Tài liệu Khảo sát các yếu tố liên quan đến nguy cơ tử vong sơ sinh sớm của trẻ ở tuổi thai 28-32 tuần tại Bệnh viện Hùng Vương: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 49
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NGUY CƠ TỬ VONG
SƠ SINH SỚM CỦA TRẺ Ở TUỔI THAI 28-32 TUẦN TẠI BỆNH VIỆN
HÙNG VƯƠNG
Trương Quang Hưng*, Hoàng Thị Diễm Tuyết**
TÓM TẮT
Mở đầu: Sinh non là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trên thế giới. Một nửa số trẻ
sinh ra bằng hoặc dưới 32 tuần trong 2 tháng đầu sẽ chết do thiếu các dịch vụ chăm sóc khả thi hiệu quả chi phí,
chẳng hạn như sự ấm áp, hỗ trợ cho con bú và chăm sóc cơ bản cho bệnh nhiễm trùng và suy hô hấp.
Phương pháp: Một nghiện cứu bệnh – chứng thực với tỷ lệ 1:2, thực hiện trên 375 trẻ sinh ở tuổi thai 28 –
32 tuần tại Bệnh viện Hùng Vương trong thời gian từ 01/09/2016 đến 30/04/2017. Nhóm bệnh 125 trẻ mất sau
sinh trước 7 ngày và 250 trẻ sinh nuôi sống.
Kết quả: Các yếu tố làm giảm nguy cơ tử vong sơ sinh sớm của trẻ: (i) Hoàn tất liệu pháp corticoid với OR =
0,39, KTC 9...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các yếu tố liên quan đến nguy cơ tử vong sơ sinh sớm của trẻ ở tuổi thai 28-32 tuần tại Bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 49
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NGUY CƠ TỬ VONG
SƠ SINH SỚM CỦA TRẺ Ở TUỔI THAI 28-32 TUẦN TẠI BỆNH VIỆN
HÙNG VƯƠNG
Trương Quang Hưng*, Hoàng Thị Diễm Tuyết**
TÓM TẮT
Mở đầu: Sinh non là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trên thế giới. Một nửa số trẻ
sinh ra bằng hoặc dưới 32 tuần trong 2 tháng đầu sẽ chết do thiếu các dịch vụ chăm sóc khả thi hiệu quả chi phí,
chẳng hạn như sự ấm áp, hỗ trợ cho con bú và chăm sóc cơ bản cho bệnh nhiễm trùng và suy hô hấp.
Phương pháp: Một nghiện cứu bệnh – chứng thực với tỷ lệ 1:2, thực hiện trên 375 trẻ sinh ở tuổi thai 28 –
32 tuần tại Bệnh viện Hùng Vương trong thời gian từ 01/09/2016 đến 30/04/2017. Nhóm bệnh 125 trẻ mất sau
sinh trước 7 ngày và 250 trẻ sinh nuôi sống.
Kết quả: Các yếu tố làm giảm nguy cơ tử vong sơ sinh sớm của trẻ: (i) Hoàn tất liệu pháp corticoid với OR =
0,39, KTC 95% = 0,20-0,76, p=0,01. (ii) Cân nặng trẻ ≥ 1000 gram, p < 0,001. Các yếu tố làm tăng nguy cơ tử
vong sơ sinh sớm của trẻ: (i) Đa ối OR = 6,42, KTC 95% = 1,27-32,52, p = 0,03. (ii) Giới tính trẻ là nam OR =
2,68, KTC 95% = 1,47-4,87, p = 0,001. (iii) Nhiễm trùng sơ sinh OR = 3,97, KTC 95% = 2,15-7,19, p <0,001.
Kết luận: Cân nặng trẻ từ 28 - 32 tuần hơn 1000 gr và corticoids kích thích trưởng thành phổi thai là những
yếu tố tiên lượng khả năng sống ở trẻ sơ sinh sớm. Cần thêm những cứu về vấn đề này trong tương lai.
