Tài liệu Khảo sát nồng độ canxi, phospho, hormon tuyến cận giáp ở bệnh nhân bệnh thận mạn lọc máu chu kỳ và lọc màng bụng liên tục ngoại trú tại Bệnh viện Bình Dân: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 234
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ CANXI, PHOSPHO, HORMON TUYẾN CẬN GIÁP
Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ VÀ LỌC MÀNG
BỤNG LIÊN TỤC NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Lê Thị Đan Thùy*, Phạm Văn Bùi**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát và so sánh nồng độ Canxi, Phospho, PTH ở bệnh nhân lọc máu chu kì và lọc màng bụng
liên tục ngoại trú nhằm phát hiện nguy cơ, đánh giá mức độ rối loạn Canxi, Phospho, PTH ở bệnh nhân bệnh
thận mạn giai đoạn cuối nhằm điều trị rối loạn tránh biến chứng lên hệ tim mạch, xương khớp....
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 6/2017 đến 6/2018 chúng tôi ghi nhận
được 121 bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối tại Bệnh viện Bình Dân. Tất cả bệnh nhân đều được ghi nhận
tuổi, thời gian điều trị thay thế thận, xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu, nồng độ Canxi, Phospho, PTH máu.
Chúng tôi thực hiện nghiê...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát nồng độ canxi, phospho, hormon tuyến cận giáp ở bệnh nhân bệnh thận mạn lọc máu chu kỳ và lọc màng bụng liên tục ngoại trú tại Bệnh viện Bình Dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 234
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ CANXI, PHOSPHO, HORMON TUYẾN CẬN GIÁP
Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ VÀ LỌC MÀNG
BỤNG LIÊN TỤC NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Lê Thị Đan Thùy*, Phạm Văn Bùi**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát và so sánh nồng độ Canxi, Phospho, PTH ở bệnh nhân lọc máu chu kì và lọc màng bụng
liên tục ngoại trú nhằm phát hiện nguy cơ, đánh giá mức độ rối loạn Canxi, Phospho, PTH ở bệnh nhân bệnh
thận mạn giai đoạn cuối nhằm điều trị rối loạn tránh biến chứng lên hệ tim mạch, xương khớp....
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 6/2017 đến 6/2018 chúng tôi ghi nhận
được 121 bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối tại Bệnh viện Bình Dân. Tất cả bệnh nhân đều được ghi nhận
tuổi, thời gian điều trị thay thế thận, xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu, nồng độ Canxi, Phospho, PTH máu.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Có 121 bệnh nhân gồm 65 bệnh nhân lọc màng bụng và 56 bệnh nhân lọc máu chu kì, tuổi trung
bình: 49,16 ± 13,76, lớn nhất là 82 tuổi, nhỏ nhất là 22 tuổi. Thời gian điều trị thay thế thận trung bình ở nhóm
điều trị thay thế thận là 47,99 ± 35,8 tháng trong đó nhóm lọc màng bụng là 14,56 ± 7,22 tháng; nhóm lọc máu
chu kỳ là 61,86 ± 55,84 tháng. Tỉ lệ Canxi trong giới hạn bình thường (2,1-2,5 mmol/l) là 28,1%, tỉ lệ Phospho
trong giới hạn bình thường (1,13-1,78 mmol/l) là 30,58%, chỉ số Ca x P ở nhóm điều trị thay thế thận là
5,52±1,79mmol2/l2, và chỉ số này > 4,4 mmol2/l2 là 66,94%; nồng độ PTH trong giới hạn bình thường (150-
300pg/ml) là 20,66%.
Kết luận: Nồng độ Canxi ở nhóm điều trị thay thế thận là: 2,59 ± 0,39 mmol/l. Nồng độ Phospho ở nhóm
điều trị thay thế thận là: 2,11 ± 0,61 mmol/l. Nồng độ PTH ở nhóm điều trị thay thế thận là: 530,88 ± 2,79pg/ml.
