Khảo sát khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập thủy điện sê san 4 bằng phương pháp radar xuyên đất

Tài liệu Khảo sát khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập thủy điện sê san 4 bằng phương pháp radar xuyên đất: ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 51 KHẢO SÁT KHOANG RỖNG BÊN DƯỚI BÊ TÔNG LÁT MÁI THƯỢNG LƯU VAI PHẢI ĐẬP THỦY ĐIỆN SÊ SAN 4 BẰNG PHƯƠNG PHÁP RADAR XUYÊN ĐẤT PHẠM LÊ HOÀNG LINH*, DƯƠNG VĂN SÁU*, VŨ HOÀNG HIỆP*, LÊ VĂN ĐỨC*, HOÀNG VIỆT HÙNG** Investigating the void beneath reinforcement concrete of Se San 4 hydraulic dam upstream slope by Ground Penetrating Radar Abstract: Ground Penetrating Radar is a non-destructive exploration method which is widely used in reinforced concrete survey such as: defining voids beneath concrete, mapping rebars mesh in reinforced concrete, or determining the thickness of concrete slabs. With the advantage of fast survey speed, high resolution, this method has proven its superiority. The paper presents some new results from applying Ground Penetrating Radar to investigate voids beneath reinforcement concrete of Se San 4 hydraulic dam upstream slope. These results have effectively served the management and assessment of dam safety ...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập thủy điện sê san 4 bằng phương pháp radar xuyên đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 51 KHẢO SÁT KHOANG RỖNG BÊN DƯỚI BÊ TÔNG LÁT MÁI THƯỢNG LƯU VAI PHẢI ĐẬP THỦY ĐIỆN SÊ SAN 4 BẰNG PHƯƠNG PHÁP RADAR XUYÊN ĐẤT PHẠM LÊ HOÀNG LINH*, DƯƠNG VĂN SÁU*, VŨ HOÀNG HIỆP*, LÊ VĂN ĐỨC*, HOÀNG VIỆT HÙNG** Investigating the void beneath reinforcement concrete of Se San 4 hydraulic dam upstream slope by Ground Penetrating Radar Abstract: Ground Penetrating Radar is a non-destructive exploration method which is widely used in reinforced concrete survey such as: defining voids beneath concrete, mapping rebars mesh in reinforced concrete, or determining the thickness of concrete slabs. With the advantage of fast survey speed, high resolution, this method has proven its superiority. The paper presents some new results from applying Ground Penetrating Radar to investigate voids beneath reinforcement concrete of Se San 4 hydraulic dam upstream slope. These results have effectively served the management and assessment of dam safety by management agencies Keywords: Ground Penetrating Radar, void, reinforcement concrete, dam safety, Se San 4 hydraulic dam 1. MỞ ĐẦU* Phương pháp Radar xuyên đất là phương pháp thăm dò không phá hủy được ứng dụng rộng rãi trong các công tác khảo sát bê tông cốt thép như: xác định khoang rỗng bên dưới bê tông, bản đồ hóa lưới thép trong bê tông cốt thép, hay xác định bề dày tấm bê tông. Với ưu thế tốc độ khảo sát nhanh, độ phân giải cao, phương pháp này đã chứng minh được tính ưu việt của mình. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày một số kết quả mới thu được khi áp dụng phương pháp Radar đất để xác định khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập Thủy điện Sê San 4. Kết quả này đã phục vụ hiệu quả công tác quản lý và đánh giá an toàn đập của các cơ quan quản lý. * Phòng Nghiên cứu Ứng dụng Địa vật lý - Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình ** Bộ môn Địa Kỹ thuật - Đại học Thủy lợi 2. GIỚI THIỆU CHUNG Thủy điện Sê San 4 là công trình thủy điện được xây dựng trên sông Sê San