Tài liệu Kháo sát giới hạn dưới của ung thư trực tràng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
T T Bộ môn Ngoại – Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
KHẢO SÁT GIỚI HẠN DƯỚI CỦA UNG THƯ TRỰC TRÀNG
Lê Văn Quang*, Đỗ Xuân Trường*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát sự xâm nhiễm xuống bờ dưới của ung thư trực tràng. Khảo sát mối
liên quan của lâm sàng, đại thể khối u và sự xâm nhiễm xuống dưới.
Phương pháp: Các bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến của trực tràng được khảo sát về lâm sàng, kích
thước khối u và sự ăn lan xuống dưới về vi thể của thương tổn ung thư.
Kết quả: 23 bệnh nhân được khảo sát, tuổi trung bình là 58,36. Nhỏ nhất là 43, lớn nhất là 85 tuổi.
9/23 bệnh nhân có sự xâm nhiễm xuống dưới. 14/23 bệnh nhân không có tế bào ung thư ở > 0,5cm dưới
bờ khối u thấy được trên đại thể. Không ghi nhận được trường hợp nào có tế bào ung thư ở dưới bờ khố...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kháo sát giới hạn dưới của ung thư trực tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
T T Bộ môn Ngoại – Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
KHẢO SÁT GIỚI HẠN DƯỚI CỦA UNG THƯ TRỰC TRÀNG
Lê Văn Quang*, Đỗ Xuân Trường*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát sự xâm nhiễm xuống bờ dưới của ung thư trực tràng. Khảo sát mối
liên quan của lâm sàng, đại thể khối u và sự xâm nhiễm xuống dưới.
Phương pháp: Các bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến của trực tràng được khảo sát về lâm sàng, kích
thước khối u và sự ăn lan xuống dưới về vi thể của thương tổn ung thư.
Kết quả: 23 bệnh nhân được khảo sát, tuổi trung bình là 58,36. Nhỏ nhất là 43, lớn nhất là 85 tuổi.
9/23 bệnh nhân có sự xâm nhiễm xuống dưới. 14/23 bệnh nhân không có tế bào ung thư ở > 0,5cm dưới
bờ khối u thấy được trên đại thể. Không ghi nhận được trường hợp nào có tế bào ung thư ở dưới bờ khối u
quá 2cm.
Kết luận: Tất cả các ung thư trực tràng đều không xâm nhiễm quá 2cm dưới khối u. Những trường
hợp u chưa ăn lan quá 1/4 lòng trực tràng và những trường hợp chiều cao u nhỏ hơn hay bằng 4cm đều
không tìm thấy tế bào ung thư ở dưới bờ dưới khối u.
SUMMARY
EXAMINE THE INFERRIOR LIMIT OF RECTAL CANCER
Le Van Quang, Do Xuan Truong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 83 – 87
Purpose: To determine the extension of cancer to the lower end of the specimen of the recto-
colectomy. To determine the correlation of clinical macroscopic and invasive characteristic of rectal
cancer.
Methods: The clinical characteristics, size of tumor, the microsopic extension of cancer were
examined.
Results: The study enrolled 23 patients. The mean of age 58,36 (range 43 - 85). 9/23 of patients had
the extension of the tumor cells to the lower end of the specimen. 14/23 of patients had not seen the tumor
cells greater than 0,5cm distal to the tumor. No tumor cells were determined in location of greater than
2cm distal to the tumor.
Conclusion: All of the rectal cancers do not extend more than 2cm distal to the tumor. In case of the
rectal cancers locate within the 1/4 of the diameter of the rectum or the size of tumor less than 4cm, the
tumor cells are not seen at the lower end of the specimen.
MỞ ĐẦU
Trực tràng là vị trí hay gặp nhất của ung thư đại
trực tràng. Đối với điều trị phẫu thuật ung thư trực
tràng ở đoạn giữa và đoạn thấp bằng cách cắt bỏ trực
tràng, lý tưởng nhất là giới hạn dưới của phần cắt bỏ
càng xa với khối u càng an toàn về phương diện điều
trị ung thư, nếu như phẫu thuật phải lấy bỏ đi cả khối
cơ thắt hậu môn, bệnh nhân phải mang vĩnh viễn
hậu môn nhân tạo. Phẫu thuật điều trị ung thư trực
tràng được Miles( )0 thực hiện đầu tiên vào năm 1908.
Ngày nay, phương pháp phẫu thuật này vẫn được áp
dụng phổ biến cho các ung thư trực tràng thấp, ung
thư ống hậu môn. Tuy nhiên, đây là một phẫu thuật
gây tàn phế, bệnh nhân phải mang hậu môn nhân
tạo suốt đời, người bệnh sẽ trở thành “phế nhân”.