Từ khóa: trẻ sơ sinh non tháng sớm, nghiên cứu bệnh - chứng.
ABSTRACT
ACCESSMENT RISK FACTORS OF NEONATAL MORTALITY IN EARLY PRETERM BABIES
WITH 28-32 WEEKS AGE AT HUNG VUONG HOSPITAL
Truong Quang Hung, Hoang Thi Diem Tuyet
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 49 - 54
Background: Preterm birth is the leading cause of deaths among children under 5 years old all over the
world. Half of babies born at or below 32 weeks in the first two months will die due to the lack of cost-effective care
services, such as warmth, breastfeeding support and basic care for the disease. infections and respiratory failure.
Methods: A case – control study with ratio 1: 2 was performed on 375 births at 28-32 weeks of gestation at
Hung Vuong Hospital from September 2016 to April 2017. Patient group includes 125 preterm babies died before
7 days and control group includes 250 babies having live births.
Results: Factors that reduced the risk of infant mortality were: (i) complete corticosteroid therapy with OR =
0.39, 95% CI[0.20-0.76], p = 0.01. (ii) Birth body weight ≥ 1000 grams, p <0.001. Factors that increase the risk of
infant mortality are: (i) polyhydramios OR = 6.42, 95% CI [1.27-32.5], p = 0.03. (ii) boy babies, OR = 2.68, 95%
CI [1.47-4.8], p = 0.001. (iii) neonatal infection OR = 3.97, 95% CI [2.15-7.19], p <0.001.
Conclusion: Weights of 28-32 weeks were more than 1000 gr and corticosteroid stimulation of fetal lung
maturation was a predictor of survival in early neonates. It needs more help on this issue in the future.
Key words: early preterm birth, case - control study.
* Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch ** Bệnh viện Hùng Vương
Tác giả liên lạc: TS. BS. Hoàng Thị Diễm Tuyết ĐT: 0908120952 Email: tuyethoang05@yahoo.conm.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 50
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, sinh non là nguyên nhân hàng đầu
gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi và ở hầu hết các
nước có số liệu đáng tin cậy, tỷ lệ sinh non đang
gia tăng(1). Định nghĩa sinh non là những trẻ
được sinh ra có tuổi thai từ 22 tuần, nghĩa là
nhiều hơn 154 ngày tính từ ngày đầu kỳ kinh
cuối, đến trước tuần thứ 37, nghĩa là ít hơn 259
ngày sau kỳ kinh cuối.Vì vậy dựa vào tuổi thai
có thể phân thành (1): Cực kỳ non (<28 tuần); Rất
non tháng (28 đến <32 tuần); Non tháng trung
bình đến muộn (32 đến <37 tuần).
Ở những nơi có thu nhập thấp, một nửa số
trẻ sinh ra bằng hoặc dưới 32 tuần (2 tháng đầu)
chết do thiếu các dịch vụ chăm sóc khả thi hiệu
quả chi phí, chẳng hạn như sự ấm áp, hỗ trợ cho
con bú và chăm sóc cơ bản cho bệnh nhiễm
trùng và suy hô hấp. Ở các quốc gia có thu nhập
cao, gần như tất cả những đứa trẻ có khả năng
sống sót. Ước tính năm 2010, số ca sinh non ở Ấn
Độ là 3519000, Mỹ là 517400(1). Trẻ sơ sinh non
tháng có nhiều nguy cơ bệnh tật như suy hô hấp,
bệnh màng trong, viêm phổi, di chứng thần
kinh, chậm phát triển về cân nặng và chiều
cao.Những di chứng ở trẻ là gánh nặng về tinh
thần và tài chính cho gia đình và xã hội. Ở châu
Âu và nhiều nước phát triển tỷ lệ sinh non thường là
5-9%(7). Tỷ lệ sinh non ở Việt Nam dao động từ
6,80% đến 13,80%(12). Việc giảm tỷ lệ sinh non là
một vấn đề toàn cầu.
