Tài liệu Khảo sát kỹ năng nghiên cứu khoa học của giảng viên tại một trường Đại học miền Trung: 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảng dạy và nghiên cứu từ lâu đã trở thành
nhiệm vụ cơ bản của giảng viên (GV). Hoạt động
nghiên cứu cần được các trường đại học chú trọng,
đầu tư bởi chất lượng của hoạt động nghiên cứu
khoa học (NCKH) giúp đảm bảo và nâng cao chất
lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho xã
hội, mang lại uy tín, vị thế cho nhà giáo - nhà khoa
học, cho cơ sở giáo dục và đào tạo. Với tầm quan
trọng như vậy, Hội nghị TW2 khoá VIII đã xác
định khoa học và công nghệ phải gắn với giáo
dục và đào tạo: “Cùng với giáo dục đào tạo, khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Chỉ thị
296/CT-TTg ngày 27 tháng 02 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại
học giai đoạn 2010 – 2020 cũng nêu rõ “Nâng cao
VÕ THỊ MINH NHO*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐH Đà Nẵng, vtminhnho@gmail.com
Ngày nhận bài: 30/8/2018; ngày sửa chữa: 01/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018
KHẢO SÁT KỸ NĂNG ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát kỹ năng nghiên cứu khoa học của giảng viên tại một trường Đại học miền Trung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảng dạy và nghiên cứu từ lâu đã trở thành
nhiệm vụ cơ bản của giảng viên (GV). Hoạt động
nghiên cứu cần được các trường đại học chú trọng,
đầu tư bởi chất lượng của hoạt động nghiên cứu
khoa học (NCKH) giúp đảm bảo và nâng cao chất
lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho xã
hội, mang lại uy tín, vị thế cho nhà giáo - nhà khoa
học, cho cơ sở giáo dục và đào tạo. Với tầm quan
trọng như vậy, Hội nghị TW2 khoá VIII đã xác
định khoa học và công nghệ phải gắn với giáo
dục và đào tạo: “Cùng với giáo dục đào tạo, khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Chỉ thị
296/CT-TTg ngày 27 tháng 02 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại
học giai đoạn 2010 – 2020 cũng nêu rõ “Nâng cao
VÕ THỊ MINH NHO*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐH Đà Nẵng, vtminhnho@gmail.com
Ngày nhận bài: 30/8/2018; ngày sửa chữa: 01/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018
KHẢO SÁT KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN
TẠI MỘT TRƯỜNG ĐẠI HỌC MIỀN TRUNG
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá các kỹ năng nghiên cứu khoa học của giảng viên tại một trường
đại học tại Miền trung Việt Nam và ảnh hưởng lên hiệu quả nghiên cứu khoa học nhằm có những
đề xuất giúp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học trong giảng viên nhà trường. Kết quả thu
được từ việc khảo sát gần 116 giảng viên của nhà trường cho thấy, có bảy nhóm yếu tố kỹ năng
có ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động nghiên cứu khoa học gồm kỹ năng tìm đề tài, kỹ năng
hợp tác, kỹ năng quản lý tài chính, kỹ năng sử dụng máy tính, kỹ năng quản lý thời gian và kỹ
năng khảo sát và tập hợp tài liệu. Bài viết cũng đưa ra một số kiến nghị tập trung vào các nhóm
kỹ năng trên nhằm thúc đẩy hiệu quả nghiên cứu khoa học trong đội ngũ giảng viên nhà trường.
Từ khóa: kỹ năng, nghiên cứu khoa học, thang đo, giảng viên, phân tích nhân tố khám phá
năng lực quản lý và hiệu quả công tác NCKH ở các
trường đại học, góp phần tích cực nâng cao chất
lượng đào tạo và phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.”