Lấy bỏ rộng bao nhiêu là đủ, ý kiến chưa thật sự
*
83
thống nhất, tuy nhiên, đa số các y văn nước ngoài
đều thống nhất giới hạn dưới cách rìa khối u 2,5cm là
đủ. Tại Việt Nam, ung thư trực tràng thường được
phát hiện trễ, với độ xâm lấn tại chỗ khá rộng, biết
được giới hạn dưới này sẽ giúp các nhà ngoại khoa an
tâm và chủ động hơn khi quyết định áp dụng phẫu
thuật bảo tồn cơ thắt khi điều trị phẫu thuật các ung
thư trực tràng thấp.
Đối với các trường hợp có thể, các phẫu thuật
viên luôn cố gắng thực hiện các phẫu thuật bảo tồn
cơ thắt như nối thấp, Pull-though để tránh cho bệnh
nhân phải mang hậu môn nhân tạo vĩnh viễn; nhưng
phải đảm bảo nguyên tắc trong điều trị ung thư: bờ
cắt dưới phải an toàn.
Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm:
-Khảo sát mức độ xâm lấn vi thể của ung thư
xuống dưới so với bờ dưới của khối u thấy được bằng
mắt thường: tìm được giới hạn an toàn của thương
tổn ung thư.
-Khảo sát sự tương quan giữa độ xâm lấn của
khối u trên thành ruột và mức độ lan rộng xuống
dưới.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng
Các bệnh nhân ung thư trực tràng, được phẫu
thuật cắt đoạn trực tràng nối ngay, hoặc phẫu
thuật cắt bỏ trực tràng kèm cơ thắt hậu môn.
Không chọn các ung thư ống hậu môn.
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu mô tả
Chẩn đoán ung thư trực tràng dựa trên thăm
khám hậu môn, nội soi-sinh thiết trực tràng có kết
quả là ung thư biểu mô tuyến,
Được phẫu thuật cắt đoạn trực tràng-nối ngay
hoặc phẫu thuật Miles.
Bệnh phẩm được xử lý ngay khi vừa cắt ra
Xẻ dọc ở mặt trước trực tràng, đo kích thước khối
u. Chiều ngang khối u được tính theo mỗi ¼ chu vi
lòng trực tràng. Chiều cao khối u được tính theo cm.
Từ sát bờ dưới khối u, chúng tôi cắt 5 mẫu bệnh
phẩm, mỗi mẫu 5mm. Ngay sát mặt ngoài khối u
được lấy một mẫu mô mỡ để khảo sát sự xâm lấn
xung quanh.
Toàn bộ đoạn ruột được cắt ra và các mẫu bệnh
phẩm này được ngâm trong dung dịch formol 10%,
được khảo sát vi thể tại Bộ môn Giải Phẫu Bệnh Đại
học Y Dược TP Hồ chí Minh.
Số liệu được lấy theo một mẫu bệnh án thống
nhất, và được xử lý bởi phần mềm SPSS 10.05. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0.05.
KẾT QUẢ
Chúng tôi khảo sát được 23 bệnh nhân, 12 nam
và 11 nữ. Tuổi trung bình là 56,36; nhỏ nhất 43 tuổi,
lớn nhất 85 tuổi.
22/23 bệnh nhân, ghi nhận có tiêu máu, 9 bệnh
nhân có thời gian tiêu máu từ 12 tháng trở lên. Thời
gian tiêu máu trung bình là 8,6 tháng (1-36 tháng).
84
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Vị trí ung thư
6 ung thư trực tràng cao,
12 ung thư trực tràng giữa,
5 ung thư trực tràng thấp.
Khảo sát sự ăn lan
Theo chiều rộng
3 trường hợp u chiếm 1/4 chu vi lòng trực tràng,
8 trường hợp u chiếm 1/4 Ỉ nửa chu vi lòng trực
tràng,
7 trường hợp u chiếm 2/4 Ỉ 3/4 lòng trực tràng,
5 trường hợp u > 3/4 lòng trực tràng.
Theo chiều cao
12 trường hợp khối u < 4cm,
11 trường hợp khối u ≥ 4cm.
14 bệnh nhân không tìm thấy tế bào ung thư ở
dưới bờ dưới khối u.
9 bệnh nhân có sự xâm nhiễm xuống dưới
Bảng 1: Mức độ xâm nhiễm theo bờ dưới khối u
Cách bờ dưới U 0,5cm 1cm 1,5cm 2cm 2,5cm
Có tế bào Ung thư 3 3 2 1 0
Giới hạn 2,5cm dưới bờ khối u là giới hạn an
toàn, không lệ thuộc vào kích thước khối u.