Do đó, những dữ liệu về các yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng sống ở trẻ sinh non cung
cấp những thông tin quý báu trong hướng dẫn
và quản lý thai nghén. Bên cạnh đó, hỗ trợ cho
nhân viên y tế và sản phụ quyết định khi cần can
thiệp trên thai kỳ.
Trong thực tế tại nơi làm việc, chúng tôi ghi
nhận có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng
sống của trẻ sinh non tự nhiên hay chủ động do
phải chấm dứt thai kỳ vì bệnh lý mẹ, có dùng
corticoid để kích thích trưởng thành phổi thai
nhi kịp và đủ thời gian chưa. Với câu hỏi nghiên
cứu “Có những yếu tố nào có thể liên quan đến
khả năng sống của trẻ sinh ra có tuổi thai từ 28-
32 tuần?” Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Khảo
sát các yếu tố liên quan đến nguy cơ tử vong sơ sinh
sớm của trẻ ở tuổi thai 28-32 tuần tại bệnh viện Hùng
Vương” nhằm góp phần hỗ trợ các bác sĩ sản
khoa có cơ sở để lựa chọn quyết định theo dõi
hay chấm dứt thai kỳ trên các đối tượng non
tháng có nguy cơ cao.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định một số yếu tố liên quan đến nguy
cơ tử vong sơ sinh sớm của trẻ ở tuổi thai 28-32
tuần trong một tuần đầu sau sinh.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng
Chọn mẫu
Trẻ sơ sinh có tuổi thai từ 28-32 tuần được
sinh tại Bệnh viện Hùng Vương trong thời gian
từ 01/09/2016 đến 30/04/2017, được theo dõi và
chia thành 02 nhóm:
Nhóm bệnh: các trẻ có tuổi thai từ 28-32 tuần
sinh tại Bệnh viện Hùng Vương không nuôi
sống được trong thời gian nghiên cứu
Nhóm chứng: các trẻ có tuổi thai từ 28-32
tuần sinhtại Bệnh viện Hùng Vương nuôi sống
được trong thời gian nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn vào
Tất cả các trường hợp sinh đơn thai từ 28-32
tuần (tính theo kỳ kinh cuối nếu chu kỳ kinh đều
28-30 ngày, siêu âm 3 tháng đầu) trong thời gian
nghiên cứu. Đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
Các sản phụ không xác định được chính xác
tuổi thai. Các sản phụ có trẻ sinh ra do đình chỉ
thai nghén như thai dị dạng, dị tật bẩm sinh, thai
chết lưu, hoang thai.
Cỡ mẫu
Tính dựa công thức sau:
2
21
2
22112/
)(
)1(/)1()1()/11(
pp
ppmppZppmZ
N
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 51
Trong đó: Z là trị số từ phân phối chuẩn. α:
xác suất sai lầm loại 1. β:xác suất sai lầm loại 2.1-
β: sức mạnh của phép kiểm. p1: xác suất phơi
nhiễm trong nhóm bệnh. p2: xác suất phơi
nhiễm trong nhóm chứng.
