Tài liệu Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường bằng bevacizumab tiêm nội nhãn: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Mắt 57
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ
ĐIỀU TRỊ PHÙ HOÀNG ĐIỂM ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
BẰNG BEVACIZUMAB TIÊM NỘI NHÃN
Trần Hồng Bảo*, Võ Thị Hoàng Lan*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự tương quan giữa các yếu tố toàn thân và tại chỗ đến hiệu quả điều trị phù hoàng điểm
đái tháo đường bằng Bevacizumab tiêm nội nhãn
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. Mẫu gồm 57 mắt từ 47 bệnh nhân phù hoàng điểm (HĐ) do
đái tháo đường (ĐTĐ) điều trị tại Bệnh viện Mắt TPHCM từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015. Tất cả bệnh nhân
được đánh giá toàn diện tình trạng mắt bằng sinh hiển vi và soi đáy mắt gián tiếp, đo thị lực kính và chụp cắt lớp
cố kết quang học võng mạc (OCT) để đo chiều dày võng mạc trung tâm (CRT) và xác định hình thái phù võng
mạc. Bệnh nhân sau đó được tiêm nội nhãn 3 mũi Bevacizumab 1,25mg/0,05ml cách nhau 1 tháng. Biến kết cục
chính là sự thay đổi thị lực (đánh giá theo ETDRS) và sự tha...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị phù hoàng điểm đái tháo đường bằng bevacizumab tiêm nội nhãn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Mắt 57
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ
ĐIỀU TRỊ PHÙ HOÀNG ĐIỂM ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
BẰNG BEVACIZUMAB TIÊM NỘI NHÃN
Trần Hồng Bảo*, Võ Thị Hoàng Lan*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự tương quan giữa các yếu tố toàn thân và tại chỗ đến hiệu quả điều trị phù hoàng điểm
đái tháo đường bằng Bevacizumab tiêm nội nhãn
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. Mẫu gồm 57 mắt từ 47 bệnh nhân phù hoàng điểm (HĐ) do
đái tháo đường (ĐTĐ) điều trị tại Bệnh viện Mắt TPHCM từ tháng 9/2014 đến tháng 5/2015. Tất cả bệnh nhân
được đánh giá toàn diện tình trạng mắt bằng sinh hiển vi và soi đáy mắt gián tiếp, đo thị lực kính và chụp cắt lớp
cố kết quang học võng mạc (OCT) để đo chiều dày võng mạc trung tâm (CRT) và xác định hình thái phù võng
mạc. Bệnh nhân sau đó được tiêm nội nhãn 3 mũi Bevacizumab 1,25mg/0,05ml cách nhau 1 tháng. Biến kết cục
chính là sự thay đổi thị lực (đánh giá theo ETDRS) và sự thay đổi CRT, với thời gian theo dõi 3 tháng. Một số
yếu tố được ghi nhận như: tuổi, giới, tiền sử gia đình, thời gian mắc ĐTĐ, tình trạng kiểm soát đường huyết,
tình trạng huyết áp, tình trạng đạm niệu, tình trạng lipid máu, hút thuốc lá, tình trạng thủy tinh thể, giai đoạn
bệnh võng mạc ĐTĐ (BVMĐTĐ), hình thái phù HĐ, thị lực khởi điểm, CRT khởi điểm để khảo sát tương quan
với hiệu quả điều trị.
Kết quả: Sự thay đổi thị lực sau điều trị là 6,73 ± 9,52 ký tự ETDRS (p<0,001), sự thay đổi CRT sau điều trị
là 80,35±114,19µm (p<0,001); giữa thay đổi thị lực và thay đổi CRT có tương quan thuận (R=0,537 và p<0,001).
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi thị lực sau điều trị là: tình trạng kiểm soát đường huyết (OR=16,85), vi
đạm niệu dương tính(OR=30) và BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh(OR=63). Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi
CRT sau điều trị là: vi đạm niệu dương tính(OR=6,33), rối loạn lipid máu (OR=4,96) và CRT khởi điểmnặng
(OR=0,12).
