Khảo sát dấu hiệu lo âu và một số yếu tố liên quan ở người mắc bệnh máu ác tính đến tái khám tại Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương năm 2018

Tài liệu Khảo sát dấu hiệu lo âu và một số yếu tố liên quan ở người mắc bệnh máu ác tính đến tái khám tại Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương năm 2018: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 268 KHẢO SÁT DẤU HIỆU LO ÂU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI MẮC BỆNH MÁU ÁC TÍNH ĐẾN TÁI KHÁM TẠI VIỆN HUYẾT HỌC- TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG NĂM 2018 Tô Thị Kiều Dung*, Lưu Thị Bạch Yến*, Phạm Thị Thùy*, Nguyễn Thị Hương*, Cấn Trung Kiên*, Lê Quang Tường*, Nguyễn Chí Thắng* TÓM TẮT Mục tiêu: Bệnh nhân ung thư ngoài chịu đựng những đau về thể chất, còn phải đối mặt với những vấn đề về tâm lý như lo âu, trầm cảm, rối loạn tinh thần. Tuy nhiên, rất ít các nghiên cứu ở Việt Nam tìm hiểu về vấn đề này, nhất là trên bệnh nhân ung thư máu. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng lo âu của người bệnh và các yếu tố liên quan, từ đó đề ra các chính sách hỗ trợ phù hợp cho người bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 292 bệnh nhân trên 18 tuổi, mắc bệnh máu ác tính đến tái khám tại khoa khám bệnh, Viện Huyết học –Truy...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát dấu hiệu lo âu và một số yếu tố liên quan ở người mắc bệnh máu ác tính đến tái khám tại Viện Huyết học-Truyền máu Trung ương năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 268 KHẢO SÁT DẤU HIỆU LO ÂU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI MẮC BỆNH MÁU ÁC TÍNH ĐẾN TÁI KHÁM TẠI VIỆN HUYẾT HỌC- TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG NĂM 2018 Tô Thị Kiều Dung*, Lưu Thị Bạch Yến*, Phạm Thị Thùy*, Nguyễn Thị Hương*, Cấn Trung Kiên*, Lê Quang Tường*, Nguyễn Chí Thắng* TÓM TẮT Mục tiêu: Bệnh nhân ung thư ngoài chịu đựng những đau về thể chất, còn phải đối mặt với những vấn đề về tâm lý như lo âu, trầm cảm, rối loạn tinh thần. Tuy nhiên, rất ít các nghiên cứu ở Việt Nam tìm hiểu về vấn đề này, nhất là trên bệnh nhân ung thư máu. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng lo âu của người bệnh và các yếu tố liên quan, từ đó đề ra các chính sách hỗ trợ phù hợp cho người bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 292 bệnh nhân trên 18 tuổi, mắc bệnh máu ác tính đến tái khám tại khoa khám bệnh, Viện Huyết học –Truyền máu TW trong thời gian từ 8/2018 đến 9/2018. Nghiên cứu sử dụng thang đo lo âu, trầm cảm của bệnh viện HADS (Anxiety, Depression in Hospital Scale) với điểm cắt là 8 điểm. Kết quả: Điểm lo âu trung bình là: 7,40 (SD=2,97) với 60% bệnh nhân có dấu hiệu lo âu; trong đó tỉ lệ lo âu thực sự là 10%. Nhóm bệnh nhân nữ, tuổi trên 60, sống một mình, được BHYT chi trả dưới 100%, không đủ khả năng chi trả có tỉ lệ lo âu cao hơn so với nhóm còn lại. Đặc biệt, bệnh nhân gặp nhiều tác dụng phụ, tình trạng bệnh không có sự cải thiện có nguy cơ lo âu cao hơn 6,43 lần và 25,62 lần so với nhóm còn lại, tương ứng. Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Kết luận: Nghiên cứu cho thấy thực trạng khá cao tình trạng lo âu ở bệnh nhân ung thư máu. Tình trạng này có mối liên quan với nhiều yếu tố. Các chính sách hỗ trợ và tư vấn tâm lý cho nhóm bệnh nhân này là cần thiết. Từ khóa: lo âu, bệnh máu ác tính, HADS. bạch cầu cấp yếu tố liên quan ABSTRACT THE EVALUATION OF THE AXIETY AND SOME RELATED FACTORS IN PATIENTS WITH MALIGNANT BLOOD DISEASE AT NATIONAL INSTITUTE OF HEMATOLOGY AND BLOOD TRANSFUSION IN 2018 To Thi Kieu Dung, Luu Thi Bach Yen, Pham Thi Thuy,Nguyen Thi Huong,Can Trung Kien, Le Quang Tuong, Nguyen Chi Thang * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 268 – 273 Objective: Cancer patients not only suffer from physical pain but also face to psychological problems such as anxiety, depression, and mental disorders. However, the relevant studies in Vietnam have been limited, especially patients with malignant blood disease. This study was conducted to assess the status of anxiety and relevant factors, thereby setting appropriate support policies for patients. Subjects and Methods: Cross-sectional study was conducted on 292 patients who were over 18 years of age, suffered from malignant blood disease and re-visited at the outpatient department - National institute of Hematology and Blood transfusion from August to September 2018. Anxiety was assessed by the Hospital Anxiety and Depression Scale (HADS) with the cut point of 8. *Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương. Tác giả liên lạc: ĐD. Lưu Thị Bạch Yến ĐT: 0982 124 067 Email: binhyen7780@gmail.com. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 269 Results: The mean anxiety score was: 7.40 (SD = 2.97). 60% of patients had signs of anxiety; with the actual rate of 10% The groups of female patients, aged over 60, living alone, health insurance under 100%, inability to pay had higher odd ratio than the other groups. In particular, the patients who had many side effects and no improvement had odd ratio 6.43 times and 25.62 times higher than the other groups, respectively. This relationship were statistically significant (p <0.05). Conclusion: Research has shown that the status of anxiety was high in patients with malignant blood disease. This status was related to many factors. Support and psychological counseling policies for these patients were in need. Key words: anxiety, malignant blood disease, blood cancer, HADS. relevant factors ĐẶT VẤN ĐỀ Tại Việt Nam, ung thư đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu với số trường hợp mắc mới tăng nhanh, từ 126.000 năm 2010 và dự kiến sẽ vượt qua 190.000 trường hợp vào năm 2020 với khoảng 115.000 người chết mỗi năm. Ngoài tình hình dịch tễ bệnh, điều trị ung thư là một trong những vấn đề đang được quan tâm hàng đầu vì diễn biến phức tạp của bệnh và khó khăn khi lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp. Trong quá trình điều trị, bên cạnh những đau đớn về thể chất và các tác dụng không mong muốn thì bệnh nhân ung thư thường phải đối mặt với những vấn đề về tâm lý như lo âu, trầm cảm, rối loạn cảm xúc. Điều này phần nào ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh, hiệu quả điều trị, và dễ dẫn đến bệnh