Tài liệu Khảo sát sự tương quan giữa nồng độ trab với độ nặng và độ hoạt tính của bệnh nhãn giáp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 204
KHẢO SÁT SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ TRAB
VỚI ĐỘ NẶNG VÀ ĐỘ HOẠT TÍNH CỦA BỆNH NHÃN GIÁP
Đào Hùng Thịnh*, Lê Minh Thông**,****, Đặng Xuân Mai***, Nguyễn Thanh Nam***,
Đoàn Kim Thành****, Nguyễn Ngọc Anh****
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và phân độ bệnh nhân bệnh nhãn giáp; phân tích mối tương
quan giữa nồng độ kháng thể kháng thụ thể TSH (TSH receptor antibody: TRAb) với độ nặng và độ hoạt tính của
bệnh; đánh giá giá trị tiên đoán giai đoạn hoạt tính bệnh nhãn giáp của nồng độ TRAb.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, thu thập dữ liệu tiến cứu với 68 bệnh nhân bệnh nhãn
giáp đến khám tại bệnh viện Mắt TP.Hồ Chí Minh từ tháng 11/2015 đến tháng 4/2017.Các yếu tố khảo sát gồm
đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và phân độ bệnh nhãn giáp theo hội nhãn giáp châu Âu (EUGOGO). Nồng độ TRAb
được định lượ...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự tương quan giữa nồng độ trab với độ nặng và độ hoạt tính của bệnh nhãn giáp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 204
KHẢO SÁT SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ TRAB
VỚI ĐỘ NẶNG VÀ ĐỘ HOẠT TÍNH CỦA BỆNH NHÃN GIÁP
Đào Hùng Thịnh*, Lê Minh Thông**,****, Đặng Xuân Mai***, Nguyễn Thanh Nam***,
Đoàn Kim Thành****, Nguyễn Ngọc Anh****
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và phân độ bệnh nhân bệnh nhãn giáp; phân tích mối tương
quan giữa nồng độ kháng thể kháng thụ thể TSH (TSH receptor antibody: TRAb) với độ nặng và độ hoạt tính của
bệnh; đánh giá giá trị tiên đoán giai đoạn hoạt tính bệnh nhãn giáp của nồng độ TRAb.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, thu thập dữ liệu tiến cứu với 68 bệnh nhân bệnh nhãn
giáp đến khám tại bệnh viện Mắt TP.Hồ Chí Minh từ tháng 11/2015 đến tháng 4/2017.Các yếu tố khảo sát gồm
đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và phân độ bệnh nhãn giáp theo hội nhãn giáp châu Âu (EUGOGO). Nồng độ TRAb
được định lượng bằng phương pháp ức chế gắn TSH (thyrotropin-binding inhibitor immunoglobulin: TBII) thế
hệ 3. Mối tương quan giữa các yếu tố được xác định qua tương quan Spearman. Giá trị tiên đoán giai đoạn hoạt
tính bệnh nhãn giáp của nồng độ TRAb được thể hiện qua đường cong ROC.
Kết quả: Tuổi trung bình là 45,25 ± 12,73. Nữ giới chiếm 47,06%. Thời gian xuất hiện triệu chứng bệnh
nhãn giáp có giá trị trung vị là 5 tháng. Tỷ lệ cường giáp chiếm 44,12%. Độ lồi mắt trung bình là 19,47 ± 2,67
mm. Điểm độ hoạt tính lâm sàng (CAS) có giá trị trung bình là 2,10 ± 1,71. Tỷ lệ hoạt tính (CAS ≥ 3) là 30,88%.
Tỷ lệ bệnh nhãn giáp mức độ nhẹ là 38,24%, mức độ trung bình – nặng là 54,41%, mức độ đe dọa thị lực là
7,35%. Nồng độ TRAb ở nhóm bệnh nhân bệnh nhãn giáp mức độ nhẹ, trung bình – nặng và đe dọa thị lực do
chèn ép thần kinh thị có giá trị trung vị lần lượt là 1,16 IU/L, 6,42 IU/L và 11,22 IU/L (p < 0,001). Nồng độ
TRAb ở nhóm bệnh nhân bệnh nhãn giáp bất hoạt có giá trị trung vị là 1,47 IU/L; còn nồng độ TRAb ở nhóm
bệnh nhân bệnh nhãn giáp hoạt tính có giá trị trung vị là 11,22 IU/L (p < 0,001). Đường cong ROC với điểm cắt
tại giá trị nồng độ TRAb ≥ 7,57 IU/L giúp phân biệt giữa giai đoạn hoạt tính và bất hoạt của bệnh nhãn giáp với
độ đặc hiệu là 89,36%, độ nhạy là 66,67%, diện tích dưới đường cong (AUC) = 0,843.