Từ lâu, nhiều nghiên cứu về giáo dục trên thế
giới đã nhận thấy các kỹ năng NCKH đóng một
vai trò vô cùng quan trọng đối với hiệu quả của
hoạt động NCKH. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về
kỹ năng NCKH trên đối tượng chưa thực sự thu
hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Việt
Nam. Hơn nữa, các nghiên cứu ở Việt Nam còn
tập trung chủ yếu vào các yếu tố ảnh hưởng lên
động lực của NCKH và chỉ ở mức nghiên cứu định
tính. Phát triển hoạt động NCKH không thể tách
rời kỹ năng NCKH nên việc tìm hiểu và đánh giá
một số kỹ năng NCKH của GV, từ đó đề xuất biện
pháp nâng cao kỹ năng NCKH của GV là rất cần
98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
thiết. Đó cũng là lý do khiến chúng tôi quyết định
thực hiện đề tài về vai trò của kỹ năng trong hoạt
động NCKH và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả NCKH trong đội ngũ GV tại một trường đại
học trọng điểm ở miền Trung Việt Nam (tên chính
thức của trường được sử dụng dưới tên ẩn danh
“Đại học A” theo đúng như tiêu chí về vấn đề đạo
đức nghiên cứu của đề tài)
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp định lượng. Các
căn cứ lựa chọn tiêu chí đánh giá trước hết dựa
vào các kỹ năng chính phục vụ trực tiếp cho hoạt
động NCKH, tiếp đến là các nghiên cứu có liên
quan. Sau khi tổng hợp và phân tích dữ liệu từ các
nguồn khác nhau như báo cáo nghiên cứu, các bài
viết liên quan đến nội dung nghiên cứu ở trong và
ngoài nước, chúng tôi đã tiến hành thiết kế bảng
hỏi và khảo sát bằng bảng câu hỏi với 116 GV.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả NCKH được
đưa vào xem xét gồm 7 nhóm thang đo tiềm năng,
hình thành từ 22 câu hỏi (còn gọi là các biến độc
lập) và một thang đo đại diện cho hiệu quả NCKH
của GV với 3 biến quan sát. Nghiên cứu áp dụng
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện theo
giới tính và với các độ tuổi khác nhau.
2.1. Các kỹ năng ảnh hưởng đến hiệu quả
nghiên cứu khoa học
Bảng 1: Các nhóm biến và mã hóa
TT Thang đo Mã hóa
NHÓM BIẾN ĐỘC LẬP
I - Kỹ năng chọn đề tài DT
1 Tôi có thể lựa chọn và xác định một đề tài
nghiên cứu phù hợp với bản thân
DT1
2 Tôi nắm được phương pháp viết lý do chọn
đề tài
DT2
3 Tôi có thể tìm được đề tài nghiên cứu mà xã
hội quan tâm và có tác động đến thực tiễn
DT3
II - Kỹ năng hợp tác HT
4
Tôi có thể hợp tác với các đồng nghiệp cùng
hoặc khác Trường/Khoa để thực hiện nghiên
cứu mà không gặp trở ngại gì
HT1
5 Tôi có khả năng giao tiếp tốt với những người
khác khi cùng hợp tác nghiên cứu
HT2
6 Tôi có thể dễ dàng thiết lập mối quan hệ với
các nhà khoa học khác
HT3
III - Kỹ năng quản lý tài chính TC
7
Tôi có thể phân bổ kinh phí nghiên cứu được
cấp phù hợp với từng giai đoạn của quá trình
nghiên cứu
TC1
8 Tôi luôn ghi chép rõ ràng các khoản thu chi
liên quan trực tiếp đến hoạt động nghiên cứu
TC2
9 Tôi nắm vững các nguyên tắc quản lý tài
chính cơ bản
TC3
10 Tôi có thể lựa chọn phương pháp nghiên cứu
phù hợp với nguồn kinh phí được cấp
TC4
IV - Kỹ năng sử dụng máy tính trong nghiên cứu MT
11 Tôi có thể tự thiết kế và thu thập dữ liệu
nghiên cứu bằng bảng câu hỏi định lượng
MT1
12 Tôi sử dụng thành thạo phần mềm Excel phục
vụ thống kê dữ liệu cho nghiên cứu của mình
MT2
13
Tôi nắm vững những kỹ thuật trình bày bảng
biểu để thể hiện kết quả nghiên cứu rõ ràng
hơn
MT3
14
Tôi có thể dùng công cụ khác ngoài Excel
cho việc xử lý phân tích (ví dụ: SPSS, Stata
)
MT4
V - Kỹ năng quản lý đề tài theo thời gian TG
15 Tôi luôn hoàn thành đúng hạn đề tài nghiên
cứu
TG1
16 Tôi phân bổ hợp lý thời gian cần thiết cho
từng giai đoạn nghiên cứu
TG2
17 Tôi có thể cân bằng giữa hoạt động nghiên
cứu và các hoạt động khác
TG3
VI - Kỹ năng sử dụng ngoại ngữ trong nghiên cứu NN
18 Tôi có thể sử dụng ngoại ngữ để tìm kiếm các
tài liệu phục vụ cho nghiên cứu
NN1
19 Tôi có thể báo cáo kết quả nghiên cứu của
mình bằng tiếng nước ngoài
NN2
20
Tôi có thể sử dụng ngoại ngữ để trao đổi với
chuyên gia hoặc đồng nghiệp trong quá
trình nghiên cứu
NN3
99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
VII - Kỹ năng tập hợp và khảo sát tài liệu TL
21 Tôi có thể dễ dàng tiếp cận nguồn tài liệu
tham khảo cần thiết cho nghiên cứu của mình
TL1
22 Tôi có thể sử dụng Internet để tìm kiếm những
nghiên cứu có liên quan
TL2
NHÓM BIẾN PHỤ THUỘC
I - Hiệu quả NCKH HQ
1 Tôi thường xuyên viết bài cho các hội thảo
khoa học
HQ1
2 Tôi thấy hài lòng với hiệu quả NCKH của
mình
HQ2
3 Tôi đang thực hiện hoặc sẽ thực hiện một
NCKH trong thời gian sắp tới
HQ3
(Nguồn: do nhóm nghiên cứu xây dựng)
Phần mềm IBM SPSS 23.0 được sử dụng cho
việc xử lý số liệu thống kê thu thập được. Thông
qua kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá EFA, các
nhân tố sẽ được nhóm lại và kiểm định để tìm ra
nhân tố đại diện có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động NCKH theo các bước sau đây:
2.2. Xây dựng và kiểm định chất lượng
thang đo
Để đánh giá sơ bộ thang đo ta đánh giá độ tin
cậy của thang đo bằng hệ số Croncbach’s Alpha.