Nồng độ Ca x P ở hai nhóm lọc máu chu kỳ và lọc màng bụng không có sự khác biệt. Nồng độ PTH ở nhóm lọc
màng bụng cao hơn lọc máu chu kỳ. Không có sự khác biệt về nồng độ canxi ở các phân nhóm Phospho và nồng
độ Canxi ở các phân nhóm PTH. Nhóm có nồng độ Phospho cao thì nồng độ PTH tăng cao.
Từ khóa: bệnh thận mạn giai đoạn cuối – điều trị thay thế thận – nồng độ Canxi, Phospho, PTH
ABSTRACT
EVALUATION OF SERUM CALCIUM, PHOSPHORUS AND PARATHYROID HORMONE IN
HEMODIALYSIS AND CONTINUOUS AMBULATORY PERITONEAL DIALYSIS PATIENT IN BINH
DAN HOSPITAL
Le Thi Dan Thuy, Pham Van Bui
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 234-240
Objective: We present the variation and comparision of serum Calcium, Phosphorus and PTH (parathyroid
hormone) concentration in patients with End-stage renal disease undergoing hemodialysis (HD) and continuous
ambulatory peritoneal dialysis (CAPD).
Material and Methods: There were 121 patients with End – stage chronic kidney disease at Binh Dan
hospital from June 2017 to June 2018. All patients were statistically evaluated in terms of age, timing of renal
replacement therapy (RRT), complete blood cell count, and serum Calcium, Phosphorus, PTH. This is cross-
*Khoa Lọc Máu – Nội Thận, BV Bình Dân **Trường Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: Ths. Bs. Lê Thị Đan Thùy ĐT: 0918336606 Email: bsdanthuy@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 235
sectional and prospective study.
Results: Of the 121 patients, 65 were CAPD patients and 56 were HD patients. The median age is 49.16 ±
13.76 (range from 22 to 82 years old). The average time on RRT is 47.99 ± 35.8 months, CAPD is 14.56 ± 7.22
months and HD are 61,86 ± 55,84 months. We analyzed the blood biochemical parameters with the results of
normal serum Calcium in 28,1% cases, normal serum Phosphorus in 30,58% cases, normal serum PTH in
20.66% cases, serum Calcium x Phosphorus in RRT patients is 5.52±1.79mmol2/l2 and serum Calcium x
Phosphorus > 4.4 mmol2/l2 in 66.94% cases.
Conclusions: The serum calcium in patients RRT is 2.59 ± 0.39 mmol/L, serum phosphorus is 2.11 ± 0.61
mmol/L, serum PTH is 530.88 ± 2.79pg/ml. There was no significant difference in the serum CaxP concentration
between two groups of HD and CAPD patients. The serum PTH in the CAPD group are higher than HD. There
was no significant difference in the serum Calcium of the Phosphorus subgroups and PTH subgroups. The group
with high serum Phosphorus has increased serum PTH.
Keywords: end stage renal disease - renal replacement therapy - serum calcium, phosphorus, PTH
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGDC) là
vấn đề sức khỏe toàn cầu, BTMGDC có nhiều
biến chứng làm tăng tỉ lệ tử vong. Có khoảng
10% dân số trên thế giới mắc bệnh thận mạn(1).
Rối loạn Ca, Phospho, PTH là một biến
chứng phổ biến và quan trọng, là một gánh nặng
lên sức khỏe cũng như nền kinh tế.
Nồng độ Phospho máu tăng cao gây tăng tỉ
lệ tử vong do bệnh lý tim mạch. Tăng PTH còn
tham gia vào cơ chế sinh bệnh của hệ thống thần
kinh, bệnh tim, bệnh cơ xương, rối loạn dung
nạp glucose, rối loạn lipid máu, rối loạn chức
năng của tế bào(15).
Phát hiện nguy cơ, đánh giá mức độ và điều
trị rối loạn Ca, Phospho, PTH sớm có thể làm
chậm lại, thậm chí ngăn chặn được ảnh hưởng
của biến chứng bệnh xương và bệnh tim mạch.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về rối
loạn Ca, Phospho, PTH. Ở Việt Nam vấn đề rối
loạn Ca, Phospho, PTH ở bệnh nhân BTMGĐC
chưa được quan tâm đúng mức. Các biện pháp
điều trị còn hạn chế.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang,
được thực hiện từ tháng 6/2017 đến tháng 6/2018
(12 tháng), tại khoa Lọc Máu – Nội Thận, Bệnh
viện Bình Dân.