Chọn: α= 0,05; Z0.975=1,96; (1-β)=0,80. OR =2, tỉ
lệ nhóm bệnh: nhóm chứng 1:2. P2 chọn theo
nghiên cứu của Roberts D và Dalziel SR (2006) là
xác suất trẻ sinh có tuổi thai < 32 tuần sống khi có
liệu pháp corticoid =0,6435(18). Cỡ mẫu tính được
là 375 trẻ. Chọn mẫu đủ 375 trường hợp với
nhóm bệnh là 125 trẻ; nhóm chứng là 250 trẻ
Phương pháp thống kê
Nhập số liệu và xử lí số liệu bằng phần mềm
Stata 13.0.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu (n =375)
Đặc điểm Nhóm
bệnh
N=125
Nhóm
chứng
N= 250
P
Tuổi mẹ < 20
20-34
≥ 35
10
92
23
16
184
50
0,6
0,5
Tuổi thai (tuần): 28 - <29
29 -<30
30 - <31
31 - <32
32
44
28
25
15
13
22
35
45
83
65
0,001
Con so
Con rạ
63
106
132
118
0,66
Tiền căn sinh non: Có
Không
13
112
23
227
0,71
Cao huyết áp/TSG: Có
Không
30
95
55
195
0,10
ĐTĐ thai kỳ: Có
Không
10
115
42
208
0,29
Thai chậm tăng trưởng
Có
Không
28
97
29
221
0,01
Ối vỡ non: Có
Không
12
113
49
201
0,01
Dùng Corticoides *
Không
Chưa hoàn tất
Hoàn tất
63
18
44
104
50
96
0,10
0,25
Phép kiểm Chi bình phương
TSG: tiền sản giật; ĐTĐ: Đái tháo đường
*Corticoides kích thích trưởng thành phổi thai
Bảng 2. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố nguy cơ
cho sanh non
Đặc điểm OR KTC 95% P
Đa ối 6,42 1,27-32,52 0,03
Liệu pháp corticoid
Chưa hoàn tất 0,67 0,30-1,51 0,33
Hoàn tất 0.39 0,20-0,76 0,01
Không 1
Giới tính trẻ
Trai 2,68 1,47-4,87 0,001
Gái 1
Cân nặng trẻ (gr)
<1000 1
1000-1499 0,10 0,03-0,30 <0,001
1500-1999 0,01 0,003-0,04 <0,001
2000-2499 0,01 0,002-0,06 <0,001
>2500 Không xác định
Nhiễm trùng sơ
sinh
3,97 2,15-7,19 <0,001
Suy hô hấp 3,75 0,22-4,75 0,01
BÀN LUẬN
Tuổi mẹ có liên quan đến sinh non đã được
nhiều tác giả nghiên cứu và khẳng định. Có
nhiều cách phân loại nhóm tuổi, nhưng được
dùng phổ biến là chia thành 3 nhóm: dưới 20
tuổi, từ 20 – 34 tuổi và từ 35 tuổi trở lên(3,10,12).
Theo nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ của ba
nhóm tuổi lần lượt là 6,93%, 73,6%,19,47%. Phân
bố tuổi của chúng tôi cũng tương tự các nghiên
cứu của tác giả Marisa IP, tác giả Lo CC và thống
kê tại bệnh viện ở Canada năm 2006 -2007 về
nhóm tuổi bà mẹ(3,11,14).
Rối loạn tăng số lượng nước ối là một trong
những nguyên nhân làm tăng nguy cơ sinh non.
Theo chúng tôi điều này là hoàn toàn hợp lý đa
ối làm cho tử cung giãn quá mức dễ phát sinh
chuyển dạ sinh non, đặc biệt là đa ối cấp. Nghiên
cứu của Lê Thị Thanh Vân cho thấy 9/9 thai phụ
đa ối trong nhóm nghiên cứu bị sinh non(9).
Nghiên cứu của Phạm Văn Hoàn có 6/6 các thai
phụ bị đa ối sinh non và trong nhóm sinh non,
đa ối chỉ chiếm 27%(18). Kết quả này cũng tương
tự của Nguyễn Văn Phong đa ối chiếm tỷ lệ 1,4%
trong nhóm sinh non và nguy cơ sinh non tăng
cao gấp 19 lần khi bị đa ối(16).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 52
Tuổi thai là một yếu tố bảo vệ trẻ non
tháng(1,15,19). Theo Mai Thị Phương, sự khác biệt
giữa khả năng sống của nhóm tuổi thai 29 tuần
đến 31 tuần 6 ngàyso với trẻ sinh ra ở tuổi thai 28
đến 28 tuần 6 ngày không có ý nghĩa thống kê(12).
