Tài liệu Khảo sát đặc điểm giải phẫu ứng dụng chỏm xương quay: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 252
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG CHỎM XƯƠNG QUAY
Lê Nguyên Bình*, Đỗ Phước Hùng**, Trương Trọng Tín**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chỏm xương quay là cấu trúc có vai trò quan trọng trong chức năng của khớp khuỷu. Sự hiểu
biết về đặc điểm giải phẫu học của chỏm quay cùng mối liên quan với các cấu trúc lân cận sẽ giúp cho việc điều trị
trong trường hợp gãy chỏm quay không thể phục hồi giải phẫu (Mason III, IV) một cách tốt nhất.
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm giải phẫu học của chỏm xương quay và một số đặc điểm các cấu trúc lân
cận có thể tiên đoán được kích thước chỏm xương quay.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Gồm các khuỷu tay được cắt từ tay tại Bệnh viện
Chợ Rẫy, Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình và của xác tươi người Việt Nam trưởng thành tại Bộ môn Giải
Phẫu Học - Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Có 34 khuỷu tay được phẫu tích. Đườn...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát đặc điểm giải phẫu ứng dụng chỏm xương quay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 252
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG CHỎM XƯƠNG QUAY
Lê Nguyên Bình*, Đỗ Phước Hùng**, Trương Trọng Tín**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chỏm xương quay là cấu trúc có vai trò quan trọng trong chức năng của khớp khuỷu. Sự hiểu
biết về đặc điểm giải phẫu học của chỏm quay cùng mối liên quan với các cấu trúc lân cận sẽ giúp cho việc điều trị
trong trường hợp gãy chỏm quay không thể phục hồi giải phẫu (Mason III, IV) một cách tốt nhất.
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm giải phẫu học của chỏm xương quay và một số đặc điểm các cấu trúc lân
cận có thể tiên đoán được kích thước chỏm xương quay.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Gồm các khuỷu tay được cắt từ tay tại Bệnh viện
Chợ Rẫy, Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình và của xác tươi người Việt Nam trưởng thành tại Bộ môn Giải
Phẫu Học - Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Có 34 khuỷu tay được phẫu tích. Đường kính lớn nhất của chỏm quay (Dmax) là:
23,11mm±1,88mm ; đường kính nhỏ nhất (Dmin): 21,56mm±1,69mm. Đa số chỏm có dạng elip (79,4%), còn lại
là dạng hình tròn (20,6%). Chiều cao chỏm quay (h): 11,41±1,44mm. Góc nghiêng của chỏm quay trên mặt phẳng
trán: 3,410±1,78 và trên mặt phẳng đứng dọc: 7,580 ± 3,06. Độ sâu hố chỏm quay trung bình là: 2,25±0,34 mm.
Đường kính trước sau cổ xương quay: 13,79 ± 1,28 mm. Đường kính trong ngoài cổ xương quay: 13,51±1,41
mm. Góc cổ thân trung bình: 162,56 ± 3,62 (trên mặt phẳng trán) và 173,43±2,84 (trên mặt phẳng đứng dọc).
Đường kính lớn nhất và nhỏ nhất (Dmax và Dmin) có tương quan mạnh với khoảng cách từ bờ ngoài chỏm con
xương cánh tay đến bờ ngoài ròng rọc (CAP-TRO) (r= 0.81). Chiều cao chỏm quay (h) có tương quan mạnh với
chiều cao khuyết quay của xương trụ (h_trụ) (r= 0,81).
Kết luận: Các số đo về hình thái học chỏm quay và các cấu trúc lân cận làm cơ sở tham khảo cho việc thiết kế
chỏm quay nhân tạo.
Từ khóa: chỏm quay, chỏm con xương cánh tay, chỏm quay nhân tạo, khuyết quay xương trụ.
ABSTRACT
RADIAL HEAD: A STUDY OF CLINICAL ANATOMY
Le Nguyen Binh, Do Phuoc Hung, Truong Trong Tin
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 252 - 258
Introduction: Radial head is an important structure on the elbow’s movement. In practice, proper treament
and better outcome need throughout knowledge in morphological features of radial head and the landmarks with
surrounding structures.
Objectives: The purpose of the study was to identify anatomical features and correlation of radial head’s
main features with some features of humeral capitellum and proximal ulna.