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn
cuối đang điều trị thay thế thận bằng lọc máu
chu kỳ (LMCK) và lọc màng bụng liên tục ngoại
trú (LMB) đồng ý tham gia nghiên cứu, lớn hơn
18 tuổi với thời gian điều trị thay thế thận ít nhất
6 tháng, không sử dụng chế phẩm thuốc có ảnh
hưởng đến chu chuyển xương.
Thu thập và xử lý số liệu
Qua thu thập số liệu trong hồ sơ bệnh án, ghi
nhận tỉ lệ giới tính, tuổi bệnh nhân, chỉ số huyết
áp, BMI, thời gian điều trị thay thế thận, làm xét
nghiệm ghi nhận các chỉ số Canxi, Phospho,
PTH máu.
Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn của KDIGO
2012 về nồng độ Ca, P, chỉ số Ca x P và PTH cần
đạt của bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối
trong nghiên cứu, cụ thể:
Canxi máu toàn phần hiệu chỉnh: 2,1-2,5
mmol/l.
Phospho máu: 1,13- 1,78 mmol/l.
Chỉ số Ca x P: < 4,4 mmol 2/l2.
PTH : 150-300 pg/ml.
Từ tiêu chuẩn trên, kết hợp với chỉ số giới
hạn bình thường của nồng độ Canxi, Phospho,
PTH, Ca x P, chúng tôi phân nhóm các biến số
để so sánh giữa 2 nhóm LMB và LMCK.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS
20.11. Sử dụng phép kiểm 2 hoặc phép kiểm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 236
Fisher để so sánh mối liên quan giữa các biến số
nghiên cứu khi biến không liên tục, sử dụng
phép kiểm T – test hoặc Wilcoxon test khi biến
liên tục. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê khi
p<0,05. Chọn độ tin cậy p<0,05.
Y đức
Nghiên cứu được chấp thuận cho tiến hành
bởi hội đồng Y đức trong nghiên cứu y khoa của
trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và
bệnh viện Bình Dân.
KẾT QUẢ
Tổng số có 121 bệnh nhân bệnh thận mạn
giai đoạn cuối đang điều trị thay thế thận
(ĐTTTT) được đưa vào nghiên cứu với 65 bệnh
nhân lọc màng bụng liên tục ngoại trú và 56
bệnh nhân lọc máu chu kỳ.
Tỉ lệ Nam:Nữ trong nhóm điều trị thay thế
thận là 58%: 42%, nhóm lọc màng bụng là 68%:
32%, nhóm lọc máu chu kỳ là 54%: 46%.
Tuổi trung bình của bệnh nhân điều trị thay
thế thận là 49,16 ± 13,76 với nhóm LMB là 44 ±
12,72, nhóm LMCK là 54 ± 13,39.
Bảng 1: Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm dịch tễ
học
ĐTTTT Nhóm LMB Nhóm LMCK
Nam 57,85 % 67,69 % 46,42 %
Nữ 42,15 % 46,42 % 53,58 %
Tuổi trung bình 49,16±13,76 44 ± 12,72 54 ± 13,39
Thời gian điều trị
thay thế thận
(tháng)
47,99±35,8 14,56±7,22 61,86±55,84
Thời gian điều trị thay thế thận trung bình là
47,99 ± 35,8 (6 – 199) tháng với nhóm LMB là
14,56 ± 7,22 (6 – 30) tháng, nhóm LMCK là 61,86
± 55,84 (6 – 199) tháng.
Có 72,3% bệnh nhân LMB thiểu niệu hoặc vô
niệu trong khi đó nhóm LMCK là 89,3%.
Nồng độ Canxi máu hiệu chỉnh của bệnh
nhân ĐTTTT là 2,59 ± 0,39 mmol/l, nhóm LMB là
2,51 ± 0,39 mmol/l, nhóm LMCK là 2,69 ± 0,37
mmol/l, không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm LMB và LMCK (p= 0,327).
