Khảo sát kiến thức và thái độ về sinh mổ trên các thai phụ mang thai lần đầu tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai

Tài liệu Khảo sát kiến thức và thái độ về sinh mổ trên các thai phụ mang thai lần đầu tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 90 KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ VỀ SINH MỔ TRÊN CÁC THAI PHỤ MANG THAI LẦN ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỒNG NAI Bùi Quang Tùng*, Bùi Chí Thương** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Mổ lấy thai là một phẫu thuật nhằm lấy thai nhi, nhau và màng ối qua một vết mổ ở thành tử cung đang nguyên vẹn và không phải là một phẫu thuật vô hại. Tuy nhiên, tỷ lệ mổ lấy thai đang gia tăng khá nhanh trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Vì vậy, chúng tôi thực hiện khảo sát kiến thức và thái độ của thai phụ về sinh mổ để giúp các bác sĩ lâm sàng, nhà quản lý sẽ hiểu rõ hơn về thai phụ. Từ đó sẽ có sự tư vấn thích hợp cho thai phụ và thân nhân nhằm giảm tỷ lệ mổ lấy thai. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai phụ ở tam cá nguyệt thứ 3 có kiến thức đúng và thái độ đúng về sinh mổ tại Bệnh viện đa khoa Đồng Nai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên các Thai phụ ở t...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát kiến thức và thái độ về sinh mổ trên các thai phụ mang thai lần đầu tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 90 KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ VỀ SINH MỔ TRÊN CÁC THAI PHỤ MANG THAI LẦN ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỒNG NAI Bùi Quang Tùng*, Bùi Chí Thương** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Mổ lấy thai là một phẫu thuật nhằm lấy thai nhi, nhau và màng ối qua một vết mổ ở thành tử cung đang nguyên vẹn và không phải là một phẫu thuật vô hại. Tuy nhiên, tỷ lệ mổ lấy thai đang gia tăng khá nhanh trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Vì vậy, chúng tôi thực hiện khảo sát kiến thức và thái độ của thai phụ về sinh mổ để giúp các bác sĩ lâm sàng, nhà quản lý sẽ hiểu rõ hơn về thai phụ. Từ đó sẽ có sự tư vấn thích hợp cho thai phụ và thân nhân nhằm giảm tỷ lệ mổ lấy thai. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai phụ ở tam cá nguyệt thứ 3 có kiến thức đúng và thái độ đúng về sinh mổ tại Bệnh viện đa khoa Đồng Nai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên các Thai phụ ở tam cá nguyệt 3 đến khám thai tại khoa Phụ Sản Bệnh viện đa khoa Đồng Nai. Kết quả: Qua nghiên cứu về tìm hiểu kiến thức và thái độ của các thai phụ về mổ lấy thai tại Bệnh viện đa khoa Đồng Nai: Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng 13,28%; Tỷ lệ thai phụ có thái độ đúng 5,47%; Tỷ lệ thai phụ mong muốn sinh thường là 97,92%. Trong đó, các yếu tố tác động lên việc lựa chọn phương pháp sinh của thai phụ: Thai phụ có trình độ học vấn cấp 2 có tỷ lệ mong muốn sinh mổ cao hơn gấp 12,5 lần (KTC 95%: 1,32-100) so với thai phụ có trình độ học vấn cao đẳng, đại học; Thai phụ mong muốn có 1 con trong tương lai có tỷ lệ mong muốn mổ lấy thai cao hơn 6,67 lần (KTC 95%: 1,59-25) so với thai phụ chỉ mong muốn 2 con sau này. Kết luận: Các bác sĩ cần cung cấp các kiến thức về nguy cơ và lợi ích của mổ lấy thai cho thai phụ nhằm giúp các thai phụ có nâng cao kiến thức và cải thiện thái độ của thai phụ về mổ lấy thai. Thông qua đó giúp giảm phần nào tỉ lệ mổ lấy thai. Từ khoá: kiến thức, thái độ, mổ lấy thai ABSTRACT SURVEY ON KNOWLEDGE AND ATTITUDE ABOUT CESAREAN SECTION IN THE