Kết luận: Bevacizumab có hiệu quả cải thiện có ý nghĩa thị lực và CRT trong bệnh lý phù hoàng điểm ĐTĐ.
Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sự phục hồi thị lực là kiểm soát đường huyết kém, vi đạm niệu dương tínhvà
BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phục hồi CRT là vi đạm niệu dương tính và rối
loạn lipid máu.
Từ khóa: phù hoàng điểm đái tháo đường, bệnh võng mạc đái tháo đường, yếu tố nguy cơ, Bevacizumab.
ABSTRACT
PROGNOSTIC FACTORS OF TREATMENT OUTCOMES IN INTRAVITREAL BEVACIZUMAB
FOR DIABETIC MACULAR EDEMA
Tran Hong Bao, Vo Thi Hoang Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 57 - 62
Purpose: To evaluate the effect of selected systemic and local factors on treatment outcomes in intravitreal
Bevacizumab therapy for diabetic macular edema.
Methods: Prospective cohort study. 57 eyes of 47 patients with diabetic macular edema (DME) treated in Ho
Chi Minh city Eye Hospital from September 2014 to May 2015 was enrolled in this study. BCVA measurement
and ophthalmic examination utilizing slit-lamp biomicroscopy and indirect ophthalmoscopy were performed;
OCT was used to evaluate CRT and edema type. At monthly interval, all patients were treated with 3 injections of
* Bộ môn Mắt Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Trần Hồng Bảo ĐT: 0906369896 Email: hongbao.tranvn@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 58
intravitreal Bevacizumab 1.25mg/0.05ml. The main outcome measures were BCVA change (ETDRS letter) and
CRT change after 3-month follow-up time. Some systemic and local factors were recorded to assess their
correlations with treatment outcomes.
Result: Mean BCVA change was 6.73 ± 9.52 ETDRS letters (p<0,001), mean CRT change was
80.35±114.19 µm (p<0.001). CRT change was found to be positively correlated with BCVA change (R=0.537;
p<0.001). Prognostic factors of BCVA change are high HbA1c level (OR=16.85), proteinuria (OR=30) and PDR
(OR=63). Prognostic factors of CRT change are proteinuria (OR=6.33), hyperlipidemia (OR=4.96) and severe
baseline CRT (OR=0.12).
Conclusion: Intravitreal injection of Bevacizumab was demonstrated to be a significantly effective treatment
for DME. Prognostic factors associating with BCVA result are poor control of glycaemia, proteinuria and PDR.
Factors associating with CRT result are proteinuria, hyperlipidemia; severe baseline CRT appears to be a
protective factor.
Key words: diabetic macular edema, diabetic retinopathy, risk factor, Bevacizumab.
MỞ ĐẦU
Đái tháo đường (ĐTĐ) hiện nay được xem
như một “dịch bệnh không lây lan” với tần suất
mắc toàn cầu dự đoán là 552 triệu người vào
năm 2030(3). Ở Việt Nam, theo thống kê của Viện
Nội tiết Trung Ương (2012), số người mắc là 4,5
triệu người. 100% bệnh nhân ĐTĐ sẽ phát sinh
bệnh võng mạc đái tháo đường (BVMĐTĐ) sau
20 năm, trong đó phù hoàng điểm (HĐ) do ĐTĐ
là nguyên nhân chính gây giảm thị lực(6). Đây là
một gánh nặng lớn cho nền kinh tế về thiệt hại
sức lao động và chi phí điều trị.
Laser quang đông điểm và lưới là điều trị
kinh điển của phù HĐ do ĐTĐ, tuy nhiên cơ chế
tác dụng chưa rõ ràng cũng như hiệu quả của
phương pháp này ở dạng phù HĐ lan tỏa còn
hạn chế. Sử dụng corticoid tại chỗ mang lại hiệu
quả giảm phù đáng kể, tuy nhiên tỉ lệ biến
chứng đục thủy tinh thể và tăng nhãn áp còn
cao; cũng như kết quả điều trị cắt dịch kính qua
pars plana vẫn còn gây tranh cãi.