Methods: Serial cases study. We studied thirty fresh cadaveric hands and four amputated upper extremities.
Results: The maximum diameter (Dmax) is: 23.11mm±1.88mm; the minimum diameter (Dmin):
21.56mm±1.69mm. Most of the radial head shape is eliptical (79.4%), the other is circular (20.6%). Radial head
* Khoa Chấn thương chỉnh hình – BV Chợ Rẫy
** Bộ môn Chấn thương chỉnh hình và Phục hồi chức năng - Đại học Y dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Lê Nguyên Bình, ĐT: 01267455213, Email: drlenguyenbinh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 253
height (h) is: 11.41±1.44mm. The inclination of radial head relative to its neck is 3.410±1.78 (frontal view) and
7.580 ±3.06 (sagittal view). Radial head fovealis depth is 2.25±0.34 mm. The anteroposterial diameter of
radial neck is 13.79±1.28 mm, the mediolateral diameter of radial neck is 13.51±1.41 mm. The angle between
neck and diaphysis is 162.56±3.62 (frontal view) and 173.43±2.84 (sagittal view). Dmax and Dmin have
strong correlation with CAP-TRO (r=0.81). Radial height has strong correlation with the height of lesser
sigmoid notch of the ulna (r=0.81).
Conclusions: The features of radial head and surrounding landmarks provide a remarkable data for
designing the proper radial head prosthetics.
Keywords: radial head, capitellum, radial head prosthetic, lesser sigmoid notch.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chỏm xương quay đóng vai trò như một yếu
tố giữ vững thứ phát chống lại sự vẹo ngoài của
khuỷu và chống bán trật ra sau khi khuỷu gấp(6).
Chỏm quay chịu xấp xỉ 30% lực chống vẹo ngoài
của khuỷu và chịu 60% lực truyền tải qua khớp
khuỷu khi khuỷu gấp và 20% lực truyền tải khi
khuỷu duỗi(13). Gãy chỏm xương quay chiếm 1/3
các tổn thương khớp khuỷu ở người lớn và có
xuất độ 2,5 đến 2,8 trên 10000 người lớn mỗi
năm(3,5). Việc điều trị gãy chỏm xương quay là
một thách thức với các bác sĩ lâm sàng bởi vì
không phải lúc nào cũng có thể bảo tồn được
chỏm xương quay, đặc biệt trong trường hợp
gãy nát (Mason III, IV). Theo Tejwani,các
phương pháp điều trị như kết hợp xương cho
thấy các kết quả còn nhiều hạn chế, trong khi
phương pháp cắt chỏm quay có thể sự di chuyển
lên trên của xương quay, hậu quả về lâu dài sẽ
gây ra tổn thương Essex- Lopressti(10,11,16). Từ
những khó khăn đó, phương pháp thay chỏm
xương quay nhân tạo ra đời. Đây là phương
pháp hữu ích trong các trường hợp gãy chỏm
xương quay không thể phục hồi bằng phương
pháp kết hợp xương(4,16). 1941, Speed(8) mô tả lần
đầu tiên việc thay chỏm xương quay bằng chỏm
quay nhân tạo từ kim loại, tuy nhiên kết quả đạt
được còn khiêm tốn. Yếu tố quyết định thành
công trong phẫu thuật thay chỏm xương quay
nhân tạo chính là sự tương thích với kích thước
và hình dáng giải phẫu của chỏm xương quay
cũng như việc định hướng chính xác.
Trong thực tế lâm sàng, việc xác định các số
đo về hình thái học chỏm xương quay trong
phẫu thuật thay chỏm thường khó khăn do
chỏm xương quay gãy nát, vì vậy một số tác giả
thực hiện đo trên chỏm xương quay đối diện,
tuy nhiên các số đo này được tính trên các
phương tiện hình ảnh học nên có thể gây ra sai
lệch(7). Để đáp ứng được sự tương thích đó, cần
có một nghiên cứu xác định hình thái giải phẫu
chỏm xương quay nhằm tạo thuận lợi cho việc
chế tạo trang thiết bị trong phẫu thuật thay chỏm
quay nhân tạo và xác định các yếu tố gián tiếp
như sự tương quan của chỏm xương quay với
các cấu trúc lân cận, từ đó giúp tiên đoán chính
xác hình thái học của chỏm xương quay.