Nồng độ Phospho máu của bệnh nhân
ĐTTTT là 2,11 ± 0,61 mmol/l, nhóm LMB là
2,69 ± 0,68 mmol/l, nhóm LMCK là 2,28 ± 0,54
mmol/l, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa 2 nhóm LMB và LMCK (p=0,009) với
nồng độ Phospho máu ở nhóm LMB cao hơn
nhóm LMCK.
Về chỉ số CaxP < 4,4 mmol2/l2 của bệnh nhân
ĐTTTT là 40 (33,06%) bệnh nhân, nhóm LMB là
25 (38,46%) bệnh nhân và nhóm LMCK là 15
(26,79%) bệnh nhân, không ghi nhận sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm LMB và
LMCK (p= 0,193).
Nồng độ PTH máu của bệnh nhân ĐTTTT là
530,88 ± 279,82 pg/ml, nhóm LMB là 651,74 ±
413,191 pg/ml, nhóm LMCK là 516,11± 390,63
pg/ml, không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm LMB và LMCK (p=0,47).
Bảng 2: So sánh đặc điểm nồng độ Canxi, Phospho,
PTH của nhóm bệnh nhân lọc màng bụng và lọc máu
chu kỳ
Chỉ số Nhóm LMB Nhóm LMCK
Test
Fisher
Canxi hiệu chỉnh
(mmol/l)
2,51±0,39 2,69±0,37 p= 0,327
Phospho máu
(mmol/l)
2,69 ± 0,68 2,28 ± 0,54 p= 0,009
PTH máu
(pg/ml)
530,88±279,82 651,74±413,191 p= 0,47
Chúng tôi ghị nhận có 2/121 (1,65%) bệnh
nhân điều trị thay thế thận đạt tiêu chuẩn của
KDIGO 2012 về nồng độ Canxi, Phospho, chỉ số
CaxP, PTH (Bảng 3).
Khi phân lớp Canxi máu hiệu chỉnh theo 3
lớp: 2,5 mmol/l,
phân lớp 2,1 – 2,5 mmol/l có 34 (28,1%) bệnh
nhân ĐTTTT, trong đó có 21 (32,31%) bệnh nhân
LMB và 13 (23,21%) bệnh nhân LMCK (Bảng 4).
Khi phân lớp Phospho máu theo 3 lớp: < 1,13
mmol/l, 1,13 – 1,78 mmol/l, > 1,78 mmol/l, phân
lớp 1,13 – 1,78 mmol/l có 37 (30,58 %) bệnh nhân
ĐTTTT, trong đó có 20 (30,77 %) bệnh nhân LMB
và 17 (30,36 %) bệnh nhân LMCK (Bảng 4).
Khi phân lớp PTH máu theo 3 lớp: < 150
pg/ml, 150 – 300 pg/ml, > 300 pg/ml, phân lớp >
300 pg/ml có 63 (52,07 %) bệnh nhân ĐTTTT,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 237
trong đó có 49 (75,38 %) bệnh nhân LMB và 14 (25 %) bệnh nhân LMCK (Bảng 4).
Bảng 3: Tỉ lệ bệnh nhân đạt tiêu chuẩn về nồng độ Canxi, Phospho, chỉ số CaxP, PTH theo tiêu chuẩn hướng
dẫn điều trị của KDIGO 2012.