thuộc địa bàn xã Ia O, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai và xã Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum (Hình 1). Đây là đập đất đồng chất, dài 760m, đỉnh đập rộng 10m. Mái thượng lưu đập được gia cố bằng bê tông cốt thép đổ tại chỗ dày 22cm, kích thước mỗi tấm là 4m x 4m. Sau quá trình tích nước đưa vào sử dụng, lớp bê tông gia cố mái thượng lưu vai phải đập đã bị xuống cấp một phần: bề mặt bê tông xuất hiện dấu hiệu tróc rỗ, phong hóa; tại một số vị trí bề mặt bê tông uốn lượn không bằng phẳng. Các biểu hiện bề mặt trên có thể do nguyên nhân khoang rỗng bên dưới lớp bê tông gây ra. Khi đó, lớp bê tông gia cố sẽ mất tiếp xúc với các lớp đệm bên dưới nó, khiến cho dưới áp lực tự thân hay dưới áp lực nước lớn, bê tông dễ bị ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 52 nứt nẻ, biến dạng gây mất an toàn mái đập. Vì vậy, khảo sát phát hiện sớm khoang rỗng bên dưới lớp bê tông để có biện pháp gia cố, xử lý là vô cùng cần thiết tại công trình đập Thủy Điện Sê San 4. Hình 1. Vị trí vai phải đập Thủy điện Sê San 4 Hiện nay, việc sử dụng các phương pháp thăm dò không phá hủy dựa trên nguyên lý của sự lan truyền sóng đàn hồi và sóng điện từ là phổ biến cho các mục đích khảo sát công trình xây dựng. Các phương pháp có thể kể đến như: phương pháp siêu âm (Ultrasonic), phương pháp tiếng vang tiếp xúc (Impact echo) và phương pháp Radar xuyên đất (Ground Penetrating Radar) là được áp dụng rộng rãi nhất. Phương pháp siêu âm và phương pháp tiếng vang tiếp xúc có ưu thế hơn trong việc xác định các lỗ rỗng nhỏ, nứt nẻ bên trong cấu kiện bê tông [10]. Nhưng với tốc độ khảo sát nhanh và độ phân giải cao, phương pháp Radar xuyên đất đã đạt được nhiều thành tựu không thể phủ nhận, đặc biệt trong việc phát hiện các khoang rỗng bên dưới tấm bê tông [2, 5, 8, 10]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương pháp Radar xuyên đất để xác định vị trí các khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập Thủy điện Sê San 4. 3. CƠ SỞ LÝ THUYẾT Phương pháp Radar xuyên đất là phương pháp địa vật lý thăm dò không phá hủy, có tốc độ nhanh, độ phân giải cao, có thể đo ghi và biểu diễn kết quả liên tục theo thời gian thực. Phương pháp trên sử dụng sóng điện từ có tần số từ 10MHz đến 2,6GHz để điều tra các đặc điểm bên dưới bề mặt [3, 7]. Sóng điện từ lan truyền trong môi trường đất với vận tốc được biểu diễn theo công thức: V = c/ εr 1/2 (1) Trong đó: εr là hằng số điện môi của đất; c = 0,3 m/ns là vận tốc truyền sóng điện từ trong không khí; v (m/ns) là vận tốc truyền sóng điện từ trong đất. [4, 6, 9] Khi gặp các ranh giới mà vận tốc truyền sóng điện từ thay đổi qua ranh giới đó hay nói cách khác là các ranh giới của 2 môi trường có giá trị hằng số điện môi khác nhau, sóng điện từ bị phản xạ một phần, với hệ số phản xạ được tính theo công thức: (2) trong đó: - là hằng số điện môi tương đối của môi trường thứ nhất. - là hằng số điện môi tương đối của môi trường thứ hai. [4]. Giá trị hằng số điện môi của một số vật liệu được trình bày trong Bảng 1. [6] Hình 2. Hệ thiết bị Radar xuyên đất bao gồm khối điều khiển và ăng ten 400MHz Hệ thiết bị Radar xuyên đất cơ bản bao gồm một khối điều khiển (GPR controller) được kết ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 53 nối với ăng ten phát và ăng ten thu thông qua cáp truyền tín hiệu, bên cạnh đó còn có một số phụ kiện đi kèm như GPS, bánh xe