Kết luận: Nồng độ TRAb có mối tương quan thuận với độ nặng và độ hoạt tính của bệnh nhãn giáp, và có
giá trị tiên đoán mạnh nhằm cung cấp thông tin quan trọng để chẩn đoán giai đoạn hoạt tính của bệnh.
Từ khóa: TRAb, bệnh nhãn giáp, độ nặng, độ hoạt tính
ABSTRACT
ASSOCIATION OF TSH RECEPTOR ANTIBODY WITH SEVERITY AND ACTIVITY OF GRAVES’
ORBITOPATHY
Dao Hung Thinh, Le Minh Thong, Dang Xuan Mai, Nguyen Thanh Nam, Doan Kim Thanh,
Nguyen Ngoc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 204 - 211
Aims: To investigate clinical manifestations of patients with Graves’ orbitopathy (GO) in assessing an
association of serum TSH receptor antibody (TRAb) levels with GO severity/activity, and evaluate if TRAb levels
are predictive of grade of GO activity in differential diagnosis between active and inactive phase of GO.
Methods: This was a cross-sectional study. Medical records of 68 patients diagnosed with GO at Ho Chi
* Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Bộ môn Mắt trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh – Hội nhãn khoa Việt Nam
***Bệnh viện Mắt TP Hồ Chí Minh ****Bộ môn Mắt trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. Đào Hùng Thịnh ĐT: 0903014290 Email: daohungthinh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 205
Minh City Eye Hospital between November 2015 and April 2017 were prospectively collected. Bartley criteria
were used for the diagnosis of GO, and exophthalmos criteria in study was adjusted appropriately with
Vietnamese normal limit. GO activity was assessed by clinical activity score (CAS) and GO severity was graded
with consensus statement of the European Group on Graves’ orbitopathy (EUGOGO). All assessing of 68
patients was performed by a single observer. Serum TRAb levels were measured by third-generation thyrotropin-
binding inhibitor immunoglobulin assay (TBII 3rd). The measurements of TRAb were used for analyzing an
association with grade of GO severity/activity.
Results: Mean age of 68 patients was 45.25 ± 12.73 years, and 32 (47.06%) patients were women. Median
duration of GO was 5 months. 30 patients (44.12%) were diagnosed with hyperthyroidism. Mean proptosis was
19.47 ± 2.67 mm. Mean CAS was 2.10±1.71, and 21 patients (30.88%) were diagnosed with active phase of GO
(CAS ≥ 3). Via EUGOGO recommendations, 26 patients (38.24%) were classified as mild GO, 37 patients
(54.41%) were determined as moderate-to-severe GO, and 5 patients (7.35%) were grouped as sight-threatening
GO (all 5 patients were diagnosed with Dysthyroid optic neuropathy-DON). Median TRAb level of mild GO,
moderate-to-severe GO and DON were 1.16 IU/L, 6.42 IU/L and 11.22 IU/L respectively (p < 0.001). Median
TRAb level of inactive GO was 1.47 IU/L, and median TRAb level of active GO was 11.22 IU/L (p < 0.001). The
cutoff value for the prediction of GO active phase of TRAb was 7.57 IU/L with specificity of 89.36%, sensitivity of
66.67%, and area under the curve (AUC) = 0.843 (95% confidence interval (CI) = 0.742 – 0.944).
Conclusions: TRAb level was significantly associated with GO severity/activity. The predictive power of
TRAb is relatively strong to establish important information on diagnosing GO active phase.
Keywords: TSH receptor antibody, Graves’ orbitopathy, severity, activity
MỞ ĐẦU
Bệnh Graves là một bệnh lý tự miễn hệ
thống, trong đó tự kháng thể chuyên biệt đối với
thụ thể TSH đã kích thích tế bào nang tuyến giáp
sản sinh quá mức các hóc-môn giáp, gây ra tình
trạng cường giáp bệnh lý(12). Vì thế, một xét
nghiệm với độ đặc hiệu và độ nhạy cao để phát
hiện kháng thể kháng thụ thể TSH (TSH receptor
antibody: TRAb) là một công cụ hữu dụng trong
chẩn đoán, theo dõi, tiên lượng bùng phát và
định hướng điều trị bệnh Graves(15). Liên quan
mật thiết với bệnh Graves chính là bệnh nhãn
giáp, là một tình trạng viêm và tăng sinh mô
trong hốc mắt và quanh nhãn cầu(18). Nếu ở bệnh
cường giáp Graves, tế bào đích chính là các tế
bào nang tuyến giáp; thì ở bệnh nhãn giáp, tế
bào đích chính là các nguyên bào sợi hốc mắt
(orbital fibroblast)(1). Mà thụ thể TSH được cho là
tự kháng nguyên chung của cả 2 bệnh lý tự miễn
này(9). Việc thụ thể TSH được nhận diện là kháng
nguyên lạ đã dẫn đến cơ thể sản xuất ra các tự
kháng thể kháng giáp hay kháng thể kháng thụ
thể TSH, gọi tắt là TRAb(16). Hiện nay, có hai
phương pháp xác định nồng độ TRAb: phương
pháp ức chế cạnh tranh gắn TSH (Thyrotropin
binding inhibitor immunoglobulin: TBII), và
phương pháp kích thích chức năng tuyến giáp
(Thyroid-stimulating immunoglobulin: TSI).