Chất kháng yếu tố tăng trưởng nội mô
mạch máu (VEGF) là một trọng tâm nghiên
cứu gần đây, với khả năng ức chế trực tiếp
chất VEGF – một trong những cơ chế bệnh
sinh chính của phù HĐ do ĐTĐ(2,7). Những
nghiên cứu bước đầu về sử dụng kháng VEGF
như điều trị tại chỗ đã cho những kết quả nhất
định(1,9,11,13,14,15). Tuy nhiên điều trị bằng chất
kháng VEGF là điều trị tại chỗ, do đó hiệu quả
điều trị của chất này còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố toàn thân và tại chỗ khác.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh
giá những yếu tố toàn thân và tại chỗ ảnh hưởng
đến hiệu quả điều trị phù HĐ do ĐTĐ bằng
Bevacizumab tiêm nội nhãn, với thời gian theo
dõi 3 tháng sau lần tiêm đầu tiên.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu, có
can thiệp. Mẫu gồm 57 mắt từ 47 bệnh nhân phù
HĐ do ĐTĐ điều trị tại khoa Dịch kính – Võng
mạc, bệnh viện Mắt TPHCM từ tháng 9 năm
2014 đến tháng 5 năm 2015. Tiêu chuẩn chọn
bệnh là bệnh nhân ĐTĐ týp 2, tuổi từ 18 trở lên,
phù HĐ có ý nghĩa lâm sàng ảnh hưởng vùng
trung tâm như định nghĩa của ETDRS(4), thị lực
từ 1/10 trở lên và độ dày võng mạc trung tâm
(CRT) từ 250 µm trở lên. Tiêu chuẩn loại trừ
gồm: a) phù HĐ do nguyên nhân khác; b) đã có
điều trị phù HĐ do ĐTĐ trước đó; c) glaucoma
không kiểm soát được; d) suy thận phải chạy
thận nhân tạo; e) tiền sử bệnh lý tim mạch trong
vòng 6 tháng (trừ tăng huyết áp); f) có thai hay
dự định có thai.
Sau khi ghi nhận đầy đủ tiền sử bệnh lý nội
ngoại khoa và nhãn khoa, bệnh nhân được thăm
khám nhãn khoa hệ thống bao gồm đo thị lực
kính theo ETDRS, nhãn áp, khám mắt bằng sinh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Mắt 59
hiển vi và soi đáy mắt với sự hỗ trợ của kính
Volk +90D, chụp OCT để khảo sát hình thái phù
HĐ và CRT. Sau đó bệnh nhân được đo huyết
áp, HbA1c, đạm niệu 24 giờ và bilan lipid. Bệnh
nhân được chẩn đoán tăng huyết áp khi đang
điều trị tăng huyết áp hay huyết áp tâm thu ≥140
mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥90 mmHg
(JNC VIII), có vi đạm niệu khi albumin từ 30-299
mg trong nước tiểu 24 giờ và tăng lipid máu khi
HDL-c 200 mg/dL và
LDL-c >130mg/dL (NCEP-ATP IV), kiểm soát
đường huyết kém khi HbA1c >7% (Hiệp hội Đái
tháo đường Hoa Kỳ 2007).
Quy trình tiêm Bevacizumab nội nhãn được
chuẩn bị với quy trình vô trùng trong phòng mổ.
Bệnh nhân được nhỏ tê bằng Tetracaine 1% và
đặt vành mi. Lượng thuốc tiêm là 0,06ml
Bevacizumab 25mg/ml với vị trí tiêm cách rìa
3,5-4mm ở vùng thái dương trên, bằng kim 30G.
Bệnh nhân được khám sau thủ thuật 1 tuần
và 1 tháng cho đến 1 tháng sau mũi tiêm cuối
cùng thì thị lực kính và CRT được đo lại. Thị lực
trước điều trị được phân thành 3 nhóm: thấp (35-
60 ký tự), trung bình (61-75 ký tự) và cao (>75 ký
tự); cải thiện thị lực được phân thành 2 nhóm:
>10 ký tự và ≤10 ký tự ETDRS. CRT trước điều trị
được phân 3 nhóm: tăng nhẹ (<300 µm), vừa
(300-399 µm) và nặng (≥400 µm); cải thiện CRT
được phân thành 2 nhóm: >60 µm và ≤60 µm.