Tại Việt Nam, Nguyễn Minh Tùng(14) báo cáo
hồi cứu cho thấy tỉ lệ cắt chỏm quay là 25%,
trong đó các kết quả theo dõi xa có đến 20% là
trung bình và xấu. Tuy nhiên lại chưa có nghiên
cứu nào về đặc điểm giải phẫu của chỏm xương
quay làm nền tảng cho việc thay chỏm quay
nhân tạo. Từ thực tế đó, chúng tôi quyết định
tiến hành nghiên cứu "Khảo sát đặc điểm giải
phẫu ứng dụng chỏm xương quay".
Mục Tiêu nghiên cứu
Xác định các đặc điểm giải phẫu học của
chỏm xương quay và một số đặc điểm các cấu
trúc lân cận có thể tiên đoán được kích thước
chỏm xương quay.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 254
Đối tượng nghiên cứu
- Các chỏm quay trên xác tươi tại bộ môn
Giải phẫu học –Đại học y dược TP Hồ Chí Minh.
- Các chỏm quay trên chi được cắt từ cánh
tay do bệnh lí hoặc chấn thương động mạch,
hoặc cắt do ung thư xương, phần mềm tại
bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Chấn thương
chỉnh hình.
Tiêu chuẩn loại trừ
+ Xác có biến dạng vùng khuỷu.
+ Có bằng chứng can thiệp phẫu thuật
vùng khuỷu.
+ Có bằng chứng u, viêm xương
vùng khuỷu.
Cỡ mẫu: 34 khuỷu tay.
Phương pháp nghiên cứu
Hình 1: Các kích thước chỏm quay được khảo sát.
Với từng mẫu nghiên cứu, chúng tôi phẫu
tích trên khuỷu tay xác tươi, bộc lộ chỏm quay,
cắt các dây chằng và bao khớp xung quanh.
Đánh dấu vị trí trước sau, trong, ngoài. Cắt đầu
trên xương quay 5 cm dưới lồi củ quay, gắn
chỏm quay cắt được lên chân đế theo hướng đã
xác định, gắn chân đế + chỏm vào trục tọa độ 90-
90 chuẩn bị trước. Sau đó chúng tôi đo các kích
thước của chỏm quay, các góc đo được đo trực
tiếp bằng thước đo góc và chụp hình ở tư thế
quy ước, các kích thước chỏm con và đo khuyết
quay xương trụ (khuyết sigma nhỏ), xác định lại
các góc đo bằng phần mềm Coreldraw 6.0 và xử
lý, phân tích số liệu trên máy tính.
KẾT QUẢ
Đặc điểm hình thái học chỏm quay và cổ xương
quay
Đường kính lớn nhất của chỏm quay Dmax
là: 23,11 ± 1,88 mm (18,50 – 25,53), đường kính
này chúng tôi ghi nhận được nằm trên đường
chéo ở vị trí đo trước trong đến sau ngoài, vị trí
này theo nghiên cứu của chúng tôi là hằng định
(34/34 mẫu),
Đường kính nhỏ nhất của chỏm quay Dmin
là: 21,56 ± 1,69 mm (17,81 – 24,07), chúng tôi ghi
nhận số đo này trong các mẫu là ở vị trí trước
ngoài đến sau trong (34/34 mẫu).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 255
Chúng tôi xác định hiệu số của Dmax-Dmin
để làm căn cứ xác định hình dáng chỏm quay là
hình tròn hay elip(2), nếu hiệu số này <= 1mm là
dạng chỏm tròn, nếu >1mm là chỏm dạng elip.
Kết quả có 27 trong 34 mẫu (chiếm 79,4%) có
dạng elip và 7 mẫu có dạng hình tròn (chiếm
20,6%). Tâm chỏm quay hơi lệch ra sau so với
đường thẳng này trên những mẫu chỏm quay có
dạng elip, và nằm trên đường thẳng này với
những chỏm quay có dạng hình tròn, kết quả
này ghi nhận trên 25/27 mẫu chỏm quay elip, và
7/7 chỏm quay hình tròn
Đường kính chỏm quay trước sau là: 22,76 ±
1,90 mm, đường kính chỏm quay trong ngoài là:
22,52 ± 1,85 mm
Chiều cao chỏm quay ở vị trí trước, ngoài,
sau, trong như trong bảng.