Phương pháp TSI đo nồng độ cAMP được tạo ra
sau khi tự kháng thể kích thích tuyến giáp
(Thyroid-stimulating antibody: TSAb) gắn với
thụ thể TSH(9). Tuy nhiên, phương pháp này khá
phức tạp, thời gian xét nghiệm lâu và chi phí cao
nên chưa được áp dụng tại nước ta. Trải qua thế
hệ thứ nhất, thứ hai, và hiện tại là thế hệ thứ ba,
phương pháp TBII đã được hiệu chỉnh cả về tế
bào thụ thể TSH được sử dụng làm tự kháng
nguyên trong mẫu thử và về phương thức mới
để nhận diện tự kháng thể trong huyết thanh
bệnh nhân(9). Từ đó, độ chính xác trong chẩn
đoán đã được cải thiện(13,21). Trong nước, cũng có
nhiều nghiên cứu về các mảng khác nhau của
bệnh nhãn giáp. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu
nào đánh giá bệnh nhãn giáp đầy đủ cả về độ
nặng và độ hoạt tính theo tiêu chuẩn của hội
nhãn giáp châu Âu (EUGOGO); cũng như chưa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 206
thực hiện phân tích mối tương quan giữa nồng
độ TRAb với đặc điểm lâm sàng bệnh nhãn giáp.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và phân độ
bệnh nhãn giáp theo hội nhãn giáp châu Âu
(EUGOGO).
Phân tích mối tương quan giữa nồng độ
TRAb với độ nặng và độ hoạt tính của bệnh
nhãn giáp.
Phân tích giá trị tiên đoán giai đoạn hoạt tính
bệnh nhãn giáp của nồng độ TRAb.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, mô tả có phân tích,
thu thập dữ liệu tiến cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số chọn mẫu
Những bệnh nhân đến khám tại bệnh viện
Mắt TP Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng
01/11/2015 đến 30/4/2017 được chẩn đoán bệnh
nhãn giáp và được đo nồng độ TRAb.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân bệnh nhãn giáp được chẩn đoán
theo tiêu chuẩn của Bartley khi thỏa một trong
hai điều kiện sau(1):
Co trợn mi kèm theo một trong bốn triệu
chứng: rối loạn chức năng tuyến giáp, lồi mắt,
tổn thương thần kinh thị, tổn thương cơ ngoại
nhãn (trên lâm sàng hoặc hình ảnh học).
Hoặc Rối loạn chức năng tuyến giáp kèm
theo một trong ba triệu chứng: lồi mắt, tổn
thương thần kinh thị, tổn thương cơ ngoại nhãn
(trên lâm sàng hoặc hình ảnh học).
Với:
Co trợn mi: bờ mi trên nằm ngang hoặc trên
rìa giác mạc cực trên.
Rối loạn chức năng tuyến giáp: trên lâm sàng
hoặc cận lâm sàng.
Lồi mắt: theo tiêu chuẩn của tác giả Ngô
Như Hòa, độ lồi mắt trung bình ở người Việt
Nam là 12 ±1,75 mm, 95% mắt bình thường có
độ lồi từ 9 – 16 mm, nam và nữ khác nhau
không có ý nghĩa(19). Tiêu chuẩn lồi mắt cho
nghiên cứu này được chọn ở mức độ lồi ≥ 17
mm đo bằng thước Hertel hoặc chênh lệch
giữa hai mắt trên 2 mm.
Tổn thương cơ ngoại nhãn: có song thị,
giới hạn vận nhãn hoặc phì đại cơ trên CT
scan hoặc MRI.
Phương pháp nghiên cứu:
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho kiểm
định mối tương quan, 68 bệnh nhân được chẩn
đoán bệnh nhãn giáp thỏa theo tiêu chuẩn chọn
mẫu và được đo nồng độ TRAb huyết thanh đã
được thu thập vào mẫu nghiên cứu.
Phương tiện nghiên cứu:
Sinh hiển vi, kính volk 90D, thước đo độ
lồi Hertel, thước đo vạch (mm), máy Cobas E -
trung tâm y khoa Hòa Hảo (định lượng nồng
độ TRAb).