Yếu tố đánh giá Nhóm ĐTTTT Nhóm LMB Nhóm LMCK
n % n % n %
Canxi 33 27,27 21 32,31 13 23,21
Phospho 37 30,58 20 30.77 17 30,36
CaxP 40 33,06 25 38,46 15 26,79
PTH 19 15,70 9 13,85 10 17,86
Canxi, Phospho, CaxP, PTH 2 1,65 1 1,54 1 1,79
Bảng 4: Tỉ lệ bệnh nhân rối loạn Canxi, Phospho, PTH theo phân lớp
Chỉ số ĐTTTT n(%) Nhóm LMB n(%) Nhóm LMCK n(%)
Canxi máu hiệu chỉnh: < 2,1mmol/l 16(13,22%) 13(20%) 3(5,4%)
Canxi máu hiệu chỉnh: 2,1-2,5 mmol/l 34(28,10%) 21(32,31%) 13(23,21%)
Canxi máu hiệu chỉnh: > 2,5 mmol/l 71(58,68%) 31(47,69%) 40(71,43%)
Phospho máu: < 1,13 mmol/l 3(2,48%) 1(1,54%) 2(3,57%)
Phospho máu: 1,13- 1,78 mmol/l 37(30,58%) 20(30,77%) 17(30,36%)
Phospho máu: > 1,78 mmol/l 81(66,94%) 44(67,69%) 37(66,07%)
Ca x P: < 4,4 mmol
2
/l
2
40(33,06% 25(38,46%) 15(26,79%)
Ca x P: ≥ 4,4 mmol
2
/ l
2
81(66,94%) 40(61,54%) 41(73,21%)
PTH máu: <150 pg/ml 33(27,27%) 7(10,77%) 26(46,43%)
PTH máu: 150 – 300 pg/ml 25(20,66%) 9(13,85%) 16(28,57%)
PTH máu: >300 pg/ml 63(52,07%) 49(75,38%) 14(25%)
Tiến hành so sánh sự khác biệt về nồng độ
Canxi giữa các phân nhóm Phospho cho thấy sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,165).
Sự khác biệt về nồng độ Canxi giữa các phân
nhóm PTH cho thấy sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p=0,413).
Sự khác biệt về nồng độ Phospho giữa các
phân nhóm PTH cho thấy sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p=0,018). Với tương quan
thuận là nồng độ Phospho cao thì nồng độ
PTH càng cao.
BÀN LUẬN
Về tuổi trung bình và tỉ lệ Nam:Nữ chúng tôi
nhận thấy có sự tương đồng với các nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước(2,6,8,10,11,12,16).
Chúng tôi nhận thấy vai trò quan trọng của
chức năng thận tồn dư (không có thiểu niệu hay
vô niệu), đặc biệt ở nhóm bệnh nhân LMB ngay
cả khi chức năng thận tồn dư còn khoảng 0,5
ml/ph/m2 cũng giảm được 9% tỉ lệ tử vong ở
bệnh nhân ĐTTTT(2).
Sự giảm nồng độ Canxi máu xuất hiện rất
sớm và chiếm tỷ lệ cao ở nhóm bệnh nhân chưa
lọc máu như trong nghiên cứu Trần Văn Vũ(14).
Tuy nhiên trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận
thấy khi bệnh nhân đã được điều trị thay thế
thận thì nồng độ Canxi không còn thấp nữa. Vì
tỷ lệ bệnh nhân tăng Canxi máu trong nghiên
cứu của chúng tôi chiếm tỷ lệ cao nên trong thực
hành lâm sàng khi sử dụng Vitamin D và hoạt
chất chứa Canxiđể hạ Phospho máu chúng tôi
phải thật cẩn thận, và chúng tôi cũng chú ý sử
dụng dịch lọc thận có nồng độ Canxi thấp.
Trong nhiều nghiên cứu, biến chứng tăng
Phospho làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử
vong ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Block GA và
cộng sự khi đánh giá rối loạn chuyển hóa xương
ở hơn 10.000 bệnh nhân bệnh thận mạn được
LMCK cho thấy nguy cơ tử vong ở đối tượng
này tăng cao cùng với sự tăng Phospho máu trên
1,78 mmol/l. Đây cũng là kết quả của nghiên cứu
trên dữ liệu bệnh thận của Mỹ với Phospho
>2mmol/l (6,4 mg/dl), nghiên cứu của Kalantan –
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 238
Zadeh K và cộng sự với Phospho > 1,92 mmol/l
(6mg/dl)(2,5).