Bảng 1: Chiều cao chỏm quay
Chiều cao chỏm
quay
Kích thước (mm) Độ lệch chuẩn
Trước 9,50 1,52
Ngoài 8,79 1,46
Sau 9,45 1,49
Trong 11,41 1,44
Góc nghiêng của chỏm quay trên mặt phẳng
trán: 3,41 ± 1,78. Góc nghiêng của chỏm quay
trên mặt phẳng đứng dọc: 7,58 ± 3,06.Chỏm quay
nghiêng vào trong so với cổ xương quay (trên
mặt phẳng trán) và nghiêng ra trước (trên mặt
phẳng đứng dọc).
Đường kính trước sau của hố chỏm quay là:
13,96 ± 1,35mm. Đường kính trong ngoài của hố
chỏm quay là: 13,75 ± 1,23mm. Độ dày của chu vi
hố chỏm quay dày nhất ở phía trong trung bình
là 4,90 ± 0,85mm. Độ sâu hố chỏm quay trung
bình là: 2,25 ± 0,34mm.
Đường kính trước sau cổ xương quay: 13,79
± 1,28mm. Đường kính trong ngoài cổ xương
quay: 13,51 ± 1,41mm. Góc cổ thân trung bình :
162,56 ± 3,62 (trên mặt phẳng trán) và 173,43 ±
2,84 (trên mặt phẳng đứng dọc). Cổ xương quay
nghiêng ra ngoài và nghiêng ra sau so với thân
xương quay (34/34 mẫu).
Đặc điểm các yếu tố tiên đoán kích thước chỏm
Chúng tôi ghi nhận một số kích thước có liên
quan như sau:
Chiều dài xương quay trung bình: 232,02 ±
11,08 mm.
Đường kính trước sau chỏm con xương cánh
tay: 20,37 ± 1,83 mm.
Đường kính trong ngoài của chỏm con
xương cánh tay: 16,51 ± 1,30 mm.
Khoảng cách từ bờ ngoài chỏm con tới bờ
trong ròng rọc (CAP-TRO): 21,21 ± 1,85 mm.
Độ cao của khuyết quay ở xương trụ:
11,18 ± 1,40 mm.
Dùng phép kiểm định tương quan Pearson,
chúng tôi ghi nhận sự tương quan giữa các yếu
tố như trong bảng:
Bảng 2: Hệ số tương quang các yếu tố tiên đoán kích
thước chỏm
Yếu tố liên quan
Hệ số tương
quan
CAP-TRO với Dmax 0,77
CAP-TRO với Dmin 0,81
Đường kính chỏm con trước sau với Dmax 0,69
Đường kính chỏm con trước sau với
Dmin
0,59
Đường kính chỏm con trong ngoài với
Dmax
0,44
Đường kính chỏm con trong ngoài với
Dmin
0,48
Chiều cao chỏm quay với chiều cao
khuyết quay xương trụ
0,81
Chiều cao chỏm quay với chiều dài
xương quay
0,44
Từ đó chúng tôi lập phương trình hồi quy để
có công thức dự đoán cho các kích thước Dmax,
Dmin, và chiều cao h.
Dmax = 0,78 CAP-TRO + 6.45 (mm).
Dmin = 0,73 CAP-TRO + 5,9 (mm).
H = 0,83 h_tru + 2,12 (mm).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 256
BÀN LUẬN
Đặc điểm hình thái học chỏm quay
Về hình dáng của chỏm quay: chỏm quay có
dạng hình tròn hay elip, đây là câu hỏi được đặt
ra từ rất lâu và cũng chưa có sự thống nhất. Kết
quả ghi nhận được 27 trong 34 mẫu (chiếm
79,4%) có dạng elip và 7 mẫu có dạng hình tròn
(chiếm 20,6%). Trong các mẫu có dạng chỏm
elip, đường kính lớn nhất ghi nhận tại vị trí
trước trong đến sau ngoài, còn đường kính nhỏ
nhất ghi nhận tại vị trí trước ngoài đến sau trong
(27/27 mẫu). Tương đồng với kết luận của King
và Beredjeklian(1): đa số chỏm không phải hình
tròn mà có dạng elip. Điều này khác biệt so với
nghiên cứu của Captier: 57% chỏm hình elip và
43% chỏm hình tròn. Từ đó chúng tôi cho rằng,
chỏm quay ở người Việt Nam có dạng hình elip,
gợi ý thiết kế một chỏm quay nhân tạo có dạng
elip sẽ phù hợp hơn về cơ sinh học.