khảo sát (Hình 2). Xung sóng điện từ qua ăng ten phát được lan truyền vào môi trường. Khi sóng điện từ đi trong môi trường, một phần năng lượng được phản hồi khi gặp các ranh giới thay đổi về hằng số điện môi, một phần khác tiếp tục đi xuyên sâu hơn. Phần năng lượng phản hồi từ môi trường mang theo thông tin về đối tượng quan tâm được ăng ten thu ghi lại. Các tín hiệu phản hồi sau đó được khối điều khiển tập hợp lại dưới dạng mặt cắt Radar (Radar image) (Hình 3). Điều này giúp người sử dụng theo dõi chất lượng tín hiệu thu thập được ở thời gian thực. Xử lý, phân tích tín hiệu sóng điện từ phản hồi này cung cấp cho chúng ta thông tin về đặc điểm của các đối tượng quan tâm bên dưới bề mặt. Bảng 1. Giá trị hằng số điện môi của một số vật liệu STT Tên vật chất Giá trị hằng số điện môi r 1 Không khí 1 2 Đất khô 5 3 Đất ướt 25 4 Nước ngọt 81 5 Đất bồi 5-30 6 Đất sét 5-40 7 Đá phiến sét 5-15 8 Đá granit 4-6 9 Đá vôi 4-8 10 Cát khô 3-5 11 Cát ướt 20-30 12 Nước biển 80 13 Kim loại dẫn điện ∞ Hình 3. Nguyên lý hình thành mặt cắt Radar Các đại lượng vật lý đặc trưng của sóng điện từ được dùng trong phương pháp Radar đất như: vận tốc truyền sóng (v), bước sóng (λ), hệ số suy giảm (α), hằng số điện môi tương đối hay độ điện thẩm tương đối (r), độ từ thẩm (μ), độ dẫn điện (σ) Độ sâu khảo sát của phương pháp phụ thuộc vào tần số của ăng ten phát thu và tính chất vật lý của môi trường địa chất trong đó giá trị hằng số điện môi tương đối ) và độ dẫn điện (σ) là chủ yếu. Tần số càng cao, độ dẫn điện và hằng số điện môi càng lớn thì chiều sâu khảo sát càng nhỏ. [1, 2] Độ phân giải dọc của phương pháp Radar ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 54 xuyên đất là khoảng cách giữa các phản xạ phân biệt trên một đường ghi tín hiệu [6]. Nói cách khác là khoảng cách cần thiết để phân biệt được hai đối tượng nằm sát nhau (khoảng cách này được ký hiệu là X). Theo nguyên lý Niyquist, X trong môi trường lý tưởng nhận giá trị là 0,25λ, trong môi trường thực tế X > 0,5 λ, với λ là bước sóng của tín hiệu điện từ trong môi trường được xác định qua công thức: λ = V/f (V là vận tốc truyền sóng điện từ trong môi trường, f là tần số của ăng ten). Như vậy, trong một môi trường nhất định, tần số ăng ten càng cao thì độ phân dải càng tốt và ngược lại. Bê tông là vật liệu ít hấp thụ năng lượng sóng điện từ do có giá trị hằng số điện môi thấp (ε=7÷12), nên đây là môi trường khá lý tưởng cho thăm dò bằng phương pháp Rada xuyên đất. Tuy nhiên, đối với bê tông cốt thép lại là một trường hợp khác biệt. Lưới thép bên trong bê tông cốt thép là tác nhân chính cản trở sóng điện từ truyền qua lớp bê tông để thăm dò các đối tượng bên dưới. Thép có hằng số điện môi vô cùng lớn (ε ~ ∞) nên nó gần như hấp thụ và phản xạ lại toàn bộ năng lượng sóng điện từ truyền đến. Để có thể thăm dò các đối tượng bên dưới lưới thép, xung sóng điện từ phải có bước sóng nhỏ hơn khoảng cách mắt thép [4]. Bước sóng của xung sóng điện từ trong môi trường được xác định qua công thức: λ= v/f (3) Trong đó: λ (m) là bước sóng của xung sóng điện từ trong môi trường; v (m/ns) là vận tốc sóng điện từ truyền trong môi trường; f (GHz) là tần số của xung sóng điện từ. Vận tốc truyền sóng điện từ trong bê tông là một giá trị xác định, nên để sóng điện từ có thể đi xuyên qua lưới thép chúng ta cần lựa chọn tần số phát của ăng ten thích hợp sao cho bước sóng của xung sóng điện từ (λ) nhỏ hơn khoảng