Khảo sát hình ảnh một số bất thường hành cảnh thường gặp

Tài liệu Khảo sát hình ảnh một số bất thường hành cảnh thường gặp: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 53 KHẢO SÁT HÌNH ẢNH MỘT SỐ BẤT THƯỜNG HÀNH CẢNH THƯỜNG GẶP Đỗ Hải Thanh Anh*, Phạm Ngọc Hoa**, Ngô Trí Hùng*** TÓM TẮT Mở đầu: Hành cảnh là một cấu trúc giải phẫu ở vùng xương thái dương, có liên quan nhiều với các cấu trúc xung quanh. Hành cảnh có nhiều biến thể về hình dạng, kích thước có thể gây nhầm lẫn trong chẩn đoán bệnh lí vùng này hoặc ảnh hưởng đến các đường vào phẫu thuật, có thể gây ra tai biến nghiêm trọng trong mổ. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ, đặc điểm dịch tễ một số biến thể của hành cảnh: hành cảnh nằm cao, hành cảnh hở, túi thừa hành cảnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang, phương pháp lấy mẫu hồi cứu. Thu thập hình ảnh chụp cắt lớp vi tính của 862 xương thái dương (431 bệnh nhân, 245 nữ, 186 nam), máy chụp cắt lớp vi tính 64 lát cắt và 128 lát cắt, chụp xoắn ốc, độ dày lát cắt tái tạo 0,6-0,625mm, dựng hình đa mặt phẳn...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát hình ảnh một số bất thường hành cảnh thường gặp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 53 KHẢO SÁT HÌNH ẢNH MỘT SỐ BẤT THƯỜNG HÀNH CẢNH THƯỜNG GẶP Đỗ Hải Thanh Anh*, Phạm Ngọc Hoa**, Ngô Trí Hùng*** TÓM TẮT Mở đầu: Hành cảnh là một cấu trúc giải phẫu ở vùng xương thái dương, có liên quan nhiều với các cấu trúc xung quanh. Hành cảnh có nhiều biến thể về hình dạng, kích thước có thể gây nhầm lẫn trong chẩn đoán bệnh lí vùng này hoặc ảnh hưởng đến các đường vào phẫu thuật, có thể gây ra tai biến nghiêm trọng trong mổ. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ, đặc điểm dịch tễ một số biến thể của hành cảnh: hành cảnh nằm cao, hành cảnh hở, túi thừa hành cảnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang, phương pháp lấy mẫu hồi cứu. Thu thập hình ảnh chụp cắt lớp vi tính của 862 xương thái dương (431 bệnh nhân, 245 nữ, 186 nam), máy chụp cắt lớp vi tính 64 lát cắt và 128 lát cắt, chụp xoắn ốc, độ dày lát cắt tái tạo 0,6-0,625mm, dựng hình đa mặt phẳng. Kết quả: Hành cảnh nằm cao: tỉ lệ chung 41,6%, hành cảnh nằm cao hai bên 19,3%, bên phải: nữ 59,6%, nam 42,5% (p=0,005), bên trái: nữ 36,3%, nam 24,2% (p=0,0085). Hành cảnh hở và túi thừa hành cảnh là 2 biến thể được quan sát thấy trên nhóm có hành cảnh nằm cao. Hành cảnh hở: tỉ lệ chung 5%, tỉ lệ trong nhóm có hành cảnh nằm cao: 12%, hở bên phải 13,8%, hở bên trái 9%, tỉ lệ hở ở nam cao hơn nữ và bên phải cao hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Túi thừa hành cảnh: tỉ lệ chung 7,2%, tỉ lệ trong nhóm có hành cảnh nằm cao:17,3%, bên phải: 14,7%, bên trái 21,6%, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới và tuổi. Kết luận: Hành cảnh nằm cao là một biến thể khá phổ biến với tỉ lệ 41,6%, xuất hiện ưu thế ở nữ và bên phải; hành cảnh nằm cao hai bên 19,3%. Hành cảnh hở và túi thừa hành cảnh là 2 biến thể được quan sát thấy trên nhóm có hành cảnh nằm cao, tỉ lệ chung trên mẫu nghiên cứu lần lượt là 5% và 7,2%. Hành cảnh hở ưu thế bên phải và ở nam. Túi thừa hành cảnh ưu thế bên trái. Ứng dụng chụp cắt lớp vi tính giúp khảo sát tốt hơn vùng xương thái dương, phát hiện các bất thường của hành cảnh, góp phần trong chẩn đoán bệnh và lập kế hoạch điều trị, tránh những tai