FIRST PREGNANT WOMEN IN DONG NAI GENERAL HOSPITAL Bui Quang Tung, Bui Chi Thuong * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 90 - 94 Background: Caesarean section is a surgical procedure for the removal of fetus, placenta and membranes through an incision in the uterus and is not harmless surgery. However, the rate of cesarean section has been increasing rapidly in the word and in Vietnam. So, we proceed a survey on knowledge and attitude of pregnant woman about cesarean section to help clinical practitioner understanding better of pregnant women. And then, they provide counseling for pregnant women and their relatives so that the rate of cesarean section can be reduced. Objectives: The study identifies the rate of third-trimester pregnant women who has good knowledge and attitude about cesarean section in Dong Nai general hospital. Methods: A cross-sectional study were conducted on third trimester pregnant women who attend antenatal **Bộ môn Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS. Bùi Chí Thương ĐT: 0913124604 Email: buichithuong@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 91 care in Dong Nai general Hospital. Results: In research, the rate of pregnant women with good knowledge is 13.28%, the rate of pregnant women with good attitude is 5.47% and the prevalence of pregnant women who want to undergo vaginal delivery is 97.92%. Factors influencing the choice of method of delivery: Pregnant women who desire cesarean section with secondary school education had 12.5 times (95% CI: 1.32-100) higher than with college school education; pregnant women expecting one child in the future have 6.67 times (95% CI: 1.59-25) higher cesarean section desire than women expecting 2 children in the future. Conclusion: We need provide knowledge about the risk and benefit of cesarean section for pregnant women to enhance their knowledge and improve their attitude. And then, it helps to decrease the rate of Cesarean section. Keyword: knowledge, attitude, Cesarean section ĐẶT VẤN ĐỀ Sinh con là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời người phụ nữ. Hiện nay, có 2 phương pháp được sử dụng để sinh là mổ lấy thai và sinh ngả âm đạo. Mặc dù, sinh ngả âm đạo là một phương pháp được xem như là an toàn nhưng trong một vài trường hợp thì mổ lấy thai lại là chọn lựa an toàn cho cả mẹ và thai Tuy nhiên, mổ lấy thai mang lại nhiều nguy cơ cho thai phụ và em bé. Theo khuyến cáo của WHO năm 1985, tỷ lệ mổ lấy thai ở mỗi khu vực không quá 10-15%(9). Khi tỷ lệ này vượt trên 15% thì tai biến sẽ xảy ra nhiều hơn cho mẹ và con. Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, tỷ lệ mổ lấy thai gia tăng rất nhanh. Trong đó, Đồng Nai là một tỉnh lớn của miền Đông Nam bộ có số lượng ca sinh khoảng 56000 vào năm 2017. Bên cạnh đó, Bệnh viện đa khoa Đồng Nai là Bệnh viện lớn của tỉnh Đồng Nai và có tỷ lệ mổ lấy thai khá cao vào khoảng 53,6%. Vì vậy, chúng tôi thực hiện khảo sát về kiến thức và thái độ của thai phụ về mổ lấy thai tại đây để giúp các bác sĩ lâm sàng, nhà quản lý sẽ hiểu rõ hơn về thai phụ. Từ đó sẽ có sự tư vấn thích hợp cho thai phụ và thân nhân nhằm giảm tỷ lệ mổ lấy thai. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài với câu hỏi nghiên cứu: “Tỷ lệ thai phụ trong tam cá nguyệt thứ 3 có kiến thức và thái độ đúng về sinh mổ là bao nhiêu?”. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Thai phụ ở tam cá nguyệt 3 đến khám thai tại khoa Phụ Sản Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai hội đủ tiêu chuẩn chọn mẫu. Tiêu chuẩn chọn vào Thai phụ có thai lần đầu. Tuổi thai >=28 tuần. Tuổi thai phụ từ 18 đến 35 tuổi. Tiêu chuẩn loại trừ Thai phụ có tiền căn mổ bóc nhân xơ TC. Sẩy thai liên tiếp. Thai phụ có khả năng mổ lấy thai chủ động: nhau tiền đạo, đa thai, khung chậu lệch, điều trị hiếm muộn. Thai phụ có bệnh lý kèm theo, khó có khả năng sinh ngả âm đạo: suy tim (độ III, IV theo NYHA), cao huyết áp nặng, tiền sản giật nặng, có phẫu thuật tầng sinh môn cũ do dị dạng bẩm sinh, chấn thương. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Cơ mẫu Được tính theo công thức: Z: Lấy giá trị từ phân phối chuẩn α: 0,05 Z 1-α/2 = Z 0,975 = 1,96 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 92 p: Trị số mong muốn của tỷ lệ, chọn p=0,5 để có cỡ mẫu lớn nhất. d: sai số cho phép, được sử dụng trong nghiên cứu = 0,05. Cỡ mẫu tối thiểu cần trong nghiên cứu n= 384. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu Nhóm tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 26,38 ± 3,62 tuổi, đa số thai phụ là nhân viên văn phòng (52,08%), hầu hết thai phụ có địa chỉ thường trú tại thành phố Biên Hoà (72,40%), tỷ lệ thai phụ có trình độ cao đẳng, đại học là 50% và tỷ lệ thai phụ mong muốn có 2 con là 77,60%. Kiến thức chung của thai phụ về sinh mổ Trong 18 câu hỏi về kiến thức sinh mổ, tương ứng tổng số điểm cao nhất 18 điểm. Đúng: 51 thai phụ (13,28%) trả lời đúng, tương ứng với 17-18 điểm. Sai: 334 thai phụ (86,72%) trả lời đúng, tương ứng với 0-16 điểm. Trong đó, số câu hỏi trung bình thai phụ trả lời đúng về kiến thức sinh mổ là 13,7±2,8 câu. Số câu trả lời đúng ít nhất là 1 câu chiếm 0,52%, số câu trả lời đúng cao nhất là 18 câu chiếm 1,82%. Biểu đồ 1: Kiến thức chung của thai phụ về sinh mổ Thái độ chung cho thai phụ về sinh mổ Trong 9 câu hỏi về thái độ sinh mổ, tương ứng với 10 điểm. Đúng: 21 thai phụ (5,47%) trả lời đúng, tương ứng với 9-10 điểm. Sai: 383 thai phụ (99,74%) trả lời sai, tương ứng số điểm 0-8 điểm. Số điểm trung bình của thai phụ về thái độ sinh mổ là 5,86 ± 1,62. Số điểm thấp nhất là 2, chiếm tỷ lệ 1,82%. Số điểm cao nhất của thai phụ là 10, chiếm tỷ lệ 0,26%. Biểu đồ 2: Thái độ chung của thai phụ về sinh mổ Lựa chọn phương pháp sinh Trong tổng số 384 thai phụ, sự lựa chọn phương pháp sinh ngả âm đạo cho lần sinh này chiếm tỷ lệ khá cao 97,92%, tương ứng với 376 thai phụ. Chỉ có 8 thai phụ lựa chọn phương pháp sinh mổ chiếm tỷ lệ 2,08%. Mối liên hệ giữa sự lựa chọn kiểu sinh với đặc tính dân số của mẫu Khi hỏi về số con mong muốn trong tương lai thì tỷ lệ sản phụ lựa chọn mổ lấy thai trong nhóm mong muốn có 2 con, giảm 6,67 lần so với thai phụ mong muốn 1 con và không có thai phụ nào muốn có trên 2 con chọn lựa mổ lấy thai. Tỷ lệ thai phụ có trình độ học vấn “cấp 2” có sự lựa chọn sinh mổ cao nhất 5,88%. Tỷ lệ thai phụ có trình độ “cao đẳng, đại học” có tỷ lệ chọn lựa thấp 0,52% và thấp hơn 12,5 lần so với thai phụ có trình độ học vấn “cấp 2”, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Bảng 1: Mối liên hệ giữa sự lựa chọn kiểu sinh với đặc tính dân số của mẫu ĐẶC ĐIỂM OR 95%CL P Nhóm tuổi: Từ 20-30 tuổi. 1 Dưới 20 tuổi. 5,87 0,64-53,96 0,118 Trên 30 tuổi. 1,96 0.12-8,96 0,960 Nghề nghiệp: Nội trợ. 1 Công nhân. 2,28 0,28-18,93 0,444 NV văn phòng. - - - 5,47% 94,53% Thái độ chung về sinh mổ 13,28% 86,72% 0 0 Kiến thức chung về sinh mổ Đúng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 93 ĐẶC ĐIỂM OR 95%CL P Trình độ học vấn: Cấp 2. 1 Cấp 3. 