Các yếu tố toàn thân thu thập là tuổi, thời gian
phát hiện ĐTĐ, kiểm soát đường huyết, tình
trạng huyết áp, đạm niệu và lipid máu; các yếu
tố tại chỗ được khảo sát là thị lực trước điều trị,
tình trạng thủy tinh thể, giai đoạn BVMĐTĐ.
Thời gian theo dõi là 3 tháng.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0
và Stata 10.0. Biến định tính được trình bày tỉ lệ
và phép kiểm chi bình phương. Biến định lượng
được trình bày bằng trung bình và độ lệch
chuẩn, phép kiểm t-student và Wilcoxon. Tương
quan giữa cải thiện thị lực và cải thiện CRT được
phân tích bằng tương quan tuyến tính. Tương
quan giữa các yếu tố và kết quả điều trị được
phân tích bằng hồi quy logistic đa biến. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê khi p≤0,05.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu của chúng tôi thu thập số liệu từ
57 mắt của 47 bệnh nhân phù HĐ do ĐTĐ. 23
(48,9%) bệnh nhân là nam và 24 (51,1%) là nữ.
Tuổi trung bình là 53,57±8,86. Thời gian phát
hiện ĐTĐ trung bình là 9,36±4,82 năm, trong đó
29 bệnh nhân (61,7%) có thời gian phát hiện từ
10 năm trở lại và 18 (38,5) có thời gian phát hiện
>10 năm. HbA1c trung bình là 8,14±1,61, trong đó
34 (72,3%) bệnh nhân có HbA1C >7%. Tình trạng
vi đạm niệu dương tính ở 22 bệnh nhân (46,8%),
27 bệnh nhân (57,4%) có tăng huyết áp và 24
(54,1%) có tăng lipid máu.
Trong số 57 mắt, 18 mắt (31,6%) đã thay thủy
tinh thể nhân tạo. BVMĐTĐ tăng sinh xuất hiện
ở 20 mắt (35,1%), trong đó 17 mắt đã quang đông
toàn võng mạc trước đó và 3 mắt được quang
đông trong quá trình nghiên cứu. Thị lực trung
bình trước điều trị là 59,46±14,69 ký tự ETDRS;
28 mắt (49,1%) ở nhóm thị lực thấp, 22 (38,6%)
nhóm trung bình và 7 mắt (12,3%) ở nhóm cao.
CRT trung bình trước điều trị là 377,91±122,17;
15 mắt (26,3%) ở nhóm tăng CRT nhẹ, 26 mắt
(45,6%) ở nhóm tăng vừa và 16 mắt (28,1%) ở
nhóm nặng. Phù HĐ dạng xốp chiếm đa số với
27 mắt (47,4%), dạng nang chiếm 33,3% và bong
võng mạc thanh dịch chiếm 19,3%.
Kết thúc thời gian theo dõi, thị lực kính trung
bình là 66,19±13,84 ký tự, tăng 6,73±9,52 ký tự
(phép kiểm t bắt cặp, p<0,001); tuy nhiên, ở phân
nhóm thị lực khởi điểm cao, sự cải thiện không
có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Wilcoxon,
p=0,91). 15 mắt (26,3%) tăng trên 10 ký tự và 42
mắt (73,7%) không đạt mức trên. CRT trung bình
sau điều trị là 297,56±85,58 µm, giảm
80,35±114,19 µm (phép kiểm t bắt cặp, p<0,001);
tuy nhiên, ở phân nhóm CRT khởi điểm tăng
nhẹ, sự cải thiện không có ý nghĩa thống kê
(phép kiểm Wilcoxon, p=0,19). 34 mắt (59,6%)
giảm trên 60 µm và 23 mắt (40,4%) không đạt
mức này. (Hình 1)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 60
Hình 1. Cải thiện thị lực (trái) và CRT (phải) 1 tháng sau lần tiêm nội nhãn thứ 3
Chúng tôi nhận thấy có mối tương quan
thuận, tuyến tính giữa cải thiện thị lực và cải
thiện CRT sau điều trị (trị số Spearman = 0,537
và p<0,001) (Hình 2). Phương trình thể hiện sự
tương quan giữa cải thiện thị lực và cải thiện
CRT như sau:
Cải thiện thị lực = 0,045 x cải thiện CRT + 3,14.