Về đặc điểm các kích thước chỏm quay
Bảng 3: Kích thước chỏm quay
Nghiên cứu Số mẫu Dmax Dmin Chiều cao
King
(7)
28 24,3 ± 2,4 22,6 ± 2,4
Captier
(2)
96 21,7 ± 2,7 20,2 ± 2,7 15,9 ± 2,3
Beredjiklian
(1)
46 23 22 12
Mahaisavariya
(12)
40 20,5 20,5 12,9 ± 1,4
Swiezkowski
(15)
17 23,36 ± 1,14 10,14 ± 1,38
Chúng tôi 34 23,11 ± 1,88 21,56 ± 1,69 11,41 ± 1,44
Đường kính lớn nhất và nhỏ nhất trong
nghiên cứu chúng tôi nhỏ hơn so với nghiên cứu
của King(7) (đo trực tiếp trên xác tươi),và lớn hơn
so với của Captier(2) (đo trên xác khô) (p<0,05),
điều này có thể khác biệt do chủng tộc (khi so
sánh với King), kích thước của chúng tôi hơi lớn
hơn so với Captier, điều này được lý giải do mặt
khớp chỏm quay được bao bọc một lớp sụn, các
mẫu đo xương khô bị mất lớp sụn này làm cho
số đo bị nhỏ đi so với thực tế.So với nghiên cứu
của Mahaisavariya trên người châu Á, chúng tôi
ghi nhận có sự khác biệt (p< 0,05) có ý nghĩa
thống kê, điều này được lý giải vì tác giả sử
dụng phương pháp đo đường kính trên CT-3D,
phương pháp này được King và Beredjiklian cho
rằng sẽ làm nhỏ kích thước thật sự vì không đo
được lớp sụn của chỏm quay, hơn nữa tác giả
Mahaisavariya giả định chỏm hình tròn nên chỉ
tính đường kính trung bình bằng thuật toán, từ
đó khó so sánh hình dạng chỏm như trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Về chiều cao chỏm quay, kích thước chiều
cao được tính là chiều cao tại vị trí phía trong của
chỏm quay, do đây là vị trí có chiều cao lớn nhất
(p<0,05), lại là vùng tiếp khớp với xương trụ(17).
Chiều cao chỏm quay có vai trò rất quan trọng
về mặt cơ sinh học, việc bảo tồn chiều cao chỏm
quay là cần thiết để tránh các biến chứng ở cả
khuỷu và cổ tay. Khi chiều cao chỏm quay giảm
đi, sự di chuyển lên trên của chỏm quay về lâu
dài sẽ làm trật khớp quay trụ dưới, gọi là tổn
thương Essex-Lopressti(2). Ciều cao chỏm quay
trong nghiên cứu của chúng tôi tương ứng với vị
trí bên trong, đây cũng là vị trí có diện tiếp khớp
với xương trụ theo nghiên cứu của Thái Hồng
Phong và cs (2016)(17). Điều này cho thấy sự liên
quan mật thiết về hình thái cũng như chức năng
của phần bên trong chỏm quay với khớp quay
trụ trên. So sánh với các nghiên cứu khác, chúng
tôi nhận thấy chiều cao chỏm quay ở người Việt
Nam là 11,41 mm (SD 1,44mm), kích thước này
là khá nhỏ so với nghiên cứu của Captier(2) (đo
trực tiếp trên xương khô) (p<0,05), cũng như nhỏ
hơn so với các tác giả khác sử dụng MRI
(Mahaisavariya(12))và CT-scan, điều này được
giải thích do có sự khác biệt về chủng tộc so với
Captier,King(7) (người châu Âu).
Về góc nghiêng chỏm quay: kết quả của
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 257
chúng tôi cũng tương đồng với tác giả
Swieszkowski (p>0,05), và cũng cùng nhận định
về góc nghiêng của chỏm quay so với cổ xương
quay (p<0,01). Độ sâu của hố chỏm quay trong
nghiên cứu của chúng tôi là 2,25mm tương đồng
với King và hơi lớn hơn so với Swiezskowski.