Bảng 2: Liên quan giữa thời gian tiêu máu và sự xâm
nhiễm xuống dưới
Thời gian tiêu máu 12 tháng
Số bệnh nhân 14 9
Số ca có thâm nhiễm 5 4
Bảng 3: Liên quan giữa sự ăn lan theo chiều ngang
và sự xâm nhiễm xuống dưới
Chu vi bị xâm nhiễm 3/4
SỐ BỆNH NHÂN 3 8 7 5
Số ca bị thâm nhiễm 0 2 3 4
Bảng 4: Liên quan giữa sự ăn lan theo chiều cao và
sự xâm nhiễm xuống dưới
Chiều cao khối u < 4cm ≥ 4cm
SỐ BỆNH NHÂN 12 11
SỐ CA BỊ THÂM NHIỄM 0 9
Như vậy: khối u càng to, chiếm chu vi càng rộng
thì sự xâm nhiễm xuống dưới càng nhiều.
Bảng 5: Liên quan giữa sự ăn lan theo chiều sâu và
sự xâm nhiễm xuống dưới
Sự ăn lan theo
chiều sâu
niêm
mạc
dưới
niêm
cơ thanh
mạc
mỡ
Số bệnh nhân 0 0 8 9 6
Có xâm nhiễm
xuống dưới
0 0 2 2 5
Như vậy, khi có xâm nhiễm vào mô mỡ chung
quanh trực tràng sẽ có xâm nhiễm xuống dưới nhiều
hơn.
Bảng 6: Liên quan giữa độ biệt hoá và sự xâm nhiễm
xuống dưới
Độ biệt hóa Tốt Vừa Kém
Số bệnh nhân 13 9 1
CÓ XÂM NHIỄM XUỐNG DƯỚI 6 3 0
Không có sự liên quan rõ rệt về độ biệt hoá và
mức độ xâm nhiễm xuống dưới.
BÀN LUẬN
Ung thư trực tràng xuất hiện trước hết ở niêm
mạc, rồi xâm nhiễm trực tiếp vào các mô trong thành
ruột và xâm lấn mô xung quanh. Quá trình xâm nhiễm
xảy ra theo mọi hướng, nhưng dường như xảy ra theo
chiều ngang nhiều hơn theo chiều dọc của ruột, do đó
thường tạo ra các ung thư dạng vòng nhẫn.
Tế bào ung thư từ lớp niêm mạc xâm nhiễm qua
lớp dưới niêm rồi đến lớp cơ. Sau đó tế bào ung thư
phá hủy lớp thanh mạc để xâm lấn vào lớp mỡ cạnh
đại tràng, hay vào các mô, các tạng lân cận. Nhiều tác
giả cho biết thanh mạc có vai trò như một lá chắn
ngăn không cho tế bào ung thư lan tràn đi trong một
thời gian, chính vì vậy thanh mạc được coi là mốc để
đánh giá giai đoạn trong ung thư trực tràng( , )0 0 .
Có nhiều đề tài nghiên cứu sự xâm nhiễm lên
trên và xuống dưới của khối u nhằm xác định bờ cắt
an toàn. Các nghiên cứu này dựa vào việc khảo sát
kết quả giải phẫu bệnh tìm tế bào ung thư ở các vị trí
khác nhau trên và dưới khối u, tỉ lệ tái phát tại chỗ
hoặc tỉ lệ sống thêm sau khi cắt đại tràng ở những vị
trí khác nhau.
Đối với sự xâm nhiễm lên trên, trong công trình
nghiên cứu của Grinnell (1954)( )0 , ông khảo sát 76
bệnh phẩm ung thư đại tràng thấy có 2 trường hợp có
85
tế bào ung thư ở khoảng cách 4cm về phía trên bờ đại
thể của khối u và ông khuyên nên chọn khoảng cách
an toàn là 5cm phía trên u.
William( )0 nghiên cứu tỉ lệ tái phát tại chỗ và sống
thêm của 62 bệnh nhân cắt trực tràng trên khối u
4cm và 39 bệnh nhân cắt trực tràng trên khối u hơn
4cm thấy có sự khác nhau đáng kể.
Lê Huy Hòa( )0 , nghiên cứu 59 trường hợp ung thư
đại trực tràng không thấy có trường hợp nào có tế bào
ung thư ở trên khối u 3cm.
Trong phẫu thuật, đoạn đại tràng trên khối u
dường như dài vô tận và việc cắt trên khối u 5cm
không gặp khó khăn nên trong công trình nghiên
cứu này chúng tôi không khảo sát sự xâm nhiễm lên
trên của khối u.
Các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của
chúng tôi thường đến vào giai đoạn muộn của bệnh.
Triệu chứng tiêu máu trung bình là 8,6 tháng, có 9
bệnh nhân có thời gian tiêu máu trước khi nhập viện
> 12 tháng, trường hợp trễ nhất có thời gian tiêu
máu là 36 tháng.
Không có trường hợp nào ung thư còn khu trú ở
lớp niêm mạc hay dưới niêm. Tỷ lệ có xâm nhiễm
xuống dưới là 39,13% (9 bệnh nhân). Tỷ lệ này của
chúng tôi cao hơn các tác giả khác (Bảng 7).