biến có thể có do hiện diện các biến thể của hành cảnh. Từ khóa: hành cảnh, hành cảnh nằm cao, hành cảnh hở, túi thừa hành cảnh, chụp cắt lớp vi tính ABSTRACT IMAGING OF SOME JUGULAR BULB’S ABNORMALITIES Do Hai Thanh Anh, Pham Ngoc Hoa, Ngo Tri Hung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 53-59 Background: Jugular bulb is an anatomical structure in the temporal bones, which is closely related to many surrounding structures. Jugular bulbs have many variations in shape and size that can cause confusion in diagnosing some diseases in this area as well as affect the surgical approaches, which can lead to serious complications. Purpose: Define the ratio and some epidemiological characteristics of some variants of the jugular bulb: jugular bulb, high jugular bulb, dehiscent jugular bulb, jugular bulb diverticulum. Materials and methods: Cross-sectional design, retrospective sampling. Collecting computed tomography *Bộ môn Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh, ** Hội Chẩn Đoán Hình Ảnh TP. Hồ Chí Minh *** Bộ môn Giải phẫu học, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Đỗ Hải Thanh Anh ĐT: 0935887889 Email: tadh@ump.edu.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 54 images of 862 temporal bones (431 patients, 245 women, 186 men), using 64-slice and 128-slice CT scanners, spiral acquisition, reconstructive thickness 0.6-0.625mm, multiplanar reconstruction. Results: High jugular bulbs: general rate is 41.6%, bilateral high jugular bulbs 19.3%, on the right: female 59.6%, male 42.5% (p = 0.005), on the left: female 36.2%, male 24.2% (p = 0.0085). Dehiscent jugular bulb and jugular diverticulum are the two variants observed only in the high jugular group. Dehiscent jugular bulbs: general rate 5%, the rate in the high jugular group 12%, on the right 13.8%, on the left 9%, higher ratio in men than women and on the right to the left side, which have statistical significance. Jugular bulb diverticulum: general rak 7.2%, the rate in the high jugular group: 17.3%, 14.7% on the right side, 21.6% on the left side, no statistically siguificant difference on gender and age. Conclusion: High jugular bulb was a quite common variant with a rate of 41.6% in the sample, and the incidence was 19.3% on both sides. Dehiscent jugular bulb and jugular bulb diverticulum were two variants seen in the high jugular bulb group, with the overall rate of 5% and 7.2%, respectively. Care should be taken to detect these variants when examining temporal bone CT scans, contributing to the diagnosis and treatment planning, avoiding diagnostic errors or surgical complications when these variants are not recognized. Keywords: jugular bulb, high jugular bulb, dehiscent jugular bulb, jugular bulb diverticulum, computed tomography ĐẶT VẤN ĐỀ Vùng xương thái dương có cấu trúc giải phẫu khá phức tạp. Ngoài việc có hình dạng đặc biệt, tại đây còn có các cấu trúc xương, xoang, tai giữa, tai trong, các cấu trúc mạch máu, thần kinh đan xen nhau. Chính vì vậy các nhóm bệnh lí có thể xuất hiện tại đây cũng đa dạng, liên quan đến nhiều chuyên ngành khác nhau, từ thần kinh, mạch máu đến tai mũi họng. Việc chẩn đoán chính xác bệnh lí để có hướng điều trị phù hợp luôn là vấn đề thiết yếu, đặc biệt là khi liên quan đến việc cần can thiệp ngoại khoa. Luôn cần xác định chắc chắn một tổn thương