Hình 2. Sự tương quan giữa cải thiện thị lực và cải
thiện CRT sau điều trị
Chúng tôi không ghi nhận biến chứng
nghiêm trọng nào xảy ra trong quá trình thực
hiện nghiên cứu.
Hồi quy logistic đa biến được sử dụng để tìm
các yếu tố ảnh hưở;ng đến hiệu quả điều trị.
Chúng tôi tìm thấy những yếu tố sau đây có ảnh
hưởng đến kết quả điều trị (Bảng 1).
Bảng 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị
với tỷ số chênh
Hiệu quả
điều trị
Yếu tố
ảnh hưởng
Tỷ số chênh
(KTC 95%)
p
Cải thiện
thị lực
HbA1c >7% 16,85 (1,02-276,28) 0,048
Vi đạm niệu (+) 30 (1,49-600) 0,026
BVMĐTĐ tăng sinh 63 (1,43-2769) 0,032
Cải thiện
CRT
Vi đạm niệu (+) 6,33 (1,46-27,3) 0,013
Hyperlipidemia (+) 4,96 (1,15-21,4) 0,032
Tăng CRT nặng 0,12 (0,02-0,67) 0,015
BÀN LUẬN
Cơ chế bệnh sinh của phù HĐ do ĐTĐ rất
phức tạp và còn nhiều điểm chưa được tìm hiểu
hết. Tuy nhiên, VEGF đã được chứng minh là
một trong những yếu tố then chốt phá hủy hàng
rào máu – võng mạc trong, gây thoát dịch vào
khoang gian bào. Do đó, kháng VEGF được xem
như liệu pháp đánh trúng đích trong phù HĐ do
ĐTĐ. Bevacizumab là chất kháng VEGF có khả
năng gắn kết và ức chế tất cả các đồng dạng của
VEGF-A, hiệu quả của chất này trong điều trị
phù HĐ do ĐTĐ đã được nhắc đến trong nhiều
nghiên cứu(1,9,11,13,14,15). Không chỉ được sử dung
trong điều trị phù HĐ do ĐTĐ, Bevacizumab
còn được sử dụng điều trị bệnh lý phù HĐ do
các nguyên nhân khác như tắc tĩnh mạch võng
mạc, thoái hóa HĐ tuổi già; gần đây
Bevacizumab còn được nghiên cứu sử dụng
trong BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh. Tính hiệu
quả và an toàn của Bevacizumab trong điều trị
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Mắt 61
phù HĐ do ĐTĐ và các nguyên nhân khác đã
được chứng minh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi,
Bevacizumab có hiệu quả cải thiện có ý nghĩa về
mặt giải phẫu và chức năng trong bệnh cảnh
phù HĐ do ĐTĐ. Kết quả của chúng tôi tương
đồng với nghiên cứu của các tác giả đã thực hiện
trước đây(1,9,11,13,14,15). Ngoài ra, chúng tôi tìm thấy
mối tương quan thuận, tuyến tính giữa cải thiện
thị lực và cải thiện CRT sau điều trị. Tương quan
này không mạnh, gợi ý hiệu quả điều trị còn phụ
thuộc nhiều yếu tố khác, sẽ được chúng tôi đề
cập sau. Cùng phân tích vấn đề này như chúng
tôi, Haritoglou(7) và Ozturk(10) không tìm thấy
mối tương quan giữa thị lực và CRT. Sự khác
biệt này có thể do khác biệt về đặc điểm dịch tễ
và chọn mẫu của 2 dân số.