Riêng nhóm tuổi thai 31 tuần đến 32 tuần, khi
phân tích đơn biến, khả năng sống tăng gấp 6,4
lần so với trẻ sinh ra ở tuổi thai 28 đến 28 tuần 6
ngày. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,003,
khoảng tin cậy 95% là 1,85-22,05). Tuy nhiên, khi
phân tích đa biến, mối liên quan trên không
còn(12). Điều này cũng tương tự như trong nghiên
cứu của chúng tôi. Tuổi thai tăng lên một nhóm
thì nguy cơ tử vong của trẻ giảm đi với p<0,001.
Theo Ladan H,tỉ lệ tử vong chung của dân số
nghiên cứu là 9,1%(8). Trong một nghiên cứu gần
đây ở Qatar, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh 28-32 tuần
là 65,3%(17).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có trọng
lượng trung bình của trẻ sơ sinh non tháng là
1468,11 + 388,78gr. Kết quả này thấp hơn Lê Thị
Thanh Vân với trọng lượng trung bình 1945.23 +
714.68gr(9), Phạm Văn Hoàn: 1593 + 651gr(18). Bên
cạnh đó, nghiên cứu chúng tôi còn cho thấy
phần lớn trẻ sinh non có cân nặng sau sinh dưới
2500 gam chiếm đa số và chỉ có vỏn vẹn 0.53%
trẻ sinh non có cân nặng ≥ 2500gr. Kết quả tỷ lệ
trẻ ≥2500gr này thấp hơn nhiều so với các nghiên
cứu tại Việt Nam như Phạm Văn Hoàn là 10,1%,
Trần Quang Hiệp là 8,06%, Nguyễn Văn Phong
là 8,2%(16,18,22). Đặc biệt thấp hơn rất nhiều so với
nghiên cứu của Lê Thị Thanh Vân là 25% và Mai
Trọng Dũng là 25,6%(9,13). Về ảnh hưởng của cân
nặng thai lên khả năng sống trong 7 ngày sau
sinh, nghiên cứu chúng tôi có ý nghĩa thống kê
với p= <0.001 tương đổng với kết quả của tác giả
Ladan với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
nhóm <2500gr, <1500gr, <1000gr với p = 0,0001,
trong đó khả năng sống thấp nhất thuộc về
nhóm < 1000gr chiếm 24%, tiếp đến là nhóm
1000-1500gr chiếm 68% và cao nhất 1500-2500g là
96% trong 7 ngày đầu sau sinh(8). Tuy nhiên theo
Escobar G J, cân nặng khi sinh khoảng 2000gr
không bảo vệ chống lại sự trợ giúp thông khí
hoặc tái nhập viện(6). Nghiên cứu trên còn cho
thấy trẻ sơ sinh có trọng lượng lớn có thể khiến
nhiều bác sĩ lâm sàng coi chúng là "những đứa
trẻ khỏe" nhưng vẫn mắc phải bệnh suất đáng
kể(6). Theo tác giả Shrestha S, tỷ lệ tử vong của trẻ
sinh non có cân nặng lúc sinh < 1000gr, 1000-
1500gr, > 1500gr lần lượt là 80%, 39,5%, 6,18%(20).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, suy hô hấp
chiếm 76.27% số trẻ sinh ra trong 7 ngày đầu ở
tuổi thai từ 28 đến 32 tuần. Suy hô hấp có ảnh
hưởng lên kết quả sơ sinh sớm khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p <0,001, nghĩa là nguy cơ tử
vong trong 7 ngày đầu sau sinh ở nhóm có suy
hô hấp tăng 9,86 lần so với với những trường
hợp không có suy hô hấp. Khuynh hướng này
biến mất sau khi phân tích đa biến.Tuy nhiên
theo Mai Thị Phương, suy hô hấp chiếm 69,10%
số trẻ sinh ra trong 7 ngày đầu ở tuổi thai từ 28
đến 32 tuần(12). Suy hô hấp có ảnh hưởng lên kết
quả sơ sinh sớm khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p = 0,017 và khả năng sống trong 7 ngày đầu
sau sinh ở nhóm có suy hô hấp giảm 12,5 lần so
với với những trường hợp không có suy hô hấp.