Theo Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang
(2008) các biến có hệ số tương quan biến - tổng
(corrected item – total correlation) nhỏ hơn 0,3 sẽ
bị loại và tiêu chuẩn chọn thang đo khi nó có độ tin
cậy Hệ số Cronbach Alpha từ 0,6 trở lên (Hoàng
Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Vì vậy,
đối với nghiên cứu này thì các biến có hệ số tương
quan biến tổng (Corected Item-Total correlation)
nhỏ hơn 0,3 và thành phần thang đó có hệ số Hệ
số Cronbach Alpha nhỏ hơn 0,6 được xem xét loại.
2.3. Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Kiểm định tính thích hợp của mô hình bằng hệ
số KMO
Phân tích nhân tố khám phá EFA được sử dụng
để xác định giá trị hội tụ, giá trị phân biệt và thu
gọn các tham số ước lượng cho các nhóm biến.
Kiểm định Barlett được dùng để xem xét ma
trận tương quan có phải là ma trận đơn vị hay
không. Kiểm định Barlett có ý nghĩa thống kê khi
Sig. < 0,05; chứng tỏ các biến quan sát có tương
quan với nhau trong tổng thể,
Phương pháp này chỉ được sử dụng khi hệ
số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) có giá trị từ 0,5
trở lên. Nếu KMO < 0,5 thì phân tích nhân tố
không thích hợp với dữ liệu (Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, 2005). Trong bước này các
biến có hệ số tải nhân tố (factor loading) nhỏ hơn
0,5 sẽ tiếp tục bị loại. Phương pháp trích hệ số sử
dụng là phương pháp trích nhân tố Principal Nhân
tố với phép quay Varimax, điểm dừng khi trích các
yếu tố có Eigenvalue lớn hơn hoặc bằng 1. Thang
đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích bằng
hoặc lớn hơn 50% (Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn
Thị Mai Trang, 2008). Sau khi loại các biến không
phù hợp, được tiến hành để kiểm tra lại độ phù hợp
của các biến, đồng thời kiểm định Hệ số Cronbach
Alpha được thực hiện lại trên các nhóm biến có sự
hiệu chỉnh để khẳng định lại độ tin cậy của thang đo.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng sử dụng các kỹ năng trong
nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại
học A
3.1.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Đối tượng khảo sát là GV Trường Đại học A.
Trong số 116 bảng trả lời hợp lệ được thu về, dựa
theo tỷ lệ cơ cấu mẫu được khảo sát và tình hình
thực tế ta thấy mẫu có thể đảm bảo tính đại diện.
Cơ cấu mẫu theo đặc điểm nhân khẩu như sau:
79,3 % nữ và 20,7% nam. 29,4 % người trả lời
có độ tuổi dưới 30, 46,5 % từ 30 đến 45 tuổi và
24,1% GV tham gia trả lời có độ tuổi trên 45,31%
có thâm niên công tác dưới 5 năm và 69% có thâm
niên công tác từ 5 năm trở lên.
3.1.2. Đánh giá chung về các kỹ năng sử
dụng trong nghiên cứu khoa học
100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Trong các kỹ năng được khảo sát, kỹ năng sử
dụng ngoại ngữ trong NCKH đạt điểm trung bình
cao nhất như số liệu thể hiện trong bảng 2. Điều
này hoàn toàn phù hợp với thực tế tại Trường Đại
học A khi các GV đều giảng dạy một ngôn ngữ
nước ngoài và các chủ đề nghiên cứu cũng thường
liên quan đến ngôn ngữ giảng dạy.