0,43 0,09-1,97 0,277 Cao đẳng, đại học. 0,08 0,01-0,76 0,028 Mù chữ, cấp 1. - - - Địa chỉ thường trú: TP. Biên Hoà. 1 Huyện. 3,01 0,74-12,28 0,124 Tỉnh khác. - - - Số con mong muốn: 1 con. 1 2 con. 0,15 0,04-0,63 0,01 Trên 2 con. - - - Thu nhập cá nhân: <4 triệu/tháng. 1 4-10 triệu/tháng. 2,34 0,28-19,75 0,432 >10 triệu/tháng. 4,125 0,25-68,34 0,323 BÀN LUẬN Kiến thức chung thai phụ về sinh mổ Đa số các thai phụ chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về sinh mổ cũng như các ảnh hưởng ngắn hạn cũng như dài hạn đối với thai phụ và em bé. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Châu Minh cũng ghi nhận chỉ khoảng 3,7% số thai phụ có kiến thức chung về sinh mổ tốt(7). Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của tác giả Ghotbi F thực hiện vào năm 2014 trong 6 Bệnh viện tại Iran khảo sát 600 thai phụ con so cũng cho thấy tỷ lệ thai phụ có kiến thức tốt về nguy cơ của sinh mổ ảnh hưởng lên mẹ và bé cũng khá thấp chỉ khoảng 6,5%(4). Kiến thức chung về sinh mổ ở các thai phụ trong các nghiên cứu này thấp có thể có nhiều lý do: có thể do đặc điểm chung của các nghiên cứu này được thực hiện trên các thai phụ mang thai lần đầu, các nghiên cứu được thực hiện tại các quốc gia đang phát triển mà tại đó việc nâng cao nhận thức của thai phụ về thai kì vẫn chưa được chú trọng. Trong đó, nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ thai phụ hiểu biết cao hơn so với 2 nghiên cứu còn lại có thể do nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trong thời kì internet và các phương tiện truyền thông khác đang phát triển một phần nào đó giúp gia tăng nhận thức của thai phụ về mổ lấy thai. Thái độ chung thai phụ về sinh mổ Trong các thai phụ tham gia nghiên cứu chỉ khoảng 5,47% thai phụ có thái độ đúng về sinh mổ (có số điểm 9-10 điểm). Qua số liệu cho chúng ta thấy, đa số thai phụ vẫn chưa có nhận định đúng hoàn toàn về phương pháp sinh. Vì vậy, các Bệnh viện và trung tâm y tế cần chú trọng cung cấp các kiến thức cần thiết giúp nâng cao nhận thức của thai phụ. Tỷ lệ thai phụ mong muốn mổ lấy thai là 2,1%. Tỷ lệ này khá thấp khi so với các nghiên cứu trước đây, trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Châu Minh có cùng đối tượng nghiên cứu được thực hiện năm 2012 tại Bệnh viện Hùng Vương có hơn 14,3% số thai phụ mong muốn mổ lấy thai(7). Có nhiều nghiên cứu trên thế giới có tỷ lệ thai phụ mong muốn mổ lấy thai thấp tương tự như nghiên cứu của chúng tôi: nghiên cứu tác giả Chong thực hiện tại Singapore đưa ra kết quả chỉ có 3,7% mong muốn được mổ lấy thai(2); một nghiên cứu khác tại Thuỵ sĩ của tác giả Ingegerd Hildingsson khảo sát trên 3013 phụ nữ đến khám tại phòng khám tiền sản cho thấy chỉ có 8,2% số thai phụ mong muốn chấm dứt thai kì bằng mổ lấy thai trong tương lai; nghiên cứu của tác giả Graham WJ thực hiện tại Scotland có 7% thai phụ mong muốn mổ lấy thai(5), nghiên cứu tác giả Tranquilli AL thực hiện tại Ý thì chỉ có 4% mong muốn mổ lấy thai(8). Bên cạnh đó, cũng có một số các nghiên cứu có tỷ lệ thai phụ mong muốn mổ lấy thai cao hơn: nghiên cứu Najmeh Maharlouei thực hiện tại Iran có tới 31,7% thai phụ mong muốn sinh mổ và đa số các thai phụ này không có kiến thức về tác hại sinh mổ, ngoài ra, có sự tác động của chồng và gia đình thai phụ trong việc đưa ra phương pháp sinh(6). Một số yếu tố tác động lên sự lựa chọn sinh mổ của thai phụ Số con mong muốn: Theo kết quả nghiên cứu, trong nhóm thai phụ mong muốn có 2 con Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 94 sau này có tỷ lệ lựa chọn mổ lấy thai thấp hơn 6,67 lần (KTC 95: 1,58-25) so với nhóm thai phụ chỉ mong muốn 1 con sau này. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,05. Trình độ học vấn: Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ thai phụ mong muốn mổ lấy thai có trình độ học vấn “cao đẳng, đại học” thấp hơn 12,5 lần (KTC 95:1,31-100) so với thai phụ có trình độ học vấn “cấp 2”. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.Trong nghiên cứu của tác giả Cesaroni G thực hiện tai Ý cho thấy các thai phụ có trình độ học vấn “cấp 2” có tỷ lệ mổ lấy thai cao hơn so với thai phụ có trình độ học vấn “đại học, cao đẳng” gấp 1,08 lần (KTC 95 1,03-1,14)(1). Tuy nhiên, một nghiên cứu tác giả Dursun cho thấy thai phụ trong nhóm có trình độ học vấn “cao đẳng, đại học” mong muốn được có quyền quyết định mổ lấy thai cao hơn so với thai phụ có trình độ học vấn thấp hơn gấp 1,3 lần với p<0,05(3). Ở tại Việt Nam, trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Châu Minh thì trình độ học vấn không có ảnh hưởng đến quyết định mổ lấy thai của thai phụ(7). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu về tìm hiểu kiến thức và thái độ của các thai phụ về mổ lấy thai tại Bệnh viện đa khoa Đồng Nai, thực hiện trên 384 thai phụ mang thai lần đầu trong tam cá nguyệt 3 cho kết quả như sau: Tỷ lệ thai phụ có kiến thức đúng là 13,28% và thái độ đúng là 5,47%. Tỷ lệ thai phụ mong muốn sinh thường là 97,92%, sinh mổ là 2,08%. Các yếu tố tác động đến sự lựa chọn phương pháp sinh mổ của thai phụ: Thai phụ có trình độ học vấn cấp 2 có tỷ lệ mong muốn sinh mổ cao hơn gấp 12,5 lần (KTC 95%: 1,32-100) so với thai phụ có trình độ học vấn cao đẳng, đại học, với p<0,05; thai phụ mong muốn có 1 con trong tương lai có tỷ lệ mong muốn mổ lấy thai cao hơn 6,67 lần (KTC 95%: 1,59-25) so với thai phụ chỉ mong muốn 2 con sau này, với p<0,05. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cesaroni G, Forastiere F, Perucci CA (2008). “Are cesarean deliveries more likely for poorly educated parents? A brief report from Italy”. Birth, 35(3): pp. 241-4. 2. Chong ES, Mongelli M (2003). “Attitudes of Singapore women toward cesarean and vaginal deliveries”. Int J Gynaecol Obstet, 80(2): pp. 189-94. 3. Dursun P, Yanik FB, Zeyneloglu HB et al (2011). “Why women request cesarean section without medical indication?”. J Matern Fetal Neonatal Med, 24(9): pp. 1133-7 4. Ghotbi F, Akbari Sene A, Azargashb E et al (2014). “Women's knowledge and attitude towards mode of delivery and frequency of cesarean section on mother's request in six public and private hospitals in Tehran, Iran, 2012”. J Obstet Gynaecol Res, 40(5): pp. 1257-66. 5. Graham WJ, Hundley V, McCheyne AL et al (1999). “An investigation of women's involvement in the decision to deliver by caesarean section”. Br J Obstet Gynaecol, 106(3): pp. 213-20. 6. Maharlouei N, Rezaianzadeh A, Hesami E et al (2013). “The preference of Iranian women to have normal vaginal or cesarean deliveries”. J Res Med Sci, 18(11): pp. 943-50. 7. Nguyễn Châu Minh (2014). “Khảo sát kiến thức và thái độ về sinh mổ trên các thai phụ mang thai lần đầu tại Bệnh viện Hùng Vương”. Đại hoc Y dược TP Hồ Chí Minh. 8. Tranquilli AL, Garzetti GG (1997). “A new ethical and clinical dilemma in obstetric practice: cesarean section ‘on maternal request”. Am J Obstet Gynecol, 177(1): pp. 245-6. 9. WHO (1985). “Appropriate technology for birth”. Lancet, 2(8452): pp. 436-7. Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_kien_thuc_va_thai_do_ve_sinh_mo_tren_cac_thai_phu_m.pdf
Tài liệu liên quan