choán chỗ cần can thiệp ngoại khoa không phải là một mạch máu bất thường để tránh những tai biến nghiêm trọng không lường trước được có thể gây nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Ba cấu trúc mạch máu lớn liên quan đến vùng này là động mạch cảnh trong đoạn trong xương đá, hành cảnh và xoang tĩnh mạch bên. Trong đó hành cảnh là một cấu trúc có kích thước và hình dạng rất thay đổi giữa các cá thể khác nhau(5). Một hành cảnh nằm cao hơn vị trí bình thường, đặc biệt là khi đi kèm với khuyết mảnh xương che phủ vòm hành cảnh, có thể lồi vào tai giữa, không những có thể gây nhầm lẫn với tổn thương khác như u cuộn mạch, hoặc có thể gây ra hay liên quan đến những triệu chứng như ù tai, giảm thính lực, mà còn ảnh hưởng đến đường vào phẫu thuật ở vùng này, có thể gây tai biến chảy máu nghiêm trọng trong khi mổ(4,11,12,13,15). Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về những biến thể của hành cảnh nhưng tại Việt Nam chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu về vấn đề này. Bên cạnh đó, sự tiến bộ của các kĩ thuật hình ảnh học y khoa cũng khiến cho việc xem xét, đánh giá trước mổ vùng xương thái dương vốn có cấu trúc phức tạp trở nên thuận lợi hơn. Do đó, chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu “Khảo sát hình ảnh một số bất thường hành cảnh thường gặp” với mục tiêu. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ một số bất thường hành cảnh thường gặp: hành cảnh nằm cao, hành cảnh hở, túi thừa hành cảnh. Xác định mối liên quan giữa các bất thường này với nhau và với đặc tính về tuổi, giới tính. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu Những bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính vùng đầu cổ ở Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 55 Chí Minh cơ sở I và Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2013 đến tháng 4/2017, có hình ảnh được lưu trữ hoặc có thể tái tạo với lát cắt mỏng hơn hoặc bằng 0,625 mm và dựng hình đa mặt phẳng. Loại trừ những bệnh nhân có tổn thương hoặc đã từng can thiệp ở vùng xương thái dương, tai giữa hoặc hố sau. Phương tiện nghiên cứu Khảo sát bằng máy chụp cắt lớp vi tính 64 lát cắt và 128 lát cắt, trên các lát cắt mỏng hơn hoặc bằng 0,625 mm, dựng hình đa mặt phẳng, mặt phẳng ngang trục song song với đường cắt qua hốc mắt-lỗ tai, khảo sát chính trên cửa sổ xương. Thu thập dữ liệu hình ảnh chụp cắt lớp vi tính từ máy chụp, trạm làm việc, hệ thống PACS, xử lí dựng hình và đo đạc trên các trạm làm việc với phần mềm chuyên dụng. Số liệu được thu thập bằng bảng thu thập số liệu, nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20. Xác định mối liên quan bằng phép kiểm Chi bình phương, phép kiểm chính xác Fisher. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. KẾT QUẢ Trong khoảng thời gian tiến hành nghiên cứu thu được 862 mẫu chụp cắt lớp vi tính xương thái dương trên 431 bệnh nhân, gồm 245 nữ (56,8%) và 186 nam (43,2%), tuổi từ 14 đến 94 tuổi, tuổi trung bình 46,13 ± 16,7. Hành cảnh nằm cao Bảng 1. Tỉ lệ hành cảnh nằm cao chung, nằm cao hai bên Chung (n = 862) Bên phải (n = 431) Bên trái (n = 431) Hành cảnh nằm cao Có 359 (41,6%) 225 (52,2%) 134 (31,1%) Không 503 (58,4%) 206 (47,8%) 297 (68,9%) Hành cảnh nằm cao hai bên Có 83 (19,3%) Không 348 (80,7%) Tiêu chuẩn hành cảnh nằm cao trong nghiên cứu: Hành cảnh nằm cao khi điểm cao nhất