Kỹ năng tìm đề tài đứng thứ hai về điểm trung
bình trong các kỹ năng được khảo sát. Chỉ báo
“Tôi có thể lựa chọn và xác định một đề tài nghiên
cứu phù hợp với bản thân” có giá trị trung bình
cao nhất (4,33) trong các chỉ báo được khảo sát
cho thấy GV nhà trường rất phong phú về ý tưởng
nghiên cứu, mặt khác các chủ đề nghiên cứu liên
quan đến ngôn ngữ học cũng khá đa dạng.
Kỹ năng quản lý tài chính liên quan đến các
hoạt động quản lý và phân bổ nguồn kinh phí được
cấp cho đề tài cũng như lựa chọn các phương pháp
nghiên cứu phù hợp với nguồn tài chính có giá trị
trung bình thấp nhất (3,41) trong các nhóm biến.
Từ những nhận định trên chúng tôi cho rằng,
các kỹ năng NCKH của GV nhà trường hiện ở
mức tương đối tốt, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều
tiềm năng để phát huy khi đánh giá chung của GV
về hiệu quả NCKH chỉ ở mức 3,4 trên thang điểm
5. Đây là cơ sở để đưa vào phân tích trong các
bước tiếp theo nhằm xác định những kỹ năng nào
có tác động mạnh nhất lên hiệu quả nghiên cứu, từ
đó đưa ra các giải pháp phù hợp để nâng cao các
kỹ năng này.
Bảng 2: Kết quả phân tích thống kê mô tả
Kích thước mẫu
Nhỏ
nhất
Lớn
nhất
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
DT 4,01
DT1 116 1 5 4,33 0,695
DT2 116 2 5 3,96 0,715
DT3 116 2 5 3,75 0,79
HT 3,57
HT1 116 1 5 3,59 0,835
HT2 116 2 5 3,84 0,764
HT3 116 1 5 3,29 0,845
TC 3,41
TC1 116 1 5 3,47 0,839
TC2 116 1 5 3,17 0,816
TC3 116 1 5 3,52 0,829
TC4 116 1 5 3,47 0,937
MT 3,54
MT1 116 1 5 3,85 0,847
MT2 116 1 5 3,53 0,889
MT3 116 1 5 3,76 0,92
MT4 116 1 5 3,03 1,042
TG 3,45
TG1 116 1 5 3,52 0,909
TG2 116 1 5 3,47 0,807
TG3 116 1 5 3,36 0,908
NN 4,22
NN1 116 1 5 4,24 0,851
NN2 116 1 5 4,23 0,963
NN3 116 1 5 4,19 0,864
TC 3,91
TL1 116 1 5 3,59 0,914
TL2 116 2 5 4,23 0,664
HQ 3,40
HQ1 116 1 5 3,09 1,001
HQ2 116 1 5 3,28 0,931
HQ3 116 1 5 3,84 1,012
Valid N
(listwise)
116
(Nguồn: kết quả xử lý dữ liệu của nhóm nghiên cứu)
3.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA đối
với các kỹ năng được sử dụng trong nghiên cứu
khoa học của GV Trường Đại học A
3.2.1. Kiểm tra độ tin cậy của các nhân tố
bằng hệ số Hệ số Cronbach Alpha
101KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Kiểm tra độ tin cậy được thực hiện nhằm xác
định mức độ tương quan giữa các thang đo, loại
những biến quan sát không đạt yêu cầu. Kết quả
kiểm định độ tin cậy thang đo với hệ số Cronbach
Alpha, các thành phần của thang đo chất lượng
dịch vụ đều có hệ số Crobach Alpha đều được chấp
nhận về mặt tin cậy (lớn hơn mức yêu cầu 0,6).
Trong đó, hệ số alpha lần lượt của các kỹ năng
NCKH như sau: Kỹ năng chọn đề tài nghiên cứu
(0,684), Kỹ năng hợp tác (0,773), Kỹ năng quản lí
tài chính (0,853) và Kỹ năng máy tính (0,777) và
kỹ năng quản lý đề tài nghiên cứu theo thời gian
(0,862), Kỹ năng sử dụng tiếng nước ngoài trong
nghiên cứu (0,932). Xét hệ số tương quan biến -
tổng (hiệu chỉnh) của các biến quan sát đều đạt
yêu cầu > 0,30 (Hair & ctg 2006), do đó, nhóm tác
giả quyết định không có biến quan sát nào bị loại
và thang đo phù hợp sử dụng cho phân tích EFA
tiếp theo.