Qui trình nghiên cứu:
Bệnh nhân đến khám tại BV Mắt TP Hồ Chí
Minh được chẩn đoán bệnh nhãn giáp, đánh giá
độ nặng/độ hoạt tính và làm xét nghiệm định
lượng nồng độ TRAb huyết thanh.
Thống kê phân tích số liệu
Dữ liệu được thu thập và đưa vào thống kê
phân tích bằng phần mềm Stata 12.0.
Sự khác biệt của nồng độ TRAb giữa các
phân nhóm liên quan đến độ nặng/độ hoạt tính
của bệnh nhãn giáp được xác định qua phép
kiểm Kruskal – Wallis và phép kiểm Mann –
Whitney U.
Mối tương quan giữa nồng độ TRAb và CAS
(độ hoạt tính lâm sàng) được xác định bằng
tương quan Spearman.
Giá trị tiên đoán giai đoạn hoạt tính bệnh
nhãn giáp của nồng độ TRAb được thể hiện qua
mô hình đường cong ROC, với tiêu chuẩn vàng
là CAS ≥ 3 được xem là hoạt tính.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 207
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 68 bệnh nhân. Tuổi
trung bình là 45,25 ± 12,73 (năm). Tỷ lệ nữ là
47,06%. Tỷ lệ bệnh nhân cường giáp trong mẫu
nghiên cứu là 44,12% và đa phần đã được điều
trị nội tiết bằng thuốc kháng giáp (84,48%). Thời
gian xuất hiện triệu chứng bệnh nhãn giáp có giá
trị trung vị là 5,5 (tháng). Các đặc điểm nền của
68 bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu được trình
bày ở Bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm nền của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu
Đặc điểm nền n=68
Tuổi (năm: trung bình, nhỏ nhất – lớn
nhất)
45,25 ± 12,73
(20,00 – 70,00)
Giới
nữ 32 (47,06%),
nam 36 (52,94%)
Hút thuốc lá 19/68 (27,94%)
Tiền sử gia đình có bệnh lý tuyến giáp 13/68 (19,12%)
Tiền sử bệnh Graves 58/68 (85,29%)
Thời gian xuất hiện bệnh Graves
(tháng: trung vị, nhỏ nhất – lớn nhất)
10,00
(2,00 – 120,00)
Tiền sử điều
trị bệnh
Graves
Thuốc kháng giáp 49/58 (84,48%)
Phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp 6/58 (10,35%)
Không điều trị 3/58 (5,17%)
Chức năng
tuyến giáp
hiện tại
Cường giáp 30/68 (44,12%)
Bình giáp 37/68 (54,41%)
Nhược giáp 1/68 (1,47%)
Thời gian xuất hiện bệnh nhãn giáp
(tháng: trung vị, nhỏ nhất – lớn nhất)
5,50
(1,00 – 48,00)
Khảo sát độ nặng và độ hoạt tính bệnh nhãn
giáp
Độ hoạt tính được xác định qua điểm độ
hoạt tính lâm sàng (CAS). Bảy triệu chứng để
đánh giá CAS được trình bày ở Bảng 2. Giá trị
trung bình CAS trong mẫu nghiên cứu là 2,10 ±
1,71. Có 21 bệnh nhân với CAS ≥ 3 (30,88%) được
xác định là bệnh nhãn giáp giai đoạn hoạt tính.
Bảng 2: Đặc điểm khảo sát độ hoạt tính của bệnh
nhân trong mẫu nghiên cứu
Đặc điểm khảo sát độ hoạt tính n=68
Đau tức hốc mắt 45/68 (66,18%)
Đau tức hốc mắt khi liếc 35/68 (51,47%)
Phù mi 19/68 (27,94%)
Đỏ mi 12/68 (17,65%)
Phù kết mạc 10/68 (14,71%)
Đặc điểm khảo sát độ hoạt tính n=68
Cương tụ kết mạc 18/68 (26,47%)
Viêm cục lệ và/hoặc nếp bán nguyệt 2/68 (2,94%)
Điểm độ hoạt tính lâm sàng (CAS)
(trung bình, nhỏ nhất – lớn nhất)
2,10 ± 1,71
(0 – 7)
Hoạt tính (CAS ≥ 3) 21/68 (30,88%)
Bất hoạt (CAS < 3) 47/68 (69,12%)
Độ nặng được đánh giá dựa theo khuyến cáo
của EUGOGO, và các đặc điểm khảo sát độ nặng
bệnh nhãn giáp được trình bày trong Bảng 3.
Mẫu nghiên cứu có 26 bệnh nhân mức độ nhẹ
(38,24%), 37 bệnh nhân mức độ trung bình –
nặng (54,41%), và 5 bệnh nhân mức độ đe dọa
thị lực do chèn ép thần kinh thị (7,35%).