của vòm hành cảnh vượt quá vòng đáy của ốc tai và cửa sổ tròn. Trong thời gian nghiên cứu, trên 862 mẫu xương thái dương (431 bên phải, 431 bên trái) được khảo sát chụp cắt lớp vi tính, chúng tôi thu được 359 (41,6%) trường hợp có hành cảnh nằm cao. Số trường hợp có hành cảnh nằm cao hai bên là 83/431 mẫu (19,3%). Phân bố theo giới trong nhóm hành cảnh nằm cao chung Có 359 trường hợp hành cảnh nằm cao, trong đó: Hành cảnh nằm cao bên phải: 225 trường hợp, trong đó 146 trường hợp là nữ, 79 trường hợp là nam. Hành cảnh nằm cao bên trái: 134 trường hợp, trong đó 89 trường hợp là nữ, 45 trường hợp là nam. Dân số mẫu có 245 nữ và 186 nam. Tỉ lệ hành cảnh nằm cao bên phải ở nữ là 59,6%, ở nam là 42,5%, giá trị p = 0,0005. Tỉ lệ hành cảnh nằm cao bên trái ở nữ là 36,3%, ở nam là 24,2%, giá trị p=0,0085. Tính chung trong nhóm có hành cảnh nằm cao, tỉ lệ có hành cảnh nằm cao ở mỗi bên ở nữ cao hơn nam, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Phân bố theo giới trong nhóm hành cảnh nằm cao hai bên Số trường hợp hành cảnh nằm cao hai bên là 83 trường hợp. Dân số mẫu có 245 nữ và 186 nam. Tỉ lệ có hành cảnh nằm cao hai bên ở nữ là 25,3%, ở nam là 11,3%, giá trị p =0,0003. Tỉ lệ hành cảnh nằm cao hai bên ở nữ cao hơn nam có ý nghĩa thống kê. Đánh giá hành cảnh nằm cao hai bên theo tuổi Có 83 trường hợp có hành cảnh nằm cao hai bên, tuổi trung bình là 50,5 tuổi ±17,2 năm. Có 348 trường hợp không có hành cảnh nằm cao hai bên, tuổi trung bình là 45,1 tuổi ±16,4 năm. Giá trị p=0,0097. Tuổi trung bình của nhóm có hành cảnh nằm cao hai bên cao hơn nhóm không có đặc tính này, có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ hành cảnh nằm cao một bên Trong 348 trường hợp không có hành cảnh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 56 nằm cao hai bên, có 193 trường hợp hành cảnh nằm cao một bên trong đó bên phải là 142 trường hợp (40,8%), bên trái là 51 trường hợp (14,7%), giá trị p<0,0001. Trong nhóm có hành cảnh cảnh nằm cao một bên, tỉ lệ có ở bên phải cao hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Đánh giá hành cảnh nằm cao chung theo tuổi Tuổi trung bình của nhóm có hành cảnh nằm cao bên phải là 46,9 tuổi ±16,3 năm, tuổi trung bình của nhóm không có đặc tính này là 45,3 tuổi ±17,1 năm, giá trị p=0,2818. Tuổi trung bình của nhóm có hành cảnh nằm cao bên trái là 46,3 tuổi ±17,3 năm, tuổi trung bình của nhóm không có đặc tính này là 46 tuổi ±16,4 năm, giá trị p=0,9633. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi trong nhóm không và có hành cảnh nằm cao một bên. Hành cảnh hở Khảo sát đặc tính hở vào tai giữa của hành cảnh: khuyết mảnh xương che phủ hành cảnh, lộ bề mặt hành cảnh vào tai giữa. Trong mẫu nghiên cứu, tính chất hành cảnh hở vào tai giữa chỉ quan sát thấy trong nhóm có hành cảnh nằm cao. Trong 359 trường hợp hành cảnh nằm cao có 43 trường hợp kèm hở hành cảnh (12%). Tỉ lệ phân bố hở hành cảnh bên phải và trái trong nhóm có hành cảnh nằm cao Trong nhóm 225 trường hợp hành cảnh nằm cao bên phải có 31 trường hợp hành cảnh hở (13,8%). Trong nhóm 134 trường hợp hành cảnh nằm cao bên trái có 12 trường hợp hành cảnh hở (9%). Giá trị p=0,1735. Khác biệt về tỉ lệ hở giữa bên phải và bên trái không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ hở hành cảnh trong nhóm hành cảnh nằm cao bên phải ở nam cao hơn nữ có ý nghĩa thống kê. Bảng 2. Phân