3.2.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA
(Exploratory Factor Analysis)
Phân tích nhân tố là một kỹ thuật phân tích
nhằm thu nhỏ và tóm tắt dữ liệu, rất có ích cho
việc xác định các tập hợp nhóm biến. Quan hệ của
các nhóm biến có liên hệ qua lại lẫn nhau được
xem xét dưới dạng một số nhân tố cơ bản. Mỗi
biến quan sát sẽ được tính một tỷ số gọi là hệ số tải
nhân tố (Factor Loading), hệ số này cho biết mỗi
biến đo lường sẽ thuộc về nhân tố nào.
Bảng 3: Kết quả KMO và kiểm định Barlett
Hệ số KMO ,832
Kiểm định
Barlett
Giá trị Chi bình phương xấp xỉ 1452,286
Bậc tự do 231
Mức ý nghĩa ,000
(Nguồn: kết quả xử lý dữ liệu của nhóm nghiên cứu)
Theo tác giả Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng
Ngọc (2007), hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin)
phải đạt giá trị 0.5 trở lên thể hiện phân tích nhân
tố là phù hợp (0,5 =<KMO <=1). Như vậy, kết quả
phân tích KMO = 0,832 của nghiên cứu được thực
hiện thỏa mãn yêu cầu. Ngoài ra kiểm định Barlett
(Barlett’s test) có ý nghĩa thống kê (sig =0,000 <
0,05) chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với
nhau trong tổng thể. (Xem bảng 4).
Tổng phương sai trích theo yêu cầu phải đạt
giá trị từ 50% trở lên. Kết quả phân tích ở bảng
4 cho thấy tổng phương sai trích của nghiên cứu
thực hiện bằng 75,69% đáp ứng rất tốt yêu cầu đặt
ra. Con số này cho biết các nhân tố giải thích được
75,69% biến thiên của các biến quan sát hay dữ
Bảng 4: Tổng phương sai trích
Nhân tố
Tổng bình phương của hệ số tải nhân tố được trích
(Extraction Sums of Squared Loadings)
Tổng bình phương của hệ số tải nhân tố xoay
(Rotation Sums of Squared Loadings)
Tổng % của phương sai % tích lũy Tổng % của phương sai % tích lũy
1 7,460 33,908 33,908 3,119 14,176 14,176
2 2,687 12,213 46,121 3,022 13,736 27,911
3 1,703 7,739 53,860 2,550 11,593 39,505
4 1,497 6,806 60,666 2,360 10,729 50,233
5 1,149 5,221 65,887 2,010 9,136 59,369
6 1,095 4,977 70,864 1,966 8,935 68,304
7 1,061 4,823 75,688 1,624 7,384 75,688
102 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
liệu. Từ các phân tích trên có thể kết luận rằng,
phân tích nhân tố khám phá EFA là phù hợp với dữ
liệu tổng thể.
Phân tích ma trận xoay nhân tố
Dữ liệu tiếp tục được đưa vào xử lý Ma trận
xoay nhân tố. Với cỡ mẫu bằng 116 thuộc nhóm từ
100 – 350, hệ số tải nhân tố (Factor Loading) là chỉ
tiêu đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA cần
thỏa mãn điều kiện >= 0,5.
Kết quả cho thấy các nhóm biến độc lập về
kỹ năng liên quan đến NCKH đã được hình thành
và không nằm ngoài kỳ vọng ban đầu của nhóm
nghiên cứu. Nhìn vào bảng ma trận xoay nhân tố,
chúng ta có thể thấy có 7 cột biểu thị cho 7 nhóm
nhân tố được rút ra từ 22 biến quan sát và tất cả
các biến đều có hệ số tải nhân tố thỏa mãn điều
kiện lớn hơn 0,5. Bảy nhóm yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu quả NCKH gồm: Kỹ năng sử dụng tiếng nước
ngoài trong NCKH, kỹ năng quản lý tài chính, kỹ
năng sử dụng máy tính phục vụ NCKH, kỹ năng
quản lý thời gian, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tìm đề
tài và cuối cùng là kỹ năng tập hợp và khảo sát tư
liệu phục vụ NCKH.