Bảng 3: Đặc điểm khảo sát độ nặng của bệnh nhân
trong mẫu nghiên cứu
Đặc điểm khảo sát độ nặng n=68
Độ lồi mắt
(mm: trung bình, nhỏ nhất – lớn nhất)
19,47 ± 2,67
(15 – 27)
Lồi mắt trung bình – nặng (≥ 20mm) 26/68 (38,24%)
Viêm mô mềm trung bình – nặng 25/68 (36,76%)
Song thị khi liếc – hằng định 14/68 (20,59%)
Co trợn mi trung bình – nặng (≥ 2mm) 27/68 (39,71%)
Ảnh hưởng
giác mạc
Giác mạc trong 42/68 (61,76%)
Viêm biểu mô chấm nông 26/68 (38,24%)
Loét – thủng giác mạc 0/68 (0%)
Chèn ép thần kinh thị 5/68 (7,35%)
Độ nặng
(phân độ
EUGOGO)
Mức độ nhẹ 26/68 (38,24%)
Mức độ trung bình – nặng 37/68 (54,41%)
Mức độ đe dọa thị lực 5/68 (7,35%)
Nồng độ TRAb có mối tương quan với độ
nặng/độ hoạt tính bệnh nhãn giáp
Nồng độ TRAb được đo bằng phương pháp
TBII thế hệ 3 trong mẫu nghiên cứu có giá trị
trung vị là 5,19 (IU/L). Sự liên quan giữa nồng độ
TRAb với độ nặng/độ hoạt tính của bệnh nhãn
giáp được biểu hiện qua Biểu đồ 1 và 2. Ở nhóm
bệnh nhân bệnh nhãn giáp mức độ nhẹ, trung
bình – nặng và đe dọa thị lực do chèn ép thần
kinh thị, nồng độ TRAb có giá trị trung vị lần
lượt là 1,16 IU/L, 6,42 IU/L và 11,22 IU/L (p <
0,001a). Ở nhóm bệnh nhân bất hoạt, nồng độ
TRAb có giá trị trung vị là 1,47 IU/L; còn ở nhóm
hoạt tính là 11,22 IU/L (p < 0,001b). Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê được xác định qua phép
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 208
kiểm Kruskal – Wallis (a) và phép kiểm Mann –
Whitney U (b).
Biểu đồ 1: Nồng độ TRAb giữa các phân nhóm độ
nặng
Biểu đồ 2: Nồng độ TRAb giữa các phân nhóm độ
hoạt tính
Giá trị tiên đoán giai đoạn hoạt tính bệnh nhãn
giáp của nồng độ TRAb
Điểm cắt để tiên đoán giai đoạn hoạt tính
bệnh nhãn giáp (với tiêu chuẩn khi CAS ≥ 3) của
nồng độ TRAb tại giá trị 7,57 (IU/L) với diện tích
dưới đường cong AUC = 0,843 (khoảng tin cậy
95%: 0,742 – 0,944) được thể hiện qua Biểu đồ 3.
Tại điểm cắt này, độ đặc hiệu là 89,36 %, độ nhạy
là 66,67%, độ chính xác là 82,35%, giá trị tiên
đoán dương là 73,68%, giá trị tiên đoán âm là
85,71%, tỷ số dự báo khả năng dương tính là 6,27
và tỷ số dự báo khả năng âm tính là 0,37. Sự
tương quan thuận mức độ mạnh giữa nồng độ
TRAb với điểm hoạt tính lâm sàng CAS được
biểu diễn qua Biểu đồ 4.
0
.0
0
0
.2
5
0
.5
0
0
.7
5
1
.0
0
S
e
n
s
it
iv
it
y
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
1 - Specificity
Area under ROC curve = 0.8430
Biểu đồ 3: Giá trị tiên đoán giai đoạn hoạt tính bệnh
nhãn giáp của nồng độ TRAb theo đường cong ROC
Biểu đồ 4: Tương quan giữa nồng độ TRAb với điểm
hoạt tính lâm sàng CAS
BÀN LUẬN
Để đánh giá độ hoạt tính bệnh nhãn giáp,
chúng tôi sử dụng điểm hoạt tính lâm sàng
(CAS) cho giá trị trung bình là 2,1 ± 1,7. Kết quả
này tương đồng với nghiên cứu của tác giả Jang
S.Y.(10) và thấp hơn khi so với nghiên cứu của tác
giả Mourits M.P. và Gerding M.N.(7,17). Khác biệt
này đến từ việc chúng tôi và tác giả Jang S.Y. đều
lựa chọn cả những bệnh nhân mức độ nhẹ đưa
vào nghiên cứu, còn đối tượng chọn mẫu trong 2
nghiên cứu kia là những bệnh nhân mức độ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 209
trung bình – nặng. Tỷ lệ bệnh nhân bệnh nhãn
giáp giai đoạn hoạt tính trong nghiên cứu của
chúng tôi là 30,88%, tương đồng với nghiên cứu
trước đó(10,17), điều này cho thấy tại thời điểm
nghiên cứu một con số là khoảng một phần ba
bệnh nhân bệnh nhãn giáp cần can thiệp điều trị
với corticosteroid.
