảm nghe và tuổi
Dùng mô hình hồi quy logistic chúng tôi ghi
nhận được kết quả nguy cơ giảm nghe tần số
thấp không phụ thuộc vào tuổi, nhưng sự phụ
thuộc của giảm nghe tần số cao vào tuổi lại có ý
nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của các tác giả Homans N.C và cộng sự(5), tác
giả Joong Ho Ann(6), tác giả Keo Vanna(7). Từ đó,
chúng tôi dự đoán được: Nguy cơ giảm nghe tần
số cao = 0,202 * tuổi – 5,9.
Sự thay đổi sức nghe
Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ nghe kém
cao hơn các tác giả khác vì chúng tôi chọn lựa
cách phân độ nghe kém theo tiêu chuẩn của
ASHA, theo đó PTA trong khoảng từ 16 25dB
đã được phân loại là nghe kém độ 1. Theo cách
phân loại này, với dân số nghiên cứu có độ tuổi
từ 40, chúng tôi có thể ghi nhận được đặc điểm
nghe kém từ rất sớm, và do nhóm tuổi từ 40 – 60
tuổi chiếm đa số nên nghe kém mức độ rất nhẹ
của nghiên cứu chúng tôi chiếm tỉ lệ cao nhất,
trong khi một số nghiên cứu khác nghe kém từ
mức độ trung bình đến nặng chiếm đa số.
Sự thay đổi sức nghe theo nhóm tuổi
Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê
giữa mức độ nghe kém và các nhóm tuổi,
nhóm tuổi càng cao thì tình trạng nghe kém có
khuynh hướng càng nặng.
Khi phân tích chi tiết hơn ở từng tần số,
chúng tôi nhận thấy rằng có sự tương quan có
ý nghĩa thống kê về sự suy giảm sức nghe ở
từng tần số khi nhóm tuổi tăng dần. Trong
cùng một tần số, ngưỡng nghe trung bình khí
đạo và cốt đạo đều tăng dần theo nhóm tuổi,
hay nói cách khác là khi nhóm tuổi càng tăng
thì sức nghe cũng càng giảm dần. Xét theo
cùng một nhóm tuổi thì, khi tần số tăng dần,
ngưỡng nghe trung bình khí đạo và cốt đạo
cũng tăng dần, ở tần số càng cao thì đối tượng
nghiên cứu sẽ càng nghe kém hơn.
Dựa vào kết quả ghi nhận được, chúng tôi
đưa ra bảng tham chiếu gợi ý về ngưỡng nghe
đường khí và đường xương theo từng nhóm
tuổi (Số liệu có ý nghĩa về mặt thống kê với
kiểm định Krusskal Wallis, p < 0,05).
Tuy không giống nhau hoàn toàn với các
nghiên cứu khác về mức độ nghe kém giữa các
nhóm tuổi do mỗi nghiên cứu đều có cách phân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 152
chia nhóm tuổi và phân độ nghe kém theo nhiều
tiêu chuẩn phân loại khác nhau, nhưng kết quả
của nghiên cứu chúng tôi hoàn toàn tương đồng
với các nghiên cứu khác về luận điểm: Tuổi càng
cao thì tình trạng nghe kém có khuynh hướng
càng nặng.
Sự thay đổi sức nghe theo đặc điểm màng nhĩ
Từ kết quả phân tích cho thấy màng nhĩ teo
mỏng có sức nghe kém hơn màng nhĩ bình
thường. Theo Tonndorf và Khanna, màng nhĩ
phân vùng rung động khi âm thanh đạt đến tần
số 3000 Hz và các vùng rung động của màng nhĩ
sẽ phức tạp hơn khi tần số cao hơn 3000 Hz. Do
đó khi màng nhĩ teo mỏng thì sẽ ảnh hưởng đến
độ rung cũng như sức nghe. Tuy nhiên, trong
nghiên cứu của chúng tôi, chỉ ở tần số 8000 Hz,
sự khác biệt về ngưỡng nghe trung bình đường
khí ở nhóm có màng nhĩ teo mỏng với nhóm có
màng nhĩ bình thường mới có ý nghĩa thống kê
(p=0,004).
Tương quan giữa thính lực đồ và phản xạ cơ
bàn đạp
Mặc dù kết quả chưa có ý nghĩa về mặt
thống kê (Kiểm định Fisher, p > 0,05) nhưng đã
gợi ý cho chúng tôi đến một giả thuyết: Mất
phản xạ cơ bàn đạp có thể là một dấu hiệu gợi ý
sớm tình trạng lão thính khi mà chưa có biểu
hiện nghe kém trên thính lực đồ. Số lượng mẫu
chưa đủ lớn cùng với sự giới hạn về mặt thời
gian, kinh nghiệm và kiến thức nên chúng tôi
chưa nghiên cứu sâu về sự tương quan này. Đây
là tiền đề để chúng tôi có thể tham gia thực hiện
các nghiên cứu chuyên sâu hơn sau này.
Ảnh hưởng của lão thính trong sinh hoạt
Kết quả trên cho thấy rằng lão thính là một
tiến trình tiến triển âm thầm, khi mà sự suy
giảm thính giác đã xuất hiện ở các tần số cao
nhưng con người vẫn có thể chưa để ý hoặc
chưa cảm nhận được.
KẾT LUẬN
Tuổi càng cao thì sức nghe càng giảm và
nghe kém cũng nặng hơn ở các tần số cao. Ở tần
số thấp, sức nghe nam và nữ tương đương nhau.
Ở tần số cao, nam nghe kém hơn nữ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Clark JG (1981). Uses and abuses of hearing loss classification.
ASLA, 23(7): 493–500.
2. Davis AC (1989). The prevalence of hearing impairment and
reported hearing disability among adults in Great Britain. Int J
Epidemiol, 18(4):911-7.
3. Gates GA, Cooper JC, Kannel WB, Miller NJ (1990). Hearing
in the elderly: the Framingham cohort. Basic audiometric test
results. Ear Hear, 11(4):247-56.
4. Heman-Ackah SE, Juhn SK (2015). Presbycusis. Sataloff’s
Comprehensive Textbook of Otolaryngology: Head & Neck
Surgery(Otology/Neurotology/Skull Base Surgery). Jaypee
Brothers Medical Pub.
5. Homans NC, Metselaar RM, Dingemanse JG, van der Schroeff
MP, Brocaar MP, Wieringa MH, et al (2017). Prevalence of
age-related hearing loss, including sex differences, in older
adults in a large cohort study. Laryngoscope, 127(3): 725-30.
6. Joong HA, Song JJ, Park MK, Lee JH, Chae SW (2010). Age
Related Hearing Loss in Korea: A Healthcare Center-based
Study. J Korean Geriatr Soc, 14(4):258-62.
7. Keo V (2011). Khảo sát lão thính ở người trên 50 tuổi có nghe
kém. Luận án thạc sĩ y học, ĐHYD Hồ Chí Minh.
8. Schucknecht HF (1955). Presbycusis. Laryngoscope, 65(5): 402-
19.
Ngày nhận bài báo: 11/09/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_suc_nghe_o_nguoi_binh_thuong_tren_40_tuoi_tai_khoa.pdf