Chúng tôi thấy rằng thiết diện cổ xương
quay có hình tròn với đường kính trung bình
là:13,65 ± 1,34 mm. Đường kính cổ chiếm 59,17%
so với đường kính lớn nhất của chỏm quay. Điều
này gợi ý cho việc thiết kế phần chuôi của chỏm
quay nhân tạo như sau: phần chuôi của chỏm
quay có kích thước phải nhỏ hơn 60% đường
kính lớn nhất của chỏm quay (chưa tính kích
thước 2 vỏ xương). Điều này giúp tránh được
biến chứng gây vỡ cổ xương quay khi khoan
lòng tủy trong lúc đặt chuôi của chỏm nhân tạo.
Đây cũng là điều chưa được ghi nhận trong các
nghiên cứu trước đây.
Về đặc điểm góc cổ thân: Góc cổ thân trên
mặt phẳng trán trong nghiên cứu của chúng tôi
nhỏ hơn so với kết quả của Captier (p<0,01).
Ngoài ra trong nghiên cứu của Captier, tác giả
kiểm định mối liên hệ giữa góc cổ thân và hình
dạng chỏm từ đó kết luận góc cổ thân lớn có liên
quan đến chỏm dạng elip và ngược lại, góc cổ
thân nhỏ có liên quan đến chỏm dạng hình tròn.
Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi khi
dùng phép kiểm ANOVA chúng tôi không nhận
thấy có sự tương quan này. Ngoài ra, một điểm
khác trong nghiên cứu của chúng tôi mà chưa
tác giả nào đề cập đó là đánh giá góc cổ thân ở
mặt phẳng bên. Trong 34/34 mẫu, chúng tôi đều
ghi nhận cổ xương quay trung bình 173.43 độ
hơi ngả sau so với thân xương, đây cũng là điểm
cần chú ý trong thiết kế chỏm quay nhân tạo.
Đặc điểm các yếu tố tiên đoán kích thước chỏm
Theo Leclerc (2013)(9) khảo sát trên 50 khuỷu
tay bằng CT-scan, tác giả ghi nhận có mối liên hệ
chặt giữa khoảng cách từ bờ ngoài chỏm con đến
bờ ngoài ròng rọc xương cánh tay (CAP-
TROridge) và đường kính lớn nhất và đường
kính nhỏ nhất (Dmax và Dmin) lần lượt theo
phương trình :
Dmax = 0,9794 x CAP-TROCHridge + 2,2363
(mm).
Dmin = 0,9612 x CAP-TROCHridge + 1,3996
(mm).
Chúng tôi cũng sử dụng phương trình hồi
quy tuyến tính để tìm mối liên hệ của các kích
thước trên ở người Việt Nam và được các
phương trình hồi quy như sau:
Dmax = 0,78 CAP-TRO + 6,45.
Dmin = 0,73 CAP-TRO + 5,9.
Chiều cao chỏm quay (H)= 0,83 x Chiều cao
khuyết quay + 2,12 (mm).
Các phương trình hồi qui trên đều có tương
quan mạnh (r> 0,8), từ đó chúng tôi cũng có cùng
nhận định với Leclerc(9) về vai trò của khoảng
cách CAP-TRO trong việc tiên đoán các đường
kính lớn nhất và nhỏ nhât của chỏm quay, đặc
biệt hữu ích trong trường hợp gãy nát chỏm.