Độ nặng của bệnh nhân bệnh nhãn giáp
trong mẫu nghiên cứu được chúng tôi đánh giá
dựa theo khuyến cáo của EUGOGO, với 3 mức
độ: nhẹ, trung bình – nặng, và đe dọa thị lực.
Cho đến hiện tại, đây là cách đánh giá đầy đủ
nhất về bệnh nhãn giáp và tiện lợi để ứng dụng
trong công tác điều trị (2,3). Do khác nhau về đặc
điểm giải phẫu với hốc mắt hẹp và nông hơn,
cùng với cấu tạo xương dày hơn tại chỗ nối
thành ngoài hốc mắt với cánh lớn xương bướm,
dẫn đến hội chứng đỉnh hốc mắt và bệnh nhãn
giáp chèn ép thần kinh thị dường như hay xảy ra
hơn ở những bệnh nhân châu Á so với châu
Âu(4). Tỷ lệ bệnh nhãn giáp chèn ép thần kinh thị
trong nghiên cứu của chúng tôi là 7,35%, trong
nghiên cứu của tác giả Jang S.Y. thực hiện trên
155 bệnh nhân người Hàn Quốc là 8,39%(10),
nhỉnh hơn đôi chút khi đối chiếu với y văn các
nước Âu Mỹ khi tỷ lệ này khoảng 5%(5).
Chúng tôi tiến hành so sánh nồng độ TRAb
giữa 3 nhóm bệnh nhân bệnh nhãn giáp mức độ
nhẹ, trung bình – nặng, và đe dọa thị lực; cũng
như so sánh giữa 2 nhóm hoạt tính và bất hoạt.
Kết quả cho thấy có liên quan giữa nồng độ
TRAb với độ nặng/độ hoạt tính của bệnh (Biểu
đồ 1 và 2). Ở Biểu đồ 4, với CAS là biến số định
lượng, chúng tôi nhận thấy có sự tương quan
thuận mức độ mạnh giữa nồng độ TRAb với
CAS qua hệ số tương quan của Spearman (R =
0,655). Việc xác định sự tương quan giữa nồng
độ TRAb được đo bằng phương pháp TBII với
đặc điểm lâm sàng bệnh nhãn giáp hiện vẫn còn
nhiều tranh luận(4). Có sự tương quan giữa nồng
độ TRAb với độ nặng/độ hoạt tính ở các chủng
tộc châu Âu, dù đó chỉ bằng phương pháp TBII
thế hệ 2 qua các nghiên cứu của tác giả Gerding
M.N và Eckstein A. K.(6,7). Còn ở các nước châu
Á, tình hình nghiên cứu về vấn đề này đã đưa ra
những kết quả khác nhau. Nghiên cứu của tác
giả Goh S.Y. (TBII thế hệ 1) và của tác giả Suberti
I. (TBII thế hệ 3) đều cho kết quả không có sự
tương quan giữa nồng độ TRAb với đặc điểm
lâm sàng của bệnh nhãn giáp, mà TRAb chỉ liên
quan với bệnh cường giáp Graves(8,20). Nghiên
cứu của tác giả Woo Y.J. cũng cho thấy không có
sự tương quan giữa TRAb (TBII thế hệ 3) với độ
nặng/độ hoạt tính của bệnh nhãn giáp trong giai
đoạn bất hoạt của bệnh(23). Về nguyên lý xét
nghiệm, TRAb được đo bằng phương pháp TBII
bao gồm cả kháng thể kích thích (thyroid-
stimulating antibody: TSAb) và kháng thể ức chế
(thyroid-stimulating antibody: TBAb), cho nên
không phải lúc nào TRAb cũng có tác dụng kích
thích thụ thể TSH, mà còn có thể ức chế thụ thể
TSH(9). Bên cạnh đó, tác giả Weetman A.P. cho
rằng nồng độ TBAb thường trội hơn ở người
châu Á(22).Có lẽ vì thế mà TRAb không cho thấy
sự tương quan trong những nghiên cứu trước
đó. Trong khi đó, với kết quả tương đồngvới
nghiên cứu của chúng tôi, tác giả Jang S.Y. cho
thấy có sự tương quan giữa nồng độ TRAb (TBII
thế hệ 3) với độ nặng/độ hoạt tính của bệnh
nhãn giáp(10).