bố đặc tính hở hành cảnh theo giới trong nhóm hành cảnh nằm cao Bên phải n Nữ (n=146) Nam (n=79) Giá trị p Hành cảnh nằm cao 225 Hành cảnh hở 31 0.0442 Có 15 (10,3%) 16 (20,3%) Không 131 (89,7%) 63 (79,7%) Bên trái Nữ (n=89) Nam (n=45) Giá trị p Hành cảnh nằm cao 134 Hành cảnh hở 12 0,2169 Có 6 (6,7%) 6 (13,3%) Không 83 (93,3%) 39 (86,7%) Bảng 3. Đánh giá đặc tính hở hành cảnh và tuổi Bên phải Hành cảnh hở Có (N=31) Không (N=194) Giá trị p Tuổi (năm) 44,1 (15,9) 47,4 (16,3) 0,2464 Bên trái Hành cảnh hở Có (N=12) Không (N=122) Giá trị p Tuổi (năm) 46,7 (17,8) 46,3 (17,3) 0,9472 Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi của đặc tính có hay không hở hành cảnh ở mỗi bên. Túi thừa hành cảnh Xác định có túi thừa hành cảnh khi có hình ảnh lồi khu trú dạng túi từ vòm hành cảnh. Trong mẫu nghiên cứu, túi thừa hành cảnh chỉ quan sát thấy trong nhóm có hành cảnh nằm cao. Trong 359 trường hợp hành cảnh nằm cao có 62 (17,3%) trường hợp có túi thừa hành cảnh. Phân bố bên phải và trái của túi thừa hành cảnh trong nhóm có hành cảnh nằm cao Trong nhóm 225 trường hợp hành cảnh nằm cao bên phải có 33 túi thừa hành cảnh (14,7%). Trong nhóm 134 trường hợp hành cảnh nằm cao bên trái có 29 túi thừa hành cảnh (21,6%). Giá trị p=0,0908. Khác biệt về tỉ lệ túi thừa hành cảnh giữa bên phải và bên trái không có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt về giới của đặc tính có túi thừa hành cảnh ở mỗi bên không có ý nghĩa thống kê. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 57 Bảng 4. Phân bố túi thừa hành cảnh theo giới trong nhóm có hành cảnh nằm cao Bên phải n Nữ (n=146) Nam (n=79) Giá trị p Bên trái Nữ (n=89) Nam (n=45) Giá trị p Hành cảnh nằm cao 225 Hành cảnh nằm cao 134 Túi thừa hành cảnh 33 0.5614 Túi thừa hành cảnh 29 0.1834 Có 20 (13,7%) 13 (16,5%) Có 16 (18,0%) 13 (28,9%) Không 126 (86,3%) 66 (83,5%) Không 73 (82,0%) 32 (71,1%) Bảng 5. Đánh giá đặc tính túi thừa hành cảnh và tuổi Bên phải Túi thừa hành cảnh Có (N=33) Không (N=192) Giá trị p Tuổi (năm) 44,3 (13,2) 47,4 (16,8) 0,4142 Bên trái Túi thừa hành cảnh Có (N=29) Không (N=105) Giá trị p Tuổi (năm) 41,5 (16,5) 47,7 (17,3) 0,0561 Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi của đặc tính có hay không túi thừa hành cảnh ở mỗi bên. BÀN LUẬN Hành cảnh nằm cao Trường hợp hành cảnh nằm cao đầu tiên được tác giả Page JR báo cáo vào năm 1914(8). Từ đó trên thế giới đã có nhiều báo cáo riêng lẻ hoặc bài nghiên cứu về dạng biến thể này, được tiến hành trên các mẫu tử thi hoặc trên hình chụp cắt lớp vi tính. Cách chọn mốc để xác định hành cảnh nằm cao trong các nghiên cứu cũng khác nhau tùy vào mục đích cụ thể của từng nghiên cứu, trong đó, mốc thấp nhất được dùng phổ biến nhất là cửa sổ tròn và vòng đáy ốc tai – đây cũng là mốc chúng tôi lựa chọn để tiến hành nghiên cứu. Tỉ lệ có hành cảnh nằm cao rất thay đổi giữa các tác giả nghiên cứu như: các tác giả nghiên cứu trên xác Overton 6%(7), Kawano 16%(5), Singla 32,2%(14); các tác giả nghiên cứu trên hình chụp cắt lớp vi tính Atilla 20,3%(1), Wang 21,6%(16), Park 34,8%(9). Nhìn chung tỉ lệ phát hiện biến thể này ở các tác giả nghiên cứu trên hình chụp cắt lớp vi tính cao hơn ở các tác giả nghiên cứu trên xác. Điều này có thể được lí giải do các tác giả này nghiên cứu trên chụp cắt lớp vi tính với những lát cắt mỏng hơn 1mm, bộc lộ được khá chi tiết giải phẫu vùng này, có thể dựng hình đa mặt phẳng giúp đánh giá đúng trục và chính xác hơn về mức độ lồi của vòm hành cảnh so với mốc giải phẫu được chọn, dẫn đến tỉ lệ phát hiện được biến thể này cao hơn. Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ hành cảnh nằm cao là 41,6%, cao hơn so với tỉ lệ của tác giả Park 34,8%. Sự khác biệt này có thể do đặc tính chủng tộc của dân số mẫu, tỉ lệ nam/nữ trong dân số mẫu; ngoài ra có thể ảnh hưởng do kĩ thuật chụp cắt lớp vi tính. Nghiên cứu của tác giả Park tiến hành với các lát cắt có độ dày 0,7mm, trong khi nghiên cứu của chúng tôi tiến hành trên các máy 64 và 128 lát cắt, với độ dày 0,6-0,625 mm. Khả năng với độ dày lát cắt mỏng hơn và độ phân giải hình ảnh cao của các máy chụp cắt lớp vi tính được sử dụng đã góp phần làm tăng tỉ lệ phát hiện biến thể này trong nghiên cứu của chúng tôi so với các tác giả nghiên cứu trước đó. Tỉ lệ hành cảnh nằm cao ưu thế ở nữ, có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương đồng với tác giả Wang(16), Atmaca(2). Tuy nhiên với tác giả Friedmann lại không có sự khác biệt giữa hai giới(10). Trong nhóm có hành cảnh cảnh nằm cao một bên, tỉ lệ có ở bên phải cao hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng tương đồng với tác giả Wang(16) và Atmaca(2), trong khi với tác giả Friedmann(10) thì không có sự khác biệt giữa hai bên. Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi giữa các nhóm hành cảnh nằm cao. Hành cảnh hở Chúng tôi nghiên cứu đặc tính hở của hành cảnh vào tai giữa, không đánh giá đặc tính hở với các cấu trúc của tai trong như ống bán khuyên, cống tiền đình, hay hở vào ống tai ngoài. Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, hành cảnh hở chỉ gặp ở nhóm có hành cảnh nằm cao với tỉ lệ 12%. Tính chung trong toàn bộ mẫu thì tỉ lệ hành cảnh hở là 43/862 # 5%. Tỉ lệ này Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Chuyên Đề Ngoại Khoa 58 cao hơn tác giả Koesling 1%(6), Atilla 3,9%(1) và thấp hơn tác giả Atmaca 7,5%(2). Khác biệt về bên phải và bên trái của đặc tính hành cảnh hở không có ý nghĩa thống kê, khác với các tác giả Wang(16), Atmaca(2) và Woo(17) cho kết quả hành cảnh hở ưu thế bên phải. Tỉ lệ hành cảnh hở bên phải ở nam cao hơn nữ có ý nghĩa thống kê, ngược với ba tác giả trên cho tỉ lệ ưu thế ở nữ, khả năng do khác biệt về đặc tính dân số lấy mẫu hoặc yếu tố chủng tộc. Không có sự khác biệt về tuổi giữa các nhóm hành cảnh hở. Túi thừa hành cảnh Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận các trường hợp có túi thừa hành cảnh chỉ xuất hiện trong nhóm có hành cảnh nằm cao với tỉ lệ 17,3%. Tính chung trong toàn bộ mẫu thì tỉ lệ túi thừa hành cảnh là 62/862 #7,2%. Kết quả này tương đồng với tác giả Atilla 7,9%(1) trong khi tác giả Bilgen khảo sát với lát cắt dày hơn (1mm) có tỉ lệ phát hiện 1,2%(3), và Koesling cũng có tỉ lệ phát hiện dưới 1%(6). Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bên phải hay bên trái của đặc tính có túi thừa hành cảnh. Không có sự khác biệt về tuổi và giới giữa các nhóm có túi thừa hành cảnh. KẾT LUẬN Hành cảnh nằm cao là một biến thể khá phổ biến với tỉ lệ xác định được 41,6% trong mẫu nghiên cứu, và tỉ lệ biến thể này có ở cả hai bên là 19,3%. Hành cảnh hở và túi thừa hành cảnh là 2 biến thể có ở nhóm có hành cảnh nằm cao, tỉ lệ chung trên mẫu nghiên cứu lần lượt là 5% và 7,2%. Cần lưu ý để phát hiện các biến thể này khi khảo sát hình chụp cắt lớp điện toán vùng xương thái dương, góp phần trong chẩn đoán bệnh lí và lập kế hoạch điều trị, tránh những nhầm lẫn chẩn đoán hoặc tai biến phẫu thuật do không nhận diện được các biến thể này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Atilla S, Akpek S, Uslu S et al (1995). Computed tomographic evaluation of surgically significant vascular variations related with the temporal bone. European Journal of Radiology, 20(1): 52-56. 