cách mắt thép. Nếu bước sóng của xung sóng điện từ lớn hơn khoảng cách mắt thép thì năng lượng sóng bị lưới thép chặn lại và phản xạ nhiều lần tại đó, chúng ta sẽ không thu được thông tin về môi trường bên dưới lưới thép. Mặt khác, khi bước sóng của xung sóng điện từ nhỏ hơn khoảng cách mắt thép thì xung sóng có thể xuyên qua lưới thép để đem về thông tin của đối tượng bên dưới, ở đây đối tượng bên dưới lưới thép được quan tâm là khoang rỗng. Khoang rỗng bên dưới lớp bê tông gây ra sự tương phản lớn về giá trị hằng số điện môi so với môi trường bê tông bên trên với giá trị hằng số điện môi của không khí trong khoang rỗng là 1 (εkk = 1) và giá trị hằng số điện môi của bê tông thay đổi từ 7 đến 12 (ε = 7 ÷ 12) phụ thuộc vào độ trưởng thành và hàm lượng xi măng trong bê tông. Chính vì sự tương phản này mà Radar xuyên đất có thể dễ dàng phát hiện được các khoang rỗng. Trên mặt cắt Radar xuyên đất, khoang rỗng được biểu thị như một “điểm sáng” tạo nên bởi các xung sóng phản xạ có biên độ lớn [3]. 4. KHẢO SÁT KHOANG RỖNG BÊN DƯỚI BÊ TÔNG LÁT MÁI THƯỢNG LƯU VAI PHẢI ĐẬP THỦY ĐIỆN SÊ SAN 4 4.1. Công tác khảo sát thực địa 4.1.1. Thiết bị sử dụng Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng hệ thiết bị Radar xuyên đất SIR 30, hãng GSSI, Mỹ. Hệ thiết bị bao gồm khối điều khiển SIR 30 và ăng ten phát thu có tần số 900MHz. Việc lựa chọn tần số ăngten phụ thuộc vào tính chất của môi trường và đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là khoang rỗng nằm dưới tấm bê tông cốt thép dày 0,22m, có 02 lớp thép với khoảng lưới thép là 0,2m. Để có thể thu được tín hiệu Radar phản hồi từ đối tượng, bước sóng của tín hiệu Radar phải nhỏ hơn khoảng lưới thép, hay λ < 0,2m. Vận tốc truyền sóng điện từ trong bê tông nằm trong khoảng 0,08- 0,11 m/ns tương ứng với giá trị hằng số điện môi ε = 12 ÷ 7 (theo công thức 1). Mặt khác để đáp ứng yêu cầu về độ sâu nghiên cứu, năng lượng sóng điện từ phải đến được đối tượng và quay trở lại mà không bị hấp thụ hết bởi môi ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 55 trường. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn ăngten tần số 900MHz cho khảo sát này. 4.1.2. Biện pháp khảo sát và bố trí tuyến đo Trong phương pháp Radar xuyên đất có nhiều biện pháp khảo sát như: mặt cắt sóng phản xạ, đo truyền xuyên qua (phương pháp chiếu sóng), đo điểm sâu chung. Để thực hiện khảo sát này, chúng tôi sử dụng biện pháp mặt cắt sóng phản xạ, đây là phương pháp thường dùng nhất trong khảo sát với việc kéo ăngten theo một tuyến thì kết quả cho ra một mặt cắt mô phỏng mặt cắt địa chất ở phía dưới theo phương thẳng đứng. Trong quá trình đo ăngten luôn luôn phát và luôn thu, quá trình này dừng lại khi ta kết thúc tuyến đo. Hệ thống tuyến đo được bố trí theo các tuyến đo dọc song song với mặt đập (có cùng cao độ) sao cho trên một tấm bê tông lát mái bố trí tối thiểu 02 tuyến đo và khoảng cách giữa các tuyến đo là 2m. Mỗi tuyến đo được chia thành các đoạn nhỏ có độ dài 50m. Vị trí đầu và cuối của mỗi đoạn đều được đánh số thứ tự và có tọa độ chính xác. Trong trường hợp phát hiện có dị thường trên tuyến đo thì bố trí một số tuyến đo bổ sung theo mạng lưới ô vuông, với khoảng cách giữa các tuyến đo là 0,5m/tuyến đo. 4.2. Xử lý số liệu Số liệu đo đạc được xử lý bằng phần mềm RADAN7 với các phép xử lý quan trọng như: hiệu chỉnh điểm 0, lọc tần số, khuếch đại tín hiệu. 4.2.1. Hiệu chỉnh điểm 0 (Timezero correction) Do sự trễ thời gian truyền sóng từ ăng ten đến mặt đất nên ranh giới không khí-mặt đất không nằm ở mốc 0. Điều này khiến cho sự minh giải độ sâu của đối tượng bị sai lệch đáng kể. Để đưa phản xạ của mặt đất trở về đúng với mốc 0, ta phải áp dụng các thuật toán nhằm hiệu chỉnh điểm 0. Thông thường mốc 0 sẽ được hiệu chỉnh về đỉnh cực đại của xung phản xạ đầu tiên. 4.2.2 Lọc tần số (Bandpass filter) Tín hiệu sóng điện từ thu được tồn tại nhiễu đến từ nhiều nguồn khác nhau. Các nguồn gây nhiễu có thể đến từ các thiết bị phát sóng điện từ khác hoặc là tín hiệu điện từ phản hồi từ các vật thể không phải đối tượng quan tâm. Để tăng tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu, ta sử dụng bộ lọc tần số theo phương thẳng đứng. Bộ lọc được đặc trưng bằng các hàm lọc trong miền tần số, giúp loại bỏ các thành phần tần số không liên quan đến đối tượng. 4.2.3 Khuếch đại tín hiệu (Gain) Tín hiệu Radar bị suy giảm rất nhanh khi lan truyền vào lòng đất. Cường độ tín hiệu từ các độ sâu lớn có giá trị bé hơn rất nhiều so với cường độ tín hiệu ở độ sâu nhỏ. Do vậy, các phản xạ ở sâu trở nên khó nhận biết. Bằng cách áp dụng các hàm khuếch đại tín hiệu theo thời gian để bù đắp phần năng lượng mất mát khi sóng điện từ lan truyền trong môi trường, tín hiệu từ đối tượng có thể được xác định dễ dàng hơn. 4.3. Kết quả khảo sát Trong phạm vi khảo sát từ cao độ +210,00 (cao trình mực nước chết) đến cao độ +221,40 (cao trình đỉnh mặt đập) thuộc vai phải đập Thủy điện Sê San 4, chúng tôi phát hiện một số khu vực bê tông có tồn tại khoang rỗng bên dưới. Khu vực 1 Hình 4. Hình ảnh nội soi lỗ khoan thể hiện khoang rỗng nhỏ dưới lớp bê tông ở độ sâu 11,5cm tại khu vực 1 Dị thường nằm trong khoảng 13-18m thuộc các tuyến 38-39, 53-52, 68-69, có cao độ lần lượt là +219,94m; +219,31m; +218,67m. Dị ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 56 thường này nằm toàn bộ trong phạm vi 1 tấm bê tông. Kết quả phân tích dị thường cho thấy, khu vực xuất hiện dị thường có độ dày bê tông nhỏ hơn so với thiết kế (10-12cm), thiếu cốt thép bên trong và bên dưới tấm bê tông lát mái tồn tại khoang rỗng nhỏ, diện tích khu vực khoang rỗng khoảng 6m2. Phân bố khu vực dị thường được thể hiện trên hình 9. Khu vực dị thường đã được kiểm tra bằng 02 lỗ khoan và chụp ảnh nội soi trong lỗ khoan. Kết quả nội soi tại cả hai lỗ khoan cho thấy: độ dày lớp bê tông là 11,5cm và bên dưới lớp bê tông tồn tại khoang rỗng nhỏ (0,02-0,03m). Kết quả này là tương đồng với kết quả minh giải tài liệu Radar đất tại khu vực. Hình 5. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 13-18m trên tuyến 68-69, ở cao trình +218,67m, tọa độ đầu tuyến (445287,94; 1545717,62), tọa độ cuối tuyến (445277,41; 1545668,74) Hình 6. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 14-17m trên tuyến 53-52, ở cao trình +219,31m, tọa độ đầu tuyến (445286,08; 1545718,01), tọa độ cuối tuyến (445275,55; 1545669,14) Hình 7. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 15-18m trên tuyến 38-39, ở cao trình +219,94m, tọa độ đầu tuyến (445284,22; 1545718,41), tọa độ cuối tuyến (445273,69; 1545669,53) ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 57 Khu vực 2: Dị thường nằm trong khoảng 29,5-32m trên tuyến 280-281, ở cao trình +211,02m, tọa độ đầu tuyến (445250,85; 1545418,76), tọa độ cuối tuyến (445240,28; 1545369,89). Kết quả minh giải tài liệu Radar xuyên đất cho thấy đây là dị thường liên quan đến khoang rỗng bên dưới lớp bê tông. Chúng tôi tiến hành khảo sát chi tiết để chính xác hóa vị trí khoang rỗng. Phân tích kết quả khảo sát chi tiết cho thấy khu vực khoang rỗng có diện tích nhỏ (~2m2) và chiều cao khoang rỗng ~0,04m. Phân bố khu vực dị thường được thể hiện trên hình 10. Hình 8. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 29,5-32m trên tuyến 280-281, ở cao trình +211,02m, tọa độ đầu tuyến (445250,85; 1545418,76), tọa độ cuối tuyến (445240,28; 1545369,89) Hình 9. Phạm vi khu vực dị thường số 1 Hình 10. Phạm vi khu vực dị thường số 2 5. KẾT LUẬN Từ kết quả khảo sát xác định khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập Thủy điện Sê San 4 bằng phương pháp Radar xuyên đất, có một số nhận xét như sau: 1. Phương pháp Radar xuyên đất là phương pháp thăm dò không phá hủy hiệu quả trong việc xác định khoang rỗng bên dưới lớp bê tông cốt thép. 2. Hệ thiết bị Radar xuyên đất với ăng ten tần ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 58 số 900MHz đáp ứng được yêu cầu về độ phân giải và chiều sâu nghiên cứu trong khảo sát các bê tông cốt thép có độ dày từ 0,2-0,4m, 02 lớp thép, khoảng cách mắt thép là 0,15-0,2m. Hệ thiết bị này cho phép phát hiện các vị trí bê tông bị thiếu hụt cốt thép và các khoang rỗng nhỏ (0,02-0,04m) bên dưới lớp bê tông. 3. Kết quả của nghiên cứu đã phục vụ hiệu quả công tác quản lý và đánh giá an toàn đập của các cơ quan quản lý. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đỗ Anh Chung, Nguyễn Văn Lợi, Phạm Lê Hoàng Linh, Dương Văn Sáu, Vũ Hoàng Hiệp, Trần Thế Việt (2019). Đánh giá hiện trạng đê bằng tổ hợp các phương pháp địa vật lý: Điện đa cực và Radar đất. Tạp chí Địa kỹ thuật (Geotechnical Journal) Số 1- 2019, 43-50. [2] Đỗ Anh Chung, Nguyễn Văn Lợi, Vũ Đức Minh (2013).Áp dụng phương pháp Radar đất để xác định “thoát không” dưới bê tông bản mặt đập Cửa Đạt. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Tập 29, 8-15. [3] A.P.Annan (2003). Ground penetrating radar Principles, Procedures and Applications. Sensors & Software Inc. [4] Andrea Bebedetto, Lara Pajewshi (2015). Civil engineering application of Ground penetrating radar. Springer. [5] Brett Kravitz, Michael Mooney, Jurij Karlovsek, Ian Danielson, Ahmandreza Hedayat (2019). Void detection in two-component annulus grout behind a pre-cast segmental tunnel liner using Ground Penentrating Radar. Tunnneling and Underground Space Technology 83, 381-392. [6] Daniels, D.J. (2004). Ground Penetrating Radar 2nd Edition. IET. The Institution of Electrical Engineers, London. [7] Erica Carrick Utsi (2017). Ground penetrating radar Theory and Applications. Butterworth-Heinemann, Elsevier. [8] Giannopoulos, A., Macintyre, P., Rodgers, S., Forde, M.C. (2002). GPR detection of voids in post-tensioned concrete bridge beams. SPIE Proceedings of the Ninth International Conference on Ground Penetrating Radar , pp. 376–381 [9] Lawrence B.Conyers (2012). Interpreting Ground-penetrating Radar for Archaeology. Left Coast Press, Inc. [10] Nigel J.Cassidy, Rod Eddies, Sam Dods (2011).Void detection beneath reainforced concrete sections: The practical application of ground penetrating radar and ultrasonic techniques. Journal of Applied Geophysics 74, 263-276. Người phản biện: PGS.TSKH TRẦN MẠNH LIỂU

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf7_5195_2159767.pdf
Tài liệu liên quan