Bệnh nhãn giáp có tần suất không cao trong
dân số(14). Tuy nhiên, trong quản lý bệnh nhân
bệnh nhãn giáp, việc xác định bệnh có phải đang
ở giai đoạn hoạt tính hay không là hết sức quan
trọng và cần thiết. Chỉ khi bệnh ở giai đoạn hoạt
tính thì điều trị bằng corticosteroid và thuốc ức
chế miễn dịch mới có hiệu quả. Mục đích điều trị
là nhằm giảm đáp ứng tự miễn và phản ứng
viêm đang xảy ra dữ dội trong hốc mắt. Kết quả
của tiến trình đáp ứng viêm-tự miễn này sẽ dần
đến sự phì đại mô mỡ và cơ ngoại nhãn, đến giai
đoan cuối là hình thành mô xơ sợi không thể hồi
phục. Nếu không tiến hành điều trị đúng thời
điểm, các biến đổi tại mắt về sau này sẽ rất đáng
kể. Vì thế, chúng tôi mong đợi xác định một giá
trị điểm cắt của nồng độ TRAb với độ đặc hiệu
cao, nhằm phân biệt được giai đoạn mấu chốt
này. Điểm cắt tại nồng độ TRAb = 7,57 IU/L với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 210
độ đặc hiệu là 89,36% là kết quả có thể chấp
nhận (Biểu đồ 3). Nghiên cứu của tác giả Jang
S.Y. với điểm cắt tại nồng độ TRAb = 10,67 IU/L
cũng cho kết quả tương đồng về độ đặc hiệu và
độ nhạy(11). Nhưng các quan điểm về thống kê
cho thấy độ nhạy và độ đặc hiệu là hai số đo chỉ
được sử dụng để đánh giá liệu có nên áp dụng
một xét nghiệm. Trên thực tế lâm sàng, khi
người bác sĩ đã có kết quả của xét nghiệm nồng
độ TRAb, dù là cao hay thấp, thì câu hỏi quan
trọng là liệu bệnh thật sự có đang ở giai đoạn
hoạt tính. Vì thế, chúng tôi tiến hành tính toán
các chỉ số: giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên
đoán âm, tỷ số dự báo khả năng dương tính, và
tỷ số dự báo khả năng âm tính, nhằm cung cấp
những thông tin hữu ích cho các bác sĩ lâm sàng
và củng cố thêm giá trị của điểm cắt nồng độ
TRAb = 7,57 IU/L trong việc chẩn đoán giai đoạn
hoạt tính bệnh nhãn giáp.
Chúng tôi nhận thấy hạn chế trong nghiên
cứu đó là cỡ mẫu còn khiêm tốn với chỉ 68 bệnh
nhân, có lẽ điều đó dẫn đến khác biệt lớn về tỷ lệ
giới tính trong nghiên cứu này (tỷ lệ nữ chỉ
47,06%) khi đối chiếu với y văn trên thế giới
cũng như các nghiên cứu có số lượng bệnh nhân
nhiều hơn với tỷ lệ nữ thường lên đến 75 –
85%(7,10,14). Vì thế, chúng tôi hy vọng trong tương
lai những nghiên cứu trong nước có thể thực
hiện với quy mô lớn hơn, và có thể tiến hành đo
nồng độ TRAb bằng phương pháp TSI hiện
được cho là có sự tương quan mạnh với độ
nặng/độ hoạt tính bệnh nhãn giáp cũng như tính
nhất quán trong chẩn đoán giữa các chủng tộc
với nhau.
KẾT LUẬN
Nồng độ TRAb có mối tương quan thuận với
độ nặng và độ hoạt tính của bệnh nhãn giáp, và
có giá trị tiên đoán mạnh nhằm cung cấp thông
tin quan trọng để chẩn đoán giai đoạn hoạt tính
của bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bahn R (2010), "Graves' ophthalmopathy". N Engl J Med, 362
(8), pp. 726-38.
2. Barrio-Barrio J, Sabater AL, Bonet-Farriol E, et al. (2015),
"Graves' Ophthalmopathy: VISA versus EUGOGO
Classification, Assessment, and Management". J Ophthalmol,
2015, pp. 249125.
3. Bartalena L, Baldeschi L, Dickinson A, et al. (2008),
"Consensus statement of the European Group on Graves'
orbitopathy (EUGOGO) on management of GO". Eur J
Endocrinol, 158 (3), pp. 273-85.
4. Chng CL, Seah LL, Khoo DH (2012), "Ethnic differences in the
clinical presentation of Graves' ophthalmopathy". Best Pract
Res Clin Endocrinol Metab, 26 (3), pp. 249-58.