Phân tích các yếu tố toàn thân, kiểm soát
đường huyết kém (HbA1c >7%) và vi đạm niệu
dương tính là yếu tố ảnh hưởng xấu đến kết cục
thị lực (tỷ số chênh 16,85 và 30). Trong số 38 mắt
có cơ địa kiểm soát đường huyết kém, 86,8%
không đạt mục tiêu cải thiện >10 ký tự ETDRS,
và tỷ lệ này là 89,7% ở tình trạng vi đạm niệu
dương tính. Tuy không có nghiên cứu để đối
chiếu, kết quả này tương đồng với nghiên cứu
của Roy(12) và WESDR(8) cho biết kiểm soát đường
huyết kém và vi đạm niệu dương tính là yếu tố
nguy cơ của phù HĐ do ĐTĐ và BVMĐTĐ.
Trong nghiên cứu của Ozturk(10), HbA1c cũng có
tương quan nghịch với cải thiện thị lực.
Về các yếu tố tại chỗ, chúng tôi nhận thấy
BVMĐTĐ giai đoạn tăng sinh là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến sự cải thiện thị lực (tỷ số
chênh 63). Trong 20 mắt BVMĐTĐ tăng sinh,
95% số mắt không đạt mức cải thiện >10 ký tự
ETDRS. Do đó, giai đoạn tăng sinh có vẻ là một
yếu tố tiên lượng bất lợi trong điều trị phù HĐ
do ĐTĐ bằng Bevacizumab.
Về tương quan của các yếu tố toàn thân lên
sự cải thiện về mặt giải phẫu, chúng tôi nhận
thấy vi đạm niệu dương tính và tăng lipid máu
là 2 yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị (tỷ
số chênh lần lượt 6,33 và 4,96). Kết quả này bổ
sung kết luận của WESDR(8) và ETDRS(5) cho biết
vi đạm niệu dương tính và tăng lipid máu có liên
quan, trực tiếp hay gián tiếp, đến tần suất phát
sinh phù HĐ do ĐTĐ. Hai yếu tố toàn thân này
đóng vai trò yếu tố tiên lượng bất lợi đối với sự
cải thiện CRT.
Cuối cùng, khi phân tích các yếu tố tại chỗ,
chúng tôi nhận thấy hình thái phù HĐ trên OCT
không phải là yếu tố ảnh hưởng đến cải thiện
CRT sau điều trị; thay vào đó, tăng CRT khởi
điểm mức độ nặng (≥400 µm) đóng vai trò yếu tố
bảo vệ (tỷ số chênh 0,12). Kết quả của chúng tôi
không tương đồng với kết quả của Mi In Roh(11),
có lẽ điều này xuất phát từ đặc điểm dịch tễ, cỡ
mẫu cũng như thiết kế nghiên cứu.
Nghiên cứu của chúng tôi có những hạn chế
nhất định. Đầu tiên, cỡ mẫu của chúng tôi không
quá lớn. Thứ 2 là thời gian theo dõi chưa dài.
Tuy nhiên, thay đổi về mặt giải phẫu và chức
năng là rất rõ ràng. Và cuối cùng là nghiên cứu
của chúng tôi được thực hiện tại 1 trung tâm duy
nhất, do đó kết quả có thể chưa đủ phổ quát.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi góp phần chứng
minh Bevacizumab tiêm nội nhãn là một
phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả đối
với phù HĐ do ĐTĐ, với kết quả rất hứa hẹn. Có
sự tương quan thuận, tuyến tính giữa phục hồi
về giải phẫu và chức năng vùng HĐ. Các yếu tố
ảnh hưởng bất lợi đến sự cải thiện thị lực là kiểm
soát đường huyết kém, vi đạm niệu dương tính
và bệnh võng mạc đái tháo đường giai đoạn tăng
sinh. Các yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến sự cải
thiện độ dày võng mạc trung tâm là vi đạm niệu
dương tính và tăng lipid máu, tăng độ dày võng
mạc trung tâm khởi điểm mức độ nặng đóng vai
trò yếu tố bảo vệ. Tuy nhiên, rất cần thiết có
những nghiên cứu quy mô và đa trung tâm với
cỡ mẫu lớn và thời gian theo dõi dài hơn để
phân tích cụ thể và chi tiết hơn nữa kết quả điều
trị cũng như các yếu tố tiên lượng điều trị.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Astam N, Batioglu F, and Ozmert E (2009), "Short-term
efficacy of intravitreal bevacizumab for the treatment of
macular edema due to diabetic retinopathy and retinal vein
occlusion".Int Ophthalmol. 29(5): p. 343-8.