4. THẢO LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Từ kết quả trên, để nâng cao hiệu quả NCKH
của GV, nhóm tác giả cho rằng, cần dựa trên cơ sở 7
nhân tố ảnh hưởng lên hiệu quả NCKH đã được kiểm
chứng bằng các bước phân tích dữ liệu nhằm đưa
ra các giải pháp. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp
và kiến nghị nâng cao hiệu quả NCKH thông qua
việc cải thiện các kỹ năng NCKH của GV như sau:
Nâng cao kỹ năng tìm ý tưởng cho đề tài
nghiên cứu khoa học
Kỹ năng chọn đề tài nghiên cứu là một kỹ năng
vô cùng quan trọng, vì nó quyết định sự thành
công hay thất bại của nghiên cứu. Đề tài nghiên
cứu không phải là có sẵn, mà là kết quả của cả một
quá trình phức tạp và biện chứng, từ những ghi
nhận có được trong quá trình lĩnh hội kiến thức
chuyên ngành đến kỹ năng quan sát và phân tích
thực tế, và việc đối chiếu những phân tích đó với
tình trạng kiến thức hiện tại, để phát hiện vấn đề
nghiên cứu. Việc xác định vấn đề nghiên cứu, hay
còn gọi là câu hỏi xuất phát, chính là nêu ra câu hỏi
tổng quát mà nhà nghiên cứu muốn tìm giải đáp.
Không có câu hỏi thì không thể tiến hành nghiên
cứu. Chính vì nó có tầm quan trọng lớn lao như thế
mà Van der Maren đã nói một cách khái quát rằng
“NCKH trước hết là khởi sự từ một vấn đề, một
câu hỏi: NCKH chính là xây dựng vấn đề” (1996).
Với nguồn nhân lực có trình độ và thâm niên công
tác NCKH trong nhà trường, chúng tôi cho rằng,
cần tổ chức nhiều hơn các buổi bồi dưỡng chuyên
đề cho GV trẻ, chưa có kinh nghiệm NCKH để
nâng cao đồng bộ cho mọi GV. Từ đó giúp các GV
trong trường tiếp cận nhiều hơn với các ý tưởng và
đề tài NCKH đang được quan tâm.
Nâng cao kỹ năng hợp tác trong nghiên cứu
khoa học
Thực tế cho thấy để tăng khả năng thành công,
nhà khoa học cần phải hợp tác với các đồng nghiệp
trong và ngoài chuyên ngành. Hợp tác giúp phát
triển ý tưởng mới. Khi nghiên cứu theo nhóm, các
kỹ năng và kinh nghiệm giữa các chuyên gia có thể
hỗ trợ và bổ trợ lẫn nhau. Kết quả thu được phù
hợp với nhiều nghiên cứu được thực hiện như công
trình về năng suất NCKH của Lotka (1926), nhiều
nghiên cứu sau đó cũng đã khẳng định sự tác động
tích cực của sự cộng tác đến năng suất NCKH như
Price & Beaver (1966).
Chúng tôi cho rằng, nhà trường có thể xem
xét hướng đến thành lập câu lạc bộ NCKH trong
nhà trường và tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ thường
xuyên, tạo điều kiện giúp đỡ cho GV chưa có
nhiều kinh nghiệm NCKH tham gia cùng làm đề
tài với những người có kinh nghiệm. GV ở các bộ
môn khác nhau, các khoa khác nhau có thể cùng
nhau nghiên cứu các công trình, vấn đề liên quan.
Nâng cao kỹ năng sử dụng máy tính trong
nghiên cứu khoa học
Cùng với sự phát triển của khoa học công
nghệ, máy tính ngày càng đóng một vai trò to lớn
103KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
trong hoạt động NCKH. GV có thể dùng máy tính
và mạng internet để nâng cao hiệu quả NCKH của
mình. Một trong những khó khăn cơ bản của việc
triển khai cải thiện kỹ năng sử dụng máy tính trong
NCKH học là tâm lý ngại khó, ngại cái mới của
GV (đặc biệt là GV đã lớn tuổi). Như vậy, muốn
triển khai hiệu quả thì ngoài công tác tư tưởng còn
cần làm sao để cho họ thấy việc ứng dụng CNTT
không quá khó và họ hoàn toàn có thể thực hiện
được. Chúng tôi cho rằng, nhà trường có thể kết
hợp bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho GV
nhằm nâng cao hiệu quả NCKH bằng các hoạt
động như tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử
dụng máy tính và các phần mềm hỗ trợ nghiên cứu
định kỳ hàng năm. Các lớp tập huấn này nên được
tổ chức theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau,
tập trung chủ yếu vào những kỹ năng máy tính
mà GV cần sử dụng trong quá trình nghiên cứu và
phải bắt đầu từ những kỹ năng đơn giản nhất như
cách tra cứu và tìm kiếm thông tin, cách chuyển
đổi các loại phông chữ, cách trình bày bảng biểu
cho đến những công cụ phức tạp hơn như các phần
mềm phân tích xử lý Các báo cáo viên có thể
chính là đội ngũ NCKH cốt cán của trường. Đây
sẽ là những hỗ trợ vô cùng quan trọng trong hoạt
động nghiên cứu của GV.