Đa số tử vong là do suy hô hấp chiếm tỷ lệ 78%
số tử vong. Khuynh hướng này không thay đổi
sau khi phân tích đa biến với tỷ số số chênh hiệu
chỉnh là 0,08(12). Theo Trần Diệu Linh tại Bệnh
viện Phụ sản Trung ương năm 2011, suy hô hấp
vẫn là nguyên nhân hàng đầu ở trẻ sơ sinh(21).
Đối tượng nghiên cứu của tác giả này là tất cả trẻ
được sinh ra và tỷ lệ suy hô hấp phải nhập
phòng hồi sức tích cực là 55,60%, thấp hơn hơn
kết quả của chúng tôi, có thể do đối tượng của
chúng tôi là các trẻ sinh non. Trong nghiên cứu
của tác giả De Castro MP, suy hô hấp là yếu tố
độc lập với tử vong sau sinh với tỷ số số chênh là
2,50, khoảng tin cậy 95% là 1,10-6,10(4).
Trẻ sinh ra ở tuổi thai từ 28 đến 30 tuần có
phổi chưa hoàn thiện. Suy hô hấp là bệnh
cảnh thường gặp và cần được điều trị bằng hỗ
trợ hô hấp (thở oxy, thông khí áp lực dương,
thở máyhoặc surfactant) khi cần thiết và cải
thiện trong 2-4 ngày và đôi khi dùng trong 7
đến 14 ngày. Việc cung cấp surfactant ngoại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 53
sinh thông qua một ống nội khí quản giúp cải
thiện trao đổi khí phổi và giảm tỷ lệ tử vong.
Do đó, trẻ thường được sử dụng kháng sinh
dự phòng khi có chỉ định.
Với nhiễm trùng sơ sinh, mối liên quan với
kết quả sau sinh sớm có ý nghĩa thống kê với p
<0,001.Khi phân tích đa biến, tỷ số số chênh giảm
khoảng một nửa còn 2.35.Theo nghiên cứu của
Shrestha S, tỷ lệ trẻ sinh non tử vong do nhiễm
trùng lên tới 50,80%(20). Trong bài báo của tác giả
Vergnano cho thấy, tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh
sớm tại Malaysia là 12.00% (1991), tại Ấn Độ là
49,00% (1996-1997), Kenya là 4,00% (1997 -
1998)(23). Như vậy, kết quả của chúng tôi nhận
được là cao hơn. Kết quả này có thể do đối tượng
của chúng tôi là nhóm trẻ non tháng từ 28 đến 32
tuần, còn của các tác giả là trên đối tượng tất cả
trẻ sinh ra. Theo nghiên cứu của tác giả Leal YA
tại Mexico năm 2012, nhiễm trùng sơ sinh ở đối
tượng sinh non có nguy cơ tử vong tăng 1,08 lần
với p = 0,02, KTC 95% [1,03-1,14](10).