2. Chun DW, et al (2006), "A pilot study of multiple intravitreal
injections of ranibizumab in patients with center-involving
clinically significant diabetic macular edema".Ophthalmology.
113(10): p. 1706-12.
3. Danaei G, et al (2011), "National, regional, and global trends in
fasting plasma glucose and diabetes prevalence since 1980:
systematic analysis of health examination surveys and
epidemiological studies with 370 country-years and 2.7
million participants".Lancet. 378(9785): p. 31-40.
4. Early Treatment Diabetic Retinopathy Study Research Group
(1985), "Photocoagulation for diabetic macular edema. Early
Treatment Diabetic Retinopathy Study report number 1. Early
Treatment Diabetic Retinopathy Study research group".Arch
Ophthalmol. 103(12): p. 1796-1806.
5. Early Treatment Diabetic Retinopathy Study Research Group
(1996), "Association of elevated serum lipid levels with retinal
hard exudate in diabetic retinopathy. Early Treatment
Diabetic Retinopathy Study (ETDRS) Report 22".Arch
Ophthalmol. 114(9): p. 1079-84.
6. Fong DS, et al (2004), "Diabetic retinopathy".Diabetes Care.
27(10): p. 2540-53.
7. Haritoglou C, et al (2006), "Intravitreal bevacizumab (Avastin)
therapy for persistent diffuse diabetic macular edema".Retina.
26(9): p. 999-1005.
8. Klein R, et al (1984), "The Wisconsin epidemiologic study of
diabetic retinopathy. IV. Diabetic macular
edema".Ophthalmology. 91(12): p. 1464-74.
9. Kumar A and Sinha S (2007), "Intravitreal bevacizumab
(Avastin) treatment of diffuse diabetic macular edema in an
Indian population".Indian J Ophthalmol. 55(6): p. 451-5.
10. Ozturk BT, et al (2011), "Glucose regulation influences
treatment outcome in ranibizumab treatment for diabetic
macular edema".J Diabetes Complications. 25(5): p. 298-302.
11. Roh MI, Kim JH, and Kwon OW (2010), "Features of optical
coherence tomography are predictive of visual outcomes after
intravitreal bevacizumab injection for diabetic macular
edema".Ophthalmologica. 224(6): p. 374-80.
12. Roy R, et al (2013), "The effects of renal transplantation on
diabetic retinopathy: clinical course and visual
outcomes".Indian J Ophthalmol. 61(10): p. 552-6.
13. Soheilian M, et al (2007), "Intravitreal bevacizumab (avastin)
injection alone or combined with triamcinolone versus
macular photocoagulation as primary treatment of diabetic
macular edema".Retina. 27(9): p. 1187-95.
14. Soheilian M, et al (2009), "Randomized trial of intravitreal
bevacizumab alone or combined with triamcinolone versus
macular photocoagulation in diabetic macular
edema".Ophthalmology. 116(6): p. 1142-50.
15. Tareen IU, et al (2013), "Primary effects of intravitreal
bevacizumab in patients with diabetic macular edema".Pak J
Med Sci. 29(4): p. 1018-22.
Ngày nhận bài báo: 24/11/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/11/2015
Ngày bài báo được đăng: 01/02/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_cac_yeu_to_anh_huong_den_hieu_qua_dieu_tri_phu_hoan.pdf