Bảng 7: Tỷ lệ có tế bào ung thư ở dưới bờ dưới khối u
Tác giả Số bệnh nhân Xâm nhiễm xuống dưới (%)
Lê Huy Hòa( )0 59 32,2
Golingher( )0 76 6,5
Lê Văn Quang 23 39,13
Về mức độ xâm nhiễm, chúng tôi có 3 trường hợp
có tế bào ung thư dưới khối u 0,5cm, 3 trường hợp có tế
bào ung thư dưới khối u 1cm, 2 trường hợp có tế bào
ung thư dưới khối u 1,5cm, 1 trường hợp có tế bào ung
thư dưới khối u 2cm, không có trường hợp nào có tế bào
ung thư dưới khối u quá 2cm. 14 trường hợp (60,87%)
không có tế bào ung thư ở dưới bờ dưới khối u.
Cole và Monsarrat (1913)( )0 cho rằng sự xâm
nhiễm vi thể luôn là quá trình tự giới hạn và chỉ cách
khối u vài mm. Golingher( )0 nhận thấy hầu hết các
trường hợp xâm nhiễm xuống dưới chỉ tập trung
trong vòng 6mm ở bờ dưới khối u. Westhues (1943)
tìm thấy sự xâm nhiễm vi thể không bao giờ vượt quá
20mm về phía bờ dưới khối u.
Như vậy, trong ung thư trực tràng bờ cắt dưới ở
dưới bờ dưới khối u 20mm là an toàn.
Theo Bảng 2, sự xâm nhiễm xuống dưới không
liên quan với thời gian tiêu máu trên lâm sàng.
Những trường hợp khối u nhỏ hơn ¼ chu vi lòng
trực tràng chúng tôi không ghi nhận sự xâm nhiễm
xuống dưới. Sự an lan theo chiều rộng càng nhiều thì
nguy cơ có tế bào ung thư ở dưới bờ dưới khối u càng
cao (Bảng 3).
Tất cả các trường hợp chiều cao khối u < 4cm
đều không tìm thấy tế bào ung thư ở dưới bờ đại thể
thấy được của khối u. 9/11 trường hợp chiều cao khối
u ≥ 4cm có tế bào ung thư ở dưới bờ dưới khối u. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,005).
Chúng tôi chưa ghi nhận được mối liên quan giữa
độ biệt hoá của ung thư với sự ăn lan xuống dưới.
KẾT LUẬN
Mặc dù số liệu nghiên cứu chưa nhiều, nhưng từ
những kết quả đã đạt qua 23 trường hợp, chúng tôi
nhận thấy:
-Khối u càng to, chiếm chu vi càng rộng thì tỉ lệ
xâm nhiễm xuống dưới càng nhiều,
-Khi có xâm nhiễm vào mô mỡ chung quanh
trực tràng, sẽ có xâm nhiễm xuống dưới nhiều hơn,
-Không có sự liên quan rõ rệt về độ biệt hoá và
mức độ xâm nhiễm xuống dưới,
-Giới hạn 2,5cm dưới bờ khối u là giới hạn an
toàn, không lệ thuộc vào kích thước khối u.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Alfred, et al. (1997). Cancer of rectum. Cancer
Principle And Practice Of Oncology. Ed 5th. Vol 1;
1144-1228.
2 Flesman Maingot (1990). Total protectomy. Abdominal
operations 9th Ed. Appleton & Lange. Vol 2; 1131-
1141.
3 Golingher JC, Graham NG et al. (1970). Anastomotic
dehiscence after anterior resection of rectum and
sigmoid. Br J Surg 57; 109.
4 Grinnell RS (1954). Distal intramural spread of
carcinoma of the rectum and rectosigmoid. Surg
Gynecol Obstet 99; 421.
86
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
5 Lê Huy Hòa (2002). Nghiên cứu tình trạng xâm nhiễm
và di căn hạch bạch huyết của ung thư đại trực tràng.
Luận văn bác sĩ chuyên khoa cấp II. Trường Đại Học
Y Dược TP Hồ Chí Minh; 62.
7 Nguyễn Văn Việt Hảo (2002). Khảo sát di căn hạch bạch
huyết trong ung thư đại tràng. Luận văn thạc sĩ y học.
Trường Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh; 78-104.
8 William NS, et al. (1983). Reapparaisal of the 5
centimetre rul of distal excision for carcinoma of the
rectum: a study of distal intramural spead and of
patients’ survival. Br J Surg 70; 150.
6 Miles WE. (1908). A method of performing abdominal-
perineal excision for carcinoma of the rectum and the
terminal portion of he pelvic colon. Lancet 2; 1812.
87
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_gioi_han_duoi_cua_ung_thu_truc_trang.pdf