Hạn chế
Điểm hạn chế trong nghiên cứu của chúng
tôi là việc xác định các yếu tố liên quan trẻ ở
tuổi thai 28-32 tuần sinh sống chỉ trong tuần
đầu sau sinh (sơ sinh sớm). Tuy nhiên tại thời
điểm này nhiều vấn đề trên trẻ sơ sinh non
tháng chưa được bộc lộ hết, nhiều trường hợp
sau đó đã tử vong. Tỷ lệ sống sót ở trẻ non
tháng cải thiện đáng kể trong những năm gần
đây. Tuy nhiên, trẻ vẫn có những nguy cơ dài
hạn đáng kể như những khiếm khuyết về phát
triển tâm thần vận động, những vấn đề sức
khỏe: tim mạch, hô hấp và chuyển hóa. Đặc biệt
là những “khuyết tật tiềm ẩn” trong học tập,
hành vi, lối sống(13). Thời điểm sau 7 ngày tuổi
không được theo dõi tiếp với các bệnh lý có thể
gặp là: nhiễm trùng sơ sinh, bệnh lý võng mạc,
bệnh lý thần kinh(5). Do đó, một nghiên cứu lớn
hơn với thiết kế nghiên cứu phù hợp: nghiên
cứu đoàn hệ thì việc theo dõi kết cục trẻ sẽ
được hoàn thiện và toàn diện hơn.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu bệnh chứng 375 trường
hợp, với tỷ lệ 1 bệnh: 2 chứng, rút ra một số
kết luận sau:
Các yếu tố làm giảm nguy cơ tử vong sơ sinh
sớm của trẻ: (i) Hoàn tất liệu pháp corticoid với
OR = 0,39, KTC 95% [0,20-0,76], p=0,01. (ii) Cân
nặng trẻ ≥ 1000 gram, p < 0,001.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ tử vong sơ sinh
sớm của trẻ: (i) Đa ối OR = 6,42, KTC 95% [1,27-
32,52], p = 0,03. (ii) Giới tính trẻ là nam OR = 2,68,
KTC 95% [1,47-4,87], p = 0,001. (iii) Nhiễm trùng
sơ sinh OR = 3,97, KTC 95% [2,15-7,19], p <0,001.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Blencowe H, Cousens S, Oestergaard M, Chou D, Moller AB,
Narwal R, Adler A, Garcia CV, Rohde S, Say L, Lawn JE (2012).
"National, regional and worldwide estimates of preterm birth".
The Lancet, 379(9832):pp.2162-2172
2. Bộ Y Tế (2009). “Chăm sóc trẻ sơ sinh đẻ non /nhẹ cân. Hướng
dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản”,
pp.224. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
3. Canadian Institute for Health Information (2009). "Too Early,
Too Small: A Profile of Small Babies Across Canada". Ottawa,
pp.26-29. URL:
https://secure.cihi.ca/free_products/too_early_too_small_en.pdf.
4. De Castro MP, Rugolo LM, Margotto PR (2012) "Survival and
morbidity of premature babies with less than 32 weeks of
gestation in the central region of Brazil". Rev Bras Ginecol Obstet,
34(5):pp.235-242.
5. Doyle LW, Saigal S (2009). "Long-term Outcomes of Very
Preterm or Tiny Infants". Neoreviews, 10(3):pp.130-137.
6. Escobar GJ, McCormick MC, et al (2006). "Unstudied infants:
outcomes of moderately premature infants in the neonatal
intensive care unit". Arch Dis Child Fetal Neonatal, 91(4):pp.238-
244.
7. Goldenberg RL, Culhane JF, Iams JD, Romero R (2008).
"Epidemiology and causes of preterm birth". The Lancet,
371(9606):pp.75-84.
8. Ladan H, Marzieh N, et al (2013). "Survival predictors of preterm
neonates: Hospital based study in Iran (2010-2011)". Iran J Reprod
Med, 11(12):pp.957-964.
9. Lê Thị Thanh Vân, Nguyễn Tiến Lâm (2011). "Nhận xét một số
yếu tố nguy cơ đẻ non tại bệnh viện phụ sản Trung ương năm
2008". Y học Thực Hành, 759(4):pp.14-16.
10. Leal YA, Álvarez-Nemegyei J, Velázquez JR, Rosado-Quiab U,
Diego-Rodríguez N, Paz-Baeza E, Dávila-Velázquez J (2012).