Kể từ đầu năm 1970, việc tăng chỉ số Ca x P
được coi là yếu tố nguy cơ Canxi hóa ở tim, gây
gián đoạn dẫn truyền xung động của hệ dẫn
truyền nhĩ thất, từ đó gây ra rối loạn nhịp tim và
đột tử. Ngoài ra, việc tăng chỉ số Canxi và P sẽ
gây rối loạn hệ thống vi mạch máu ở tim do làm
tăng sức đề kháng mạchngoại vi và gây giảm
lưu lượng tuần hoàn mạch vành. Theo hiệp hội
thận học Hoa Kỳ, tốt nhất nên duy trì Ca x P < 55
mg/dl2 (4,4 mmol2/l2) vì ở các bệnh nhân này chỉ
số CaxP còn tỷ lệ thuận với tỷ lệ tử vong với hệ
số tương quan tương đối r =1,34(5).
Nồng độ Canxi máu của bệnh nhân trong
nghiên cứu chúng tôi cao và chúng tôi cũng
không khống chế được tình trạng tăng Phospho
máu nên chỉ số CaxP của bệnh nhân không đạt
mục tiêu theo KDIGO. Vì vậy một mặt chúng tôi
sẽ giảm nồng độ Canxi máu bằng cách: sử dụng
thận trọng Calcitriol, sử dụng dịch lọc nồng độ
Canxi thấp, không sử dụng các chế phẩm của
Canxi để hạ thấp Phospho máu.
Để làm giảm Phospho máu chúng tôi sẽ
xem xét chặt chẽ chế độ ăn cho bệnh nhân, duy
trì chức năng thận tồn dư, lọc máu HDF
online, sử dụng thuốc giảm Phospho máu
không có Canxi, dự phòng và điều trị tình
trạng cường cận giáp, đánh giá Kt/V >1,7 chưa,
và đánh giá lập lại vì chức năng lọc màng
bụng giảm dần theo thời gian.
Trần Văn Vũ thực hiện trên nhóm bệnh nhân
chưa được điều trị thay thế thận thì nồng độ
PTH 184 pg/ml, thấp hơn nồng độ của chúng tôi
(p = 0,001). Tuy nhiên khi so sánh ở nhóm LMB
thì nghiên cứu của Trần Văn Vũ có tỷ lệ
Phospho tăng cao hơn so với nghiên cứu chúng
tôi (p = 0,035) có lẽ là do nhóm bệnh nhân chúng
tôi chỉ lọc màng bụng 14,6 tháng, của tác giả là
21,9 tháng. Ở nhóm bệnh nhân LMCK thì nồng
độ PTH của chúng tôi cũng tương tự như ở các
nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền(9). Tác giả
Nguyễn Duy Cường cũng nhấn mạnh ở bệnh
nhân được LMCK hơn 5 năm nồng độ PTH tăng
cao hơn nhóm bệnh nhân được LMCK ít hơn 5
năm(6). Tác giả Pieter thực hiện nghiên cứu trên 2
nhóm đối tượng là LMCK và LMB, nồng độ
PTH ở nhóm LMCK và nhóm LMB của tác giả
đều cao hơn nghiên cứu của chúng tôi (p=0,0025;
p=0,001)(13). Điều này có thể lý giải là do chế độ
ăn của người Việt Nam ít đạm hơn.
Khi xem xét bệnh nhân điều trị thay thế thận
đạt tiêu chuẩn KDIGO 2012 về Ca, P và PTH
chúng tôi nhận thấy chỉ có 2/121=1,65% bệnh
nhân đạt được 4 tiêu chuẩn. Kết quả này cũng
giống với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Hoàng Thanh Vân (tỷ lệ đạt 4 yếu tố là 3%)(7).
Mặc dù KDIGO đưa ra mục tiêu như trên,
nhưng hướng dẫn điều trị trên cũng nhận định
rằng thật sự khó để đạt được đồng thời các tiêu
chí đó(4,5). Nghiên cứu của Gallieni và cộng sự
tiến hành trên 20 nước ở Châu Âu, tại 285 trung
tâm, được tiến hành trên 5700 bênh nhân được
LMCK cho thấy: dưới 30% đạt chuẩn về nồng độ
PTH, 50% đạt chuẩn về nồng độ Phospho máu,
50% đạt chuẩn về nồng độ Canxi máu, 60% đạt
chuẩn về chỉ số CaxP, và chỉ có 9% đạt chuẩn cả
4 yếu tố trên(3).