KẾT LUẬN
Chỏm quay có vai trò quan trọng trong bảo
đảm chức năng vận động của chi trên, việc phục
hồi gần giống với hình thái học của chỏm quay
trong trường hợp không thể bảo tồn chỏm quay
là một yêu cầu cần thiết đối với các phẫu thuật
viên để có thể mang lại kết quả tốt nhất cho bệnh
nhân có chỉ định thay chỏm quay. Do cấu trúc
phức tạp của chỏm quay và khớp quay trụ trên
cũng như khớp khuỷu, cùng với sự gia tăng của
các chấn thương liên quan đến chỏm quay nói
riêng và vùng khuỷu nói chung, cũng như độ
nặng của chấn thương tăng dần, việc có các số
đo làm nền tảng chế tạo chỏm quay nhân tạo
cũng như dự đoán kích thước chỏm quay sẽ
giúp ích rất nhiều trong việc thiết kế chỏm quay
phù hợp giải phẫu và cơ sinh học, là một yêu cầu
thiết thực và mang tính thời sự. Từ nghiên cứu
của chúng tôi có thể góp phần làm cơ sở tham
khảo để sản xuất chỏm quay nhân tạo phù hợp
người Việt Nam với các đặc điểm nổi bật đã
được nêu. Khi chỏm quay gãy nát không hồi
phục, các mốc giải phẫu đã nêu như khoảng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 258
cách CAP-TRO, chiều cao khuyết quay có thể
xem như “kim chỉ nam” định hướng trước và
trong phẫu thuật để có thể lựa chọn chỏm quay
phù hợp nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Beredjiklian P K, Nalbantoglu U, Potter H G, Hotchkiss R N
(1999), "Prosthetic radial head components and proximal
radial morphology: a mismatch". J Shoulder Elbow Surg, 8 (5),
pp. 471-5.
2. Captier G, Canovas F, Mercier N, Thomas E, Bonnel F (2002),
"Biometry of the radial head: biomechanical implications in
pronation and supination". Surg Radiol Anat, 24 (5), pp. 295-
301.
3. Duckworth A D, Clement N D, Jenkins P J, Aitken S A, Court-
Brown C M, et al. "The Epidemiology of Radial Head and
Neck Fractures". Journal of Hand Surgery, 37 (1), pp. 112-119.
4. Furry K L, Clinkscales C M (1998), "Comminuted fractures of
the radial head Arthroplasty versus internal fixation". Clin
Orthop Relat Res, (353), pp. 40-52.
5. Kaas Laurens, van Riet Roger P, Vroemen Jos P A M,
Eygendaal Denise "The epidemiology of radial head
fractures". Journal of Shoulder and Elbow Surgery, 19 (4), pp. 520-
523.
6. Kapandji A (2001), "Biomechanics of pronation and supination
of the forearm". Hand clinics, 17 (1), pp. 111-22, vii.
7. King G J, Zarzour Z D, Patterson S D, Johnson J A (2001), "An
anthropometric study of the radial head: implications in the
design of a prosthesis". J Arthroplasty, 16 (1), pp. 112-6.
8. Koslowsky T C, Beyer F, Germund I, Mader K, Jergas M, et al.
(2007), "Morphometric parameters of the radial neck: an
anatomical study". Surg Radiol Anat, 29 (4), pp. 279-84.
9. Leclerc A E, Deluce S, Ferreira L, Desai S, King G J, et al.
(2013), "Measurements of the ispilateral capitellum can
reliably predict the diameter of the radial head". J Shoulder
Elbow Surg, 22 (12), pp. 1724-8.
10. Leppilahti J, Jalovaara P (2000), "Early excision of the radial
head for fracture". Int Orthop, 24 (3), pp. 160-2.
11. Lindenhovius A L, Felsch Q, Doornberg J N, Ring D, Kloen P
(2007), "Open reduction and internal fixation compared with
excision for unstable displaced fractures of the radial head". J
Hand Surg Am, 32 (5), pp. 630-6.
12. Mahaisavariya B, Saekee B, Sitthiseripratip K, Oris P, Tongdee
T, et al. (2004), "Morphology of the radial head: a reverse
engineering based evaluation using three-dimensional
anatomical data of radial bone". Proc Inst Mech Eng H, 218 (1),
pp. 79-84.
13. Morrey B F, An K N, Stormont T J (1988), "Force transmission
through the radial head". J Bone Joint Surg Am, 70 (2), pp. 250-
6.
14. Swieszkowski W, Skalski K, Pomianowski S, Kedzior K
(2001), "The anatomic features of the radial head and their
implication for prosthesis design". Clin Biomech (Bristol, Avon),
16 (10), pp. 880-7.
15. Tejwani N C, Mehta H (2007), "Fractures of the radial head
and neck: current concepts in management". J Am Acad Orthop
Surg, 15 (7), pp. 380-7.
16. Thái Hồng Phong, Đỗ Phước Hùng (2016), "Nghiên cứu giải
phẫu vùng không tiếp khớp của chỏm quay ở khớp quay trụ trên".
Ngày nhận bài báo: 06/12/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_dac_diem_giai_phau_ung_dung_chom_xuong_quay.pdf