nhân từ chối điều trị. Những cảm xúc tiêu cực, lo âu, buồn phiền mà bệnh nhân ung thư đang trải qua hàng ngày cần phải được chú ý phát hiện, tìm hiểu. Tuy vậy việc nghiên cứu các vấn đề này tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát dấu hiệu lo âu và một số yếu tố liên quan ở người mắc bệnh máu ác tính đến tái khám tại khoa Khám bệnh, Viện Huyết học – Truyền máu Trung Ương” với hai mục tiêu: Mô tả thực trạng dấu hiệu tâm lý lo âu của người bệnh ung thư đến tái khám tại khoa khám bệnh – Viện Huyết học – Truyền máu Trung Ương năm 2018. Xác định một số yếu tố liên quan. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn lựa chọn Từ 18 tuổi trở lên, được chẩn đoán mắc bệnh máu ác tính đến tái khám tại khoa khám bệnh Tiêu chuẩn loại trừ Người bệnh hạn chế nghe nói, không đủ thể lực và tinh thần để hoàn thành nghiên cứu hoặc phỏng vấn bởi điều tra viên và không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện tại khoa khám bệnh, Viện Huyết học –Truyền máu TW trong thời gian từ 01/8/2018 đến 30/9/2018. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Cỡ mẫu Được xác định dựa trên công thức: n = z21- /2 x p (1-p)/d2 Trong đó: n: cỡ mẫu, p: tỷ lệ ước tính. d: độ chính xác tuyệt đối mong muốn (confident limit around the point estimate), thường lấy = 0,05 (5%). z: zscore tương ứng với mức ý nghĩa thống kê mong muốn, thường lấy 95% CI, z=1,96. Dựa trên nghiên cứu của tác giả Huỳnh Lê Phương(3) với tỷ lệ bệnh nhân có trạng thái lo âu là p = 0,2, lựa chọn z = 1,96 và d = 0,05. Cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu là 246 BN. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 270 Công cụ thu thập thông tin Thông tin thu thập qua bộ câu hỏi có sẵn đo lường về sự lo âu và trầm cảm tại bệnh viện HADS (Hospital Anxiety and Depression Scale). Bảng câu hỏi được đề xuất bởi Zigmond và Snaith và sau đó được áp dụng rộng rãi trong các nghiên cứu trên thế giới(6). Bảng bao gồm 7 câu hỏi và 4 mức độ trả lời tương ứng với điểm 0, 1, 2, 3. Kết quả được phân tích theo tổng điểm các câu hỏi theo các mức độ: Từ 0 đến 7 điểm: bình thường. Từ 8 đến 10 điểm: có thể có triệu chứng của lo âu. Từ 11 đến 21 điểm: lo âu thực sự. Nghiên cứu sử dụng điểm cắt 8. Ngoài ra, các thông tin liên quan tới một số yếu tố nhân khẩu học (như giới tính, trình độ học vấn, bảo hiểm y tế, khoảng cách từ nhà tới bệnh viện), yếu tố về kinh tế và tình trạng bệnh (loại ung thư, giai đoạn bệnh, phương pháp điều trị) cũng được thiết kế trong bộ câu hỏi phỏng vấn. Xử lý và phân tích số liệu Số liệu sau khi được làm sạch được nhập vào máy tính và quản lý bằng phần mềm Excel. Các thống kê mô tả được thực hiện thông qua tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn cho các biến định lượng và tỷ lệ % cho các biến định tính. Mô hình hồi quy logistic đa biến được áp dụng nhằm xác định các yếu tố nguy cơ. p-value <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Đặc điểm đối tượng nghiên cứu và thực trạng lo âu Tổng số 292 bệnh nhân đạt tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ được đưa vào nghiên cứu. Kết quả phân tích đặc điểm nhân khẩu và kinh tế bệnh nhân và thực