2. Atmaca S, Elmali M, Kucuk H (2014). High and dehiscent jugular bulb: clear and present danger during middle ear surgery. Surg Radiol Anat, 36(4): 369-74. 3. Bilgen C, Kirazli T, Ogut F et al (2003). Jugular bulb diverticula: clinical and radiologic aspects. Otolaryngol Head Neck Surg, 128(3): 382-6. 4. Couloigner V, Grayeli AB, Bouccara D et al (1999). Surgical treatment of the high jugular bulb in patients with Meniere's disease and pulsatile tinnitus. Eur Arch Otorhinolaryngol, 256(5):224-9. 5. Kawano H, Tono T, Schachern PA et al (2000). Petrous high jugular bulb: a histological study. Am J Otolaryngol, 21(3): 161-8. 6. Koesling S, Kunkel P, Schul T (2005). Vascular anomalies, sutures and small canals of the temporal bone on axial CT. European Journal of Radiology, 54(3): 335-343. 7. Overton SB, Ritter FN (1973). A high placed jugular bulb in the middle ear: a clinical and temporal bone study". Laryngoscope, 83(12): 1986-91. 8. Page JR (1914). A Case of Probable Injury to the Jugular Bulb following Myringotomy in an Infant Ten Months Old. Annals of Otology, Rhinology & Laryngology, 23(1): 161-163. 9. Park JJ, Shen A, Loberg C et al (2015). The relationship between jugular bulb position and jugular bulb related inner ear dehiscence: a retrospective analysis. Am J Otolaryngol, 36(3): 347-51. 10. Friedmann DR, Eubig J, Winata LS (2012). Prevalence of Jugular Bulb Abnormalities and Resultant Inner Ear Dehiscence - A histopathologic and Radiologic Study. Otolaryngology Head and neck Surgery, 147(4): 750-756. 11. Roche PH, Moriyama T, Thomassin JM et al (2006). High jugular bulb in the translabyrinthine approach to the cerebellopontine angle: anatomical considerations and surgical management. Acta Neurochirurgica, 148(4): 415-420. 12. Schmalfuss IM, Camp M (2008). Skull base: pseudolesion or true lesion? Eur Radiol, 18(6): 1232-43. 13. Silk PS, Lane JI, Driscoll CL (2009). Surgical Approaches to Vestibular Schwannomas: What the Radiologist Needs to Know. RadioGraphics, 29(7): 1955-1970. 14. Singla A, Gupta T, Sahni D et al (2016). High jugular bulb: different osseous landmarks and their clinical implications. Surgical and Radiologic Anatomy, 38(8): 903-909. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 59 15. Tsunoda A (2006). Sensorineural hearing loss caused by a high jugular bulb. The Journal of Laryngology & Otology, 114(11): 867-869. 16. Wang CH, Shi ZP, Liu DW et al (2011). High Computed Tomographic Correlations between Carotid Canal Dehiscence and High Jugular Bulb in the Middle Ear. Audiology and Neurotology, 16(2): 106-112. 17. Woo CK, Wie CE, Park SH et al (2012). Radiologic analysis of high jugular bulb by computed tomography. Otol Neurotol, 33(7): 1283-7. Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_hinh_anh_mot_so_bat_thuong_hanh_canh_thuong_gap.pdf
Tài liệu liên quan