Ở người khỏe mạnh có mối liên quan nghịch
giữa Ca và Phospho. Tuy nhiên trong nghiên
cứu này thực hiện trên nhóm bệnh nhân điều trị
thay thế thận chúng tôi không ghi nhận sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Có thể là do ở bệnh
nhân suy thận, sự chuyển hóa Ca và Phospho
còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như:
nồng độ Calcitriol và nồng độ PTH
Theo lý thuyết nồng độ Canxi máu thấp sẽ
kích thích tuyến cận giáp tăng tiết PTH để huy
động Canxi từ xương vào máu từ đó nâng nồng
độ Canxi máu. Tuy nhiên, ở các bệnh nhân đã
lọc máu lâu ngày thì còn nhiều yếu tố khác như
Phospho máu cao cũng gây nên tình trạng
cường tuyến cận giáp. Vì vậy trong nghiên cứu
này chúng tôi chưa thấy được mối liên quan
giữa nồng độ Canxi và Phospho.
Chúng tôi nhận thấy có nhóm bệnh nhân
ĐTTTT có nồng độ Phospho cao thì nồng độ
PTH càng cao.Điều này chứng tỏ rằng tăng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 239
Phospho máu có vai trò quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp lên tăng tiết PTH chứ không chỉ qua
việc hạ Canxi máu. Kết quả này cũng giống kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền(9). Việc
phát hiện mối liên quan này giúp chúng ta dự
báo về nồng độ PTH thông qua chỉ số Phospho
máu đặc biệt là ở những nơi mà không thực hiện
xét nghiệm PTH. Chúng tôi cũng thấy được việc
giảm Phospho máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn
giai đoạn cuối là một biện pháp quan trọng góp
phần giảm nồng độ PTH máu. Vì vậy, ở Việt
Nam khi chúng ta chưa có các thuốc để điều trị
tình trạng tăng PTH thì chúng ta phải chú ý đến
việc hạ thấp nồng độ Phospho trong máu.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thực hiện trên 121 bệnh
nhân điều trị thay thế thận trong đó có 56 bệnh
nhân lọc máu chu kỳ và 65 bệnh nhân lọc màng
bụng chúng tôi rút ra một số kết luận:
Nồng độ Canxi ở nhóm điều trị thay thế thận
là: 2,59 ± 0,39 mmol/l.
Nồng độ Phospho ở nhóm điều trị thay thế
thận là: 2,11 ± 0,61 mmol/l.
Nồng độ PTH ở nhóm điều trị thay thế thận
là: 530,88 ± 2,79pg/ml.
Nồng độ Ca x P ở hai nhóm lọc máu chu kỳ
và lọc màng bụng không có sự khác biệt
Nồng độ PTH ở nhóm lọc màng bụng cao
hơn lọc máu chu kỳ
Không có sự khác biệt về nồng độ về nồng
độ canxi ở các phân nhóm Phospho và nồng độ
Canxi ở các phân nhóm PTH
Nhóm có nồng độ Phospho cao thì nồng độ
PTH tăng cao.
Tóm lại rối loạn canxi, phospho và PTH rất
phổ biến và có nhiều biến chứng trầm trọng.
Tuy nhiện cần có nhiều nghiên cứu sâu hơn và
được thực hiện tại nhiều trung tâm để tìm hiểu
kỹ hơn về những yếu tố làm ảnh hưởng đến
rối loạn chuyển hóa này nhằm hạn chế tình
trạng rối loạn Canxi, Phospho, PTH giúp làm
giảm tỉ lệ tử vong và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Collins AJ, Foley RN, Herzog C, Chavers B et al (2013). "US
Renal Data System 2012 Annual Data Report". Am J Kidney Dis,
61(1):pp. e1-476.
2. Evenepoel P, Meijers BK, Bammens B, Viaene L et al (2016).
"Phosphorus metabolism in peritoneal dialysis- and
haemodialysis-treated patients". Nephrol Dial Transplant,
31(9):pp. 1508-1514.