trạng lo âu được trình bày trong Bảng 1, 2. Kết quả phân tích nhân khẩu học cho thấy, bệnh nhân tham gia nghiên cứu có tỷ lệ nam:nữ là 1:1,72 và có độ tuổi trung bình là 39,7±9,9, tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi 40-49. Đa số bệnh nhân ở với gia đình (88%), có trình độ học vấn chủ yếu dưới trung học phổ thông 78%) và có việc làm (78%). Phân tích thực trạng lo âu cho thấy, tình trạng lo âu bệnh nhân mắc bệnh máu ác tính đến tái khám có liên quan đến giới tính và tình trạng công việc hiện tại. Nữ có nguy cơ cao gấp 4,781 lần so với nam giới (95%CI=2,87- 7,97); bệnh nhân thất nghiệp hoặc không làm việc có nguy cơ cao gấp 14,7 lần so với bệnh nhân đang đi làm (95%CI=4,46-48,43). Các nguy cơ này cao hơn có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Đối với các yếu tố còn lại gồm tuổi càng cao, sống độc thân, trình độ học vấn càng thấp có nguy cơ lo âu hơn so với nhóm còn lại, tuy nhiên nguy cơ này không có ý nghĩa thống kê. Trên 90% bệnh nhân tham gia bảo hiểm y tế với mức hưởng bảo hiểm y tế phần lớn dưới 100% (62%), tuy nhiên vẫn đủ chi trả cho quá trình điều trị (74%) và sống không quá xa bệnh viện (80%). Bệnh nhân có mức chi trả BHYT dưới 100% có nguy cơ gặp triệu chứng lo âu cao gấp 6,15 lần so với nhóm bệnh nhân được BHYT thanh toán 100% (95% CI=3,66-10,34); bệnh nhân có tình hình kinh tế thiếu thốn có nguy cơ lo âu cao gấp 2,26 lần so với bệnh nhân có đủ khả năng chi trả cho quá trình điều trị (95% CI=1,27-4,01). Bệnh nhân chủ yếu đang trong quá trình điều trị theo phác đồ và có thời gian điều trị trên 6 tháng (95%). Bệnh nhân có phương pháp điều trị chính là hóa trị hoặc điều trị triệu chứng (68%). Tất cả các bệnh nhân vẫn duy trì bệnh hoặc cải thiện tốt hơn, không có tiến triển xấu (0%) và phần lớn gặp tác dụng phụ từ ít đến trung bình (71%). Xét về mặt tình trạng bệnh, các yếu tố phương pháp điều trị, tiến triển bệnh và mức tác dụng phụ bệnh nhân gặp phải khi điều trị ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến triệu chứng lo âu của người bệnh (< 0,05). Nhóm bệnh nhân không điều trị hóa trị, không có sự cải thiện tình trạng bệnh có nguy cơ lo âu cao gấp 11, 67 (95% CI=6,66-20,45) và 25,43 (95% CI=13,53-47,8) so với nhóm bệnh nhân điều trị Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 271 hóa trị/xạ trị và cải thiện tình trạng bệnh tốt hơn, tương ứng. Đối với mức tác dụng khi điều trị, nhóm bệnh nhân gặp nhiều tác dụng phụ có nguy cơ lo âu thấp hơn 0,22 lần so với nhóm bệnh nhân gặp tác dụng phụ từ ít đến trung bình (Bảng 3). Bảng 1. Thông tin chung và thực trạng lo âu của đối tượng nghiên cứu Yếu tố nhân khẩu học N HADS Lo âu N (%) Không lo âu N (%) OR (95% CI) p Giới tính Nữ 185 137 (74) 48 (26) 4,78 (2,87-7,97) 0.000 Nam 107 40 (37,4) 67 (62,6) Độ tuổi 18 – 39 118 84 (71,2) 34 (28,8) 1 40 – 49 130 66 (50,8) 64 (49,2) 0,42 (0,25-0,71) 0,001 50 – 59 34 20 (58,8) 14 (41,2) 0,58 (0,26-1,27) 0,175 ≥60 10 7 (70) 3 (30) 0,94 (0,23-3,87) 0,937 Hôn nhân Ly dị, góa, độc thân 35 25 (71,4) 10 (28,6) 1,73 (0,8 -3,75) 0.167 Đang sống với vợ/chồng/bạn tình 257 152 (59,1) 105 (40,9) Nghề nghiệp Sinh viên 8 8 (100) 0 (0) - Cán bộ nhà