Nâng cao kỹ năng khảo sát và thu thập tài liệu
NCKH luôn có tính kế thừa và phát triển, do
đó không thể nào phủ nhận vai trò quan trọng của
công tác nghiên cứu tài liệu. Để đảm bảo thành
công trong NCKH, tài liệu tham khảo có ý nghĩa
quyết định đến kết quả thực hiện đề tài nghiên cứu.
Để nâng cao kỹ năng khảo sát và thu thập tài liệu,
nhà trường có thể tổ chức những buổi nói chuyện
về các chuyên đề có liên quan như hướng dẫn GV
cách sử dụng các thư viện mở (Open library) có
sẵn trên mạng, hoặc các công cụ tra cứu và hỗ
trợ trích dẫn như Google Scholar. Với những giải
pháp mang tính hỗ trợ của nhà trường cũng sự nỗ
lực của GV trong việc cải thiện kỹ năng khảo sát
và thu thập tài liệu, chúng tôi cho rằng hiệu quả
NCKH sẽ được cải thiện trong thời gian tới.
Nâng cao kỹ năng quản lý đề tài nghiên cứu
theo thời gian
Để vừa đảm nhiệm vai trò giảng dạy, đồng thời
hoàn thành nghĩa vụ nghiên cứu đòi hỏi GV nhà
trường cần nắm vững cách thức quản lý và phân bổ
thời gian hợp lý. Trong các nguyên nhân gây lãng
phí thời gian được thống kê cho từ các nghiên cứu
thì làm việc không có kế hoạch chiếm vị trí hàng
đầu. Do đó, để đảm bảo được các yêu cầu giảng
dạy và nghiên cứu đòi hỏi người GV cần có kế
hoạch năm học cụ thể cho cả hoạt động giảng dạy
và nghiên cứu.
Nâng cao kỹ năng quản lý tài chính
Hầu hết các hoạt động NCKH được thực hiện
với sự hỗ trợ kinh phí từ những tổ chức ở các cấp
độ khác nhau: địa phương, quốc gia và quốc tế.
Vì vậy, nó được xem là nguồn lực quan trọng
không những giúp chi trả cho các hoạt động liên
quan, mà còn thúc đẩy sự cộng tác trong nghiên
cứu (Defazio và ctv., 2009). Nhân tố này cho thấy
nguồn kinh phí cho hoạt động nghiên cứu có ý
nghĩa tích cực đến hoạt động cũng như năng suất
NCKH. GV nhà trường cũng cân nhắc lựa chọn
những đề tài và phạm vi nghiên cứu phù hợp với
nguồn kinh phí được hỗ trợ.
Nâng cao kỹ năng sử dụng ngoại ngữ trong
nghiên cứu khoa học
Theo kết quả phân tích các chỉ báo liên quan
đến kỹ năng NCKH, mức độ ảnh hưởng cao nhất
là chỉ báo “Tôi có thể báo cáo kết quả nghiên cứu
của mình bằng tiếng nước ngoài”. Kết quả này cho
thấy GV nhà trường có nền tảng rất tốt và kỹ năng
về ngôn ngữ để có thể báo cáo kết quả nghiên cứu
bằng tiếng nước ngoài. Do đặc thù của Trường Đại
học A nên khả năng ngôn ngữ là một lợi thế lớn
của GV. Để duy trì và nâng cao khả năng này, nhà
trường nên có chính sách để GV tham dự những
hội thảo NCKH trong và ngoài nước. Qua đó, GV
nhà trường ngày càng tích lũy nhiều kinh nghiệm
cũng như phát huy ưu thế về ngoại ngữ qua các bài
104 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
trình bày báo cáo trong các hội thảo và các báo cáo
khoa học.
Cũng trong nhóm yếu tố này, chúng ta thấy
chỉ báo “Tôi có thể sử dụng ngoại ngữ để trao đổi
với chuyên gia hoặc đồng nghiệp trong quá trình
nghiên cứu” chiếm vị trí thứ hai về mức độ ảnh
hưởng trong tất cả các chỉ báo. Điều này cho thấy,
GV trong trường có năng lực tốt về ngôn ngữ nên
việc trao đổi thông tin và kinh nghiệm nghiên cứu
với các chuyên gia, nhà nghiên cứu nước ngoài
cũng là một lợi thế trong quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra với lợi thế về ngoại ngữ, GV có thể sử
dụng kỹ năng ngoại ngữ vốn có của mình để tìm
kiếm những tài liệu nghiên cứu chuyên sâu từ các
nguồn dữ liệu quốc tế. Điều này giúp GV mở rộng,
tìm hiểu sâu hơn kiến thức chuyên môn đồng thời
nâng cao đáng kể hiệu quả cũng như chất lượng
nghiên cứu.