"Risk factors and prognosis for neonatal sepsis in southeastern
Mexico: analysis of a four-year historic cohort follow-up". BMC
Pregnancy and Childbirth, 12(48):pp.1-9.
11. Lo CC, Hsu JJ, Hsieh CC, et al (2007). "Risk factors for
spontaneous pretermdelivery before 34 weeks of gestation
among taiwanese women". Taiwan J Obstet Gynecol, 46(6):pp.389-
394.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 54
12. Mai Thị Phương (2014). “Kết cục thai kỳ ở tuổi thai từ 28 tuần
đến 32 tuần tại Bệnh viện Hùng Vương”. Luận văn Thạc sĩ Y học,
pp.5-69. Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Mai Trọng Dũng (2004). “Nghiên cứu tình hình sanh non tại
Bệnh viện Phụ sản Trung Ương từ tháng 1 năm 2003 đến tháng
8 năm 2004”. Luận văn tốt nghiệp nội trú, pp.60-80. Đại học Y Hà
Nội.
14. Marisa IP, Elmera P, Vitool L, Michelle AW (2010). "A Case-
Control Study of Preterm Delivery Risk Factors According to
Clinical Subtypes and Severity". J Obstet Gynaecol Res,
36(1):pp.34-44.
15. Ngô Minh Xuân, Nguyễn Tấn Tài (2010). "Tình hình tử vong sơ
sinh tại khoa sơ sinh bệnh viện Từ Dũ từ năm 1999 đến năm
2009". Y Học Thành phố Hồ Chí Minh, 14:pp.124-131.
16. Nguyễn Văn Phong (2003). “Nghiên cứu tình hình sanh non và
các yếu tố liên quan đến sanh non tại Bệnh viện Phụ sản Trung
Ương trong 2 năm 2001 – 2002”. Luận văn Thạc sĩ Y học, tr.58-67.
Đại học Y Hà Nội.
17. Parappil H, Rahman S, Salama H, Al Rifai H, Parambil NK, El
Ansari W (2010). "Outcomes of 28+1 to 32+0 weeks gestation
babies in the state of Qatar: finding facility-based cost effective
options for improving the survival of preterm neonates in low
income countries". Int J Environ Res Public Health, 7:pp.2526-2542.
18. Phạm Văn Hoàn (2015). “Nhận xét các yếu tố nguy cơ trên sản
phụ đẻ non tại bệnh viện phụ sản hà nội năm 2014, Luận văn tốt
nghiệp bác sỹ y khoa, pp.5-57. Trường Đại Học Y Hà Nội.
19. Roberts D, Dalziel SR (2006). "Antenatal corticosteroids for
accelerating fetal lung maturation for women at risk of preterm
birth". Cochrane Database of Systematic Reviews, (3):pp.1-179.
20. Shrestha S, Dangol Singh S, Shrestha M, Shrestha KPB (2010).
"Outcome of preterm babies and associated risk factor in a
hospital". J Nepal Med Assoc, 49(180):pp.286-290.
21. Trần Diệu Linh (2012). "Tình hình bệnh lý suy hô hấp của trẻ sơ
sinh tại trung tâm chăm sóc và điều trị sơ sinh bệnh viện phụ
sản Trung Ương năm 2011". Tạp Chí Phụ Sản, 10(2):pp.104-110.
22. Trần Quang Hiệp (2001). “Nhận xét tình hình sanh non tại Viện
bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh trong 3 năm 1998 – 2000”. Luận văn Thạc
sĩ Y học, tr.52-75. Đại học Y Hà Nội.
23. Vergnano S, Sharland M, Kazembe P, Mwansambo C, Heath P
(2005). "Neonatal sepsis: an international perspective". Arch Dis
Child Fetal Neonatal Ed, 90(3):pp.220-224.
Ngày nhận bài báo: 17/07/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/10/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_cac_yeu_to_lien_quan_den_nguy_co_tu_vong_so_sinh_so.pdf