nước 19 16 (84,2) 3 (15,8) 1,07 0.942 Doanh nghiệp tư nhân 64 12 (67,2) 21 (32,8) 0,41 0,193 Nông dân 94 30 (31,9) 64 (68,1) 0,09 0,000 Lao động tự do 54 20 (55,6) 24 (44,4) 0,25 0,044 Về hưu 11 11 (100) 0 (0) - Nội trợ 20 20 (100) 0 (0) - Không có việc làm 4 4 (100) 0 (0) - Khác 18 15 (83,3) 3 (16,7) 1 Học vấn Phổ thông 227 141 (62,1) 86 (37,9) 1 - Đại học 57 32 (56,1) 25 (43,9) 0,78 (0,43, 1,41) 0,409 Sau đại học 8 4 (50) 4 (50) 0,61 (0,15, 2,5) 0,492 Công việc Không đi làm 53 50 (93,3) 3 (5,7) 14,7 (4,46-48,43) 0,000 Đi làm 239 127 (53,1) 112 (46,9) Bảng 2. Thông tin chung về yếu tố kinh tế và thực trạng lo âu của đối tượng nghiên cứu Yếu tố kinh tế N HADS Lo âu N (%) Không lo âu N (%) OR (95% CI) p BHYT Không 20 8 (40) 12 (60) 0,41 (0,16 - 1,03) 0,057 Có 272 169 (62,1) 103 (37,9) Mức BHYT chi trả < 100% 180 138 (76,7) 42 (23,3) 6,15 (3,66 - 10,34) 0,000 100% 112 39 (34,8) 73 (65,2) Tình hình kinh tế Thiếu thốn 77 57 (74) 20 (26) 2,26 (1,27 - 4,01) 0,006 Đủ chi trả 215 120 (55,8) 95 (44,2) Khoảng cách đến viện > 50km 58 146 (62,4) 88 (37,6) 1,45 (0,81 - 2,58) 0,213 ≤ 50km 234 31 (53,4) 27 (46,6) Phương tiện đi lại Ô Tô 210 126 (60) 84 (40) 1,04 (0,59 - 1,82) 0,895 Khác 16 12 (75) 4 (25) 2,08 (0,61 - 7,13) 0,245 Xe máy 66 30 (52,6) 27 (47,3) 1 Bảng 3. Mối liên quan giữa tình trạng bệnh với thực trạng lo âu của người bệnh Tình trạng bệnh N HADS Lo âu N (%) Không lo âu N (%) OR 95% CI p Giai đoạn bệnh Điều trị theo phác đồ 230 127 (55,2) 103 (44,8) 0,46 (0,12 - 1,79) 0,264 Điều trị theo triệu chứng 51 42 (82,4) 9 (17,6) 1,75 (0,39 - 7,92) 0,467 Nặng tái phát 11 8 (72,8) 3 (27,2) 1 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 272 Tình trạng bệnh N HADS Lo âu N (%) Không lo âu N (%) OR 95% CI p Thời gian chẩn đoán (tháng) >6 tháng 277 165 (59,6) 112 (40,4) 0,37 (0,1-1,33) 0,128 ≤6 tháng 15 12 (80) 3 (20) Phương pháp điều trị Không hóa, xạ trị 181 147 (81,2) 34 (18,8) 11,67 (6,66 - 20,45) 0,000 Hóa, xạ trị 111 30 (27) 81 (73) Tiến triển bệnh Chuyển biến xấu 0 0 0 - - Bình thường 182 156 (85,7) 26 (14,3) 25,43 (13,53 - 47,8) 0,000 Chuyển biến tốt 110 21 (19) 89 (81) Tác dụng phụ khi điều trị Nhiều 95 40 (42,1) 55 (57,9) 0,22 (0,13 - 0,38) 0,000 Ít đến trung bình 207 147 (71) 60 (29) Thực trạng lo âu Tiến hành phân tích tổng hợp thực trạng lo âu của bệnh nhân dựa trên bộ công cụ HADS cho kết quả được trình bày trong Bảng 4. Bảng 4. Các mức độ lo âu của bệnh nhân theo thang HADS Mức độ lo âu Số lượng Tỉ lệ (%) Không có triệu chứng lo âu (0-7đ) 115 39,4 Có triệu chứng lo âu (8-10đ) 149 51,0 Lo âu thực sự (11 – 21đ) 28 9,6 Điểm trung bình±SD 7,40 ± 2,97 Dựa trên bộ công cụ HADS với điểm cắt lo âu là 8 điểm, kết quả phân tích cho thấy, trên 60% bệnh nhân có triệu chứng lo âu; trong đó có gần 10% bệnh nhân lo âu thực sự. Số bệnh nhân không lo âu chiếm 39,4%. Các yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu của người bệnh Bảng 5 cho thấy khi sử dụng mô hình hồi quy logistic đa biến thì: tâm lý lo âu ở bệnh nhân mắc bệnh máu ác tính đến tái khám có liên quan với phương pháp điều trị, sự tiến triển bệnh và mức tác dụng phụ bệnh nhân gặp phải trong điều trị (p <0,05). Bệnh nhân không được điều trị hóa trị và không có sự cải thiện tình trạng bệnh có nguy cơ lo âu cao gấp 12,22 lần (95% CI=3,85- 38,71) và 20,28 lần (95% CI=8,25-49,81) so với bệnh nhân được điều tri hóa/xạ trị và có sự chuyển biến tốt. Trái ngược với phân tích đơn biến, phân tích đa biến cho thấy bệnh nhân gặp nhiều tác dụng phụ có nguy cơ lo âu cao gấp 6,43 lần (95%CI=1,76-23,48) so với nhóm bệnh nhân gặp tác dụng phụ từ ít đến trung bình. Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,005). Đối với các yếu tố gồm mức BHYT chi trả, tình hình kinh tế bệnh nhân, thời gian chẩn đoán và giai đoạn bệnh, sau khi hiệu chỉnh, các yếu tố này có gây ảnh hưởng nhất định đến tâm lý lo âu của bệnh nhân, nhưng không có ý nghĩa thống kê. Bảng 5. Phân tích đa biến mối liên quan giữa các yếu tố trong nghiên cứu đến tình trạng lo âu của người bệnh dựa trên thang điểm HADS Yếu tố OR hiệu chỉnh (95%CI) p Mức BHYT chi trả 1,19 (0,51 - 2,8) 0,690 Tình hình kinh tế 2,24 (0,91 - 5,51) 0,078 Thời gian chẩn đoán (tháng) 1,24 (0,24 - 6,41) 0,794 Phương pháp điều trị 12,22 (3,85-38,71) 0,000 Giai đoạn bệnh Điều trị theo phác đồ so với Nặng/tái phát 0,26 (0,05 - 1,37) 0,111 Điều trị theo triệu chứng so với Nặng/tái phát 0,22 (0,03-1,54) 0,127 Tiến triển bệnh 20,28 (8,25-49,81) 0,000 Tác dụng phụ trong điều trị 6,43 (1,76 - 23,48) 0,005 BÀN LUẬN Trong tổng số 292 người bệnh tham gia nghiên cứu có 36,6% là nam giới và 63,4% là nữ giới với độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 39,7 (SD = 9,9). Kết quả phân tích thực trạng lo âu cho thấy, có 60,6% có triệu chứng lo âu với 9,6% lo âu thực sự. Kết quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu của Mackenzie trên 454 bệnh nhân tại Úc năm 2013(4) có tỉ lệ lo âu thực sự là 15% , nghiên cứu về vấn đề lo âu của người bệnh ung thư đang xạ trị do E. Frick và cộng sự (2007)(1) dùng thang đo HADS cho 63 bệnh nhân cho kết quả tỉ lệ lo âu thực sự là 15,9%. Điều này có thể giải thích do đặc điểm riêng về cuộc sống, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 273 hoàn cảnh môi trường xã hội, cá tính của mỗi đối tượng nghiên cứu. Phân tích thực trạng lo âu dựa trên các yếu tố cho thấy, chỉ có 37,4% nam giới có triệu chứng bị lo âu trong khi đó ở nữ giới là 74%. Kết quả này tương tự nghiên cứu của V Strong tại Anh năm 2007 có tỉ lệ nam bị lo âu là 16%, nữ là 27%. Điều này được giải thích bởi sự khác biệt cấu tạo não bộ và ảnh hưởng của sự thay đổi hoocmon trong cơ thể. Tình trạng lo âu cũng biểu hiện nhiều hơn ở nhóm tuổi ≥ 60, nhóm đang sống độc thân hoặc đã li dị, nhóm có trình độ từ trung học phổ thông trở xuống và nhóm không đi làm. Do đó, trong quá trình điều trị, đây là các đối tượng cần được quan tâm và tư vấn tâm lý. Đặc biệt, về tình trạng bệnh, bệnh nhân tuân thủ điều trị và bệnh chuyến biến tốt ít lo âu hơn so với nhóm đối tượng còn lại. Nghiên cứu của Jin Sheng Hong và Jun Tian năm 2013(2) cũng cho thấy những bệnh nhân bị ung thư giai đoạn nặng có tỉ lệ lo âu cao, những đối tượng có tiến triển và tình trạng bệnh xấu có tỉ lệ lo âu 9,62% trong khi người bệnh có tiến triển tốt tỉ lệ lo âu là 1,67%. Như vậy có thể thấy, các kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi có nhiều nghiên cứu. Ngoài ra, tâm lý lo âu ở bệnh nhân mắc bệnh máu ác tính đến tái khám có liên quan với phương pháp điều trị, sự tiến triển bệnh và mức tác dụng phụ bệnh nhân gặp phải trong điều trị (p < 0,05). Phân tích đa biến cho thấy, bệnh nhân gặp nhiều tác dụng phụ có nguy cơ lo âu cao gấp 6,43 lần (95% CI = 1,76-23,48) so với nhóm bệnh nhân gặp tác dụng phụ từ ít đến trung bình. Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê (p = 0,005). Do đó, trong quá trình điều trị, các bác sĩ và điều dưỡng cần chủ động thăm hỏi và khai thác các tác dụng phụ mà bệnh nhân gặp phải, đồng thời bệnh nhân cũng cần chủ động báo cáo các tác dụng phụ nhằm có hướng xử lý kịp thời, tránh gây tâm lý lo âu cho người bệnh về sau. Mặc dù đây là một trong số ít nghiên cứu về tình trạng lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân ung thư tại Việt Nam nhưng nghiên cứu của chúng tôi vẫn tồn tại một số hạn chế. Kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện, được thực hiện chỉ tại một bệnh viện sẽ không thể khái quát kết quả cho những quần thể nghiên cứu khác. Nghiên cứu được thực hiện với thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, không thể đưa ra mối quan hệ nhân quả trong diễn biến của tình trạng lo âu. KẾT LUẬN Điểm lo âu trung bình của các bệnh nhân tham gia nghiên cứu là: 7,40 (SD = 2,97). Tỉ lệ lo âu của đối tượng nghiên cứu là 60%, trong đó tỉ lệ lo âu thực sự là 10%. Phân tích đơn biến cho thấy, lo âu của các đối tượng nghiên cứu có liên quan đến giới tính, tình trạng công việc, mức chi trả BHYT, tình hình kinh tế, phương pháp điều trị, tiến triển bệnh và tác dụng phụ khi điều trị (có ý nghĩa thống kê). Sau hiệu chỉnh, các yếu tố phương pháp điều trị, tiến triển bệnh, tác dụng phụ khi điều trị là 3 yếu tố độc lập dẫn đến tình trạng lo âu của người bệnh tham gia nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Frick E, Tyroller M và Panzer M (2007). Anxiety, depression and quality of life of cancer patients undergoing radiation therapy: a cross-sectional study in a community hospital outpatient centre. Eur J Cancer Care, 16(2):130-136. 2. Hong JS, Tian J (2013). Prevalence of anxiety and depression and their risk factors in Chinese cancer patients. Support Care Cancer, 22(2):453-9. 3. Huỳnh Lê Phương, Phan Thị Diễm Kiều, Lê Thị Vẹn, Tô Huỳnh Minh Tâm, Nguyễn Thị Thu (2013). Khảo sát mức độ lo âu trước mổ bệnh nhân khoa ngoại thần kinh. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 17(2):84-89. 4. Mackenzie LJ, Carey ML, Sanson-Fisher RW, et al (2013). Psychological distress in cancer patients undergoing radiation therapy treatment. Support Care Cancer, 21(4):1043-51. 5. Tavoli A, Mohagheghi MA, et al (2007). Anxiety and depression in patients with gastrointestinal cancer: does knowledge of cancer diagnosis matter. BMC Gastroenterol, 7:28. 6. Zigmond AS, Snaith RP (1983). The hospital anxiety and depression scale. Acta Psychiatrica Scand, 67:361-370. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_dau_hieu_lo_au_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_m.pdf