5. KẾT LUẬN VÀ HẠN CHẾ CỦA
NGHIÊN CỨU
5.1. Kết luận
Kết quả nghiên cứu là một bằng chứng thực
nghiệm, giúp đóng góp và bổ sung vào lĩnh vực
nghiên cứu về kỹ năng NCKH của GV, ngoài ra
đây cũng là một trong những nghiên cứu tiên phong
nhằm xây dựng thang đo về kỹ năng NCKH của GV.
Từ những kết quả đạt được, theo chúng tôi,
để thúc đẩy kỹ năng NCKH, nhà trường cần chú
trọng, quan tâm hơn nữa tới hoạt động NCKH
của GV, coi đây là giải pháp quan trọng để nâng
cao chất lượng đào tạo của Trường. Ngoài các đề
xuất đã đưa ra trong các phần trên, hàng năm nhà
trường cần tổ chức một hội nghị khoa học sau khi
hoàn thành việc thẩm định, nghiệm thu các đề tài
với sự tham gia của tất cả cán bộ GV và người có
liên quan công tác NCKH. Nội dung chính của hội
nghị gồm: Tổng kết công tác NCKH trong năm
học, triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu
mới, thảo luận những vấn đề mới đặt ra trong hoạt
động NCKH, từ đó đưa ra định hướng hoạt động
cho năm học mới, chú trọng giải quyết những
vướng mắc của những người tham gia NCKH,
nhất là các ý kiến có tính cải tiến, sáng tạo trong
việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của NCKH.
5.2. Hạn chế
Nghiên cứu này được thực hiện trên một mẫu
tương đối nhỏ (116 GV) và giới hạn chỉ trong
Trường Đại học A. Trong tương lai, nhóm nghiên
cứu cho rằng đề tài có thể được mở rộng việc khảo
sát đối với GV các trường đại học khác để có thể
đưa ra các kết quả có độ tin cậy cao hơn./.
Tài liệu tham khảo:
Trần Đức Cân (2012), “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính
để thúc đẩy và nâng cao chất lượng nghiên cứu
khoa học của các trường Đại học công lập”, Công
Nghiệp: Kinh tế & Quản lý, số 3, tr.20-23.
Nguyễn Thị Minh Hồng, Nguyễn Vĩnh Khương (2016),
“Một số biện pháp phát triển năng lực nghiên cứu
cho giảng viên trẻ Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 7(85), tr.93-105.
Huỳnh Trường Huy (2014), “Năng suất nghiên cứu
khoa học: Xây dựng các giả thuyết đối với trường
hợp của Trường Đại học Cần Thơ”, Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, 32 (2014), tr.25-35.
Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2009),
Nghiên cứu khoa học trong quản trị kinh doanh,
NXB Thống kê, Hà Nội.
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2009),
Thống kê ứng dụng trong kinh tế - xã hội, NXB
Thống kê, Hà Nội.
Defazio, Daniela, Andy Lockett and Mike Wright
(2009), “Funding incentives, collaborative
dynamics and scientific productivity: Evidence
from the EU framework program”, Research Policy
38.2, pp.293-305.
De Solla Price, Derek J., and Donald Beaver (1966),
“Collaboration in an invisible college”, American
Psychologist 21(11), pp.1011-1018.
Lotka, Alfred J (1926), “The frequency distribution of
scientific productivity”, Journal of the Washington
Academy of Sciences 16(12), pp.317-323.
105KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
AN INVESTIGATION OF SCIENTIFIC RESEARCH SKILLS OF LECTURERS
AT A UNIVERSITY IN CENTRAL VIETNAM
VO THI MINH NHO
Abstract: This research aims to assess scientific research skills of lecturers at a University in
Central Vietnam and its influences on the performance of lecturers’ scientific research in order to
promote research activities. Results from the survey of 116 lecturers of the university showed that
there are seven groups of skills that affect the effectiveness of research activities including topic
searching, collaborative skills, financial management skills, computer skills, time management
skills and surveying and documentation skills. The paper also provides some key recommendations
on these skills to increase the effectiveness of research skills for the lecturers of the university.
Keywords: skills, scientific research, scale, lecturers, Exploratory Factor Analysis
Received: 30/8/2018; Revised: 01/10/2018; Accepted: 20/12/2018
Hair, Joseph F., et al (2006), “Multivariate data analysis
(Vol. 6)”, Upper Saddle River, NJ: Pearson Prentice
Hall, 289.
Van der Maren, Jean - Marie (1996), “Méthodes de
recherche pour l’éducation”, Presses de l’Université
de Montréal et de Boeck, pp.85-98.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_17_01_2019_97_105_vo_t_minh_nho_9766_2136252.pdf