3. Gallieni M, Cucciniello E, D'Amaro E, Fatuzzo P et al (2002).
"Calcium, phosphate, and PTH levels in the hemodialysis
population: a multicenter study". J Nephrol, 15(2):pp. 165-170.
4. International society of nephrology (2009). "KDIGO clinical
practice guideline for the diagnosis, evaluation, prevention, and
treatment of Chronic Kidney Disease-Mineral and Bone
Disorder (CKD-MBD)". Kidney Int Suppl, (113):pp. S1-130.
5. International society of nephrology (2013). "KDIGO 2012
Clinical Practice Guideline for the Evaluation and Management
of Chronic Kidney Disease". Kidney International Supplements,
pp.3.
6. Nguyễn Duy Cường, Doãn Thị Như Nghĩa, (2014), "Nghiên cứu
tình trạngcường cận giáp trạng thứ phát ở bệnh nhân thận nhân
tạo chu kỳ tại Thái Bình". Y học Thực hành, pp.914.
7. Nguyễn Hoàng Thanh Vân (2015). “Nghiên cứu nồng độ beta –
crosslaps, hormone tuyến cận giáp huyết thanh ở bệnh nhân
bệnh thận mạn giai đoạn cuối”. Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y
Dược Huế.
8. Nguyễn Thị Hoa (2014). "Nồng độ phospho và canxi huyết
tương ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện
đa khoa trung ương TháiNguyên". Nghiên cứu Y học, 86(1):pp.8 -
14.
9. Nguyễn Thị Huyền, Đỗ Gia Tuyển, Đinh Thị Kim Dung, (2009).
"Nghiên cứu tình trạng cường cận giáp trạng thứ phát và tìm
hiểu một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân suy thận mạn chưa
điều trị thay thế thận tại khoa Thận -Tiết Niệu bệnh viện Bạch
Mai". Y Học Lâm Sàng, pp.39.
10. Nguyễn Vĩnh Hưng (2009). "Nghiên cứu biểu hiện lâm sàng và
xét nghiệmrối loạn calci-phospho ở bệnh nhân suy thận mạn
tính". Y học Thực hành, 667(7):pp. 47 - 49.
11. Phạm Văn Bùi (2012). "Tương quan giữa rối loạn Phosphore
Calci, triệuchứng lâm sàng và cung cấp Vitamin D ở bệnh nhân
chạy thận nhân tạo định kỳ". Y học TP Hồ Chí Minh, pp.2.
12. Phạm Văn Bùi, Nguyễn Thành Hiệp (2010). "Rối loạn Calci -
Phospho -PTH ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo định kỳ", Y học
TP Hồ Chí Minh, 14 (2):pp. 183 - 187.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 240
13. Pieter E, Meijers BKI, Bammens B, Viaene L, et al (2016).
"Phosphorus metabolism in peritoneal dialysis- and
haemodialysis-treated patients". Nephrology Dialysis
Transplantation, 31(9):pp. 1508-1514.
14. Trần Văn Vũ, Lê Văn Hùng (2010). "Khảo sát sự biến đổi nồng
độ Calci, Phospho và PTH trong máu ở bệnh nhân suy thận
mạn giai đoạn cuối đangđiều trị bằng phương pháp thẩm phân
phúc mạc". Y học Thành phố Hồ Chí Minh, pp.2.
15. Võ Tam (2012). “Suy thận mạn: Bệnh học, Chẩn đoán và điều
trị”. Nhà xuất bản Đại học Huế.
16. Vũ Lệ Anh và cộng sự (2010). "Rối loạn chuyển hóa canxi,
phospho và PTH ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn trước
chạy thận nhân tạo". Y Học Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1).
17. Wang X, Dong J, Tian XK, Wang T (2004). "Calcium and
Phosphorus Balance in Chinese Continuous Ambulatory
Peritoneal Dialysis Patients". Hong Kong Journal of Nephrology,
6(2):pp. 92-96.
Ngày nhận bài báo: 12/12/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/02/2019
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_nong_do_canxi_phospho_hormon_tuyen_can_giap_o_benh.pdf