5. Dolman PJ (2012), "Evaluating Graves' orbitopathy". Best Pract
Res Clin Endocrinol Metab, 26 (3), pp. 229-48.
6. Eckstein AK, Plicht M, Lax H, et al. (2006), "Thyrotropin
receptor autoantibodies are independent risk factors for
Graves' ophthalmopathy and help to predict severity and
outcome of the disease". J Clin Endocrinol Metab, 91 (9), pp.
3464-70.
7. Gerding MN, van der Meer JW, Broenink M et al. (2000),
"Association of thyrotrophin receptor antibodies with the
clinical features of Graves' ophthalmopathy". Clin Endocrinol
(Oxf), 52 (3), pp. 267-71.
8. Goh SY, Ho SC., Seah LL et al. (2004), "Thyroid autoantibody
profiles in ophthalmic dominant and thyroid dominant
Graves' disease differ and suggest ophthalmopathy is a
multiantigenic disease". Clin Endocrinol (Oxf), 60 (5), pp. 600-7.
9. Iyer S, Bahn R (2012), "Immunopathogenesis of Graves'
ophthalmopathy: the role of the TSH receptor". Best Pract Res
Clin Endocrinol Metab, 26 (3), pp. 281-9.
10. Jang SY, Shin DY, Lee EJ et al. (2013), "Correlation between
TSH receptor antibody assays and clinical manifestations of
Graves' orbitopathy". Yonsei Med J, 54 (4), pp. 1033-9.
11. Jang SY, Shin DY, Lee EJ et al. (2013), "Relevance of TSH-
receptor antibody levels in predicting disease course in
Graves' orbitopathy: comparison of the third-generation TBII
assay and Mc4-TSI bioassay". Eye (Lond), 27 (8), pp. 964-71.
12. Kamath C, Adlan MA, Premawardhana L. D (2012), "The Role
of Thyrotrophin Receptor Antibody Assays in Graves’
Disease". Journal of Thyroid Research, 2012.
13. Kamijo K, Ishikawa K, Tanaka M (2005), "Clinical evaluation
of 3rd generation assay for thyrotropin receptor antibodies: the
M22-biotin-based ELISA initiated by Smith". Endocr J, 52 (5),
pp. 525-9.
14. Lazarus JH (2012), "Epidemiology of Graves' orbitopathy (GO)
and relationship with thyroid disease". Best Pract Res Clin
Endocrinol Metab, 26 (3), pp. 273-9.
15. Massart C, Sapin R, Gibassier J, et al. (2009), "Intermethod
variability in TSH-receptor antibody measurement:
implication for the diagnosis of Graves disease and for the
follow-up of Graves ophthalmopathy". Clin Chem, 55 (1), pp.
183-6.
16. Michalek K, Morshed SA, Latif R, et al. (2009), "TSH receptor
autoantibodies". Autoimmun Rev, 9 (2), pp. 113-6.
17. Mourits MP, Prummel M., Wiersinga WM, et al. (1997),
"Clinical activity score as a guide in the management of
patients with Graves' ophthalmopathy". Clin Endocrinol (Oxf),
47 (1), pp. 9-14.
18. Naik VM, Naik MN, Goldberg RA et al. (2010),
"Immunopathogenesis of thyroid eye disease: emerging
paradigms". Surv Ophthalmol, 55 (3), pp. 215-26.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 211
19. Ngô Như Hòa (1970), "Một số hằng số mắt của người Việt
Nam", Tài liệu nghiên cứu nhãn khoa, tr. 16 – 17.
20. Subekti I, Boedisantoso A, Moeloek ND et al. (2012),
"Association of TSH receptor antibody, thyroid stimulating
antibody, and thyroid blocking antibody with clinical activity
score and degree of severity of Graves ophthalmopathy". Acta
Med Indones, 44 (2), pp. 114-21.
21. Tozzoli R, Kodermaz G, Villalta D, et al. (2010), "Accuracy of
receptor-based methods for detection of thyrotropin-receptor
autoantibodies: a new automated third-generation
immunoassay shows higher analytical and clinical sensitivity
for the differential diagnosis of hyperthyroidism". Auto Immun
Highlights, 1 (2), pp. 95-100.
22. Weetman AP (1991), "Thyroid-associated eye disease:
pathophysiology". Lancet, 338 (8758), pp. 25-8.
23. Woo YJ, Jang SY, Lim TH et al. (2015), "Clinical Association of
Thyroid Stimulating Hormone Receptor Antibody Levels with
Disease Severity in the Chronic Inactive Stage of Graves'
Orbitopathy". Korean J Ophthalmol, 29 (4), pp. 213-9.
Ngày nhận bài báo: 03/01/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/01/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_su_tuong_quan_giua_nong_do_trab_voi_do_nang_va_do_h.pdf